Ngày 25 tháng Chín năm 1974, trong khoang máy bay…
Philip của em,
Chắc rằng lúc nãy, em đã không giấu nổi anh nỗi sợ hãi đang cuộn lên trong lòng em. Sân bay vừa vụt biến mất sau lưng em. Em đã cảm thấy chóng mặt mãi đến khi những đám mây che lấp hoàn toàn mặt đất, bây giờ đã đỡ hơn nhiều. Em thất vọng quá, em không thấy được Mahattan, nhưng phía dưới em, bầu trời vừa lộ ra và em gần như có thể đếm được từng đầu ngọn sóng, chúng nhỏ xíu, giống như những con cừu. Thậm chí em đã dõi mắt theo một con tàu lớn đang hướng về phía anh. Ở Mahattan, anh sẽ có một thời tiết rất đẹp.
Em không biết anh có đọc được chữ em đang viết không, máy bay đang lắc rất mạnh. Cả một hành trình dài đang đợi em phía trước , em sẽ đến Miami trong sáu giờ nữa, sau khi quá cảnh ở Washington, sau đó hành khách chúng em sẽ đổi phi cơ để bay đến Tegucigalpa (1). Chỉ riêng cái tên thành phố thôi đã thấy kì diệu rồi. Em đang nghĩ đến anh thật nhiều, anh chắc hẳn đang trên đường trở về nhà; hãy ôm hôn ba mẹ anh thật chặt cho em nhé, em sẽ viết cho anh, kể anh nghe về chuyến đi này, anh cũng vậy, hãy tự chăm sóc cho mình, Philip của em…
* * *
Susan ,
Anh vừa về đến nhà, ba mẹ chẳng hỏi han anh câu nào, chắc chỉ nhìn thấy bộ mặt của anh ba mẹ đã đủ hiểu. Anh tự trách mình về thái độ của anh ban nãy, lẽ ra anh phải tôn trọng niềm vui và mong muốn của em được rời xa nơi này, em đã có lí, anh cũng không biết nếu em yêu cầu anh cùng đi với em, anh có đủ can đảm để ra đi không. Nhưng em đã không làm điều đó và anh nghĩ rằng như vậy lại tốt hơn. Anh không biết câu vừa rồi diễn đạt điều gì nữa. Những buổi tối sẽ rất dài khi không có em. Anh sẽ gửi lá thư đầu tiên tới văn phòng của Peace Corps ở Washington, họ sẽ chuyển tới em. Chưa gì anh đã nhớ em nhiều quá.
Philip .
* * *
…em lại lấy giấy và bút ra, có một ánh sáng thật đặc biệt, anh chưa bao giờ nhìn thấy ánh sáng nào như vậy đâu và em cũng vậy. Ở đây, phía trên những đám mây, em đang chứng kiến cảnh mặt trời lặn thực sự, nhìn từ trên cao, cảnh tượng đẹp đến khó tả, em cứ tiếc mãi là anh không có ở đây để chứng kiến những gì em đang nhìn thấy, lúc nãy em quên nói với anh một điều rất quan trọng, em nghĩ rằng em sẽ nhớ anh kinh khủng.
Susan .
* * *
Ngày 15 tháng Mười năm 1974,
Susan .
Đã ba tuần trôi qua kể từ ngày em đi, anh vẫn chưa nhận được lá thư đàu tiên của em, anh tưởng tượng nó đang đi chu du ở đâu đó, giữa anh và em. Những người thân của anh và em vẫn thường xuyên hỏi anh tin tức về em, nếu như anh vẫn không nhận được gì trong mấy ngày tới, anh sẽ phải bịa ra cái gì đó để kể…
* * *
Ngày 15 tháng Mười năm 1974,
Philip
Hành trình của em đã gặp nhiều xáo trộn. Chúng em đã bị kẹt lại trong suốt bốn ngày tại chặng quá cảnh ở Miami, phải đợi hai contener lượng thực và đợi sân bay La Ceiba, chặng dừng chân tiếp theo, mở cửa trở lại. Em định tranh thủ đi vòng quanh thăm thành phố nhưng hóa ra chỉ là mơ tưởng hão. Em và những thành viên khác trong đoàn phải ở lại trong một nhà kho. Mỗi ngày ba bữa ăn, hai lần tắm và ngủ trên một cái giường kiểu trại lính, những giờ học tiếng Tây Ban Nha cấp tốc và học cứu nạn, tất cả giống như cuộc sống trong quân đội, chỉ thiếu một người chỉ huy trưởng. Cuối cùng thì chiếc DC3 cũng đưa bọn em đến Tegucipalpa, từ đó một chiếc trực thăng quân đội đưa bọn em đến Ramon Villesla Morales, một sân bay nhỏ của thành phố San Pedro Sula. Thật khó tưởng tượng nổi, Philip , nhìn từ trên cao, người ta cứ tưởng thành phố này bị dội bom. Hàng cây số vuông mặt đất hoàn toàn trơ trụi, những mảng tường đổ nát, cầu gãy, những nghĩa địa tạm bợ hầu như mọc khắp nơi. Khi máy bay bay thấp, bọn em có thể nhìn thấy rõ những cánh tay nhô lên từ những đại dương bùn lầy, hàng trăm xác thú vật chết phơi bụng. Khắp nơi tràn ngập một thứ mùi hôi thối. Mặt đường bị xới bât lên, nhìn giống như những dải băng keo bị tháo bung trên những chiếc thùng cac tông nằm phanh bụng. Những gốc cây bật rễ nằm chồng chất lên nhau. Không có bất cứ thứ gì sống sót được trong những khu rừng ở Mikado này. Những triền núi hoàn toàn đổ sập, hàng loạt những ngôi làng nằm cheo leo nơi này vĩnh viễn bị gạch tên trên bản đồ. Chẳng ai đếm được hết số xác chết nhưng chắc hẳn phải là con số hàng nghìn. Ai biết được thực sự con số những xác chết bị chôn vùi? Làm sao những người may mắn thoát chết tìm lại đủ sức mạnh để sống sót qua cơn hoạn nạn này, với chừng ấy nỗi tuyệt vọng? Trên chiếc trực thăng này, chúng em chỉ có mười sáu người trong khi lẽ ra phải cần đến hàng trăm người để hỗ trợ họ.
Nói em nghe đi, Philip , nói em nghe tại sao những cường quốc chúng ta gửi hàng đại đội đi tham chiến, nhưng chúng ta lại chỉ có thể cử vài nhúm người đến cứu mạng sống của các trẻ em? Phải mất bao nhiêu thời gian nữa, chúng ta mới học được điều hiển nhiên đó? Philip, với anh, em có thể chia se cảm giác kì lạ này, em đang đứng đó giữa những xác chết, và hơn bao giờ hết em cảm thấy mình đang sống. Điều gì đó đã thay đổi, đối với em, sống không chỉ còn là một quyền lợi, nó đã trở thành một ân huệ . Em yêu anh rất nhiều, Philip của em
Susan .
* * *
Ngày 25 tháng Mười,
Susan
Hàng loạt phóng sự kể lại những điều kinh hoàng nới em đang sống đã xuất hiện trên các trang báo tuần này, vào đúng thời điểm anh nhận được bức thư đầu tiên của em. Báo chí nói đến con số mười nghìn người chết. Anh nghĩ đến em từng giây phút, cố tưởng tượng những gì em đang trải qua. Anh kể về em với từng người và tất cả đều nói về em. Trong tờ Montclair Times ra ngày hôm qua, phóng viên đã viết về nhóm cứu trợ nhân đạo mà đất nước chúng ta gửi sang đó, cuối bài anh ta nhắc đến tên em, anh đã cắt bài báo và gửi kèm cho em theo lá thư này. Tất cả mọi người đều hỏi anh tin tức về em, điều đó càng làm cho sự thiếu vắng em trở nên khó khăn hơn đối với anh. Anh nhớ em biết bao! Năm học đã bắt đầu trở lại, anh đang tìm một chỗ ở gần trường, anh đã nộp hồ sơ đăng kí thuê một căn phòng kiểu nghệ sĩ để ở và làm việc nhưng sẽ phải sơn sửa lại, trong một chung cư nhỏ ba tầng ở phố Broome. Nơi này sẽ cần được sửa sang lại. Nguyên cả khu phố cũng ở trong tình trạng khá cũ kĩ, nhưng căn phòng rộng và giá thuê nhà ở đây quả thật rất phải chăng, hơn nữa, em thử tưởng tượng xem, sống ngay giữa Manhattan! Khi em quay lại đây, chúng ta sẽ sống chỉ cách rạp Fiml Forum mấy dãy phố, em còn nhớ nó không ? Thật khó mà tin nổi, trên cửa kính của quán bar đối diện có treo một lá cờ Honduras; trong khi chờ đợi em ở đây, mỗi ngày anh đều đi ngang qua phía trước quán, đó là một dấu hiệu. Em nhớ giữ gìn sức khỏe. Anh nhớ em.
Philip .
* * *
Những lá thư của Susan đều đặn đến tay anh mỗi tuần một lá, anh viết thư trả lời ngay tối hôm nhận được thư. Có khi lá thư gửi đi và lá thư đến tình cờ gặp nhau, và anh nhận được những câu trả lời trước cả khi kịp gửi những câu hỏi. Dưới vĩ tuyền thứ hai mươi, những cộng đống dân cư tự trang bị cho mình một thứ vũ khí duy nhất là lòng dũng cảm, và cả đất nước nỗ lực tái thiết trong những điều kiện thiếu thốn do thiên tai. Susan và các đồng nghiệp của cô đã dựng được trại trú ẩn đầu tiên. Họ đã chọn nơi xây dựng của mình tại thung lũng Sula, giữa các dãy núi San Idelfonso và Cabaceras de Naco. Tháng Giêng khởi đầu cho một chiến dịch tiêm chủng rộng rãi. Với một chiếc xe tải cũ kĩ, Susan rong ruổi trên mọi con đường, tranh thủ phân phát lương thực, hạt giống và thuốc men. Khi không ngồi sau tay lái chiếc Dodge, cô dành thời gian để tổ chức trại. Ngôi nhà đầu tiên được dựng lên được dùng làm nơi khám chữa bệnh, căn phòng tiếp theo làm văn phòng hành chính. Mười ngôi nhà làm từ đất trộn và gạch đã trở thành nơi trú chân cho ba mươi gia đình. Cuối tháng Hai, khu xóm nhỏ của Susan được hình thành, trải rộng trên ba con phố, với hai dãy gồm hai mươi mốt căn nhà tranh vách đất. Trong số hai trăm con người trú ngụ nơi đây, hai phần ba đã có lại được một mái nhà để ở. Những người khác ngủ trong lều. tại nơi đã trở thành một quảng trường nhỏ để tập trung dân làng, móng của một trường học đang bắt đầu mọc lên. Mỗi buổi sáng, sau khi nuốt vội một chiếc bánh bắp, cô lái xe đến nhà kho bằng gỗ vừa dựng xong đúng vào dịp Noen, chất đầy hàng hóa trên xe tải và bắt đầu cuộc hành trình thường lệ. Khi Juan quay chiếc tay quay để khởi động xe, cả cabin rung lên ầm ầm. Juan phải buông tay lái ra bởi nếu không tay cậu sẽ bị mẩn ngứa hết lên, và chờ cho đến khi chiếc xilanh nóng lên đủ để những chiếc pittong chấp nhận bắt đầu chu trình vận hành. Juan chưa tròn mười tám tuổi. Cậu sinh ra tại Puerto Cortes và không còn nhớ nổi gương mặt cha mẹ mình nữa. Lúc chín tuổi, cậu đặt chân đến cảng, mười một tuổi rưỡi cậu bắt đầu biết thả lưới trên một chiếc thuyền đánh cá. Mười ba tuổi, cậu một mình đến sống trong thung lũng và từ đó, tất cả mọi người đều biết cậu. Cậu thiếu niên với dáng vóc của một người đàn ông đã ngay lập tức chú ý đến người mà cậu gọi là “Senora Blanca”(1) ngay khi cô vừa bước xuống từ ở chiếc xe đến từ Sula. Cậu bé lập tức quanh quẩn bên cô. Thoạt đầu Susan tưởng cậu là một đứa trẻ ăn mày. Juan tự mình kiếm sống bằng cách làm thuê. Cậu làm một số việc vặt cho người ta để đổi lấy một ít thức ăn hoặc chỗ trú chân trong những đêm trời mưa to. Cậu sửa mái nhà, sơn lại hàng rào, tắm cho ngựa, chăn gia súc, mang vác đủ các loại hàng hóa, bốc dỡ kho thóc. Trong tất cả mọi việc, dù là khởi động chiếc Dodge xanh da trời nhạt, chất các két hàng lên hay ngồi phía sau xe để giúp cô trong những chuyến hành trình hàng ngày, Juan luôn chăm chú đón đợi từng cử chỉ của Susan tỏ ra là “tôi cần sự giúp đỡ”. Từ tháng Mười một, mỗi sáng cô đều chuẩn bị hai chiếc bánh bắp, đôi khi kèm thêm một thỏi socola, hai người cũng chia nhau ăn trước khi lên đường. Dù có lạc quan đến mấy, đất đai vẫn chưa thể cho rau xanh vào trước mùa tới, và những con đường bị đứt đoạn khiến cho thực phẩm tươi không thể chuyên chở được đến khắp các vùng của đất nước. Những loại lương thực gọi là để duy trì cuộc sống là thứ duy nhất người ta có, và như thế đã đủ để dân làng coi như là bữa tiệc của Thượng Đế. Trên những nẻo đường đi ngang qua một vùng nông thôn hoang tàn, sự có mặt của Juan, đang nằm dài dưới mái bạt trong thùng xe phía sau làm cho Susan cảm thấy yên tâm hơn, nhưng im lặng vẫn bao trùm lên hành trình của họ và những nơi họ đi qua vẫn hằn dấu vết của tang tóc.
* * *
Ngày 8 tháng Giêng năm 1975,
Philip
Những ngày cuối năm đầu tiên xa anh, xa thành phố của chúng ta, xa tất cả. Một thời khắc kì lạ, tất cả lẫn lộn trong đầu em: một cảm giác cô đơn xâm chiếm em, đôi khi vơi đi phần nào bởi niềm vui được trải nghiệm nhiều điều rất đỗi đặc biệt. Trước đây, vào thời khắc của nửa đêm giao thừa, chúng ta vẫn ở bên nhau, trao cho nhau những món quà. Còn giờ đây, em đang sống khoảnh khắc này giữa những con người thiếu thôn mọi thứ. Những đứa trẻ ở đây đánh nhau để tranh giành những tờ giấy gói, một mẩu dây bình thường nhất cũng có lợi ích của nó. Điều kiện thì thiếu thốn như vậy đấy, nhưng giá mà anh có thể thấy được hương thơm của lễ hội đang tràn ngập khắp các con đường. Những người đàn ông bắn lên trời những viên đạn cũ để mừng niềm hi vọng đã giúp họ tiếp tục tồn tại. Những người phụ nữ nhảy múa trên đường, nắm tay những đứa trẻ quay tròn ngập tràn trong cảm giác hạnh phúc, còn em, em cảm thấy ngất ngây. Em vẫn nhớ cảm giác buồn man mác xâm chiếm chúng ta vào thời khắc cuối cùng của một năm, em nhớ em đã trải qua hàng giờ trút sang anh những ý nghĩ ảm đạm của em, bởi vì mọi thứ không được êm đẹp trong cái thế giới nhỏ bé của em. Ở đây, tất cả mọi người đều để tang người thân, những người phụ nữ mất chồng, và những người đàn ông mất vợ, nhưng họ đều bám víu vào cuộc sống để tồn tại mà vẫn giữ được một niềm kiêu hãnh đến khó tin. Chúa ơi, dân tọc này mới đẹp làm sao trong cơn hoạn nạn mà họ đang trải qua. Món quà Noel của em, Juan đã làm nó cho em, một món quà mới đặc biệt làm sao! Đó là ngôi nhà đầu tiên của em, nó sẽ rất đẹp, trong vài tuần nữa, em sẽ có thể dọn đến nhà mới. Juan đang đợi đến cuối tháng, những cơn mưa sẽ ngưng và cậu ấy sẽ có thể sơn mặt tiền ngôi nhà. Để em miêu tả nó cho anh nhé. Juan đã đắp nền nhà bằng đất trộn với rơm và sỏi, rồi cậu lấy gạch để xây tường xung quanh. Cùng với một vài người dân làng đến giúp, cậu tận dụng những khung cửa trong đống đổ nát và đặt hai ô cửa sổ ở hai bên chiếc cửa xinh đẹp màu xanh da trời. Nền của căn phòng duy nhất vẫn còn bằng đất. Bên trái sẽ có một lò sưởi nằm dựa vào một trong những bức tường, bên cạnh sẽ có một cái chậu bằng đá, đó sẽ là góc nhà bếp. Để làm vòi hoa sen, Juan sẽ bố trí một bể hứng nước mưa trên nóc nhà mái bằng.. Khi kéo sợi dây xích, em sẽ có một vòi sen nước lạnh hoặc nước ấm tùy vào thời điểm trong ngày. Miêu tả thế này, phòng tắm của em có vẻ thật tồi tàn và căn nhà của em quá trống trải, nhưng em biết là nó sẽ ngập tràn sự sống. Em sẽ đặt bàn làm việc trong góc phòng khách, đó là phần mà Juan muốn ốp ván sàn ngay khi cậu ấy tìm được một vật liệu gì đó thích hợp. Một chiếc thang dẫn lên gác lửng, em sẽ đặt trên đó cái nệm của mình. Thôi kể vậy là nhiều rồi, đến lượt anh viết cho em, kể em nghe anh đã trải qua những ngày lễ cuối năm như thế nào, cuộc sống của anh ra sao. Em vẫn luôn nhớ anh. Muốn làm một cơn mưa phủ đầy những nụ hôn của em lên giường của anh.
Susan của anh.
* * *
Ngày 29 tháng Giêng năm 1975,
Susan
Anh không nhận được những lời chúc của em! Đúng ra là vẫn chưa nhận được. Hi vọng là bức tranh anh vẽ gửi tặng em kèm trong lá thư này không bị hư hại nhiều sau quá trình vận chuyển. Chắc em sẽ tự hỏi hình ảnh con đường vào ban mai này có nghĩa gì, thì em biết không, anh có một tin vui muốn báo cho em đây, căn phòng phố Broome, anh đã thuê được rồi, hiện nay anh đang ở đó, và anh đang vừa viết cho em, vừa nhìn ra con phố vắng vẻ của khu SoHo qua khung cửa sổ trước mặt, đó chính là hình ảnh mà anh vẽ cho em. Em không thể biết được việc dời khỏi Montlair đã là một thay đổi lớn đối với anh như thế nào đâu, anh có cảm giác như mình đã đánh mất hết mọi điểm quy chiếu trong cuộc sống; nhưng đồng thời, anh cũng biết rằng điều đó sẽ giúp mình cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều.
Anh dậy sớm và đến quán cà phê Reggio để dùng bữa điểm tâm sáng, phải đi vòng một chút, nhưng anh rất thích ngắm ánh sáng buổi sớm chiều rọi xuống những con phố nhỏ lát những viên đá lớn hơi gồ ghề và không đều này, những vỉa hè ngoằn ngoèo với những tấm bảng đúc bằng gang gắn những viên bi ve, những mặt tiền nhà như được trang trí hình răng cưa bởi những cầu thang sắt gắn phía trước, khu này thật tuyệt. Em biết không , anh nghĩ rằng anh sẵn sàng viết lung tung bất cứ điều gì để thỉnh thoảng em nghĩ đến anh, để em trả lời thư anh và kể anh nghe về em. Anh không ngờ là anh lại nhớ em đến thế,Susan, anh vùi đầu vào bải vở và anh tự nhủ với mình mỗi ngày qua, rằng không có em ở bên thời gian trở nên quá dài, rằng lẽ ra anh phải nhảy lên một cái máy bay và đến ngay bên em, dù anh biết, như em đã nhiều lần nói với anh, rằng đó không phải cuộc sống của anh. Nhưng xa em, anh tự hỏi cuộc sống của anh sẽ như thế nào.
Vậy đó, nếu lá thư này không kết thúc đời mình trong thùng rác thì có nghĩa là chai rượu bourbon(1) anh vừa uống cạn đã có ep-phê., anh sẽ tự cấm mình đọc lại thư vào sáng mai, hay là ngay đêm nay, anh đã ghé thăm chiếc thùng thư nằm ở góc phố. Sáng sớm, khi ra khỏi nhà, anh vẫn thường liếc mắt nhìn nó khi băng qua đường như thể chính nó sẽ mang đến cho anh một lá thư của em, chốc lát nữa trong ngày, một lá thư mà anh sẽ tìm thấy khi từ trường về nhà. Đôi khi anh có cảm giác như nó mỉm cười giễu cợt anh, một cách rất thản nhiên. Trời lạnh khủng khiếp. Anh hôn em,
Philip .
* * *
Ngày 27 tháng Hai năm 1975,
Philip
Một lá thư ngắn. Hãy tha lỗi cho em vì đã không viết được cho anh thường xuyên hơn, lúc này em đang ngập đầu trong công việc, và, khi trở về nhà, em không còn đủ sức để viết nữa, chỉ vừa đủ sức để lê đến cái nệm và ngủ vài tiếng đồng hồ. Tháng Hai sắp kết thúc , ba tuần liền không mưa, đó như một điều kì diệu. Những hạt bụi đầu tiên sau một khoảng thời gian chỉ biết đến bùn. Bọn em đã có thể thực sự bắt tay vào việc và em có cảm giác như những cố gắng đầu tiên đã được đền đáp: sự sống đang chiến thắng. Đây là lần đầu tiên em ngồi ở bàn làm việc của mình, em đã treo bức tranh của anh phía trên lò sưởi, như thế em và anh có cùng một hình ảnh trước mặt. Em rất vui biết anh đã chuyển đến sống ở Manhattan. Ở trường đại học, cuộc sống của anh thế nào, anh hẳn bị vây quanh bởi rất nhiều cô sinh viên không cưỡng lại sự quyến rũ của anh? Hãy tranh thủ đi, anh ạ, đừng để các cô ấy phải khốn khổ quá anh nhé. Gửi anh những nụ hôn dịu dàng. Susan
* * *
Ngày 4 tháng Tư năm 1975,
Susan
Ánh sáng của những ngày lễ đã tắt từ lâu và những trang lịch của tháng Hai đã nằm phía sau chúng ta. Cách đây hai tuần, tuyết bắt đầu rơi, làm tê liệt cả thành phố trong suốt ba ngày liên tiếp, trong một nỗi sợ hãi khó tả bao trùm. Không có một chiếc xe nào có thể đi lại, những chiếc taxi chạy theo hình zigzag giống như những chiếc xe trượt tuyết trên đại lộ Cinquieme, đội lính cứu hỏa đã không thể dập tắt một đám cháy ở khu Tribeca vì nước đã đóng băng. Và thật là kinh hoàng, ba người ăn mày chết vì lạnh trong công viên Central Park, trong đó có một người phụ nữ ba mươi tuổi. Người ta đã tìm thấy người phụ nữ này đang ngồi, bị đóng băng trên một chiếc ghế trong công viên. Chương trình thời sự buổi sang và buổi tối trên đài truyền hình chỉ toàn nói về chuyện này. Ai cũng tự hỏi tại sao hội đồng thành phố không mở những trung tâm hỗ trợ cho người vô gia cư khi những đợt lạnh cao điểm kéo về. Làm sao có thể chấp nhận còn những con người phải chết như vậy ở thời đại của chúng ta, trên đường phố New York, thật thương tâm! Thế em cũng vậy à, em cũng đã dọn về ở trong một ngôi nhà mới? Cái câu châm chích của em về những cô gái trong trường hay nhỉ, vậy thì đến lượt anh: cái anh chàng Juan, người chăm sóc cho em tận tình đến thế là ai vậy? Anh học như điên, chỉ vài tháng nữa là các kì thi bắt đầu. Em vẫn nhớ anh đôi chút đấy chứ? Hãy viết cho anh nhanh đi.
Philip
* * *
Ngày 25 tháng Tư năm 1975,
Philip
Em đã nhận được thư anh, lẽ ra em phải viết thư trả lời anh từ cách đây hai tuần cơ, nhưng em chẳng thể nào có đủ thời gian, đã đến cuối tháng Tư rồi, trời rất đẹp, và nóng lắm, đôi khi không khí bốc một mùi thật khó chịu. Bọn em đã đi suốt mười ngày cùng với Juan, đi xuyên qua thung lũng Sula và leo lên những con đường trên đỉnh Cabacelas de Naco. Mục đích chuyến đi của bọn em là đến được với những xóm dân cư nằm cheo leo trên vách núi. Hành trình không dễ dàng chút nào. Dodge, đó là cái tên mà chúng em đã đặt cho chiếc xe tải của cả bọn, đã suýt bỏ rơi bọn em đến hai lần, nhưng Juan quả thật có đôi bàn tay của nhà ảo thuật. Lưng em bây giờ mỏi nhừ, anh không thể biết được phải thay bánh cho một cái xe như vậy là thế nào đâu. Thoạt đầu những người nông dân trong làng tưởng bọn em là mấy người sandiniste(2), còn mấy người sandiniste thì lại thường lầm tưởng chúng em là những người bên quân đội giả làm thường dân. Giá mà họ có thể thống nhất được với nhau thì đỡ cho công việc của bọn em biết mấy.
Ở chốt chặn đầu tiên, thú thật là tim em đập loạn cả lên. Em chưa bao giờ nhìn thấy những họng súng máy kê sát mặt mình đến thế. Chúng em đã phải đưa cho họ vài túi bột mì và mười hai cái chăn để đổi lấy sự bình yên cho chuyến đi. Con đường dọc sườn núi đá khó đi vô cùng. Bọn em đã phải mất hai ngày mới lên cao được 1.000 mét. Thật khó có thể miêu tả hết với anh những gì chúng em đã thấy trên đó. Những xóm dân đói không có gì để ăn, chưa bao giờ nhận được sự hỗ trợ từ bất kì ai. Juan đã phải thương lượng rất gay go mới có thể chiếm được lòng tin của những người canh gác ngọn đèo…
Họ được đón tiếp bởi những con người với thái độ hết sức nghi ngờ và đề phòng. Tiếng kêu ì ì của cỗ máy xe tải truyền đi trước khá xa và những người dân trong xóm đã tập trung dọc theo con đường để dõi theo bước tiến chậm chạp của chiếc Dodge già nua với cái hộp số kêu lên như sắp gẫy mỗi khi đến một khúc quanh. Khi đến chỗ ngoặt báo hiệu điểm cuối của con đường hoang vu, chiếc xe gần như phải dừng hẳn lại trong một nỗ lực để bám cua, hai người đàn ông phóng ra từ hai bên lề đường, nhảy lên đứng trên bậc lên xuống của xe và chĩa những chiếc dao rựa của họ vào khoang lái. Giật mình, Susan giật tay lái làm chiếc xe bị trệch hướng, cô vội đạp phanh gấp, xém chút xíu là chiếc xe lao xuống vực.
Giận điên lên, không còn biết sợ hãi là gì nữa, cô lao ra khỏi cabin. Cô đẩy cửa xe ra quá mạnh nên đã hất ngã một trong hai người đàn ông xuống đất. Ánh mắt sầm lại và hai tay chống ngang hông, cô rủa xả họ một trận tơi bời. Người nông dân đứng dậy ngỡ ngàng, anh ta không hiểu một từ nào trong cả tràng ngôn ngữ mà người phụ nữ da trắng đang hét vào mặt anh ta, nhưng Quý cô da trắng rõ ràng là đang giận dữ ghê lắm. Đến lượt Juan xuống xe, với một vẻ bình tĩnh hơn, cậu giải thích với họ lí do của cuộc viếng thăm này. Sau vài giây lưỡng lự, một trong hai người nông dân giơ cánh tay trái lên trời và một nhóm khoảng mười người dân làng tiến lại phía anh ta. Họ túm tụm lại và bắt đầu tranh luận. Cuộc nói chuyện kéo dài rất lâu, ngày càng trở nên sôi nổi và có vẻ như không có hồi kết. Susan leo lên mui xe tải và lạnh lùng ra lệnh cho Juan bấm còi. Cậu ta mỉm cười và thi hành mệnh lệnh. Tiếng tranh cãi bị tiếng còi khàn khàn của chiếc xe tải át dần và cuối cùng ngưng hẳn. Cả nhóm người quay về phía Susan. Cô cố gắng tập trung hết vốn liếng tiếng Tây ban Nha của mình và hướng về phía người có vẻ là thủ lĩnh trong nhóm.
- Tôi mang theo chăn đắp, lương thực và thuốc men. Bây giờ, hoặc là các anh giúp tôi gỡ mọi thứ xuống, hoặc tôi sẽ thả phanh tay và đi bộ về nhà! Một người phụ nữ băng qua đám đông đang đứng im lặng và tiến lên phía trước chiếc xe tải, bà làm dấu thánh giá. Susan tìm cách trèo xuống từ mui xe, tìm cách tránh không để bị trẹo mắt cá chân, người phụ nữ giơ một tay ra đỡ cô, và ngay lập tức một người đàn ông khác cũng đến giúp. Mặc kệ đám đông , cô đi ra phía sau xe nơi Juan đang đứng. Dân làng từ từ rẽ ra hai bên nhường đường cho cô. Juan nhảy lên thùng xe phía sau và hai người cùng nâng tấm vải bạt lên. Cả dân làng vẫn lặng im đứng bất động, cô lấy ra một lố chăn và quảng xuống đất.. Không ai động đậy.
- Họ đang chờ cái gì cơ chứ, phát điên mất!
- Cô ơi, Juan nói, những gì cô mang đến là vô giá đối với những con người này, họ đang chờ xem cô sẽ đòi hỏi họ điều gì và họ biết rõ là họ chẳng có gì để đổi lại cho cô.
- Vậy thì hãy nói với họ rằng điều duy nhất cô yêu cầu ở họ, đó là giúp chúng ta dỡ những thứ này xuống.
- Thực ra thì sẽ hơi phức tạp hơn thế một chút đấy cô ạ.
- Thế nếu muốn đơn giản thì phải làm sao đây?
- Cô hãy mang băng tay của tổ chức Peace Corps vào và lượm một trong số những cái chăn mà cô vừa quăng xuống đất lên và mang đến đặt lên vai của người phụ nữ vừa làm dấu thánh giá.
Vừa đặt chiếc chăn ca-rô nhỏ lên vai người phụ nữ, cô vừa nhìn sâu vào mắt bà và nói bằng tiếng Tây Ban Nha: “Tôi tới đây để mang cho các bạn những thứ mà lẽ ra chúng tôi đã phải mang đến cho các bạn từ lâu rồi, hãy tha lỗi cho tôi vì đã chậm trễ đến thế.”
Teresa ôm lấy cô và hôn lên má cô. Những người đàn ông vô cũng hoan hỉ tranh nhau chạy lại phía xe tải và dỡ hết hàng hóa trên xe xuống, Susan và Juan được mời ăn tối với tất cả dân làng. Màn đêm buông xuống, một đống lửa to được nhóm lên và một bữa ăn đạm bạc được dọn ra.
Trong lúc ăn tối, một cậu bé đến gần sau lưng Susan. Cô cảm nhận được sự có mặt của cậu bé, quay lưng lại và mỉm cười nhưng ngay lập tức cậu bé chạy trốn. Lát sau, cậu bé lại xuất hiện, đến gần cô hơn chút nữa. Một cái nháy mắt và cậu bé lại bỏ chạy. Màn làm quen lặp đi lặp lại như vậy nhiều lần, cho đến khi cậu bé đến sát bên Susan, cô nhìn cậu bé, không một cử động và im lặng. Dưới lớp cáu bẩn dày đặc trên khuôn mặt cậu bé, cô nhận ra vẻ đẹp của tròng mắt với đôi mắt đen huyền.
Cô chìa bàn tay về phía cậu bé, lòng bàn tay hướng lên trời. Đôi mắt cậu nhỏ lưỡng lự hết về hướng về phía gương mặt cô rồi lại nhìn vào bàn tay cô, và những ngón tay cậu rụt rè khẽ bám vào ngón nhỏ bé đang muốn kéo cô đi. Susan đứng dậy và để mặc cho cậu bé dắt cô băng qua những lối đi hẹp ngăn cách giữa những ngôi nhà. Cậu bé dừng lại sau một bức vách và đặt một ngón tay lên miệng ra hiệu cho cô không gây tiếng ồn và để cô quỳ gối xuống ngang chiều cao của cậu.Cậu bé chỉ một lỗ hổng trên tấm liếp đan bằng sậy, ghé một mắt nhìn vào để cô bắt chước làm theo. Cậu bé vừa lùi ra sau, Susan lập tức bước tới nhìn xem cái gì đã có thể khiến cậu bé này có đủ chừng ấy sức mạnh vượt qua nỗi sợ hãi để dẫn cô đến tận đây.
…Em nhìn thấy một bé gái chừng năm tuổi đang chết dần, chân của em đã bị hoại thư quá nặng. Trong khi một bộ phận dân làng đang bị cuốn đi trong dòng thác bùn, một người đàn ông may mắn bám được vào thân cây, và trong khi đang tìm kiếm một cách tuyệt vọng đứa con gái nhỏ vừa mất tích, ông đã nhìn thấy một cánh tay nhô lên từ dòng thác. Giành lại được đứa trẻ từ tay của thần chết, ông ôm chặt lấy cơ thể bé nhỏ trong lòng. Hai người đã băng qua hàng cây số trong bóng tối, cố gắng để đứng vững trên đôi chân trong tiếng gào thét đến điếc tai của những cơn gió xoáy đang chỉ chực nuốt chửng lấy họ. Họ cứ đi cho đến khi kiệt sức và ngã xuống bất tỉnh. Khi trời sáng, người đàn ông tỉnh dậy, bé gái nằm cạnh ông. Họ bị thương nhưng đã sống sót. Chỉ có một khác biệt duy nhất: cô bé mà ông cứu sống không phải là con gái của ông. Ông đã không thể tìm lại được xác của con gái. Sau một đêm thương thảo dằng dai, cuối cùng người đàn ông đã chấp nhận giao cô bé cho chúng em, em không chắc cô bé có sống sót được sau chặng đường dài không , nhưng nếu ở lại trên đó, cô bé sẽ chỉ còn sống được thêm vài ngày nữa. Em đã hứa với người đàn ông ấy là sẽ quay trở lại sau một, hai tháng nữa, mang theo một xe tải đầy lương thực. Nhờ thế ông ấy đã chấp nhận hi sinh, chắc hẳn vì nghĩ đến những người dân khác trong làng. Dù lý do của em là chính đáng, em vẫn cảm thấy mình thật là xấu xa trong ánh mắt của ông. Em về đến San Pedro, bé gái vẫn đang ở ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, em thì hoàn toàn kiệt sức. Để anh biết mà tiện đường ứng xử, Juan là trợ lí của em. Cái câu nói đầy ẩn ý của anh mới ngớ ngẩn làm sao! Em có phải đang ở trại hè nghỉ mát bên Canada đâu!!! Dù sao em vẫn hôn anh.
Susan.
TB: Vì anh và em đã thề luôn luôn nói ra sự thật giữa hai chúng ta, em phải thú thật với anh một điều: anh và cái thành phố New York của anh làm em phát ngán với câu chuyện về những người vô gia cư mà anh kể!
Chú thích:
(1): tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản, có nghĩa là "Quý cô da trắng" (2): một đảng phái chính trị tại Nica ra gua, tạo nên một cuộc cách mạng tại nước này vào những năm 1979