Louis thích ngủ ở trên hồ. Vào ban đêm, sau khi thổi khúc báo giờ đi ngủ, chú lạch bạch đi xuống bãi cát cạnh bến thuyền. Chú tháo bảng, bút chì phấn và kèn trôm-pét ra, giấu chúng vào sau một bụi rậm. Rồi chú trườn xuống nước. Ngay khi vừa bập bềnh trên mặt nước, chú rúc đầu vào cánh. Trong giây lát chú nằm lơ mơ, nhớ nhà và nhớ bố mẹ. Rồi chú lại nghĩ đến Serena - nghĩ đến sắc đẹp của cô và tình yêu mãnh liệt mà chú dành cho cô. Chẳng mấy chốc chú đã ngủ say. Khi ban mai ló rẽng, chú bơi vào bờ và điểm tâm nhẹ bằng món thực vật dưới nước. Rồi chú đeo đồ đạc của mình vào, leo lên tảng đá to và thổi khúc báo thức. Nghe thấy tiếng trôm-pét, bọn trẻ sẽ tỉnh dậy và lao ra bến để bơi trước khi ăn sáng. Sau khi ăn tối xong, các trại viên thường hay chơi bóng chuyền. Louis mê môn thể thao này. Chú không thể chạy nhảy vòng quanh một cách nhanh nhẹn như bọn trẻ, nhưng chú có thể vươn cổ dài ra xa, đẩy quả bóng lên không trung và bay qua lưới. Khó mà đánh được quả nào qua Louis - chú đỡ được hầu hết mọi cú. Vào đầu cuộc chơi, khi bọn trẻ nhận bè, Louis luôn luôn là người đầu tiên được chọn. Lũ trẻ yêu thích cuộc sống trại hè ở Ontario. Chúng học cách điều khiển ca nô. Chúng học bơi. Sam Râu Xồm dắt chúng đi dạo chơi tìm hiểu thiên nhiên, dạy chúng biết cách ngồi im trên một khúc gỗ, quan sát những sinh vật hoang dã và chim chóc. Cậu chỉ cho chúng cách đi trong rừng mà không gây ra nhiều tiếng động. Sam chỉ cho chúng nơi chim bói cá làm tổ trong một cái hốc bên bờ suối. Cậu chỉ cho chúng xem gà gô mẹ và bầy con của nó. Khi bọn trẻ nghe thấy một tiếng co-co-co-co êm dịu, Sam cho chúng biết rằng đó là tiếng kêu của Cú Vọ Mắt Tinh, giống nhỏ nhất trong loài cú, không lớn hơn một bàn tay. Đôi khi vào lúc nửa đêm cả khu trại tỉnh giấc vì tiếng gào của một con mèo hoang. Suốt cả mùa hè không ai trông thấy con mèo hoang nào nhưng ban đêm lại vẫn nghe thấy tiếng kêu gào của chúng.
Vào một buổi sáng, khi Sam đang chơi quần vợt với Gọt Vỏ Táo, cậu bỗng nghe thấy tiếng lanh canh. Cậu ngoái lại đằng sau và trông thấy một con chồn hôi từ trong rừng chạy ra. Đầu con chồn bị kẹt trong hộp sắt tây, nó không nhìn thấy đường. Nó đâm lung tung vào cây, vào đá, và chiếc hộp kêu lanh canh, lanh canh, lanh canh. "Con chồn kia đang gặp nạn", Sam để cây vợt xuống và nói. "Nó đã đến bãi rác để kiếm ăn. Nó chui đầu vào một cái hộp rỗng và giờ thì không tài nào rút ra được". Tin một con chồn xuất hiện nhanh chóng loan truyền đi khắp trại. Lũ trẻ đổ xô tới để xem cảnh tượng vui mắt. Ông Gạch Nung nhắc nhở chúng không đến gần quá - con chồn có thể phun mùi hôi vào chúng. Vì vậy bọn trẻ nhảy nhót xung quanh, giữ một khoảng cách và bịt mũi. Vấn đề là làm thế nào để lấy hộp ra khỏi đầu con chồn mà không bị phun mùi hôi.
- Nó đang cần sự giúp đỡ - Sam nó - Con chồn sẽ chết đói nếu chúng ta không lấy chiếc hộp đó ra.
Tất cả lũ trẻ đều có ý kiến. Một đứa nói rằng họ nên làm một cái cung và tên, buộc một sợi dây vào mũi tên và bắn tên vào chiếc hộp. Rồi khi tên đã trúng vào hộp, họ có thể kéo sợi dây và chiếc hộp sẽ tuột ra khỏi đầu con chồn. Chẳng ai nghĩ ngợi nhiều đến gợi ý này - nó có vẻ đòi hỏi quá nhiều công việc. Một cậu bé khác gợi ý rằng hai đứa sẽ trèo lên một cái cây, và một trong hai đứa sẽ túm lấy chân bạn mình để đứa kia treo lơ lửng đầu chúc xuống, khi con chồn chạy qua dưới gốc cây, đứa đang treo lơ lửng có thể cúi xuống kéo cái hộp ra, và nếu con chồn phun mực, chất hôi sẽ không trúng vào cậu bé vì cậu ta đang lơ lửng trên không trung. Không ai bận tâm nhiều đến đề xuất này. Ông Gạch Nung không hề ủng hộ. Ông nói là nó cực kỳ thiếu thực tiễn và còn lâu ông mới cho phép thực hiện. Một đứa khác gợi ý rằng họ lấy một thanh gỗ, quết hồ lên đó và khi con chồn va phải, cái hộp sẽ dính vào thanh gỗ. Chẳng ai quan tâm mấy đến đề xuất đó. Vả lại ông Gạch Nung nói rằng ông không có hồ dán. Trong khi mọi người đang mải đưa ra các đề xuất thì Sam Râu Xồm lặng lẽ đi vào lều. Mấy phút sau cậu quay trở ra với một cái sào dài và một đoạn dây câu. Sam buộc một đầu dây vào chiếc sào. Còn đầu kia cậu thắt một cái nút và làm thành hình một cái thòng lọng. Rồi cậu trèo lên nóc cổng trại và yêu cầu những đứa trẻ khác không đến quá gần con chồn. Suốt thời gian đó con chồn chạy quanh, quờ quạng va lung tung vào mọi thứ. Cảnh tượng trông thật đáng thương. Sam cầm sào ngồi trên cổng trại, kiên nhẫn chờ đợi. Trông cậu giống như người ngồi câu đang chờ cá cắn câu. Khi con chồn lò dò đến gần tòa nhà, Sam vươn người ra, quăng cái thòng lọng đu đưa trước mặt nó, móc thòng lọng vòng quanh chiếc hộp và giật mạnh. Thòng lọng thít chặt lại và chiếc hộp tuột ra. Con chồn chạy vòng quanh và phun chất hôi - vào đúng ngay người ông Gạch Nung, ông nhảy lùi lại, trượt chân và ngã lăn ra. Tất cả bọn trẻ nhảy nhót xung quanh và bịt mũi. Con chồn chạy biến vào rừng. Ông Gạch Nung đứng dậy, phủi sạch bụi trên người. Không gian nồng nặc mùi hôi của chồn. Cả người ông Gạch Nung cũng vậy.
- Chúc mừng em, Sam! - ông Gạch Nung nói - Em đã giúp đỡ một con thú hoang và mang đến cho trại Kookooskoos một chút hương hoang dã. Tôi chắc chắn rằng tất cả chúng ta sẽ nhớ cái mùi hôi này trong một thời gian nữa. Tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể quên hẳn được nó.
"Ko-hoh" Louis nâng kèn lên thổi. Những âm thanh vang vọng trên mặt hồ. Không gian ngột ngạt mùi xạ hôi nồng của chồn. Bọn trẻ tiếp tục nhảy nhót, tay vẫn bịt mũi. Một vài đứa ôm bụng như sắp sửa nôn. Khi ấy ông Gạch Nung thông báo đã đến giờ bơi buổi sáng.
- Bơi lội sẽ làm cho không khí trong sạch - ông vừa nói vừa đi về phía lều của mình để thay quần áo.
Hàng ngày sau khi ăn trưa xong, các trại viên trở về lều nghỉ ngơi. Một số đọc sách. Một số thì viết thư về nhà, kể cho bố mẹ chúng nghe đồ ăn dở như thế nào. Số khác chỉ nằm trên giường và trò chuyện. Một hôm trong giờ nghỉ trưa, bọn trẻ ở lều của Gọt Vỏ Táo bắt đầu chế giễu cái tên của nó.
- Gọt Vỏ Táo - một thằng bé nói. - Cậu lấy cái tên điên rồ ấy ở đâu ra vậy, Vỏ Táo?
- Bố mẹ tớ đặt cho tớ - Vỏ Táo trả lời.
- Tớ biết tên cậu ấy là gì rồi, - một thằng bé khác nói. - Vỏ Táo Chua. Gọt Vỏ Táo Chua, Vỏ Táo Chua.
- Trật tự! - Trưởng lều gầm lên.
- Tớ chả thấy có gì đáng cười cả, - Vỏ Táo nói.
- Tên cậu ấy không phải là Vỏ Táo Chua đâu, - một cậu bé khác thì thào - Tên cậu ấy là Vỏ Táo Sâu cơ. Gọt Vỏ Táo Sâu.
Ý kiến này được bọn trẻ cười ồ lên tán thưởng.
- Trật tự! - Trưởng lều gầm lên - Tôi muốn trong lều này phải có trật tự. hãy để cho Vỏ Táo yên!
"Hãy để Vỏ Táo Thối yên!" một cậu bé khác thì thào. Và một vài thằng bé khác vùi đầu vào gối để cười khúc khích mà khỏi bị nghe thấy. Vỏ Táo tức giận. Hết giờ nghỉ trưa, nó lang thang ra bên thuyền. Nó không thích bị trêu chọc và muốn làm điều gì đó để trả đũa. Không hề nói với ai một lời, nó đẩy một chiếc ca nô xuống nước và lái ra hồ, hướng về phía bờ bên kia cách đấy một dặm. Không ai để ý đến nó. Vỏ Táo không được phép lái ca nô một mình. Nó chưa qua được kỳ thi bơi. Nó chưa qua được kỳ thi lái ca nô. Nó đang vi phạm nội qui của trại. Khi nó đã ra xa bờ được khoảng một phần tư dặm ở chỗ nước sâu, gió mạnh dần lên. Sóng cao hơn. Ca nô trở nên khó điều khiển. Vỏ Táo hoảng sợ. Bất thình lình một cơn sóng quật vào ca nô và làm cho nó xoay tròn. Vỏ Táo tỳ mạnh vào bánh lái. Nó bị trượt tay và mất thăng bằng. Chiếc ca nô lật úp, Vỏ Táo ngã lộn xuống nước. Quần áo của nó ướt sũng nước và nặng trĩu. Đôi giày níu chân nó xuống và nó chỉ còn nhô mỗi cái đầu trên mặt nước. Thay vì bám lấy ca nô, nó lại bắt đầu bơi vào bờ - một việc làm rồ dại. Một cơn sóng đập vào mặt nó và mồm nó ngậm đầy nước.
- Cứu với! - Nó la lên - Cứu tôi với! Tôi sắp chết đuối. Nếu tôi chết đuối thì trại này sẽ bị mang tiếng. Cứu với! Cứu với!
Các anh phụ trách lao ra bến. Họ nhảy ào ào vào thuyền và ca nô, chèo ra chỗ thằng bé đang sắp chết đuối. Một anh phụ trách cởi giày ra, nhào xuống nước và bắt đầu bơi về phía Vỏ Táo. Ông Gạch Nung chạy ra bến, leo lên cầu nhảy và hét to qua một chiếc loa để chỉ đạo công việc cứu đuối. "Bám vào ca nô, Vỏ Táo!" ông gào lên. "Đừng rời xa ca nô!" Nhưng Vỏ Táo đã bơi xa ca nô rồi. Nó không có chỗ nào để bám víu, đang vùng vẫy và phí sức. Nó cảm thấy chắc chắn chẳng mấy chốc nữa nó sẽ chìm nghỉm và chết đuối. Nó cảm thấy yếu dần và kinh hãi. Nước đã tràn vào phổi nó. Nó không còn chịu đựng được lâu nữa. Chiếc thuyền đầu tiên rời bến do Sam Râu Xồm lái và cậu đang ra sức chèo, các cơ bắp căng hết lên. Nhưng hoàn cảnh trông không mấy khả quan đối với Vỏ Táo. Chiếc thuyền còn ở quá xa chỗ thằng bé. Khi tiếng kêu cứu với đầu tiên vọng đến trại thì Louis đang dạo quanh đến góc gian nhà chính. Lập tức chú phát hiện ra đó là Vỏ Táo và ứng cứu ngay. "Mình không thể bay ra đó, Louis nghĩ thầm, vì lông cánh của mình vừa mới rụng xong chưa kịp mọc. Nhưng đương nhiên là mình có thể bơi nhanh hơn những chiếc thuyền kia". Tháo vội bảng, bút chì phấn và kèn trôm-pét ra, Louis nhào xuống nước và lao vụt đi, đập mạnh cánh và đạp nước bằng đôi chân có màng to của mình.
Một con thiên nga, thậm chí ngay cả vào mùa hè khi nó không thể bay được, vẫn có khả năng lướt rất nhanh trên mặt nước. Đôi cánh mạnh mẽ của Louis đập vào không khí. Chân chú khuấy tung bọt nước như thể chú đang cưỡi lên ngọn sóng. Trong chốc lát chú đã vượt qua mọi chiếc thuyền. Khi đến chỗ Vỏ Táo, chú vội ngụp xuống, thò cái cổ dài vào giữa hai chân Vỏ Táo rồi trồi lên mặt nước với Vỏ Táo ở trên lưng. Tất cả mọi người đang đứng trên bờ và ngồi trong thuyền reo ầm lên. Vỏ Táo ôm chặt lấy cổ Louis. Nó được cứu thoát vừa vặn đúng lúc. Chỉ một phút nữa thôi là nó sẽ chìm nghỉm. Nước hẳn đã tràn đầy phổi nó. Suýt nữa nó đã trở thành người thiên cổ. "Tạ ơn Chúa!" ông Gạch Nung reo lên qua chiếc loa. "Một việc thật vĩ đại, Louis! Trại Kookooskoos sẽ không bao giờ quên được ngày hôm nay! Em đã cứu vãn danh tiếng của trại. Kỷ lục an toàn của trại vẫn chưa hề bị hoen ố". Louis không mấy bận tâm đến những tiếng reo đó. Chú thận trọng bơi đến cạnh thuyền của Sam. Sam kéo Vỏ Táo vào trong khoang và cho nó ngồi ở ghế sau.
- Em cưỡi lên lưng một con thiên nga trông thật ngộ nghĩnh, - Sam nói - và may mà em thoát chết đấy. Em đâu có được phép lái ca nô một mình.
Nhưng Vỏ Táo ướt lạnh và sợ hãi đến nỗi không thốt ra được một lời. Nó chỉ ngồi nhìn chăm chăm về phía trước, khạc nước trong miệng ra và thở một cách nặng nhọc. Vào bữa cơm tối hôm đó, ông Gạch Nung để Louis ngồi cạnh mình ở vị trí danh dự. Khi bữa ăn kết thúc, ông đứng lên và phát biểu.
- Tất cả chúng ta đã chứng kiến việc xảy ra ở hồ ngày hôm nay. Gọt Vỏ Táo đã vi phạm nội qui của trại, tự động lái ca nô một mình và bị lật. Em ấy đang sắp sửa chết đuối thì Louis Thiên nga nhanh chóng vượt xa tất cả các trại viên khác, đã đến bên em ấy, nâng em ấy dậy và cứu em ấy thoát chết. Tất cả chúng ta hãy đứng lên hoan hô Louis!
Bọn trẻ và các anh phụ trách đứng lên. Họ reo hò, vỗ tay ầm ĩ và gõ thìa vào đĩa sắt tây. Rồi họ lại ngồi xuống. Trông Louis có vẻ bối rối.
- Và bây giờ, Vỏ Táo - ông Gạch Nung nói - tôi hy vọng là việc cứu đuối này sẽ làm em thay đổi nhận định về loài chim. Ngày đầu tiên đến trại em đã nói rằng em không hề thích chim chóc. Giờ em thấy thế nào?
- Em thấy đau bụng, - Vỏ Táo trả lời. - Suýt chết đuối thì người ta bị đau bụng. Trong bụng em còn đầy nước hồ.
- Phải, nhưng còn chuyện chim chóc thì sao? - ông Gạch Nung hỏi. Hồi lâu Vỏ Táo có vẻ suy nghĩ rất lung.
- Ồ - nó nói - em biết ơn Louis đã cứu em. Nhưng em vẫn không thích chim chóc.
- Thật sao? - ông Gạch Nung nói. - Điều đó mới thật đáng chú ý. Cho dù là một con chim đã cứu em khỏi bị chết đuối, em vẫn không thích chim chóc ư? Điều gì làm cho em ghét loài chim như vậy?
- Chẳng có gì cả. - Vỏ Táo đáp. - Em chẳng có gì ghét chúng cả. Em chỉ không thích chúng thôi.
- Thôi được rồi, - ông Gạch Nung nói. - Tôi cho là chúng ta phải bỏ lửng vấn đề này thôi. Nhưng trại rất tự hào về Louis. Bạn ấy là người phụ trách ưu tú nhất ở đây - một nhạc công trôm-pét lỗi lạc, một chú chim cao thượng, một nhà bơi lội mạnh mẽ và một người bạn tốt. Bạn ấy xứng đáng được thưởng Huân chương. Thật ra tôi dự định viết một bức thư đề nghị tặng thưởng Huân Chương Cứu Mạng cho bạn ấy.
Ông Gạch Nung đã giữ đúng lời hứa. Ông đã viết một bức thư. Vài ngày sau có một người từ Oasingtơn đến mang theo Huân Chương Cứu Mạng, và trước sự chứng kiến của tất cả các trại viên, ông ta đeo chiếc huân chươngvào cổ Louis, bên cạnh chiếc trôm-pét, chiếc bảng và bút chì phấn. Đó là một chiếc huân chương rất đẹp. Trên đó có khắc dòng chữ: Tặng thưởng cho Louis Thiên nga, người, với lòng dũng cảm phi thường và hoàn toàn bất chấp sự an nguy của bản thân mình, đã cứu Gọt Vỏ Táo thoát chết. Louis tháo bảng ra và viết, "Cảm ơn ngài đã trao tặng cho tôi chiếc huân chương này. Đây là một vinh dự rất lớn". Nhưng chú nhủ thầm, "Mình bắt đầu quá tải với những thứ đồ quanh cổ này. Mình đã có một chiếc trôm-pét, mình đã có một chiếc bảng, mình đã có một cái bút chì phấn; bây giờ mình lại có thêm một chiếc huân chương. Trông mình bắt đầu giống một gã lập dị. Mình hy vọng là khi lông cánh của mình mọc lại thì mình vẫn có thể bay được".
Đêm hôm đó, khi bóng tối đã bao trùm lên tất cả, Louis thổi khúc báo giờ đi ngủ hay hơn bao giờ hết. Người đàn ông đã mang huân chương đến trại đang lắng nghe và chăm chú nhìn. Ông ta hầu như không dám tin vào tai và mắt mình. Khi quay về thành phố, ông ta đã thuật lại cho mọi người nghe những điều mình trông thấy và nghe thấy. Tiếng tăm của Louis nổi lên. Người ta đã biết đến tên tuổi của chú. Khắp nơi người ta bắt đầu bàn tán về một con thiên nga biết chơi trôm-pét.