Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Tuổi Học Trò >> Quê nội

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 31363 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Quê nội
Võ Quảng

Chương 2 (tt)

Tiếng đồn làng trên xã dưới ông Bốn Rị có một thằng con trai giống ông như đúc. Da nó cũng đen, người nó cũng gầy, khuôn mặt giống hệt như bố. Trước đây, gặp năm mất mùa ông Bốn phải đem đợ thằng con trai đó cho một nhà giàu ngoài Đà Nẵng. Nay làm ăn khá, ông Bốn đã chuộc nó về. Thằng nhỏ siêng năng lắm. Nó băm thịt giòn tan, nấu xào rất giỏi. Tôi biết đó là tin đồn về thằng Cù Lao. Nó giúp ông Bốn làm nhiều việc để dạy ông học., Nó còn đi bắt chó với ông. Ông Bốn kéo lê một con chó bị tròng. Thằng Cù Lao thủ một chiếc roi theo sau. Tất cả bọn chó gào rống đến sủi bọt mép quanh ông Bốn. Thằng Cù Lao không chút nao núng, phóng mắt nhìn quanh tìm đứa hung hăng nhất. Chợt chiếc roi mây bay vút. Chó bị roi kêu ăng ẳng, cúp đuôi vụt chạy. Những chó khác chạy tán loạn. Thằng Cù Lao nhặt đất ném theo, phá gãy vòng vây, giải thoát cho ông Bốn Rị. Dẹp xong lũ chó, nó đứng chống nẹ nhìn quanh.
Tôi gọi to:
- Cù Lao ơi! Mày đi bắt chó cho ông Bốn hả? Làm chi bậy bạ rứa? Thiên hạ cười đó! Họ đồn mày là con trai ông Bốn đó!
Miệng tuy nói vậy nhưng bụng tôi nghĩ khác. Thực bụng tôi phải nói: Mày đuổi chó giỏi lắm! Tao đang phục mày đấy! Tao cũng muốn được như mày.
Tôi hỏi bâng quơ:
- Mày mượn đâu chiếc roi mây tốt quá?
Thằng Cù Lao chìa chiếc roi:
- Ông Bốn cho tui đó.
Tôi nói cho có chuyện:
- Roi to thì sướng hơn.
- Roi nhỏ quất khỏi gãy chân. Ra oai thôi mà!
Tôi hỏi:
- Thế... tao xin ông Bốn một cái roi được không?
- Cục xin đi. Ông Bốn ông tốt bụng lắm! Ông cho liền liền.
Thằng Cù Lao nói nhỏ vào tai tôi:
- Thảo ăn lắm! Hôm nào cũng đãi ổi, đãi bồ quân. Ổi và bồ quân của ông ngọt lịm! Ăn nhiều ông càng thích!
- Nhưng mà tao sợ ma chó! Chúng kéo về từng đàn, ông Bốn Rị phải đặt câu thần chú mới đuổi được.
- Làm chi có!
- Tao đến xin ông cái roi. Rồi... đi bắt chó với mày được không?
Thằng Cù Lao reo lên:
- Ông thích còn phải nói! Ông bảo tui đến ở với ông, tui cứ việc đi chơi, ông làm nuôi tui cũng được
Tôi và thằng Cù Lao cùng cười. Không ngờ sự việc lại như vậy.
Trước Tổng khởi nghĩa có ba nơi làm tôi cứ sợ. Đó là chòm đa Lý âm u, đại bản doanh của quỷ Năm Nanh có đầu tóc xõa đến đất. Ddó là miếu Bà Tằm im lìm nép dưới chòm sung, nơi làm ăn của quỷ Bạch Thố. Sau cách mạng, quy Bạch Thố và quỷ Năm Nanh đã cuốn gói đi nơi khác. Chỉ riêng nhà ông Bốn tôi vẫn thấy bí hiểm. Tiếng băm thịt ở nhà ông nghe như tiếng mõ kêu cứu. Tiếng rú của chó bị cắt tiết nghe rùng rợn. Tuy thằng Cù Lao đã cho biết nhà ông Bốn Rị cũng như nhà chú Năm Mùi, có hai chái, tám cột. Đồ đạc cũng là giường ghế, nồi niêu, rổ rá. Mọi vật đều bình thường, chẳng có gì ghê rợn cả. Tôi biết vậy, nhưng khi đến trước nhà ông Bốn tự nhiên tôi dừng lại. Tôi vừa sực nhớ trước đây tôi với mấy đứa mất dạy đã ném đất vào đầu ông. Nay gặp tôi ông lại chẳng trả thù, nện cho tôi một trận. Nghĩ đến đây tôi chỉ dám nhìn qua hàng rào. Ông Bốn tay cầm con dao phay, đứng trong nhà trông quá dữ tợn. Tôi định rút lui. Nhưng nhớ lại việc chú Năm Mùi bắt buộc tôi phải đến giúp thằng Cù Lao dạy cho ông Bốn học, tôi phải dừng lại. Đợi ông Bốn đi khuất vào bếp, tôi nhón chân gọi khẽ:
- Cù Lao ơi! Cù Lao ơi!
Thằng Cù Lao như biết tôi đang lảng vảng ngoài rào, chạy ra gọi:
- Ông Bốn đợi Cục đó!
- Đợi để chi?
- Để dạy ông học. Ông thích lắm!
Tôi hơi vững dạ rón rén bước vào. Ông Bốn đang ngồi lóc thịt. Vừa thấy tôi, ông vung con dao sáng quắc, nhưng ông lại cười:
- Chú Cục đó hả? Hay lắm!
Rõ ràng ông Bốn đã làm tôi yên tâm. Ông đứng lên đi đẩy lửa. Ông vừa lóc thịt vừa đun lửa trong bếp. Đó không phải là một cái bếp bình thường như thằng Cù Lao nói, mà là một cái bếp bất thường. Bếp có đến ba bộ ông táo. Tất cả đang cong lưng đội một cái chảo và hai cái nồi to bự. Ngoài ra, còn có ba bộ ông táo khác sắp thành một hàng sẵn sàng nhận việc. Tất cả chảo nồi đều sôi sùng sục và tỏa khói thơm. Quanh bếp còn úp không biết bao nhiêu nồi đất, đủ loại to nhỏ. Thằng Cù Lao ở trần, xắn quần đến tận bẹn, chạy rút con dao phay, lật chiếc thớt, bê một đùi thịt chó đặt lên thớt, chặt lia lịa. Nó tỏ ra thông thạo như đã lâu năm làm nghề băm thịt. Tôi bật cười. Nó cười theo rồi băm càng nhanh, càng chính xác.
Tôi nhìn vào nhà trên. Ở Hòa Phước, nhà trên thường nhìn ra ngõ. Đằng này, nhà trên của ông Bốn lại xây lưng ra ngõ, mặt úp vào vườn. Sau vườn, ông Bốn trồng cây chanh, cây ổi, cây bồ quân có bóng râm mát. Lại có khóm bông trang, có hoa nở, có bướm bay chấp chới. Quanh nhà sạch bóng. Nhà bếp nhiều khói, ồn ào. Nhà trên tĩnh mịch. Nắng trưa nằm ngủ trên giàn thiên lý. Tiếng thái thịt vào đến hiên bỗng lu mờ. Ông Bốn cũng thờ tiên thờ phật. Bốn bức tranh treo trên vách vẽ bốn ông tiên. Một ông râu dài mắt xếch đầy vẻ ung dung cưỡi một con hạc đang sải cánh trên rừng tùng. Một ông bụng to đang nghểnh cổ trút nậm rượu vào mồm, đầy vẻ khoan khoái. Ông thứ ba râu rậm cưỡi con ngựa trắng khoan thai đi vào rừng mai nở rộ. Ông thứ tư râu tóc bạc phơ phóng cần câu trầm ngâm câu cá. Bên trên bàn thờ, ở chỗ cao nhất đặt một cái khám. Trong khám có đức Quan âm ngồi trên tòa sen, mười ngón tay chắp vào nhau đang tụng niệm.
Tôi cứ nhìn nhìn. Có tiếng thằng Cù Lao gọi:
- Cục ơi!
Tôi bước xuống nhà bếp. Ông Bốn đang xào thịt. Ông múc một đĩa đặt lên bàn. Và rất lạ, tôi nghe mùi thịt chó thơm thơm. Ông lấy bánh đa có rải vừng đem nướng. Ông hốt một đĩa rau thơm, gọi tôi và thằng Cù Lao:
- Ngồi lại đây các chú!
Tôi trả lời tôi không ăn.
Ông Bốn lại mời.
Tuy bụng đói meo, nhưng nhớ lời chị Ba dặn, tôi lắc đầu:
- Mới ăn no quá, không ăn được nữa!
Thằng Cù Lao cãi lại:
- Ăn từ mai sớm, no quá sao được?
Ông Bốn năn nỉ:
- Không ăn nhiều thì ăn một miếng cho bác vui bụng.
Thằng Cù Lao họa theo:
- Phải rồi. Không ăn, ông Bốn không học đâu!
Thằng Cù Lao vừa nói vừa kéo tôi vào bàn.
Tôi định bụng chỉ ăn một miếng bánh đa.
Thằng Cù Lao chỉ vào chiếc nồi đang sôi trên bếp.
- Nồi nhừ nâú cho đội tự vệ kia. Ban chỉ huy ăn được thịt chó, Cục ăn thử một miếng coi.
Thằng Cù Lao vừa nói vừa gắp một miếng xào gì đó ngay trước lỗ mũi tôi. Rõ ràng một mùi thơm của thịt của hành xông lên. Ông Bốn gắp một miếng xào, bẻ đôi miếng bánh đa kẹp lại giúi vào tay tôi:
- Không ăn thì bác giận lắm!
Nể quá, tôi cầm kẹp bánh cắn một miếng. Thịt chó xào nghe thơm chẳng khác gì thịt lợn. Tôi nhai vài cái, thịt với bánh đa rơi vào bụng. Tôi tưởng thịt chó đã trèo lên cổ lộn ra, nhưng nó vẫn nằm yên trong bụng.
Thầy Lê Hảo thường nói: Dạy không nghiêm, đó là thầy dở. Đối với bà Hiến tôi phải thật nghiêm. Tôi cố tránh hỏi bà chuyện vu vơ hoặc tán phét. Tôi vạch một vòng tròn lên giấy rồi đọc cho bà nghe, o...o...
- Đây là chữ o, như quả trứng gà, thấy chưa? Nhớ chưa?
Bà Hiến liền nói theo:
- O, o, như con gà trống, nó gáy o o. Gà gáy o, o! Đi chưa tới chợ đã lo ăn hàng!
Tôi dạy thêm:
- Phải ngó cho kỹ, chữ o thêm một cái mũ đội lên đầu đó là chữ ô.
Bà Hiến liền đọc:
- Ô rô gai góc, nó móc ruột gan, đói rách giàu sang, ô rô móc tuốt.
- Nói gai ô rô làm chi? Xem này. Chữ o mang thêm một cái râu thành chữ ơ.
- Còn phải kẻ mày kẻ mặt đội mũ mang râu. Còn phải đôi hia...
Bà Hiến vừa nhớ đến hát tuồng. Trước khi ra sân khấu, kép hát phải kẻ mặt, mang râu, đội mũ.
Tôi xẵng giọng:
- Kệ họ! Đào kép muốn làm trời cũng được. Đó là chuyện của họ. Còn ta là phải ngó kỹ. Đây là chữ t, thấy chưa? Nay ghép chữ t với chữ o, là to.
- To! Nói nhỏ nói to, không bằng nện cho cái đấm.
Tôi định bảo im. Nhưng cách nói bắt vần của bà nghe cũng vui vui.
- Ngó cho kỹ này! T ghép với ô thành tô này.
Bà Hiến nói ngay:
- Tô son điểm phấn, đánh lấn ngãi thơm.
Tôi tiếp:
- Chữ t ghép với chữ ơ là tơ.
Bà Hiến đọc liền theo:
- Rối tơ rối chỉ gỡ xong. Rối đầu có lược, rối tấm lòng khó phân. Tơ tưởng, tưởng tơ, nằm mơ là thấy bạn!
Tôi chỉ cho bà Hiến đọc chữ m.
Bà liền cho ra:
- Chằng lờ mờ, giấy tờ minh bạch.
Đến chữ n, bà nói họa theo:
- Chi rứa bạn nờ? Trăng đã mờ, sông đã cạn!
Cứ như vậy, học mỗi chữ bà đọc một câu. Nếu bảo bà đọc thêm bà cũng có thể đọc.
Tôi và thằng Cù Lao dần dần hóa thích. Gặp những câu vui, tôi bảo bà cứ đọc tiếp. Bà thuộc hàng chục bài vè, đủ loại vè: vè con cuốc, vè các thứ hoa, thứ quả, thứ cá, thứ chim, vè nói láo, vè hát bội, vè thằng nhác, vè cúp tóc, vè xin sưu, vè đám ma...
Mỗi khi học xong, tôi và thằng Cù Lao bắt bà hát một bài cho vui.
Bà Hiến hỏi?
- Bài chi?
- Bài hố hụi hay một bài vè, vè thằng Lía hay vè Thông Tằm cũng được.
Tôi và thằng Cù Lao rất mê vè thằng Lía. Thằng Lía nhà nghèo mồ côi cha, rất yêu mẹ. Không ai thuê làm, Lía phải đi xin ăn để nuôi mẹ. Lía bắt trộm vịt về cho mẹ ăn để mẹ khỏi đói. Sau Lía vào rừng tụ tập lâu la, chống lại vua quan. Tôi thích những đoạn tả Lía bị chó đuổi phải rúc bụi. Lía bắt chước con cá lóc tập nhảy, tập mãi nhảy phóc qua được nhà cao. Lúc bị bao vây nhờ nhảy qua được mái nhà, đã thoát chết.
Ai hỏi vì sao bà Hiến nhớ nhiều như vậy, bà nói: Nhớ nhiều vì đói. Khi đói, chữ nghĩa vào bụng không bị cơm canh lấp mất, chữ nào còn nguyên chữ ấy.

<< Chương 2 | Chương 3 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 755

Return to top