- Đây là những điều chúng tôi đều đọc được trong các cuốn sách màu, - Aêlita nói.
Thủa xưa, trên Trái Đất, trung tâm thế giới là thành phố MỘT TRĂM CỔNG VÀNG. Hiện giờ, thành phố này đã nằm dưới đáy đại dương. Từ thành phố ấy tỏa ra nhiều kiến thức và những cám dỗ xa hoa. Nó cuốn hút các bộ lạc ở trên Trái Đất và khêu gợi ở họ lòng tham nguyên thủy. Một ngày kia, đám thanh niên tấn công các nhà cầm quyền và chiếm lấy thành phố. Ánh sáng văn minh lụi tàn trong một thời gian. Nhưng ít lâu sau, thành phố lại bừng lên một ánh sáng rực rỡ mới, bởi được phong phú thêm dòng máu tươi mát của những người chiến thắng. Nhiều thế kỷ trôi qua, rồi bọn dân du mục lại như một đám mây đen đầy đe dọa lơ lửng trên thành phố vĩnh hằng này.
Những người đầu tiên sáng lập thành phố MỘT TRĂM CỔNG VÀNG là dân da đen châu Phi. Thuộc bộ lạc Demde. Họ tự coi mình là con cháu của chủng tộc đen, hồi xưa đã ở lục địa khổng lồ Gvanđan, một lục địa đã chết trong các ngọn sóng Thái Bình Dương. Những người sống sót của chủng tộc đen này phân nhỏ thành nhiều bộ lạc.
Một số bộ lạc trong số đó đã trở thành hoang dại và thoái hóa. Nhưng dù sao, trong máu người da đen vẫn chứa đựng hồi ức về một quá khứ vĩ đại.
Người Demde rất khỏe mạnh và cao lớn. Họ có một đặc điểm khác thường: từ xa, họ cũng có thể cảm thấy bản chất và hình dạng các vật, giống như cục nam châm cảm thấy một cục nam châm khác vậy. Họ có được đặc điểm đó là nhờ những năm tháng họ sống trong hang tối của các vùng rừng nhiệt đới.
Chạy trốn lũ ruồi độc gôkh, bộ lạc Demde ra khỏi rừng và di chuyển sang phía Tây cho đến khi tìm được một chỗ thuận tiện cho việc sinh sống. Đó là một cao nguyên lắm gò đồi, có hai con sông lớn chảy qua. Tại đây, có nhiều hoa quả và thú săn. Trong núi có mỏ vàng, thiếc và đồng. Rừng, đồi và những con sông êm ả đều rất đẹp và không gây ra những chứng sốt chết người.
Người Demde xây tường chặn ác thú và xếp đá thành một hình tháp cao để chứng tỏ rằng địa điểm này bền vững.
Trên ngọn tháp, họ trồng một cây cột có chùm lông clitli, loài chim đã che chở cho bộ lạc, đã cứu họ khi họ chạy trốn giống ruồi gôkh. Các thủ lĩnh bộ lạc Demde dùng lông chim để trang điểm đầu tóc và tự xưng mình bằng tên các loài chim.
Có một số bộ lạc da đỏ sống lang bạt từ cao nguyên sang phía Tây. Người Demde tấn công họ, bắt tù binh và buộc họ phải cày đất, xây nhà, khai thác các mỏ vàng. Tiếng tăm thành phố vang xa mãi về phía Tây, khiến các bộ lạc da đỏ khiếp sợ, vì người Demde khỏe mạnh, biết đoán ý nghĩ kẻ địch và giết được địch từ xa bằng cách quăng những mẩu gỗ cong. Trong những con thuyền bằng vỏ cây, họ đi trên những con sông rộng và thu cống vật của dân da đỏ.
Con cháu bộ lạc Demde trang trí thành phố bằng những tòa nhà đá hình tròn, lợp lau sậy. Họ dệt những loại vải tuyệt vời bằng len và biết ghi lại ý nghĩ bằng hình các đồ vật, - kiến thức này, họ lấy từ trong ký ức sâu thẳm, như một kỷ niệm ngàn xưa của nền văn minh nay đã biến mất.
Nhiều thế kỷ qua đi. Rồi ở vùng phía Tây xuất hiện một lãnh tụ vĩ đại của người da đỏ. Ông ta tên là Vru. Ông sinh ra ở thành phố, nhưng từ thời niên thiếu đã ra thảo nguyên, đến với dân thợ săn và dân du mục. Ông tập hợp rất đông chiến binh rồi tiến về đánh thành phố.
Để tự vệ, con cháu bộ lạc Demde đem dùng tất cả mọi kiến thức:
lấy lửa thiêu kẻ địch, xua sang bên địch hàng đàn trâu điên, phóng những chiếc boomerang bay nhanh như chớp sang giết địch. Nhưng quân da đỏ mạnh ở chỗ họ sôi sục lòng tham và rất đông về số lượng.
Họ chiếm được thành phố và cướp bóc hết của cải ở đó. Vru tuyên bố mình là lãnh tụ của thế giới. Ông ta ra lệnh cho quân da đỏ đoạt lấy các cô gái Demde. Tàn quân Demde ẩn trong rừng rú trở về thành phố phục dịch những kẻ chiến thắng.
Người da đỏ học lấy kiến thức, tập tục và nghệ thuật Demde.
Dòng máu pha trộn đã tạo ra nhiều nhà quản lý và nhà chinh phục.
Cái năng lực bí ẩn có thể cảm thấy bản chất sự vật được truyền cho các thế hệ sau.
Các nhà cầm quân thuộc triều đại Vru mở rộng lãnh thổ, ở phía Tây. Họ tiêu diệt dân du mục và ở ven bờ Thái Bình Dương. Họ đắp những ngọn tháp bằng đất và đá. Ở phía Đông, họ lấn át dân da đen.
Trên bờ biển Nigiê và Cônggô, ở những quãng đầy đá tảng của bờ biển Địa Trung Hải, - bấy giờ biển này còn rộng ra cả sa mạc Sahara ngày nay, - họ xây dựng những thành trì kiên cố. Đó là thời kì chiến tranh và xây dựng. Hồi đó, đất đai Demde được gọi là Khamagan.
Thành phố được bao bọc một bức tường mới, và trong đó, người ta trổ một trăm cái cửa, tất cả đều ốp các tấm vàng. Các dân tộc trên toàn thế giới kéo về đây vì lòng tham và tò mò. Trong số nhiều bộ lạc lang thang trong các chợ, cắm lều ở dưới tường của thành phố, xuất hiện cả những người rất lạ. Da họ ngăm ngăm ngả màu ôliu, đôi mắt dài rực sáng. Mũi họ khoằm khoằm. Họ rất thông minh và khôn ngoan. Không ai nhớ họ đã vào thành phố như thế nào. Nhưng mới sau khoảng một thế hệ mà cả khoa học, cả thương nghiệp của thành phố Một Trăm Cổng Vàng đều lọt vào tay bộ lạc ít người này. Họ tự gọi họ là con cháu Aam.
Những người thông thái nhất trong số con cháu Aam đọc được những dòng chữ cổ của bộ lạc Demde và phát triển được năng lực nhìn thấy bản chất các sự vật. Họ xây dựng một ngôi đền ở dưới mặt đất là đền ĐẦU NGƯỜI DA ĐEN ĐANG NGỦ và thu hút nhiều người tới, - họ chữa bệnh cho người ốm, bói toán số phận và đối với những ai tin, họ cho xem bóng những người đã chết.
Bằng sự giàu có và sức mạnh của kiến thức, con cháu Aam dần dần tham gia quản lý đất nước. Họ lôi kéo được nhiều bộ lạc, đồng thời dấy lên một cuộc khởi nghĩa, xây dựng tín ngưỡng mới ở các vùng ngoại vi và ở ngay trong thành phố. Trong cuộc đấu tranh đẫm máu, triều đại Vru bị tiêu diệt. Con cháu Aam đoạt được chính quyền.
Thời kì cổ xưa ấy trùng hợp với đợt chấn động đầu tiên của Trái Đất. Ở nhiều nơi, giữa các quả núi, lửa bùng lên và tro bụi bay mù mịt bầu trời. Những khoảng không gian lớn ở phía Nam lục địa Atlantiđa chìm xuống đại dương. Ở phía Bắc, từ đáy biển nổi lên những hòn đảo đầy đá. Chúng nối vào đất liền, tạo nên tuyến bình nguyên châu Âu.
Con cháu Aam hướng toàn bộ sức mạnh của chính quyền vào việc xây dựng văn hóa trong những bộ lạc xưa kia bị triều đại Vru chinh phục và đã bị tan tác. Nhưng con cháu Aam không ưa chiến tranh. Họ làm ra những con tàu có trang trí hình ĐẦU NGƯỜI DA ĐEN ĐANG NGỦ, rồi chất lên đó các đồ gia vị, vải vóc, vàng bạc và ngà voi. Với danh nghĩa là thương gia và thầy lang, họ đi tàu đến những đất nước xa xôi. Họ buôn bán và chữa bệnh bằng những câu thần chú cho người ốm đau, tàn tật. Để bảo vệ hàng hóa, đến đất nước nào, họ cũng xây dựng một ngôi nhà lớn hình tháp và chuyển Đầu Người Đang Ngủ tới đó. Thế là xuất hiện một sự sùng bái. Nếu nhân nhân địa phương phẫn nộ chống lại họ, thì từ trên tàu sẽ xuống bến một đội quân da đỏ mặc áo giáp, với chiếc lá chắn trang điểm lông chim, đội mũ sắt cao, khiến ai cũng phải khiếp sợ.
Lãnh thổ Demde cổ xưa lại dần dần mở rộng và được củng cố. Bây giờ, vùng đất này được gọi là Atlantiđa. Ở miền Cực Tây, trên đất nước người da đỏ, một thành phố lớn nữa được xây dựng - đó là thành phố Ptitligua. Tàu buôn của người Atlan đi sang phía Đông, tới tận Ấn Độ, nơi chủng tộc da đen hãy còn ngự trị. Ở bờ phía Đông của châu Á, lần đầu tiên họ trông thấy những người to lớn da vàng, mặt phẳng.
Những người này ném đá vào tàu của họ.
Sự sùng bái Đầu Người Đang Ngủ để ngỏ cho tất cả mọi người, - đó là công cụ chủ yếu của sức mạnh và quyền lực. Nhưng ý nghĩa, nội dung bên trong của sự sùng bái ấy được giữ bí mật tuyệt đối. Người Atlan nói:
“Thế giới thực sự là thế giới, không nhìn thấy được, không sờ thấy được, không nghe thấy được, không vị và không mùi. Thế giới thực sự là sự vận động của lý trí. Không ai hiểu được mục tiêu đầu tiên và cuối cùng của sự vận động ấy. Lý trí là một thứ vật chất rắn hơn đá và nhanh hơn ánh sáng. Cũng giống như mọi vật chất khác, trong khi đi tìm trạng thái tĩnh, lý trí rơi vào một giấc ngủ nào đó, tức là trở nên chậm hơn, ta gọi là sự thể hiện của lý trí trong một chất. Ở cấp độ rất sâu của giấc ngủ, lý trí thể hiện trong lửa, không khí, nước, đất.
Bốn chất ấy tạo thành thế giới ta trông thấy được. Đồ vật là sự cô đọng tạm thời của lý trí, là hạt nhân của lý trí đang cô đọng lại giống như ánh chớp tròn do không khí lúc giông tố đọng lại mà thành.
Ở dạng tinh thể, lý trí nằm trong trạng thái hoàn toàn tĩnh.
Trong không gian vũ trụ, lý trí ở trạng thái hoàn toàn động. Con người là cái cầu giữa hai trạng thái ấy của lý trí. Qua con người, dòng lý trí chảy sang thế giới vô hình. Chân con người mọc ra từ tinh thể, bụng con người là mặt trời, mắt con người là hai ngôi sao. Đầu con người là cái bát mà rìa bát trải rộng vào vũ trụ.
Con người là chúa tể thế giới. Các chất và sự vận động phải lệ thuộc con người. Con người điều khiển chúng bằng sức mạnh xuất phát từ lý trí của mình, giống như tia sáng xuất phát từ cái lỗ ở chiếc lọ đất sét.
Người Atlan nói thế. Dân thường không hiểu học thuyết của họ.
Một số người thờ động vật. Một số người thờ bóng người chết. Một số khác thờ thần tượng. Một số khác thờ tiếng sột soạt ban đêm, thờ sấm chớp hoặc thờ cái hố ở dưới đất. Không thể đấu tranh được với những điều mê tín ấy. Vả lại đấu tranh thì rất nguy hiểm.
Bấy giờ các giơret - đẳng cấp cao nhất của người Atlan - hiểu rằng cần phải có một sự sùng bái sáng rõ và dễ hiểu, chung cho tất cả mọi người. Họ liền xây dựng những ngôi đền to lớn, trang trí vàng bạc và dâng hiến cho mặt trời - người cha và chúa tể của cuộc sống, giận dữ và có khả năng tạo sức sống, chết đi và lại sinh ra liên tục.
Chẳng bao lâu, cả Trái Đất sùng bái mặt trời. Quá trình thống nhất này đã làm cho không biết bao nhiêu máu phải đổ ra. Ở miền Cực Tây, trong những người da đỏ, mặt trời được thờ dưới hình ảnh một con rắn có lông vũ. Ở miền Cực Đông, mặt trời - chúa tể của bóng người chết - có hình dạng một con người đầu chim.
Ở trung tâm thế giới, tại thành phố MỘT TRĂM CỔNG VÀNG, người ta xây dựng một cái tháp nhiều tầng bậc, cao đến chạm mây và người ta chuyển ĐẦU NGƯỜI ĐANG NGỦ lên đó. Ở chân tháp, trên quảng trường, người ta đặt một con trâu mộng bằng vàng, có cánh, mặt người, chân sư tử. Dưới con trâu là ngọn lửa vĩnh cửu.
Vào những ngày xuân phân và thu phân, trước mặt dân chúng, trong tiếng trống, người ta đánh vào những cái trống hình quả trứng, giữa điệu nhảy của những phụ nữ khỏa thân. Ông giơret tối cao, Con Trai Mặt Trời, nhà cầm quyền vĩ đại, giết chết người thanh niên đẹp nhất thành phố rồi đem đốt anh ta trong bụng con trâu.
Con Trai Mặt Trời là vị chúa tể có quyền lực vô biên của thành phố và đất nước. Ông ta xây dựng đập nước, đào kênh mương. Ông ta lấy quần áo và thực phẩm ở các cửa hàng đem phân phát cho dân chúng. Ông ta quy định ai được bao nhiêu đất đai và súc vật. Đông đảo các quan chức thi hành mọi mệnh lệnh của ông ta. Không ai có thể nói: “Cái này của tôi”, bởi vì mọi thứ đều thuộc Mặt Trời. Lao động là thiêng liêng. Ai lười biếng bị xử tử. Sang mùa xuân. Con Trai Mặt Trời là người đầu tiên ra ruộng cày đường cày đầu tiên và gieo hạt ngô.
Các ngôi đền chứa đầy ngũ cốc, vải vóc, đồ gia vị. Tàu thủy của người Atlan, với những lá buồm đỏ thắm trang trí những hình con rắn ngậm mặt trời trong miệng rẽ sóng tất cả các sông biển. Bắt đầu một nền hòa bình dài lâu. Mọi người quên cả cách cầm gươm thế nào.
Nhưng rồi một đám mây đen từ phương Đông lơ lửng trên xứ Atlantiđa.
Trên các cao nguyên phía Đông châu Á có bộ lạc USCUR, mặt vàng, mắt xếch, rất hùng mạnh. Họ phục tùng một người phụ nữ có tài nổi khùng. Bà ta tên là Xu Khutam Lu, nghĩa là “Người nói chuyện với mặt trăng”.
Xu Khutam Lu bảo người USCUR:
“Ta sẽ dẫn các ngươi đến đất nước có cái khe giữa các ngọn núi là nơi mặt trời lặn xuống. Ở đó, cừu nhiều như sao trên trời. Ở đó, có những dòng sông đầy sữa. Ở đó có những cái lều cao đến nỗi ta lùa cả một đàn lạc đà vào cũng vừa. Đó là nơi ngựa của các ngươi chưa đặt chân tới, mũ của các ngươi còn chưa múc nước ở các con sông ấy”.
Người Uscur xuống khỏi cao nguyên, tấn công các bộ lạc du mục mặt vàng, chinh phục các bộ lạc này và trở thành tướng lĩnh. Họ nói với những người bại trận: “Hãy đi theo chúng ta tới đất nước mặt trời mà Xu Khutam Lu đã chỉ cho chúng ta”.
Những người dân du mục thì thờ các ngôi sao, rất mơ mộng và gan dạ. Họ dỡ lều và xua đàn gia súc về phía Tây. Họ đi rất chậm chạp, hết năm này sang năm khác. Dẫn đầu là kỵ binh của người Uscur vừa tấn công, chiến đấu, vừa phá hủy các thành phố. Lê bước đằng sau kỵ binh là đàn súc vật và xe chở phụ nữ, trẻ con. Dân du mục đi ngang qua vùng gần Ấn Độ rồi tỏa xuống đồng bằng Đông Âu.
Tới đó, nhiều người ở lại trên các bờ hồ. Những người khỏe mạnh nhất tiếp tục di chuyển sang phía Tây. Trên bờ Địa Trung Hải, họ phá tan khu di dân đầu tiên của người Atlan và qua đám người bại trận, họ biết được đất nước mặt trời nằm ở đâu. Đến đây thì Xu Khutam Lu chết. Người ta lột da đầu bà ta, để nguyên cả tóc, rồi đóng vào một cái sào cao. Với lá cờ ấy, họ men theo dọc bờ biển, đi tiếp. Cứ thế, họ đến tận rìa châu Âu và từ trên núi cao, họ trông thấy đường viền của miền đất hứa. Từ ngày người Uscur lần đầu tiên xuống khỏi cao nguyên, một trăm năm đã trôi qua.
Dân du mục bắt đầu đốn gỗ đóng bè. Họ dùng bè ấy đi qua một dòng sông ấm và mặn. Sau khi đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng của xứ Atlantiđa, dân du mục liền tấn công thành phố Tulê thần thánh. Khi họ leo lên các bức tường cao, trong thành phố bắt đầu rung chuông. Tiếng chuông nghe dễ chịu đến nỗi những người mặt vàng không phá hủy thành phố, không tiêu diệt dân chúng, không cướp bóc đền miếu. Họ chỉ lấy thực phẩm dự trữ và quần áo rồi đi tiếp theo hướng Tây Nam. Xe cộ và đàn gia súc của họ làm bụi tung mù mịt, che khuất cả mặt trời.
Cuối cùng, dân du mục bị một đội quân Atlan chặn đường. Quân Atlan ăn mặc vàng chói, trang điểm những chiếc lông vũ nhiều mầu, dáng vẻ đẹp đẽ và ẻo lả. Kỵ binh Uscur tiêu diệt luôn đội quân ấy. Từ hôm đó, những người mặt vàng đã ngửi thấy mùi máu Atlan và không hề khoan dung hơn.
Từ thành phố Một Trăm Cổng Vàng, các nhân viên chạy tin hỏa tốc được cử sang phía Tây gặp người da đỏ, xuống phía Nam gặp người da đen, sang phía Đông gặp các bộ lạc Aam, lên phía Bắc gặp người Xiclôp. Nhiều buổi lễ hiến sinh được tổ chức. Lửa trên đỉnh các ngôi đền lúc nào cũng cháy rừng rực. Dân chúng thành phố đổ về dự những buổi hiến sinh đẫm máu, nhảy những điệu cuồng dại, chơi những trò vui tình dục, uống rượu say khướt, tiêu phí các kho báu.
Các giơret và các nhà triết học chuẩn bị đón lấy một thử thách lớn. Họ đem những cuốn sách Kiến Thức Vĩ Đại vào sâu trong núi, trong hang, đem chôn xuống đất.
Cuộc chiến tranh bùng nổ. Số phận của cuộc chiến tranh này đã được quyết định từ trước: người Atlan chỉ có thể cố bảo vệ khối tài sản đã làm họ no nê. Còn dân du mục thì sôi sục lòng tham nguyên thủy và lòng tin vào những lời hứa hẹn. Dù sao cuộc chiến tranh cũng kéo dài và đẫm máu. Đất nước bị tàn phá. Nạn đói kém và bệnh dịch hoành hành. Các đội quân đi đến khắp mọi nơi và cướp bóc tất cả những gì có thể cướp được. Thành phố Một Trăm Cổng Vàng bị chiếm sau một cuộc tấn công. Bức tường bao bọc xung quanh bị phá hủy.
Con trai Mặt Trời nhảy từ trên đỉnh ngọn tháp có nhiều tầng bậc xuống. Lửa trên đỉnh các đền miếu đều tắt hết. Một số ít người thông thái chạy vào núi, vào các hang. Nền văn minh bị tiêu diệt.
Giữa những cung điện bị phá hủy của thành phố vĩ đại, trên những quảng trường mọc đầy cỏ, có những con cừu đi lang thang, và người mục phu mặt vàng hát lên bài hát buồn rầu về đất nước phồn vinh tươi đẹp có mặt đất xanh rờn và bầu trời vàng rực.
Dân du mục hỏi các thủ lĩnh: “Chúng tôi còn phải đi đâu nữa?” Các thủ lĩnh bảo họ: “Chúng ta đã dẫn các người đến đất nước hứa hẹn, các người hãy ở lại đây mà vui sống thanh bình”. Nhưng nhiều bộ lạc du mục không nghe, họ đi tiếp về phía Tây, nơi đất nước Rắn Lông Vũ, nhưng ở đó, họ bị chúa tể Ptiligua tiêu diệt. Một số dân du mục đi xuống vùng xích đạo, và ở đó họ bị giết chết bởi người da đen, các đàn voi và các chứng sốt đầm lầy.
Người Uscur, các thủ lĩnh người mặt vàng, đã chọn người thông thái nhất trong các tướng lĩnh và cử lên cầm quyền đất nước vừa được chinh phục. Tên ông ta là Tuban. Ông ta ra lệnh sửa chữa các bức tường, dọn dẹp các khu vườn, cày bừa đồng ruộng và xây dựng nhà cửa. Ông ta ban hành nhiều luật lệ thông minh và đơn giản. Ông kêu gọi những người thông thái chạy vào hang quay trở về. Ông ta bảo họ:
“Mắt tôi và tai tôi rộng mở để đón lấy những kiến thức sâu sắc”. Ông ta bổ nhiệm họ làm cố vấn, cho phép họ mở các đền miếu và cử sứ giả đi khắp mọi nơi thông báo rằng ông mong muốn hòa bình.
Đó là thời kì mở đầu làn sóng văn minh thứ ba, làn sóng văn minh cao nhất của người Atlan. Hòa thêm vào dòng máu của nhiều dân tộc, - da đen, da đỏ, da màu ôliu và da trắng, nay có cả dòng máu mơ mộng, nồng hơi men như cây hoa bia của dân du mục châu Á, của những người thờ các ngôi sao, của con cháu Xu Khutam Lu điên khùng.
Dân du mục nhanh chóng hòa vào các bộ lạc khác. Những cái lều, những đàn gia súc, cảnh tự do hoang dã nay chỉ còn được nhắc tới trong các bài hát và các truyền thuyết. Xuất hiện một bộ lạc mới, bộ lạc những người vạm vỡ, tóc đen, da ngăm ngăm vàng. Người Uscur, con cháu các kỵ sĩ và tướng lĩnh, là giới quý tộc của thành phố. Họ yêu thích khoa học, nghệ thuật và cảnh hoa lệ. Họ tô điểm cho thành phố bằng những bức tường mới, những ngọn tháp bảy góc, lát vàng cho hai mươi mốt bậc của ngọn tháp khổng lồ, xây cầu cạn, và lần đầu tiên trong kiến trúc, họ bắt đầu dùng cột.
Trong những cuộc chiến tranh lâu dài, lại có thêm nhiều đất nước và thành phố bị chinh phục. Ở phía Bắc, họ chiến đấu với những người Xiclôp còn lại, dòng dõi của bộ lạc Demde. Nhà chinh phục vĩ đại Rama đã đi tới tận Ấn Độ. Ông ta tập hợp những bộ lạc ấu trĩ của người Aria vào vương quốc Ra. Một lần nữa, biên giới xứ Atlantiđa lại được mở rộng và củng cố chưa từng thấy - từ đất nước Rắn Lông Vũ tới bờ châu Á của Thái Bình Dương, nơi xưa kia những người khổng lồ mặt vàng đã ném đá vào các con tàu.
Tâm hồn mơ mộng của những người đi chinh phục luôn hướng tới tri thức. Họ lại đọc những cuốn sách cổ của bộ lạc Demde và những cuốn sách thông thái của con cháu Aam. Một vòng tròn đã khép kín và bắt đầu một vòng tròn mới. Trong các hang đá, họ tìm thấy “bảy tập sách của đầu người đang ngủ”. Từ phát hiện ấy, tri thức bắt đầu phát triển nhanh chóng. Điều mà con cháu Aam không có - sức sáng tạo có ý thức; điều mà con cháu bộ lạc Demde không có - lý trí sáng rõ và sắc bén, nay lại rất phong phú, dồi dào trong dòng máu sôi nổi và nhiệt thành của người Uscur.
Cơ sở của tri thức ấy là như sau:
“Trong con người luôn tiềm tàng một sức mạnh lớn nhất - đó là lý trí” “nguyên chất”.
Cũng giống như mũi tên căng trên dây cũng được bắn bằng một bàn tay chính xác, sẽ trúng đích, chất lý trí tiềm tàng có thể được căng bằng dây cung ý chí và được bắn bởi bàn tay tri thức. Sức mạnh của tri thức có nhằm hướng là vô hạn.
Khoa học tri thức chia ra làm hai phần: Phần chuẩn bị - phát triển thân thể, ý chí và trí tuệ, và phần cơ bản - nhận thức thiên nhiên, thế giới và những công thức mà chất tri thức có nhằm hướng dùng để chinh phục thiên nhiên.
Việc nắm lấy toàn bộ tri thức, sự phát triển một nền văn hóa chưa hề có bao giờ trên Trái Đất, kể cả hiện nay, đã diễn ra trong một thế kỷ, từ năm bốn nghìn năm trăm đến năm ba nghìn năm trăm trước nạn đại hồng thủy, tức là trước ngày diệt vong của Atlantiđa.
Trên Trái Đất, khắp nơi đều hòa bình. Những sức mạnh của Trái Đất được tri thức khơi dậy đã phục vụ đắc lực cho mọi người. Vườn tược, đồng ruộng cho những vụ thu hoạch lớn, đàn gia súc sinh sôi nảy nở nhiều, lao động rất nhẹ nhàng. Nhân dân nhớ lại những tục lệ và những ngày hội cũ, và không ai cản trở họ sống, yêu, sinh đẻ, vui chơi. Trong truyền thuyết, thế kỷ ấy gọi là thế kỷ hoàng kim.
Hồi ấy, ở ranh giới phía Đông của Trái Đất, người ta dựng bức tượng sphinx biểu hiện bốn nguyên tố trong thân thể, - đó là biểu tượng bí mật của lý trí tiềm tàng. Người ta đã xây dựng được bảy kì quan của thế giới: mê cung, tượng khổng lồ ở Địa Trung Hải, các cây cột ở phía Đông Gibranta, tháp đếm sao ở Poxeidonet, bức tượng đang ngủ của Tuban và thành phố Lemusov trên một hòn đảo Thái Bình Dương.
Ánh sáng tri thức chiếu tới những bộ lạc đen mà trước đó bị đẩy vào vùng đầm lầy nhiệt đới. Người da đen mau chóng lĩnh hội nền văn minh và bắt đầu xây dựng những thành phố khổng lồ ở Trung Phi.
Hạt giống tri thức của bộ lạc Demde đã đâm hoa kết trái phong phú. Nhưng những người thông thái nhất bắt đầu hiểu rằng trong toàn bộ sự phát triển của nền văn minh có chứa đựng một tội lỗi ngay từ ban đầu. Sự phát triển tiếp tục của tri thức phải dẫn tới cái chết:
Loài người sẽ tự giết mình, giống như một con rắn tự cắn vào đuôi vậy.
Cái tội tổ tông đó là ở chỗ sự tồn tại - cuộc sống của Trái Đất và các sinh vật - được quan niệm như một điều xuất phát từ lý trí con người. Trong khi nhận thức thế giới, con người chỉ nhận thức bản thân mình. Lý trí là hiện thực duy nhất, thế giới là biểu tượng, là giấc mơ của lý trí. Quan niệm như thế đối với sự tồn tại thế nào cũng dẫn tới tình trạng mỗi người khẳng định rằng chỉ riêng anh ta là duy nhất, quan trọng nhất, mọi thứ khác - cả thế giới - chỉ là kết quả của sự tưởng tượng của anh ta. Điều xảy ra tiếp theo là không thể tránh khỏi cuộc đấu tranh giành lấy cái cá nhân duy nhất, đấu tranh của tất cả mọi người chống lại tất cả mọi người, thái độ khinh bỉ đối với sự tồn tại như đối với một giấc mơ ác độc.
Đó là điều ác ban đầu của sự thông thái của bộ lạc Demde. Tri thức bị chia ra. Một số người không thấy khả năng có thể lấy cái hạt giống ác độc ra nên nói rằng điều ác là sức mạnh duy nhất tạo nên sự tồn tại. Họ tự gọi mình là người đen, vì tri thức xuất phát từ người da đen.
Một số khác thừa nhận rằng điều ác không nằm ở ngay trong tự nhiên, mà ở sự lệch lạc của lý trí so với tính tự nhiên, nên đi tìm cách chống lại điều ác. Họ nói: “Tia sáng mặt trời chiếu xuống Trái Đất, chết đi và hồi sinh lại trong trái quả của đất đai, đó là quy luật cơ bản của sự sống”. Đó chính là sự vận động của lý trí: đi xuống, diệt vong và hồi sinh thành thể xác. Tội lỗi ban đầu - sự cô đơn của lý trí - có thể bị tiêu diệt bằng tội tổ tông. Lý trí phải rơi vào thể xác và phải đi qua cái cổng của sự chết. Cái cổng ấy là giới tính. Sự sụp đổ của lý trí được thực hiện bằng sức mạnh của lòng đam mê tình dục, hay là của Êrốt.
Những người khẳng định như vậy tự gọi mình là người trắng, bởi vì họ đội mũ vải - dấu hiệu của Êrốt. Họ tổ chức ngày hội mùa xuân và những buổi diễn kịch tôn giáo về tội tổ tông ở trong các khu vườn tráng lệ của đền thờ mặt trời cổ xưa. Người thanh niên còn tân đóng vai lý trí, người đàn bà đóng vai cổng chết, con rắn đóng vai Êrốt.
Nhiều người từ những đất nước xa xôi đến xem các buổi diễn ấy.
Sự phân biệt giữa hai con đường tri thức rất rõ nét. Một cuộc đấu tranh nổ ra. Hồi ấy, người ta có một phát minh kì diệu - tìm được khả năng giải phóng ngay sức sống tiềm tàng trong các hạt thực vật. Sức mạnh ấy, - một chất vừa nóng vừa lạnh, - được giải phóng ra liền bay vào khoảng không. Người da đen dùng nó để đấu tranh, để làm công cụ chiến tranh. Họ làm ra những con tàu to lớn biết bay, gây khiếp sợ cho nhiều người. Những bộ lạc hoang dã thờ phụng những con tàu có cánh ấy.
Người da trắng hiểu rằng ngày thế giới bị diệt vong đã gần, nên họ bắt đầu chuẩn bị. Trong số những người bình thường họ chọn ra những người trong sạch nhất, khỏe mạnh nhất để đưa lên miền Bắc và sang miền Đông. Họ dành riêng nhiều bãi chăn thả trên núi cao để số người di cư có thể sống như những sinh vật nguyên thủy.
Nỗi lo sợ của người da trắng đã được xác nhận. Thế kỷ hoàng kim thoái hóa đi. Trong các thành phố Atlantiđa bắt đầu tình trạng no nê thỏa mãn quá. Không có gì gìn giữ lòng khao khát đồi bại của sự điên rồ của lý trí rỗng tuếch. Sức mạnh con người có được, nay quay ra chống lại con người. Cái chết tất yếu làm cho mọi người u sầu, hung tợn, tàn bạo.
Rồi đến những ngày cuối cùng. Những ngày ấy mở đầu sang một tai họa lớn: khu trung tâm của thành phố MỘT TRĂM CỔNG VÀNG bị động đất. Đất bị sụt xuống đáy đại dương. Các ngọn sóng biển Đại Tây Dương vĩnh viễn tách hẳn đất nước Rắn Lông Vũ ra.
Người da đen buộc tội người da trắng là đã niệm thần chú để tháo xiềng cho thần đất và thần lửa. Nhân dân phẫn nộ. Người da đen tổ chức những vụ đánh đập ban đêm trong thành phố, - hơn một nửa dân chúng đội mũ vải bị giết chết. Số còn lại chạy khỏi phạm vi Atlantiđa.
Nắm quyền ở thành phố MỘT TRĂM CỔNG VÀNG là những người giàu có nhất của chủng tộc đen - những Magaxitl, nghĩa là “tàn nhẫn”. Họ nói: “Chúng ta sẽ tiêu diệt loài người, vì loài người là cơn ác mộng của lý trí”.
Để tận hưởng cảnh tượng chết chóc, họ tuyên bố tổ chức những ngày hội và những trò chơi trên toàn Trái Đất, mở các kho tàng và các cửa hàng của nhà nước, đưa các cô gái da trắng ở phía Bắc về cung cấp cho nhân dân, mở cửa đền miếu cho tất cả những ham mê các khoái lạc phản tự nhiên, đổ rượu thay nước vào các vòi phun nước và trên các quảng trường, họ nướng thịt. Tất cả mọi người đều rồ dại. Đó là những ngày mùa thu của vụ hái nho.
Ban đêm, trên những quảng trường rực sáng ánh lửa, giữa đám dân chúng đang điên cuồng vì rượu, vì nhảy múa, ăn uống, đàn bà, - những người Magaxitl xuất hiện. Họ đội mũ cao có mào nhọn, thắt lưng bằng sắt, không cầm lá chắn. Tay phải họ ném những quả cầu bằng đồng, khi nổ ra, chúng làm bùng lên ngọn lửa lạnh lẽo, có sức phá hủy ghê gớm. Tay trái họ vung gươm chém lia lịa vào những người say rượu và điên rồ.
Cuộc chơi đẫm máu đó bị ngắt quãng bởi một trận động đất khủng khiếp. Tượng Tuban đổ sụp. Các bức tường rạn vỡ, các mố cầu cạn gục xuống. Từ những khe sâu phụt lên lửa đỏ rực, tro bay mù mịt khắp bầu trời.
Sáng hôm sau, mặt trời màu đỏ quạch đùng đục chiếu vào những đống hoang tàn, những khu vườn đang cháy, đám đông những con người rồ dại, đau khổ và dư thừa, những đống xác chết. Những người Magaxitl lao tới các thiết bị bay có hình quả trứng và bắt đầu rời Trái Đất. Họ bay vào khoảng không gian vũ trụ, vào quê hương của lý trí trừu tượng.
Đã nhiều thiết bị bay rời Trái Đất. Bấy giờ nổ ra trận động đất thứ tư, còn mạnh hơn nữa. Từ phía Bắc, trong đám sương mù màu tro, làn sóng đại dương dậy lên, tràn qua mặt đất, tiêu diệt tất cả mọi sinh vật.
Một cơn giông tố nổi lên. Sét đánh xuống đất, xuống nhà cửa.
Mưa đổ như trút. Các mảnh đá núi lửa bay tứ tung.
Sau những bức tường của thành phố vĩ đại có ngọn tháp ốp vàng nhiều tầng bậc. Những người Magaxitl tiếp tục bay lên, qua đại dương. Nước đang đổ xuống, từ trong khói và tro vào không gian vũ trụ. Xứ Atlantiđa bị động đất tàn phá ba đợt liền. Thành phố Một Trăm Cổng Vàng chìm xuống những làn sóng ngầu bọt.