San Francisco là bến cảng quan trọng nhất Tây Mỹ và "Cổng Vàng" (the Golden Gate), vũng tàu tuyệt vời của nó, đã được các du khách ca tụng hết lời. Trên bến cảng chất đầy các thùng, hòm, túi, người người đi lại tấp nập và ồn ã: thương nhân, thủy thủ, công nhân người Hoa, phu khuân vác người Ailen đi lại hối hả như mắc cửi, chẳng ai thèm để ý đến những người mới đến. Những người bạn của chúng ta dừng chân, thoáng choáng ngợp trước không khí ồn ào, náo nhiệt của thành phố bởi vừa trước đó ít phút thôi, họ còn đang chìm đắm trong cái bao la, êm ả mặn mòi gió biển. Lòng buồn man mác, Ar-mand nghĩ tới những ngày qua được trò chuyện và được tiểu thư Aurett chăm sóc hết mực chu đáo và dịu dàng. Chàng thầm nuối tiếc vì đã đến lúc phải lao vào những thử thách mới. Chàng nói: - Vậy là chúng ta đã đến được đất liền. Vết thương của tôi đã hoàn toàn lành lặn. Giờ tôi phải tìm cách kiếm sống và tiếp tục chuyến đi của mình. Ngài Murlyton vội phản đối bởi cô con gái vừa đưa mắt nhìn ông đầy ẩn ý: - Chuyện này là như thế nào? Sao cậu vội vàng thế? - Tôi không nên quá lạm dụng lòng tốt của ngài và tiểu thư. Trông kìa, ngài có nhìn thấy đám người tứ xứ nghèo khổ xúm quanh người đàn ông dưới kia không? ông ta đang cần phu khuân vác đấy... ông ta sẽ nhận tôi. ít ra tôi cũng có cái ăn qua ngày và thêm cả thời gian suy tính nữa. Chàng chìa tay ra nắm lấy bàn tay ngài Mur-lyton như muốn nói chàng đã sẵn sàng tiếp tục cuộc cá cược song tiểu thư Aurett vội nói xen vào: - Cha, cha quên lời bác sĩ dặn lúc trên thuyền rồi sao? Chỉ cần làm việc gì hơi quá sức một chút, vết thương của chàng sẽ tái phát. Sẽ thật không phải, không muốn nói là vô đạo khi chúng ta bỏ mặc Lavarède như vậy. Và nàng đã thuyết phục được cha việc Lavarède đã cứu nàng xứng đáng với tám ngày dưỡng thương nữa tại khách sạn China Pacific, một trong những khách sạn sang trọng nhất ở San Francisco, nằm trên phố Kearny. Họ đi về phía khách sạn. Giám đốc khách sạn, ngài Tower đón tiếp họ hết sức nồng nhiệt..Sau khi đôi bên đã thỏa thuận xong các điều kiện, ngài Murlyton rút ví ra thanh toán cho ngài Tower. ông chưa kịp cất ví đi thì có một gã thanh niên tiến tới trước mặt ông và nói: - Xin ngài hãy thận trọng với bọn trộm. Tôi thấy ngài là người mới đến đây, đừng giơ tiền ra như vậy. "Beware of the pickpockets" (cẩn thận với bọn móc túi). Song ngài Murlyton không mấy bận tâm. Ba vị anh hùng của chúng ta còn vội lên xem phòng của họ. Sau khi đưa các người bạn đồng hành lên phòng, chàng về phòng mình, đóng cửa lại và đi tắm. Được tắm mát, kỳ cọ sạch sẽ chàng cảm thấy khá tự tin và hài lòng khi liếc nhìn vào gương thấy gương mặt mình không đến mức tệ lắm sau biết bao biến cố xảy ra. Chàng trai Paris mở cửa sổ và ngắm nhìn khung cảnh trên phố Montgomery và phố Kearny. Người qua đường nhộn nhịp quần áo xúng xính sang trọng, lòng đường náo nhiệt, tất cả những âm thanh ấy gợi chàng nhớ tới Paris. Bên cạnh phòng chàng là phòng của ngài Murlyton. Chàng nghe thấy có tiếng nói ồn ào và tiếng chuông kêu leng keng giận dữ. Lavarède vội sang đó xem có chuyện gì xảy ra. Ngài Mur-lyton cho mời ngài Tower lên và chìa ra cho ông ta xem chiếc ví trống trơn không còn một xu hay tờ séc nào. Tiểu thư Aurett giải thích: - Cha em đã bị mất cắp. Ông giám đốc khách sạn đến và mọi người đều té ngửa ra khi nghe ông ta phân giải: tên trộm chính là gã thanh niên đã nhắc ngài Mur-lyton cẩn thận với bọn móc túi. Người đàn ông người Anh mặt đỏ rần rần: - Sao cơ!... Và ông đã biết là như vậy mà vẫn để nó ngang nhiên trộm tiền của tôi!... - ông chưa biết đấy thôi, gã thanh niên đó chính là kế toán của một... hừm... nghiệp đoàn cho phép các thương nhân quyền không bị mất trộm. Chuyện đó tôi không dám bảo đảm đối với các khách hàng của tôi. Song tôi xin chắc chắn một điều các thành viên của băng đảng này sẽ không tấn công vào trong khách sạn của tôi. Hôm nay đúng là ngày gã thanh niên này đến đây thu tiền đóng góp. Và ông đã sơ ý để hắn nhìn thấy chiếc ví. Xin các vị nên nhớ các thành viên của băng đảng này rất khéo tay, toàn là các bậc thầy lão luyện trong trò này. Ngài Murlyton gầm lên giận dữ: - Chuyện đó thì tôi đã biết. Nhưng cảnh sát để làm gì? - ôi, ở đây, tại Frisco, cảnh sát hoàn toàn chịu bó tay. Lavarède ngán ngẩm nói:.- Thật là một xứ sở kỳ lạ. ở đây bọn trộm cắp thì kết bè, kết đảng còn cảnh sát lại như đám bù nhìn. Song hậu quả nhỡn tiền ngay sau chuyện này là ngài Murlyton không còn một đồng xu dính túi. Lavarède nói: - Tôi có năm xu. Số tiền ấy chỉ vừa đủ cho một mình tôi có thể đi vòng quanh thế giới song cho ba người thì chắc chắn là sẽ không được. Vậy là lại có chuyện phiền phức đây: vì ngài và tiểu thư không thể tiếp tục đi theo giám sát, tôi sẽ đành mất thời gian chôn chân ở đây. - Cậu nói có lý. Tôi sẽ tới phòng điện báo, đánh điện cho ngân hàng của tôi tại London gửi ngay cho tôi hai nghìn bảng. Nói là làm. Ngài Murlyton viết ngay một bức điện. Tay nhân viên yêu cầu ông trả hai mươi sáu đô la cho giá cước chuyển bức điện. Dù đã cố thuyết phục mình vừa bị mất trộm không còn đồng nào trong ví nhưng anh ta không chịu nghe lời giải thích của ông. Trở về khách sạn với tin xấu khi trời đã nhá nhem tối, ngài Murlyton cảm thấy rất chán nản. Lavarède tuyên bố: - Tôi xin đi thẳng vào vấn đề. Trong thời gian bị thương, không thể tiếp tục cuộc hành trình tôi đã được ngài và tiểu thư tận tình chăm sóc, chiều chuộng, lo không thiếu một thứ gì rồi lại giúp tôi tới được San Francisco. Vậy là tôi đã nợ hai người quá nhiều. Không, xin ngài và tiểu thư đừng vội phản đối!... Vậy nên tôi xin ngài hãy cho phép tôi kiếm giúp ngài hai mươi sáu đô la để ngài có thể đánh điện, gửi về Lon-don. Ngài không phải áy náy gì, chuyện đó cứ để tôi lo. Vả lại đó cũng chính là quyền lợi của tôi. Trong lúc chờ đợi, chúng ta hãy đi thăm quan Frisco. Không có tiền thì biết làm gì đây? Ngoại trừ việc đi dạo. Lát sau họ tới trước sở giao dịch của các thương nhân, đám người đầu cơ bu quanh đông như kiến. Ngài Murlyton và Aurett cứ đứng ngây ra, chẳng hiểu chuyện gì đang diễn ra trước mắt họ. Lavarède rút chiếc khăn mùi xoa trong túi ra vẫy vẫy rồi rải nó xuống vỉa hè, nét mặt tỏ vẻ tập trung cao độ. Thọc tay vào túi quần, chàng lấy từng đồng xu ra một, đó cũng là toàn bộ tài sản chàng hiện có và chàng xếp năm đồng xu thành một đường gấp khúc trên chiếc khăn mùi xoa. Hành động đó của chàng đã gây chú ý đến đám người gần đó. Một, rồi hai người, rồi mười người qua đường dừng lại, vây quanh chàng thành một vòng tròn. Đến lúc này, Lavarède bắt đầu chào hàng bằng tiếng Anh với âm điệu rất chuẩn: - Ngày xưa, các bác học được gọi là các nhà giả kim, đã tìm kiếm đá tạo vàng và cách thức.để biến một kim loại ít giá trị thành vàng. Vậy mà những gì họ tìm kiếm suốt bao nhiêu năm chẳng thu được kết quả còn tôi lại tình cờ khám phá ra. Vâng thưa các quý ngài, với tôi, đồng sẽ biến thành bạc, một cent sẽ trở thành một đô la. Hãy cầm lấy, đây là một đồng xu của nước Pháp. Nào mọi người hãy lại đây tham dự để khám phá bí mật kỳ diệu này. Nhưng nếu các bạn muốn có bí mật này, xin hãy cổ vũ cho người biểu diễn. Nào, nào... hãy cho tay vào túi, hãy tận dụng cơ hội này đi!... Tiếng rao chào hàng nghe thật mùi mẫn và lọt tai. Những đồng xu ném xuống như mưa. Ar-mand nâng niu đón nhận và tiếp tục khích lệ những người còn đang do dự: - Nào nào các quý ngài, xin hãy vứt thêm vài cent nữa đi, chỉ vài cent nữa thôi! Những đồng tiền xu lại tới tấp rơi xuống nền gạch kêu leng keng. Thế rồi chàng gấp chiếc mùi xoa lại, cất năm xu và số tiền vừa thu được vào trong túi rồi tuyên bố: - Buổi trình diễn đã kết thúc. Các vị đã thấy đấy, chỉ với năm xu, tôi đã thu được hai mươi sáu đô la. Trò các vị tham dự vừa rồi vẫn được cánh bán hàng rong ở Paris gọi là "nghệ thuật rao hàng". Có vài tiếng làu nhàu, vài tiếng kêu bực mình khó chịu vì trò lừa bịp song Lavarède đã dùng lời ngon ngọt làm cho ngay những người rất khó tính cũng nguôi ngoai. Song một tên đầu gấu, bám dai như đỉa nằng nặc đòi chàng trả lại tiền cho gã. Lavarède liền giáng một cú đấm vào mặt gã và cả hai xông vào đánh nhau. Gã kia chịu thua, ngượng ngùng rồi tiu nghỉu bỏ đi. Lavarède trao hai mươi sáu đô la vừa kiếm được cho ngài Murlyton. Đứng không xa chỗ đó và đã chứng kiến toàn bộ mọi chuyện, Bouvreuil vỗ tay, tỏ vẻ rất hài lòng khi gặp lại "chàng rể tương lai" trong khu phố náo nhiệt này. Lão đã đoán trước Lavarède không phải một tay vừa và trước sau gì chàng cũng sẽ phải tới đây. Và mọi tính toán của lão quả không sai. Tuy nhiên còn một người nữa đã để mắt đến Lavarède. Gã đàn ông người Hoa đó khoác một chiếc áo cánh rộng, đầu đội mũ chỏm hình cầu như một nho sĩ. Gã chặn ngang đường chàng. Vị "chúa trời" đã say sưa dõi theo trò biểu diễn của chàng với vẻ rất khoái trí. Gã nói: - Chàng trai, cậu dũng cảm lắm và cậu lại đang cần tiền. - ông định đề nghị tôi làm một vụ gì phải không? - Đó là một công việc nguy hiểm và được trả công rất hậu. Hẹn gặp cậu tối nay lúc mười.giờ ở góc phía Nam công viên Alta Plaza, sát với khu người Hoa. Người ta sẽ dẫn cậu tới nơi cần đến. Tại đó, cậu sẽ được biết việc mình được giao. Nói xong, gã người Hoa đó lẩn vào đám đông và biến mất. Trong lúc đó, Bouvreuil đang đánh điện gửi cho con gái: "San Francisco. Đã tìm thấy kẻ bỏ trốn. Tràn đầy hy vọng". Tối hôm đó khi các chuông đồng hồ ở San Francisco điểm đúng mười giờ, Armand tới góc phía Nam công viên Alta Plaza. Một người tiến gần lại chàng song không hề gây tiếng động và mời chàng đi theo anh ta. Hai người đàn ông vội vã rảo bước hướng về phía một trong những con phố nhỏ của khu phố người Hoa. Armand bám theo sát người dẫn đường. Chàng cứ theo bóng của anh ta mà đi theo, nếu không nhanh sẽ bị lạc bởi khu phố này như một khoảng tối tù mù giữa đất Mỹ tran hòa ánh đèn điện. Cũng như ở quê hương mình, tại đây những người Hoa khá xa lạ với cuộc sống văn minh bên ngoài. Lẽ ra họ phải thắp đèn dầu chiếu sáng các con phố song họ không bao giờ làm chuyện đó dù rằng họ có đèn để trong nhà, có chăng chỉ lèo tèo vài ba chiếc đèn lồng dây cháy leo lét. Lòng đường đất nện, bị cắt ngang chính giữa bởi các rãnh chứa nước thải hôi thối, chẳng đếm xỉa đến những phiền phức cho người đi đường, hơn thế nữa lại tạo điều kiện "thuận lợi tuyệt vời" cho họ ngã gãy cổ lúc nào không hay. Song Lavarède vẫn cẩn thận bám theo người dẫn đường. Sau hai ba lần vấp suýt ngã, cuối cùng chàng cũng đã tới phố Sacramento. Người dẫn đường tiến gần trước một ngôi nhà. Cầm lấy chiếc búa đồng treo trên cửa, anh ta đập mạnh vào cánh cổng. Ngay sau đó, cánh cổng từ từ mở ra. Khi cả hai vừa bước vào, cánh cổng lại tự đóng lại. Trước mắt họ lại mở ra một cánh cửa có viền bằng bộ rầm màu đỏ được tô điểm thêm những tấm lưới đen giúp họ trông thấy những bậc đầu tiên của chiếc cầu thang hẹp dẫn lên gác hai. Lên trên đó, cả hai đi qua một dãy phòng với những chiếc đèn lồng giấy thắp nến sáng lờ mờ. Trong gian pòng cuối cùng, ánh nến càng yếu hơn, có ba người đàn ông trong trang phục người Bắc Kinh đang thì thào bàn chuyện. Đó là những người đại diện của phái "Bạch Liên" giáo. Người đàn ông Armand gặp trên phố lên tiếng đầu tiên: - Hai nghìn đô la cũng đáng làm lắm... "Hai nghìn đô la!" Armand thầm nghĩ. Chàng vô cùng sửng sốt vì món tiền thưởng quá lớn. Chàng vẫn cố giữ nghiêm nét mặt hỏi: - Vậy thì sao?.- Trong ba ngày nữa, vào lúc nửa đêm, cậu sẽ có được món tiền này sau khi làm xong việc. Còn nếu cậu phản bội chúng tôi, cậu nên nhớ cậu sẽ bị truy đuổi đến cùng và chỉ có cái chết chờ đón cậu. - Tôi sẽ phải làm gì? - Buộc đá vào chân một xác chết và ném nó xuống biển. - A!... Tất nhiên tới đây công việc của Armand vẫn chưa hề rõ ràng, cụ thể. - Tôi thấy cậu không phải loại dát chết. Đó cũng là lý do tại sao chúng tôi chọn cậu làm vụ này. Armand nhẫn nại: - Xin ông cứ nói tiếp. - Trong khu phố này có một kẻ tên là Kin Tchang, một trong những kẻ thù của chúng tôi. Chắc cậu cũng biết đối với người Hoa di cư tới sinh sống tại Mỹ, khi qua đời, nhất quyết xác của chúng tôi phải được đưa về Trung Quốc. - Điều đó tôi biết. Tôi cũng nghe người ta nói các ngài có thói quen đóng quan tài cho mình khi vẫn còn sống. - Chính xác. Và chúng tôi, những thành viên của băng đảng bí mật "Bạch Liên" đã quyết định không để thi thể của Kin Tchang, kẻ thù của chúng tôi được đưa về Trung Quốc. - Thật quái quỷ! - Hắn chết ngày hôm qua và ngay lập tức thi thể của hắn được đưa đến kho cảng Box Pacific. Box Pacific là một công ty ở San Francisco chuyên chịu trách nhiệm đưa linh cữu của người Hoa trở về quê hương chôn cất. - Và đây là việc chúng tôi trông đợi ở cậu. Quan tài của Kin Tchang mang số 49. Cậu chỉ việc lấy nó ra, buộc đá vào cổ xác chết rồi đem vứt xuống biển. Chúng tôi sẽ cho người theo dõi mọi việc. Chỉ đơn giản vì chúng tôi không muốn đích thân dính tay vào vụ này. Xong việc, cậu sẽ có tiền. Lavarède ngẫm nghĩ một lát rồi mỉm cười mãn nguyện. Chàng nói: - Xin các ngài cứ an tâm. Mọi việc tôi sẽ lo chu toàn..