Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Tiểu Thuyết >> Em ở đâu?

  Cùng một tác giả


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 18026 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Em ở đâu?
Marc Levy

Chương 2 (C)

Ông đã nhận ra chiếc xe tải ngay khi nó vừa tiến đến gần những khúc cua đầu tiên ở dưới thung lũng. Ông nhất định bỏ mọi công việc, ngồi xuống một tảng đá và không một giây rời mắt khỏi chiếc xe trong suốt cuộc hành trình chầm chậm leo núi kéo dài năm tiếng đồng hồ của nó. Rolando đã chờ đợi trong suốt mười ba tuần. Ông không ngừng tự hỏi không biết cô bé có còn sống, không biết con chim đang bay cao trên trời đang muốn báo điềm dữ, rằng cô bé đã không qua khỏi được, hay muốn báo điềm lành, rằng cần phải hi vọng. Và ngày càng nhiều ngày trôi qua, ông càng biến những điều đơn giản nhất xung quanh thành những điềm báo, thấp thỏm sống với cái trò chơi ngoài tầm kiểm soát, tùy vào tâm trạng của ông lúc ấy như thế nào mà những dấu hiệu trở thành điềm dữ hay điềm lành.

 

Mỗi lần đến một khúc quanh, Susan lại bấm còi ba lần, chiếc xe gióng lên ba tiếng khàn khàn. Đối với Rolando, đó là một dấu hiệu tốt, một tiếng còi dài có thể là dấu hiệu báo điều tệ nhất, nhưng ba tiếng ngắn, có lẽ đó là một tin tốt lành. Bằng một cử chỉ rất gọn, ông cho trượt bao thuốc Paladines màu hung nhạt ra khỏi tay áo. Loại thuốc này đăt đỏ hơn nhiều so với những điếu Dorados ông hút trong ngày. Mỗi ngày ông chỉ hút một điếu duy nhất từ bao thuốc này ra để hút sau bữa tối. Ông đưa điếu thuốc lên môi và bật một que diêm. Hít một hơi thật sâu, ông lấp đầy phổi mình cái không khí ẩm ướt thơm mùi đất và mùi của rừng thông. Đầu thuốc đỏ rực lên trong tiếng kêu lách tách của sợi thuốc lá cháy. Chiều nay, cả gói thuốc lần lượt bị đốt hết. Cần phải kiên nhẫn, họ sẽ leo được lên đến đỉnh đèo vào cuối giờ chiều.

 

Tất cả các campesino(1) đã tập hợp lại đứng dọc hai bên lề đường dẫn vào thôn. Lần này, không ai dám leo lên bậc lên xuống của xe. Susan cho xe chạy chậm lại và dân làng lại đứng túm tụm quanh chiếc xe. Cô tắt máy và bước xuống, quay đầu từ trái qua phải, hãnh diện đáp lại mỗi ánh mắt đang nhìn mình. Juan đứng phía sau cô, lấy chân di di lên nền đất, cố gắng lấy vẻ bình tĩnh. Rolando đến đứng trước mặt cậu. Ông ném mẩu thuốc lá xuống đất.


Susan hít một hơi thật sâu rồi bắt đầu đi vòng ra sau chiếc Dodge. Đám đông đưa mắt nhìn theo cô. Rolando tiến đến gần. Gương mặt ông không để lộ một chút cảm xúc. Bằng một động tác nhanh gọn, cô nâng tấm bạt lên, và ngay lập tức Juan giúp cô hạ tấm cửa chắn xuống, để lộ ra cô bé mà Susan đưa trở lại về làng. Cô bé chỉ còn một bên chân, nhưng cô bé dang rộng hai cánh tay về phía người đã cứu mạng mình. Rolando leo lên thùng xe và nâng bổng cô bé lên.Ông thì thầm vài tiếng vào tai cô bé, làm em mỉm cười. Khi bước xuống xe, ông đặt cô bé xuống đất, quỳ xuống ngang tầm vai em để đỡ em đứng thẳng. Vài giây im lặng, rồi tất cả những người đàn ông có mặt ở đó tung cao mũ lên trời và hét lên những tiếng reo vang dội rừng núi. Susan ngại ngùng cúi đầu để không ai nhìn vào cô trong khoảnh khắc này, khi mà cô cảm thấy mình vô cùng yếu đuối. Juan nắm lấy cổ tay cô. “Để kệ tôi” cô nói. Cậu siết chặt tay cô: “thay mặt họ cảm ơn cô.” Trong khi đó, Rolando đã trao lại bé gái cho một người phụ nữ rồi bước đến gần bên cô. Ông đưa tay về phía gương mặt cô, nâng cằm cô lên và quay sang hỏi Juan với một vẻ uy quyền:

- Tên của cô ấy là gì?

Juan nhìn chăm chăm vào người đàn ông có vóc dáng lừng lững và đợi vài giây trước khi trả lời.

- Dưới kia, trong thung lũng, người ta gọi cô ấy là Senora Blanca.

Rolando tiến thêm một bước đầy thân thiện về phía cô, ông đặt đôi bàn tay to bè lên vai cô. Những nếp nhăn hằn sâu quanh mắt ông nheo lại, miệng ông rộng mở trong một nụ cười phóng khoáng, để lộ một phần hàm răng.

- Dona Blanca(2)! ông thốt lên. Rolando Alvarez đã gọi cô như thế.

Người nông dân nắm tay dẫn Juan đi trên con đường mòn rải đá dẫn vào làng, tối nay, họ sẽ cùng nhau uống rượu guado.

Những ngày đầu tiên của tháng Giêng năm 1976 nối tiếp đến Giáng Sinh thứ hai họ ở xa nhau. Susan vẫn làm việc không ngừng nghỉ trong suốt những ngày lễ. Philip cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết, anh viết cho cô liền năm lá thư trong mấy ngày, từ lễ Tạ Ơn đến đêm đầu năm mới.

 

Trong đêm mùng 4 tháng hai, một cơn địa chấn khủng khiếp đã làm rung chuyển mặt đất ở Guatemala, cướp đi sinh mạng của hai mươi lăm nghìn người. Susan đã làm tất cả những gì để tới cứu trợ người dân ở đó, nhưng những bánh xe của guồng máy hành chính không chịu vận hành theo đúng chiều của nó, và cô đành chịu bó tay. Ngày 24 tháng Ba, tại Ác-hen-ti-na, chính phủ Peron bị lật đổ, tướng Jorge Rafel Videla vừa ra lệnh bắt Isabel Peron (3); một hi vọng khác đang tắt đi tại phần đất này của thế giới. Tại Holywood, giải Oscar được trao cho Jack Nicholson. Ngày 4 tháng Bảy, cả nước Mỹ hoan hỉ ăn mừng hai trăm năm độc lập. Vài ngày sau, cách đó hàng trăm ngàn cây số, một chiếc vệ tinh Viking đáp xuống sao Hỏa và gửi về trái đất những hình ảnh đầu tiên chụp hành tinh màu đỏ mà trái đất lần đầu khám phá. Ngày 28 tháng Bảy, một trận động đất khác vượt qua ngưỡng báo động số tám theo thang đọ Richter. Đúng 3 giờ 45 phút, thành phố Đường Sơn của Trung Quốc bị xóa tên khỏi bản đồ trái đất, chỉ vài phút trước, thế mà một triệu sáu trăm nghìn người dân đã từng sống bình yên tại đó. Cũng vào đêm đó, bốn mươi nghìn thợ mỏ đã bị chôn vùi dưới đáy một khu mỏ ở phía nam thành phố Bắc Kinh. Trong đống đổ nát ngổn nganh của thành phố lớn này, sáu triệu người trong phút chốc trở thành người vô gia cư, phải sống trong những lán trại tạm bợ dưới trời mưa như trút nước. Đất nước Trung Quốc để tang bảy trăm năm mươi nghìn người thiệt mạng. Ngày mai, máy bay của Susan sẽ hạ cánh xuống Newark.

 

Hôm nay anh rời khỏi hãng sớm hơn mọi khi. Trên đường về, đầu tiên, anh dừng lại để chọn một bó hoa hồng đỏ và hoa ly trắng, những loài hoa yêu thích nhất của Susan. Anh dừng lại lần thứ hai ở tiệm tạp hóa nơi góc phố. Anh mua một tấm khăn trải bàn bằng vải để chuẩn bị cho một bữa ăn tối thịnh soạn, sáu chai coca-cola nhỏ, bởi vì cô không thích những chai loại lớn, và thật nhiều túi kẹo các loại, nhất là những túi kẹo nhân dâu chua ngọt mà cô luôn ăn một cách thích thú. Hai tay xách nặng, anh leo lên những bậc thang của chung cư. Anh đẩy bàn làm việc ra giữa phòng khách và bày bàn ăn, kiểm đi kiểm lại để chắc chắn là những chiếc đĩa được đặt ngay ngắn đối diện nhau, bộ dao nĩa bày thật cân đối và những chiếc ly thật thẳng hàng. Anh dốc sạch những chiếc kẹo vào chiếc tô dùng để ăn sáng và đặt nó lên bậu cửa. Suốt một tiếng đồng hồ sau đó anh tập trung vào việc cắt tỉa những cành hoa và cắm vào hai lọ. Lọ hoa hồng đỏ anh đặt trong phòng ngủ, trên chiếc bàn phía tay phải đầu giường. Sau đó, anh thay ga trải giường. Anh đặt thêm một chiếc cốc súc miệng lên trên kệ trong chiếc phòng tắm nhỏ xíu của căn hộ. Các vòi nước, bồn rửa mặt và bồn tắm anh đã cọ rửa thật kĩ. Đêm đã về khuya khi anh bắt đầu đi rảo một vòng khắp căn hộ để kiểm tả tất cả, và vì mọi thứ có vẻ hơi gọn gàng, sạch sẽ quá mức, anh lại loay hoay bố trí lại một vài thứ đồ vật để khung cảnh có vẻ tự nhiên sống động hơn. Sau khi nhấm nháp hết một gói khoai tây chiên ngay bên chiếc sọt rác đựng giấy vụn trong phòng, anh rửa rat rửa mặt ngay tại bồn rửa chén trong bếp và ngả lưng xuống chiếc ghế nệm. Giấc ngủ chẳng buồn đến, cứ mỗi tiếng đồng hồ anh lại mở mắt thức dậy. Khi trời sang, anh mặc quần áo và ra khỏi nhà đón xe buýt để đên sân bay Newark.

 

Mới có 9 giờ sáng, chiếc phi cơ từ Miami sẽ hạ cánh trong hai giờ nữa. Hi vọng là cô chọn chuyến bay đầu tiên này, anh đã đến sớm, “xí trước” bàn của mình bằng cách gập lưng ghế lại và ra ngồi ở quầy bar, cố gắng bắt chuyện với anh phục vụ quầy để quên đi phần nào sự sốt ruột vì chờ đợi của mình. Anh này không giống với những người tiếp tân mặc chế phục màu đen hay trắng trong các khách sạn lớn, vốn có thói quen lắng nghe tâm sự của khách hàng, anh ta vừa làm vừa nghe Philip nói chuyện một cách lơ đãng. Trong khoảng từ 10 đến 11 giờ, anh đã lưỡng lự đến cả trăm lần, muốn ra cửa sân bay để đợi cô, nhưng cuộc hẹn mà cô dành cho anh là ở đây, tại chiếc bàn này. Chi tiết này hoàn toàn đúng với con người Susan, như một minh họa tuyệt vời cho những điều mâu thuẫn ở cô, cô căm ghét những tình huống cường điệu hóa nhưng lại tôn vinh những điều mang tính biểu tượng. Khi chiếc Super Continental của hãng Eastern Airlines bắt đầu bay thấp xuống phía trên khu đường băng, con tim của Philip bắt đầu đập nhanh hơn và miệng anh khô lại. Nhưng ngay khi chiếc máy bay dừng hẳn, anh đã biết là cô không ở trên chuyến máy bay này. Ngồi dán vào cửa kính, anh có thể nhìn thấy các hành khách lần lượt rời khỏi khoang máy bay, anh nhìn theo những con người đang đi theo đường kẻ màu vàng trên mặt đất để đến cửa ra. Chắc hẳn là cô sẽ đến vào chuyến bay cuối giờ chiều, “như thế mới hợp lí”. Vậy là để giải khuây trong một thời gian dài chờ đợi, anh bắt đầu ngồi vẽ. Một giờ đồng hồ trôi qua; sau khi phác thảo chân dung của bảy người khách vào quán rồi lại đi, trên những tờ giấy sọc khổ lớn, anh cuộn cuốn tập vẽ của mình lại và tiến đến gần anh phục vụ quầy bar để hỏi:

- Có thể anh sẽ thấy tôi kì cục, nhưng tôi đợi một người chắc đã lên máy bay ở Miami sáng nay, chuyến kế tiếp mãi đến 19 giờ mới tới nơi, tôi còn phải giết thời gian trong hơn sáu tiếng nữa mà tôi thì chẳng có trò gì để làm.

Người phục vụ nhìn anh vẻ dò hỏi, anh ta tiếp tục điềm nhiên lau khô ly chén và xếp chúng lên chiếc kệ phía sau lưng. Philip tiếp tục cuộc độc thoại của mình:

- Đôi khi một giờ đồng hồ thật dài! Có những ngày thời gian trôi qua nhanh đến nỗi ta chẳng thể có lúc để làm hết mọi thứ muốn làm, và có những ngày khác, như hôm nay, ta không ngừng nhìn đồng hồ và cứ tưởng như nó đã bị chết gí một chỗ. Tôi có thể giúp anh lau khô các ly chén được không, hay là làm việc gì khác tôi cũng không biết nữa, đến các bàn ghi các món mà khách hàng gọi chẳng hạn, chỉ cốt sao để tôi có thể giết thời gian thôi? Tôi đang quay vòng vòng không biết làm gì đây!

 

Anh phục vụ vừa xếp xong chiếc ly cuối cùng lên giá. Anh ta đưa mắt nhìn một vòng quanh quán bar vắng khách, và với một giọng uể oải, anh ta hỏi Philip có muốn uống thêm gì nữa không, đồng thời, đẩy về phía anh môt cuốn best-seller mà anh ta lấy lên từ phía dưới quầy. Philip nhìn vào tựa sách: “Will you please be quiet…please(4)”! Anh cảm ơn người phục vụ và quay trở về chỗ ngồi của mình. Vào giờ ăn trưa, quán đầy chật khách, anh tự ép mình gọi một món, để làm cho người phục vụ hài lòng hơn là để cho cái dạ dày không hề thấy đói của mình. Anh nhấm nháp chiếc sandwich và tiếp tục đọc tập truyện ngắn của Raymond Carver. Lúc 14 giờ, khi cô gái phục vụ vừa vào ca làm việc đến rót đầy vào ly của anh ly cà phê thứ mấy anh cũng không nhớ nữa, anh gọi một phần bánh ga tô sôcôla mà sau đó cũng không hề động đến, anh vẫn đang đọc mãi truyện ngắn thứ nhất. Lúc 15 giờ, anh nhận ra mình đang đọc đi đọc lại một trang suốt mười phút qua, và đến 15 giờ 30, rằng mình vẫn đọc mãi một dòng; anh gấp cuốn sách lại và thở dài.

 

Ngồi trong chiếc Boeing bay từ Miami đến Newark, Susan nhắm mắt thầm đếm trong đầu những ngọn đèn màu cam treo phía trên quầy bar, nhớ lại cái sàn bằng gỗ đánh verni, cánh cửa quán với cái ô cửa tròn to rộng hơn hẳn cái ô cửa trong khoang máy bay mà cô đang tựa đầu.

 

Khoảng 16 giờ, quay trở lại trên chiếc ghế đẩu cạnh quầy bar, anh lau khô những chiếc ly vừa được rửa, vừa lau vừa nghe anh phục vụ quầy mới, thay cho người ban sáng, kể lại một vài giai đoạn của cuộc đời đầy sóng gió của anh ta. Philip bị thu hút bởi thứ trọng âm Tây Ban Nha của anh này, anh liên tục hỏi về nguồn gốc xuất xứ của anh ta, anh ta cứ phải nhắc đi nhắc lại rằng mình là người gốc Mê-hi-cô và chưa từng tới Honduras. Vào 17 giờ, quán bar đông khách trở lại, anh quay về chiếc bàn của mình. Một bà cụ lưng còng bước vào khi tất cả các bàn đã có người ngồi và chẳng có ai để ý đến bà. Anh lấy cuốn tập vẽ để trước mặt để không phải bắt gặp ánh mắt của bà cụ. , chỉ trong một vài giây, thời gian đủ để anh cảm thấy một cảm giác tội lỗi. Anh bày đồ ra quanh bàn, một lần nữa gấp vai tựa ghế ngồi của mình lại, đứng lên và đi ra phía quầy nơi bà cụ đang phải đứng một cách tội nghiệp. Bà cụ cảm ơn và đi theo anh, nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế còn trống mà anh dành cho bà.

 

Quá bồn chồn, không thể ngồi yên một chỗ, Philip dặn đi dặn lại để bà giữ chỗ rồi tự đi ra quầy để lấy đồ uống. Mười lăm phút tiếp theo đó, bà cụ tìm cách bắt chuyện thăm hỏi anh vài câu. Khi bà cụ cố tình gợi chuyện đến lần thứ hai, một cách lễ phép nhưng dứt khoát, anh mời bà uống nước và giữ im lặng. Ba mươi phút dài vô tận cuối cùng cũng chấm dứt, cuối cùng cũng đứng dậy! Bà chào anh, anh nhìn theo bà chầm chậm bước ra phía cửa.

 

Tiếng động cơ inh tai ngay phía trên đầu bất chợt bứt anh ra khỏi những suy nghĩ triền miên. Anh gần như cúi hẳn đầu xuống khi chiếc phi cơ DC3 lượn qua trên mái nhà, bay một vòng qua khu vực sân bay. Người cơ trưởng cho chiếc máy bay nghiêng sang phải, tiếp tục vòng lượn chuẩn bị hạ cánh, bay song song phía trên đường băng. Đăng xa, chiếc máy bay hai động cơ lại nghiêng mình một lần nữa, lần này nó nhắm thẳng hướng vuông góc với mặt đất, và gần như ngay lập tức, nó bắt đầu hạ cánh. Những bánh xe to nặng nhô ra phía dưới động cơ, dàn đèn gắn trên hai cánh máy bay phía trước nhấp nháy. Vài giây sau, cái mũi to tròn của máy bay hơi ngả về phía sau, chiếc bánh xe ở đuôi máy bay vừa chạm mặt đất. Dần dần, người ta đã có thể nhìn thấy rõ những cánh quạt đang quay của máy bay. Đến ngang tầm khu nhà ga sân bay, chiếc DC3 quay đầu, tiến về phía bãi đậu nằm ngay dưới chân quán bar. Máy bay của Susan vừa đỗ lại. Philip ra hiệu cho người phục vụ để anh ta đến lau sạch bàn, xếp lại lọ muối, lọ tiêu và hũ đường cho ngay ngắn. Khi những hành khách đầu tiên bước xuống thang máy bay, anh bống thấy lo lỡ linh tính của mình mách bảo sai.

 

Cô mặc trên người một chiếc sơ-mi con trai, hai vạt dài phủ xuống hai bên chiếc quần jean bạc màu. Cô gầy đi một chút nhưng nhìn có vẻ hoàn toàn khỏe mạnh, đôi gò má vốn nhô cao của cô rướn lên vài centimet khi cô nhìn thấy anh ngồi trên tầng lầu, phía bên kia cửa kính. Anh phải gồng người lên, cố gắng làm cái điều không thể này: tôn trọng ý muốn của cô và ngồi yên tại bàn. Ngay khi cô bước vào khu nhà ga, biến mất khỏi tầm mắt của anh trong một lúc, anh quay người lại và gọi một ly hai viên kem vani phủ sô-cô-la nóng trên rắc những lát hạnh nhân, trên cùng rưới một lớp caremen lỏng.

 

Vài giây sau, cô dán mắt vào chiếc cửa sổ mắt bò bằng kính và nhăn mặt làm hiệu với anh. Anh đứng lên ngay khi cô xuất hiện ở ngưỡng cửa quán bar. Cô mỉm cười khi nhận ra anh đã ngồi đúng chiếc bàn ngày trước. Trong một cuộc đời mà cô đã mất đi gần hết những chỗ dựa để có thể bám víu, cái góc nhỏ bé quen thuộc nằm trong góc của cái phi trường xa lạ này đã trở thành một điều gì đó quan trọng đối với cô. Cô đã tự thú nhận với chính mình điều đó trước khi bước xuống từ chiếc máy bay nhỏ của bưu điện đã đưa cô từ Puerto Cortes đến Tegucigalpa.

 

Khi cô đẩy cánh cửa bước vào, anh đã cố hết sức để ép mình không chạy về phía cô, cô sẽ rất ghét nếu anh làm thế; bây giờ, cô đang cố tình bước chậm rãi. Đến hàng ghế thứ ba, cô buông chiếc túi sách thành phố kềnh xuống đất, bắt đầu chạy lại để nhào vào vòng tay anh. Cô tựa đầu lên bờ vai anh, hít thở mùi hương tỏa ra từ gáy anh. Anh đưa hai bàn tay nâng lấy mặt cô để nhìn vào mắt cô. Họ im lặng một lúc lâu. Người phục vụ ho khẽ mấy tiếng phía sau và hỏi Philip vẻ nghịch ngợm: “Ông có muốn tôi thêm một chút kem chantilly lên trên không?”

 

Cuối cùng họ cũng ngồi xuống bàn, cô ngắm nhìn ly kem, thọc ngón tay trỏ vào ly rồi đưa lên miệng mút lớp caramen bao quanh ngón tay.

- Anh nhớ em kinh khủng! anh nói

- Anh đời nào mà nhớ em! cô trả lời châm chọc. Cuộc sống của anh thế nào?

- Chuyện đó không quan trọng, hãy để anh ngắm anh nào.

Cô đã thay đổi, có thể những nét thay đổi nhỏ đó người khác không nhận ra, nhưng chúng không thể trốn đi đâu được dưới con mắt của Philip. Má cô hơi hóp lại và nụ cười của cô toát lên một vẻ mệt mỏi mà anh có thể cảm thấy nhưng không thể giải mã được. Như thể mỗi bi kịch mà cô từng chứng kiến đã in hằn lên da thịt cô, vẽ lên những đường lằn của vết thương mà từ đó quặn lên tình yêu thương đồng loại đan xen với tâm trạng rối bời.

- Tại sao anh lại nhìn em như thế,Philip?

- Bởi vì em khiến anh rất ấn tượng.

Susan bật cười vang, tiếng cười lan đi khắp quán bar, khiến cho hai khách hàng đang ngồi ở một chiếc bàn gần đó quay lại nhìn. Cô đưa tay lên che miệng.

- Ui, em xin lỗi!

- không, em đừng xin lỗi, em trông thật tuyệt vời khi cười, ở đó thỉnh thoảng em có cười như vậy không?

- Anh biết không, điều khó tin nhất, đó là nơi với anh có vẻ như tận cùng thế giới, thật ra nó lại ở rất gần. Nhưng thôi, kể cho em nghe về anh, về New York đi.

 

Anh hạnh phúc khi được sống tại Manhattan.Anh được nhận vào một hãng quảng cáo ,họ đã giao cho anh làm một story-board.Các bức vẽ của anh khiến hãng hài lòng,anh bắt đầu chuyển sang một dự án khác.Với công việc này anh không kiếm được nhiều tiền lắm,nhưng anh đã làm được điều gì đó cụ thể. Khi cô hỏi anh có hài lòng với cuộc sống của mình không, anh trả lời bằng một cái nhún vai. Anh muốn biết còn cô, cô có hài lòng với kinh nghiệm đã trải qua không, cô có tìm được điều cô đang tìm kiếm không. Cô lảng tránh câu hỏi của anh và tiếp tục đặt câu hỏi cho anh. Cô muốn biết tin về bố mẹ anh. Họ đang dự đính bán ngôi nhà ở Montclair và chuyển đến sống ở khu bờ Tây. Philip gần như không gặp họ suốt một năm qua, trừ vào dịp lễ Tạ Ơn. Về nhà đêm nằm ngủ trong căn phòng của mình, anh có một cảm giác không mấy dễ chịu, anh cảm giác như mình đang xa dần bố mẹ, và lần đầu tiên trong đời anh thấy họ già đi, như thể khoảng cách đã cắt đứt sợi dây thời gian, và chia cuộc đời ra thành những hình ảnh tách biệt nối tiếp nhau,trên đó những khuôn mặt biến đổi từ một sự kiện này sang một sự kiện khác,tất cả được vẽ trên một tờ giấy nhuốm màu nâu ánh vàng. Anh phá vỡ sự yên lặng.

- Khi người ta sống bên cạnh người thân,người ta không thật sự nhận ra rằng họ đang dần thay đổi,và chính vì thế mà cuối cùng ta đánh mất họ.

- Đó cũng chính là điều mà em vẫn luôn nói với anh,anh ngốc của em,sống chung hai nguời rất nguy hiểm,cô nói.Anh có thấy em mập ra không?

- Không,ngược lại thì có, sao vậy?

- Vì cái điều anh vừa nói đó. ANh thấy em thay đổi àh?

- Em có vẻ rất mệt, Susan, chỉ có vậy thôi.

- Vậy là em đã thay đổi!

- Em bắt đầu lo lắng về hình thức của mình từ khi nào vây?

- Mỗi khi em gặp anh.

Cô dõi mắt nhìn theo những lát hạnh nhân chìm vào trong lớp sô-cô-la đang tan ra và chảy xuống đáy ly.

- Em muốn ăn một món gì đó nóng sốt.

- Em sao vậy, Susan?

- Chắc sáng nay em đã quên không uống mấy viên thuốc gây cười của em!

Cô làm anh giận. Cô bắt đầu ân hận về câu nói đùa của mình,nhưng cô nghĩ rằng quan hệ của họ thân thiết đến mức cô có thể thoải mái xử sự thế nào cũng được, như ý cô thích.

- Ít nhất em cũng có thể cố gắng một chút được chứ?

- Anh đang nói về chuyện gì vậy?

- Để làm cho anh tin rằng em được hạnh phúc khi gặp anh.

Cô đưa một ngón tay vuốt lên má của anh.

- Anh ngốc nghếch của em, tất nhiên là em hạnh phúc chứ, thái độ vừa rồi không liên quan gì đến anh!

- Vậy thì đến cái gì?

- Thật khó khăn đối với em khi trở về đất nước mình. Ở đây, tất cả mọi cái đều xa vời với cuộc sống mà em đang sống. Ở đây,cái gì cũng có, tất cả đều đầy đủ, còn ở đó, mọi thứ đều thiếu thốn.

- Cái chân gãy của cô hàng xóm cũng không làm cho mắt cá chân bị bong gân của em bớt đau đi đâu. Nếu em không thể tương đối hoá mọi thứ nữa, hãy cố gắng để sống ích kỉ hơn một chút, điều đó sẽ làm cho em trở thành một người hay hơn đấy.

- Oao, anh trở thành một triết gia rồi đấy, anh ngốc của em.

Philip đột ngột đứng dậy và bước về phía cửa. Anh ra ngoài hành lang rồi lại quay trở lại ngay, bước nhanh đến bên cô.Anh nghiêng người và hôn vào cổ cô.

- Chào em, anh thật hạnh phúc vì được gặp em.

- Em có thể hỏi anh đang chơi trò gì không?

- ANh hoàn toàn không chơi đùa gì cả! Anh đã chờ em suốt hai năm nay, tay anh đã chai cả đi vì viết thư cho em, bởi vì đó là cách duy nhất anh có thể chia sẻ với em một chút những điều tối thiểu nhất trong cuộc sống của em, anh thấy rằng cuộc hội ngộ của chúng ta hôm nay đang bắt đầu khác so với những gì anh hình dung trong tâm trí, vì vậy anh muốn làm lại tất cả từ đầu!

Cô nhìn chăm chú vào mặt anh trong vài giây rồi phá lên cười.

- Anh vẫn ngố như ngày xưa, anh ngốc của em, em cũng nhớ anh nhiều lắm!

- Thế bây giờ em kể chuyện của em cho anh nghe chứ?

- Không anh trước, kể cho em nghe cuộc sống của anh ở đây, ở New York, em muốn biết tất cả.

- Món gì nong nóng đây?

- Anh đang nói chuyện gì vậy?

- Lúc nãy em nói em muốn ăn một món gì nóng, em muốn ăn gì?

- Nhưng đó là lúc nãy. Kem là một ý tưởng rất dễ thương.

Cả hai đều nhận thấy một cảm giác rất lạ mà họ không dám thú nhận, không muốn đề cập đến.Thời gian đã tạo ra những cột mốc trong cuộc đời của họ, với những cung bậc thăng trầm khác nhau, với những bưóc đi không còn chung nhịp điệu. Nhưng tình cảm gắn liền họ với nhau vẫn còn nguyên vẹn không hề thay đổi, chỉ có điều họ không tìm được từ ngữ để diễn đạt. Cũng có thể mối quan hệ sâu sắc và chân thành giữa hai người đã chịu đựng quá nhiều xa cách, một sự xa cách không chỉ diễn đạt bằng con số kilomet.

- Vậy em ăn kem nhanh lên rồi chúng ta đi thôi, anh có một điều bất ngờ cho em.

Cô đưa mắt nhìn xuống và im lặng trong một khoảnh khắc, một vài giây trước khi ngẩng đầu lại để nhìn anh.

- Em không có thời gian đâu... Em muốn nói là em sẽ không ở lại, em đã đồng ý ra hạn hợp đồng của mình, ở đó họ thực sự cần em, anh biết đấy. Em rất tiếc, Philip.

Anh cảm thấy như đất đang sụp xuống dưới chân mình, một cảm giác chóng mặt kì lạ xâm chiếm khiến cho người ta càng trở nên khuyết thiếu hơn khi ta muốn mình hiện hữu thật nhiều.

- Đừng làm mặt như vậy với em, em xin anh đấy.

Cô đặt bàn tay lên tay anh, và ngay lập tức Philip đưa mắt nhìn đi nơi khác để giấu không cho cô thấy nỗi buồn và cảm giác rối bời đang biểu hiện trong đôi mắt anh. Một cảm giác cô đơn bóp nghẹt trái tim anh. Anh đưa ngón tay cái vuốt ve mu bàn tay Susan, làn da cô đã mất đi sự mềm mại ngày nào, những nếp nhăn nhỏ bắt đầu xuất hiện, anh tránh không để ý đến những nếp nhăn ấy.

- Em biết, điều đó rất khó. Không thể giữ nguyên bàn tay mềm mại của cô gái trẻ ngày xưa, anh đã thấy móng tay của em rồi đấy, đó là em còn chưa nói đến đôi chân của mình. Anh muốn đưa em đi xem gì thế?

Anh định đưa cô đến và chỉ cho cô xem căn hộ nhỏ ở Manhattan của mình, nhưng không sao, nhất định là lần sau. Anh chăm chú nhìn vào mắt cô, cô đưa mắt nhìn đi chỗ khác. Cô nhìn chăm chú vào chiếc đồng hồ của mình.

- Em ở lại bao lâu?

- Hai giờ.

- Hả!

- Em biết, nhưng anh không thể tưởng tượng được em đã fải khó khăn nói dối mọi người như thế nào để trốn khỏi đó và ở lại đây trong chốc lát thế này.

Cô lấy ra một bọc giấy gói màu nâu đặt lên bàn.

- Anh nhớ chuyển gói hàng này đến địa chỉ này cho em nhé, đó là văn phòng của bọn em đặt tại New York, và đó là một phần của lý do mà em bịa ra để có thể đến gặp anh.

Anh không nhìn gói hàng.

- Anh cứ tưởng là em làm việc cho một tổ chức cứu trợ nhân đạo, anh không biết là em ở trong một trại thiết quân luật.

- Vậy thì bây giờ anh biết rồi đấy!

- Kể cho anh đi nào!

Trong vòng hai năm,cô đã khẳng định được vị trí của mình. Đích thân cô được triệu tập đến Washington để giải trình về những nguồn kinh phí xin cấp, và cô phải nhanh chóng trở về mang theo những kiện thuốc men, vật dụng và lương thực được bảo quản lâu dài.

- Thậm chí em không thể đợi ở đây trong khi họ đóng gói các kiện hàng được sao?

- Em đến đây để có thể tự mình chuẩn bị các kiện hàng, đó cúng là mục đích chuyến đi của em, em phải mang về những gì bọn em thực sự cần, chứ không phải hàng tấn những thứ vớ vẩn gì mà họ gửi đến chỗ chúng em.

- Thế cụ thể là bọn em cần thứ gì?

Cô làm ra vẻ như rút ở trong túi ra một danh sách trong túi ra và đọc:

- Anh đi theo lối bên trái, còn em, em đi phía quầy đông lạnh ở cuối cửa hàng, sau đó chúng ta gặp lại nhau ở quầy tính tiền. Anh có nhớ hết những thứ cần không? Chúng ta phải mua dụng cụ học tập, ba trăm cuốn vở, chín trăm cái bút chì, sáu tấm bảng đen, một trăm hộp phấn, giáo trình học tiếng Tây Ban Nha, tất cả những gì anh thấy trên quầy hàng, chén bát bằng nhựa, khoảng sáu trăm cái đĩa, hai nghìn con dao, chừng đó nĩa ăn và gấp đôi chừng đó muỗng ăn, chín trăm cái chăn, một nghìn cái tã lót, một nghìn khăn mặt, một trăm tấm ga trải giường cho trạm xá...

- Còn anh điều anh cần là em, Susan.

- ...sáu nghìn miếng gạc, ba trăm mét chỉ khâu y khoa, thiết bị tiệt trủng, gạc phẫu thuật, panh, kẹp, kìm y khoa, pênicilin, thuốc kháng sinh phổ thông, thuốc gây mê... Thứ lỗi cho em, em không được hài hước cho lắm.

- Không sao, không tệ đến thế đâu! Ít nhất thì anh cũng có thể đi với em đến Washington chứ?

- Nơi mà em phải đến, anh không đi theo em được đâu. Anh biết không, họ sẽ không thèm cho em một phần hai mươi của những gì bọn em cần.

- Em đã bắt đầu nói "bọn em" để chỉ nơi đó?

- Em không cố ý.

- Khi nào em trở lại?

- Em không biết nữa, có thể là một năm nữa.

- Lần sau em sẽ ở lại chứ?

- Philip, đừng trầm trọng hoá mọi việc lên thế, nếu một trong hai chúng ta đi học ở trường đại học ở bờ bên kia của nước Mỹ thì cũng vậy thôi, không đúng sao?

- Không, kỳ nghỉ ở trường đại học sẽ không chỉ ngắn ngủi có hai giờ đồng hồ. Ôi, anh hơi quá, anh rất buồn và anh không thể giấu nổi em điều đó. Susan, em cố tình tìm đủ mọi lý do trên trái đất này để điều đó sẽ không xảy ra với em sao?

- Để cái gì không xảy ra với em cơ?

- Để em không phải đối diện với nguy cơ đánh mất mình khi gắn bó với một ai đó trên cõi đời. Đừng có nhìn mãi đồng hồ như vậy nữa!

- Đến lúc thay đổi đề tài rồi, Philip!

- Khi nào thì em sẽ dừng lại?

Cô rút tay lại,khẽ nheo mắt.

- Còn anh thì sao? Cô nói.

- Anh àh, em muốn anh dừng cái gì cơ?

- Cái sự nghiệp lớn lao của anh, những bức vẽ hạng trung và cuộc sống tầm thường của anh.

- Em đang trở lên cay nghiệt đấy!

- Không, em chỉ thẳng thắn hơn anh thôi, sự khác nhau chỉ là vấn đề từ ngữ.

- Anh nhớ em, Susan, chỉ thế thôi, anh không đủ sức để giấu em điều đó, nhưng em không biết rằng đôi khi anh cũng biết nổi giận.

- Có lẽ bây giờ đến lượt em là người phải đi ra khỏi quán và quay lại để bắt đầu lại cuộc gặp gỡ, em rất tiếc, em thề với anh là em không thực sự nghĩ như những điều em nói.

- Mà dù em có nghĩ, có thể là theo cách khác, thì trên thực tế cũng vẫn vậy thôi.

- Em không muốn dừng lại, không phải là bây giờ, Philip, những gì em đang sống thật khó khăn, đôi khi quá khó khăn, nhưng em có cảm giác em thật sự có ích cho ai đó.

- Chính điều đó làm cho anh cảm thấy phát ghen, chính đó là điều anh cảm thấy thật trớ trêu.

- Anh ghen vì cái gì?

- Vì anh đã không đủ sức tạo ra nguồn cảm hứng ấy trong em, vì tự nhủ rằng nỗi đau khổ của người khác là điều duy nhất thu hút em, như thể nó giúp em chạy trốn sự đau khổ của chính mình thay vì đối diện với nó.

- Anh làm em phát chán, Philip!

Anh bỗng lên giọng nói lớn, cô hơi bất ngờ, và, điều hiếm khi xảy ra, cô không thể cắt ngang lời anh dù cho những điều anh nói khiến cho cô rất khó chịu. Anh không chấp cái bài diễn văn nhân đạo của cô.


Chú thích:


(1) campesino: Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản, có nghĩa là “dân làng”
(2) Dona Blanca : Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản , có nghĩa là “bà da trắng”.
(3) Isabel Peron: Nữ tổng thống Ac hen ti na 1974-1976
(4) “Will you please be quiet…please!”: Tiếng anh trong nguyên bản: “Anh có thể làm ơn yên lặng giùm được không!”

<< Chương 2 (B) | Chương 2 (D) >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 429

Return to top