Có những người bạn thân thiết đi cùng và được chàng thổ dân Agostin, người dẫn đường giúp đỡ, Lavarède có thể thoát khỏi trận động đất song có biết bao hiểm nguy đang rình rập chàng, còn biết bao kẻ thù chàng phải đối mặt trên suốt chặng đường dài đầy khó khăn trước mắt... Cả bốn người đồng hành chăm chú nhìn về phía nhóm người ở đằng xa. Bỗng mặt Agostin trở nên tái mét, hai hàm răng va vào nhau lập cập. Điều đó thật lạ bởi chẳng dễ có điều gì làm cho chàng thổ dân sợ đến vậy. - Có chuyện gì vậy? Cậu nhìn thấy gì thế? - Đó chính là lũ Guatusos man rợ, lũ thổ dân có khuôn mặt xanh lét, mắt xanh lơ, tóc đỏ quạch. Ngài Murlyton nói: - Theo như cậu mô tả chúng có thể là người Anh..- Đúng thế. Đó là lũ con trai của một toán cướp người Anh bị lạc nhau cách đây một trăm năm trên bờ sông Rio Frio và chúng đã mang đến bộ lạc đã tiếp nhận chúng những tập tục hung dữ và khát máu. Bọn người Guatusos sống rất man rợ và tàn bạo: Một khi chúng ta mà rơi vào tầm ngắm của chúng thì chỉ có cái chết đang đón đợi chúng ta. Tiểu thư Aurett dùng ống nhòm quan sát bọn chúng và sớm nhận ra José trong đám người đó. Điều ấy cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Và ngay trong lúc này đây, những người bạn của chúng ta đã nhận ra thực trạng vô vọng của mình: vùng đất họ đang cắm trại đã bị bao vây. Giờ chỉ còn một cách duy nhất: đánh trả bọn chúng. Cuộc bao vây kéo dài trong nhiều ngày. Trong thời gian đó, những cuộc do thám và tấn công liên tiếp diễn ra. Trong suốt các cuộc chạm súng, không hề có thương vong hay tổn thất lớn xảy ra: thực ra những kẻ tấn công chỉ tìm cách ngăn không cho Lavarède và các bạn của chàng chạy trốn. Song không lâu sau đó, một sự cố xảy ra làm những người bị vây tạm thời gác súng. Từ phía dưới thung lũng, một tên thổ dân người Guatusos leo thẳng về phía trại chăn nuôi. Đến đúng tầm ngắm của các tay súng, hắn ta dừng lại. Một tay giơ cao mảnh vải trắng, điều đó có nghĩa tên này tới đây để điều đình, còn tay kia, hắn huơ huơ một lá thư. Qua ống nhòm, họ thấy hắn cài lá thư vào lá một cây ngọc gia rồi vội vã tháo lui. Agostin đi tới gỡ lá thư rồi quay trở lại trại chăn nuôi. Đó là một bức tối hậu thư của José. Trong đó lão ta viết: Ngày 06 tháng 7 năm 1891 Kính gửi các quý ngài, Kính gửi ngài Murlyton và tiểu thư Aurett. Tỉnh trưởng quận Golfo-Dulce của Costa-Rica xin trân trọng thông báo các quý ngài không phải là đối tượng hiện chúng tôi đang truy đuổi. Điều đó có nghĩa là các quý ngài có thể tự do tiếp tục cuộc hành trình của mình hay nghỉ lại trên lãnh thổ của nước cộng hòa Costa-Rica, đồng thời được hưởng quyền bảo trợ của chúng tôi. Các quý ngài cũng có thể mang theo viên lính Agostin làm người phục vụ. Chúng tôi tin rằng tên Lavarède thủ đoạn đã buộc anh ta tuân theo lệnh hắn và bắt anh ta gọi hắn là đại tướng Bareda. Chính quyền cộng hòa đã tuyên bố truất ngôi tổng thống cộng hòa Costa-Rica mà hắn đã dùng mọi thủ đoạn đê tiện để đoạt được. Đó cũng là kẻ duy nhất mà tôi và những chiến binh trung thành của tôi muốn bắt và trừng trị. Ngài tỉnh trưởng cho các ngài 24 giờ để thi hành mệnh lệnh này và rút về nơi an toàn dưới sự bảo hộ của ngài. Ngược lại, nếu các ngài ngoan cố chống đối, các ngài sẽ phải chịu chung số phận như tên Lavarède. Vậy nên xin các ngài hãy tự quyết định số phận của mình. Người ký José Miraflorès Tất cả mọi người ngồi im, chìm trong những suy nghĩ lo lắng. Cuối cùng, ngài Murlyton lên tiếng: - Đội lốt chính trị, tên khốn này đang tìm cách trả thù Lavarède và thực hiện ý đồ đen tối với con gái tôi. Lavarède kết luận: - Chắc chắn hắn đang tìm cách chia rẽ hòng làm suy yếu chúng ta. Vậy mà hắn còn dám gọi tôi là kẻ thủ đoạn! Thời gian còn lại trong ngày trôi qua thật buồn tẻ. Hai mươi tư giờ José cho cũng đã hết. Vậy là một cuộc tấn công lại sắp nổ ra. Buổi sáng, tinh thần của những người bị vây càng trở nên rệu rão và hoang mang vì Agostin đã biến mất - chắc có lẽ vì sợ quá nên cậu ta đã chạy trốn - hơn nữa bọn người Guatusos càng ngày càng khép chặt vòng vây. Bỗng có tiếng hò thét vang dậy: bọn người Guatusos đang từng tốp trèo về phía lô cốt, nơi những người bạn của chúng ta đang ẩn náu. Giữa toán người ấy có lão José, rất dễ nhận ra với chiếc mũ phớt rộng vành. Lão tìm cách đứng ở chỗ an toàn nhất và hò hét khích lệ đám thổ dân. Đã đến lúc phải chiến đấu. Tiểu thư Aurett cũng chứng tỏ mình là một tay súng cừ khôi chẳng kém gì cha nàng và Lavarède. Bọn người Guatusos vừa bắn trả vừa rút lui: những người bạn của chúng ta đã đánh bại chúng trong đợt tấn công này. Họ thở phào nhẹ nhõm song sự bình yên ấy không kéo dài được bao lâu. Bọn Guatusos lại tổ chức tiếp một cuộc tấn công khác và lần này chúng lại sử dụng dáo mác. Tiểu thư Aurett chưa một lần làm quen với kiểu tấn công hoang dại này. Khi một tên thổ dân xông tới đe dọa, nàng cố né người tránh hắn. Hoảng hốt, nàng chỉ muốn chạy trốn song hai chân cứ ríu lại, nàng lảo đảo và ngã xuống bất tỉnh. Nghe tiếng kêu cứu, Armand lao tới trước tên thổ dân. Chàng chưa kịp phản ứng gì, tên thổ dân đã dùng con dao rựa bổ xuống. Chàng ngã vật xuống đất, ngay cạnh tiểu thư Aurett, máu của chàng bắn ướt cả người nàng. Lũ người dã man, mọi rợ đã chiến thắng. Song đột nhiên, một loạt súng vang lên. Tiếng đạn rít nhằm thẳng về phía đám thổ dân Guatusos nổ liên tiếp. Hoảng hốt, bọn chúng đứng khựng lại, hai chân như muốn khuỵu xuống, rồi cuống cuồng tìm đường tháo chạy bỏ lại đằng sau trại chăn nuôi với Lavarède bị thương nằm sõng xoài và.tiểu thư Aurett bất tỉnh, còn ngài Murlyton đứng ngây như tượng đá, người dính be bét máu, thẫn thờ chẳng hiểu chuyện gì vừa xảy ra. Agostin đây rồi! Không phải cậu ta chạy trốn. Vượt qua vòng vây của kẻ thù, cậu ta tìm tới các bộ lạc anh em, đặc biệt là Ramon để cầu viện. Khi Agostin và Ramon tiến vào trong "lô cốt", một quang cảnh buồn thảm bày ra trước mắt họ: Armand nằm lịm đi trong vũng máu, vết thương bên ngực phải mở toang hoác, máu vẫn tuôn ra xối xả. Người xanh lợt, khuôn mặt nhợt nhạt, chẳng rõ chàng còn sống hay đã chết. Kế bên chàng là tiểu thư Aurett nằm bất tỉnh. Hình như nàng cũng bị thương, khắp người bắn tung tóe máu của người bảo vệ nàng. Ngài Murlyton chỉ bị thương nhẹ, ông nhận ra Ramon. Agostin nhận thấy cô gái chỉ bị ngất xỉu chứ không hề bị thương. Tiểu thư Aurett dần dần hồi tỉnh. Lời đầu tiên cất lên, nàng dành cho người bảo vệ mình. Nàng hỏi: - Ngài Armand đâu? Còn cha, cha đấy phải không? ôi, cha hãy thứ lỗi cho con! Cha có bị thương không? - Cha ư? Cha không sao cả, con gái yêu của ta! Nhưng Armand, người bạn dũng cảm của chúng ta... Nàng đứng bật dậy, tiến tới trước mặt Ra-mon và kêu lên: - Lạy Chúa tôi, chàng có bị thương nặng lắm không? ông hãy nói gì đi chứ! ôi Ramon, tôi đã nhận ra ông rồi... Vậy tôi xin ông, ông hãy nói gì đi. Ramon chỉ đáp lại những tiếng nấc nghẹn ngào của Aurett bằng ánh mắt lặng lẽ, ngân ngấn nước. Rồi ông nói, giọng như nghẹn lại: - Sẽ nguy hiểm lắm... nếu con dao ấy có tẩm thuốc độc. Tiểu thư Aurett buột miệng thét lên đau đớn. Tiếng thét ai oán lay động cả tấm lòng của cha nàng và Ramon. Giá Lavarède nghe thấy tiếng thét ấy, chàng chắc sẽ khám phá ra nỗi niềm sâu kín tận đáy lòng cô gái trẻ. Ramon lục tìm cái gì đó. Anh ta lấy ra trong chiếc túi nhỏ mà tất cả các thổ dân đều mang theo người một ít cỏ khô, tán nhỏ thành bột và quấy vào nước. Rồi sau đó, anh ta khám và rửa vết thương hết sức cẩn thận cho Lavarède. - Hãy yên tâm, cô gái, lưỡi dao của tên thổ dân Guatusos không tẩm thuốc độc, nhưng không phải vì thế mà tính mạng của anh bạn cô bớt nguy hiểm đâu. Anh ta chuẩn bị thuốc đắp với các loại cỏ quý vừa có tác dụng nhanh chóng làm se vết thương vừa có tính sát trùng. Chàng nhà báo tội nghiệp hai mắt vẫn nhắm nghiền, không hề động đậy. Murlyton dùng tay bạnh hai hàm răng chàng.ra và đổ vào một liều rượu mía. Cũng nhờ thứ thuốc bổ này, tim chàng đập trở lại song rất yếu. Armand bị thương rất nặng, còn Aurett miệng cứ lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại: - Cũng chỉ tại tôi, lại một lần nữa... cũng vẫn chỉ tại tôi... Không thể ở lại giữa chốn heo hút này, họ cần đưa Lavarède tới một nơi nào đó có điều kiện chăm sóc cho chàng tốt và đầy đủ hơn. Ramon, Agostin, Murlyton và Aurett đều nhất trí cho rằng việc băng bó vết thương chỉ đủ cho thời gian đầu còn trong vài ngày nữa nếu cần thay băng thì vẫn chưa biết xoay xỏa thế nào. Song bây giờ họ phải nhanh chóng tới thành phố gần nhất, nằm ngoài lãnh thổ Costa-Rica. Hơn nữa sẽ chuyển chàng đi bằng cách nào đây? Đặc biệt không được làm chấn động người bị thương vì như vậy vị thuốc nam kia sẽ mất tác dụng. Nếu vết thương không se lại và vẫn há miệng, điều đó cũng đồng nghĩa với cái chết. Ngoài ra, người bị thương sẽ sốt rất cao và mê sảng liên miên. Agostin làm một chiếc cáng khá chắc chắn, buộc vào hai chú la. Mọi người nhẹ nhàng đặt Lavarède nằm trên cáng. Sau đó chàng được bè bạn "tháp tùng" đưa về phía bờ biển. Bờ biển cách đó cũng khá xa, phải mất vài giờ mới tới nơi. Aurett bé bỏng tội nghiệp không rời người bệnh nửa bước. Khi người ta để Lavarède nằm trên chiếc xà lan, được buộc vào thuyền của Ra-mon kéo đi, nàng lấy đùi mình làm gối nâng đầu chàng lên, hai dòng nước mắt cứ chảy dài trên má. Tuy thấy vậy song ngài Murlyton cũng không phản đối gì. Lavarède hoàn toàn bất tỉnh, hơi thở của chàng rất yếu ớt. Cuộc sống của chàng như thể một ngọn đèn trước gió, có thể bị tắt bất kỳ lúc nào. Chuyến đi kéo dài sáu ngày và thật may mắn không có tai ương gì xảy ra suốt dọc đường. Cuối cùng, những người bạn của chúng ta đã tới Colon. Chỉ đến ngày thứ ba, Lavarède mới mở mắt. Chàng không ý thức được tình trạng hiện tại của mình. Vậy là chàng đã được cứu sống, song các cơn mê sảng bắt đầu hành hạ chàng. Chàng cũng chẳng thể ý thức được mình đã được đưa tới khách sạn Isthmus - chính là khách sạn mà cách đây hai tháng, chàng đã từng hẹn ngài Murlyton và Aurett tại đó. Aurett thì thầm: - Biết bao công sức, vượt qua biết bao khó khăn, cuối cùng tất cả đều đổ xuống sông, xuống biển. Chỉ tại tôi mà ngài Armand mất hàng tuần lễ vẫn giậm chân tại chỗ. Người đàn ông người Anh không ngần ngại tốn kém mời các bác sĩ phẫu thuật, y tá giỏi, tiền phòng khách sạn ông cũng lo hết, chẳng thiếu gì, ông còn thuê riêng một người chuyên chăm sóc chàng..ạng nói: - Cha thực lòng đối xử với cậu ấy như người thân trong nhà, trước hết là bởi lòng nhân đạo, sau nữa và cũng là lý do chính vì Lavarède là người bạn đồng hành của chúng ta... Song trong thâm tâm, Aurett còn muốn làm nhiều điều cho chàng hơn nữa. - Vết thương này không chỉ nguy hiểm đến tính mạng của Lavarède mà còn cả đến tương lai của chàng, giá như chúng ta có thể giúp đỡ chàng. - ý con định nói gì? - Chàng đã mất đi cơ hội được hưởng bốn triệu quan của ông bác họ Richard do phải mất nhiều tuần mới lành bệnh, hơn thế nữa giờ chàng lại trở lại Colon, cứ quanh quẩn mãi tại vùng eo biển này kể từ khi từ châu Âu tới. - Con gái của cha, âu cũng là rủi ro không thể tránh khỏi trong suốt một chuyến đi dài ngày như vậy. - Nhưng chàng đã đổ máu vì con, chàng đã không màng đến sự sống của mình để bảo vệ con. - Cũng như con, quả thực cha thấy cậu ta là một người rất nhiệt thành và dũng cảm, nhưng cha có thể làm gì hơn được nữa đây...? - Những gì chúng ta làm vẫn chưa đủ. Chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận hỗ trợ chàng. Chúng ta chẳng những không cản trở bước tiến của chàng mà còn phải giúp đỡ chàng chiến thắng. Chính vì vậy không chỉ riêng gì con mà cả cha nữa sẽ giúp chàng chiến thắng về đích dù có bị bất tỉnh. - Điều đó có nghĩa gì? - Mục đích của chàng là bằng đường bộ để tới San Francisco. Song đường bộ bây giờ đã bị chặn, chỉ còn lại đường biển. Con được biết trong hai ngày nữa tàu Alaska sẽ đi từ Panama đến San Francisco. Chúng ta sẽ có bổn phận, ít nhất cũng để tỏ lòng biết ơn chàng, đưa người cứu sống con lên thuyền. Chuyến đi mất khoảng mười ba, mười bốn ngày. Trong thời gian trên thuyền, chúng ta sẽ tiếp tục chăm sóc và điều trị cho chàng. Chàng sẽ sớm lành bệnh và... Tiểu thư Aurett nói năng hết sức từ tốn và dịu dàng. Murlyton dần dần nhượng bộ theo những gì cô con gái trình bày, cứ như thể nàng đã sắp xếp rất kỹ lưỡng mọi chuyện. Ông thở dài: - Aurett bé bỏng của cha, cha thấy lại ở con những phẩm chất rất thực tế điển hình của người Anh chúng ta. Con đã sắp xếp trù liệu tất cả mọi thứ... Vậy con cứ làm theo cách của con và Chúa sẽ chỉ đường cho chúng ta. Kế hoạch của Aurett được nhanh chóng triển khai. Mọi việc sẽ diễn ra theo chiều hướng tốt hay ít nhất tránh được tối đa các rủi ro nếu như.lão Bouvreuil bỉ ổi không chõ mũi vào. Vì cũng đang dừng chân tại Colon, lão đã đánh hơi được những không may của người lão gọi là "con rể" gặp phải. Một hôm, lão đến gặp Aurett và nói với nàng: - Tôi có cảm giác Lavarède đã khỏe hơn nhiều vì tôi thấy cậu ta sắp rời khách sạn. Nàng vờ ngây thơ trả lời: - Trái lại, khí hậu của vùng đất sình lầy này làm chàng ốm thêm và theo yêu cầu của các bác sĩ, chúng tôi sẽ đưa Lavarède tới một ngôi làng ở vùng cao Cordillère. ở đó không khí trong lành sẽ có lợi hơn cho sức khỏe của chàng... Vô cùng sửng sốt, Bouvreuil vội tìm cách báo tin cho José, đồng minh của lão. Trong khi đó, Lavarède được Murlyton và tiểu thư Aurett đưa lên tàu. Nhờ không khí mặn mòi, dịu mát của biển kết hợp với sự chăm sóc dịu dàng của Aurett bé bỏng, Lavarède nhanh chóng bình phục theo từng ngày. Ngay khi tỉnh lại, chàng hỏi làm thế nào mà chàng lại có mặt ở đây, trên con tàu của Mỹ đang hướng về "Frisco" theo như mọi người bàn tán ở phía dưới kia. Tiểu thư Aurett đành thú thực toàn bộ mọi chuyện. Nghe xong, Lavarède vô cùng cảm động. Rồi chàng cũng ngồi dậy được. Bác sĩ trên tàu cho phép cũng như ra lệnh cho chàng tập đi song phải tránh vận động quá sức. Ban ngày, ngài Murlyton dìu chàng đi dạo dưới bóng râm; tối đến, tiểu thư Aurett trò chuyện hay đọc sách báo cho chàng nghe. Trong một bài báo, nàng đọc thấy tin một du khách người Pháp đã trúng cử tổng thống nước cộng hòa Costa-Rica. Lavarède bụm miệng cười. Chàng nói: - Đó sẽ là một kỷ niệm đẹp khó quên trong chuyến đi này của tôi... Rồi cũng đến ngày tàu Alaska vượt qua "Cổng Vàng". Nó tiến thẳng vào giữa các thuyền bè đến từ tất cả các quốc gia nằm san sát trên bến cảng San Francisco, và tới thả neo cách North Pier khoảng hai trăm mét. Mười lăm phút sau, Lavarède và những người bạn đồng hành đã có mặt trên bến cảng..