Hai người uống rồi từ biệt Tương Vương cùng Mao Toại, Bạch Viên, người lên nai, người cỡi cọp, bay tuốt lên mây. Các tiên đưa rồi vào điện, Mao Toại nói với Tương Vương cùng Tôn Tẩn rằng: "Tôi ở đây cũng vô dụng, xin cho tôi vào núi". Tôn Tẩn sa nước mắt nói: "Hiều đệ, vì sao bỏ tôi mà đi cho đành, hãy tạm ở ít ngày, chôn mẹ tôi rồi sẽ về, cũng chẳng muộn chi". Bạch Viên nói: "Tôi cũng muốn về Nhạn Sầu giảng đó chút, song thấy các tiên về hết, còn lại một mình tam ca, nên khó mở miệng nói được, tôi nghĩ lại tôi với chơn nhơn cùng tam ca có tình bái ái chi giao, lẽ thì ở lại đưa bác lên đường, cho hết tấm lòng, chừng ấy sẽ về".
Tôn Tẩn nghe rồi, nói: "Hiền đệ phân như vậy rất phải, xin hai em ở lại cùng ta, mà lên Ngô Kiều". Mao Toại nói: "Thôi phen này đừng bắt tôi cầm phướn nữa, và đừng có làm cái tang xa trận gì hết không nên, vậy chớ chừng nào đi chôn bác?" Tôn Tẩn nói: "Tôi tính đến giờ ngọ ngày mai thì chôn". Tương Vương thất kinh nói: "Á phụ tính mai lên Ngô Kiều táng quý nhơn, trẫm tưởng binh Tần đi chưa được ba ngày, nếu nó dùng kế hoãn binh, thì trẫm biết cậy ai, chi bằng á phụ chờ qua mùa thu sẽ lên Ngô Kiều". Tôn Tẩn nói: "Bệ hạ chớ lo, tôi tưởng chắc binh Tần phen này không dám tới nữa, hoặc về nước chỉnh tu binh mã, nếu chờ đến mùa thu, e nó tới nữa cũng chưa biết chừng, chi bằng nhân lúc này tôi lên Ngô Kiều chôn mẹ tôi cho rồi, e để lâu ngày, binh Tần đến nữa, thì không rảng được mà lên Ngô Kiều, mẹ tôi một ngày chưa vào đất, thì lòng tôi một ngày chẳng được an, vả lại đường sá xa xôi, nếu xe tang chưa đến Ngô Kiều, mà binh Tần tới nữa, thì có ai bảo hộ linh cửu, chừng ấy lòng tôi mắc lo hai phía, thì hóa ra việc chẳng tốt".
Tôn Tẩn kiếm lời dối gạt một hồi. Tương Vương không nói lại được ngồi giây lâu rồi nói: "Á phụ phân như vậy cũng phải, đến mai trẫm cùng á phụ đưa lên Ngô Kiều". Tôn Tẩn biết Tương Vương đi không được, nên chẳng chối từ, nói: "Tôi mang ơn bệ hạ, dẫu nát mình cũng không trả được, lại ban ơn đến người chín suối, thiệt là cái đức như trời cao, đất này". Nói rồi, kế đến yến diên dọn lên. Vua tôi ăn uống, chuyện vãn, Tôn Tẩn ăn rồi, lạy từ vua đi với Mao Toại, Bạch Viên về phủ, lạy linh cửu, khóc tế một hồi. Mạo Toại nói: "Tôi không nói láo được, nay tam ca nói láo giỏi thiệt gạt cho Tương Vương không hiểu biết chút nào". Bèn ngó lại không thấy Tôn Yên ở trước linh cữu, thì hỏi: "Tôn tiểu diệt không có đây, mà anh tính sang ngày đi chôn sao được?" Tôn Tẩn nói: "Tôn Yên ta đã sai nó ra thành hai mươi dặm mà chờ, nếu chậm một ngày, nhân dân trong thành đều bệnh hết, thì lấy ai mà khiêng quan cứu".
Bèn dạy ngươi tới phủ Khai quốc hầu mà kêu Viên Cang. Giây phút Viên Cang tới phủ ra mắt Tôn Tẩn và hai tên. Tôn Tẩn nói: "Đến mai tôi lên Ngô Kiều chôn mẹ tôi, ngươi nói lại với các vương hầu chẳng cần đưa đón làm chi, vì đến canh ba đêm nay trong phủ Nam phụng vương có người đến báo việc hung, thì ngươi nói lại với người ấy rằng ta đã biết trước rồi, chẳng cần tới báo, vốn bởi số trời như vậy, chẳng cần lo rầu làm chi". Nói rồi sa nước mắt, lòng thiệt chẳng an. Bèn dạy Viên Cang về phủ. Viên Cang nghe nói, lật đật từ biệt các tiên. Về đến phủ, trong bụng ngẫm nghĩ rằng: "Lão già này nói ra những lời bất tường, ắt có duyên cớ chi đây". Trong lòng buồn bực chẳng vui, Mao toại hỏi Tôn Tẩn rằng: "Khi nãy anh nói cái chi mà sa nước mắt vậy?" Tôn Tẩn nói: "Hiền đệ, bởi em chưa rõ, Nam Cực cùng các tiên đi rồi thì Ngũ ôn thần bay xuống rưới ôn, ta đoán vợ Nam Phụng vương nội canh ba đêm nay phải chết, còn Chánh cung Củng quốc mẫu đến giờ tỵ ngày sau thì băng, các học trò cũng không khỏi nạn ấy, ta tuy có lòng thương song chẳng dám cãi trời, thấy chúng nó chết mà chẳng đau lòng sao được, và mấy muôn sanh linh cùng mấy trăm năm cơ nghiệp nhà Tề, đều về tay người khác, như vậy ngươi có thương hay chăng?" Mao Toại nói: "Tam ca, việc chẳng ca chi đến mình, thì mình chẳng cần nhọc bụng, tôi không can đến thì than thở làm gì, tôi từ đây không tới chỗ phiền ba thế giới nữa" Tôn Tẩn nói: "Đời loạn đồ thàn, thiên hạ đao binh, có ai dám đánh tới động Nhàn âm của ngươi đâu, mà biểu ngươi than thở". Mao Toại nói: "Tuy không ai đánh tới động Nhàn âm của tôi,song tôi về đây cũng mây che bít cửa động, kẻo lòng tôi từ thiện, thoảng có việc chi, nín không được thì sanh ra lòng vọng động".
Tôn Tẩn gật đầu, chuyện vãn cho đến canh năm, chờ đến giờ dần. Tôn Tẩn dạy sửa soạn xe tang, rồi vào triều, chờ Tương Vương lên điện để lạy từ. Lúc ấy các quan văn võ đều cùng ra mắt Tôn Tẩn. Tôn Tẩn đáp lễ lại. Đang chuyện vãn cùng nhau, bỗng nghe trống long phụng đánh, Tương Vương ra khách, Tôn Tẩn lạy ra mắt. Tương Vương sa nước mắt nói: "Khi hôm, Vương phi của Nam Phụng vương lâm bịnh ngặt mà thác, trẫm thương người tuổi trẻ và tưởng công lao của ngươi, như mất hết một cánh tay nước Tề, thiệt khá thương tiếc, và khi hôm trẫm không hề nhắm mắt, vì Quốc mẫu lâm bệnh dịch rất trọng, bất tĩnh nhân sự; nay trẫm muốn đưa quý nhơn lên Ngô Kiều, ngặt vì nương nương bệnh nặng, trẫm thiệt khó mà bỏ đi cho được; xin á phụ trước linh cửu bẩm rõ tội ấy, chẳng phải là cái lỗi của trẫm". Tôn Tẩn nói: "Tôi mang ơn bệ hạ, nát mình không tra được. Quốc Mẫu nay tuy bệnh trọng, lời xưa có nói: "Hễ người có phước, thì trời giúp cho, liệu không hề chi, còn Vương phi của Nam Phụng vương, ấy là đại số như vậy, xin bệ hạ nguôn bớt lòng sầu, lấy việc xã tắc nhân dân làm trọng, tôi lên Ngô Kiều, chẳng quá năm ngày thì ắt trở về, việc binh Tần chẳng cần lo sợ". Tương Vương nói: "Trẫm cũng y như lời á phụ phân". Bỗng thấy thái giám vào triều tâu rằng: "Quốc mẫu đã tỉnh lại, xin mời bệ hạ vào cung, có việc tâu cùng". Tương Vương nói: "Trẫm tính đưa quan cữu quý nhơn ra khỏi thành mười dặm, rồi sẽ trở về, ngươi nói lại với nương nương chờ trẫm về, sẽ vào cung". Tôn Tẩn nghe rồi, lật đật tâu rằng: "Quốc mẫu đã vời chúa thượng vào cung, vậy xin bệ hạ lui về". Rồi Tôn Tẩn lạy từ vua, ra cửa ngọ môn, thấy sáu vị tuôn ra cuồn cuộn, nói: "Các vị hiền đồ của ta mà ta không đặng trọn thủy chung như vậy!" Nói rồi khóc rống lên, làm cho sáu vị hầu gia cung đều sa nước mắt, nói: "Lão tổ chẳng qua tạm lên thanh ngưu về phủ, sáu vị môn đồ cùng mười hai vị ấm tập đều mặc đồ trắng, còn Bạch Viên, Mao Toại hai người đi theo hai bên Tôn Tẩn, năm trăm gia đình thảy mặc đồ trắng để tang. Tôn Tẩn cầm phướn dẫn đường, cả triệu văn võ từ nhỏ chí lớn, không người nào mà chẳng đưa ra khỏi cửa, có hai ngàn binh Tề, ngựa trắng giáp trắng đi từ cặp, cờ xí trống nhạc rần rộ theo sau.
Từ cửa phủ Nam quận cho đến cửa tây thành Lâm Tri, trăm họ nhà treo đèn kết tuội, đầu đội hương huê quỳ rước nơi đường, chờ cho linh cữu qua khỏi mới dám đứng dậy, dọc đường một khúc thì tế, một khúc thì đi, tới thập lý trường đình. Tôn Yên dẫn hai trăm gia tướng, mặc đồ tang, quỳ rước, rồi thay đổi xe ngựa. Tôn Tẩn lạy tạ các quan văn võ và quay qua phía bắc, lạy tạ Tương Vương. Dặn dò học trò, phải hết lòng trung quân ái quố, rồi cùng Tôn Yên, Mao Toại, Bạch Viên, ba người nhắm Ngô Kiều thẳng tới.
Nói về các quan văn võ, đưa Tôn Yên đi rồi, kẻ lên yên người ngồi kiệu, trở về ngọ môn, tới cửa tây thành Lâm Tri có gia tướng các phủ đến báo với nói: "Quốc mẫu đã băng rồi". Các quan nghe nói thất kinh bay ngựa tới triều. Vốn quốc mẫu là vì sao trên trời xuống phàm, và có học với người tiên, lẽ nào không biết đặng cái đại hạn của mình, vì bị cảm phong hàn, nhiễm bệnh ôn dịch, cho nên hôn mê bất tỉnh, đến lúc hồn dương lại, trong lòng rõ biết đại hạn không khỏi đặng, thì than thở rằng: "Ta nay ngôi đến Quốc mẫu, quý tộc bực rồi, vả lại từng ra giặc lớn vài trận vì khí số Lâm Tri, mấy trăm năm công phu tổ tông mai một khó giữ". Nhớ đến chỗ ấy, nên sai giám quan lên điện, thỉnh Tương Vương vào dặn dò việc sau. Tương Vương nghe Quốc Mẫu tỉnh lại cả mừng, lật đật gát xe về đến cửa cung, gặp Tẩn phi quỳ rước. Tương vương xuống xe, lật đật hỏi: "Nương nương quả thiệt khá chăng?" Tẩn phi tâu rằng: "Quốc mẫu khi nãy tỉnh lại nói đặng vài lời, bây giờ coi càng không khá, sợ e nương nương thác trong giây phút". Tương vương cả kinh chạy tới long sàng, thấy Củng quốc mẫu mặt như giấy vàng, thở ra một tiếng, hồn đã về trời.
Lầu rồng các phụng nay đâu mất,
Phú quý vinh huê một buột rồi
Nói về Củng quốc mẫu thác rồi, tam cung lục viện để tang lúc ấy văn vỏ về đến triều, thấy thái giám bước ra đứng giữa nói rằng: "Củng quốc mẫu ngày nay, tháng này, giờ này giá băng, các quan vào cung đặng ban hành cho quan viên nhơn mã, thảy đều quái hiếu cư tang". Các quan vâng chỉ vào cung ra mắt Tương Vương, bèn đem việc đưa Tôn Tẩn lên Ngô Kiều táng mẹ, ra khỏi thập lý trường đình, trở về phục chỉ. Tương Vương sa nước mắt gật đầu. Các quan lui chầu ai về phủ nấy. Khá thương chưa hơn nửa ngày, tiếng khóc rúng động, trên đường kẻ để tang người sắm sửa lăng xăng không dứt, chết nơi đường không xiết kể, các quan bị bệnh rất nhiều, qua ngày thứ, Tương Vương lâm điện, chẳng thấy văn võ đến chầu thì than dài nói: "Trẫm tưởng tam cung lục viện bị tai mà thôi, té ra trăm họ cũng đều mang hại; từ lúc Quốc mẫu băng rồi, chưa đầy vài giờ mà trong cung bệnh chết luôn hết hai người, có khi vượng khí đất Lâm Tri này đã hết, nên Á phụ lên Ngô Kiều chôn mẹ, rồi trời xuống tai lạ ấy". Túng không biết làm sao truyền quan Thái y, phát thuốc khắp cho bốn cửa thành, song cũng vô hiệu.
Nói về năm vị ôn thần ở giữa không trung giương lọng ôn hoàng, phất phướn ôn hoàng, liệng gươm thôi ôn hoàng, liệng gươm thôi ôm kim (là gươm thúc làm bệnh ôn) trong thành Lâm Tri chẳng đầy ba bữa, trên đường người đi lần lần thứa bớt. Lúc mới chết ban đầu thì có hòm rương đến sau quấn chiếu, bó ván mà chôn không xiết kể. Trong triều các quan văn võ mười người chẳng còn đặng ba, làm cho Tương Vương hoảng kinh, đứng ngồi chẳng đặng.
Nói về vua tôi nhà Tần cách vài ngày lén sai quân đến Lâm Tri thám thính, quả thiệt tai trời cả đấy, lật đật chạy về phi báo, vua Tần cả mừng dẫn ba quân cùng Hải Triều đánh tới thành Lâm Trì, dọc đường thây chết vô số, đi tới cửa đông, đốt pháo an dinh. Thủy Hoàng cùng Hải Triều ra dinh xem coi, khí đen mù mịt, Hải Triều than nói: "Sinh linh này mắc tai đồ thán, cũng vì mạng trời". Than thở một hồi rồi trở về dinh. Hải Triều dạy Vương Tiển dẫn ba ngàn binh đánh cửa đông, Chương Hàn dẫn ba ngàn binh đánh cửa tây; Tư Mã Hân dẫn ba ngàn quân đánh cửa bắc, còn bao nhiêu ở lại giữ dinh. Lúc ấy quan binh bốn cửa thành chạy vào phi báo. Tương Vương nghe báo hồn bay khỏi xác, phách tán vào mây, lật đật lên điện. Lúc ấy tướng võ thì còn có Viên Cang, Độc Cô Giao, còn quan văn thì có Cao Hiền, nịnh trung vài người mà thôi, mà bộ tịch lại chao vao, mặt như sắc đất, có xác không hồn, đứng chầu hai bên. Tương Vương nói: "Khi nãy quân giữ thành tâu nói: "Binh Tần trở lại vây bít bốn phía cửa thành, biết làm sao bây giờ?" Viên Cang tâu rằng: "Chúng tôi khá ra ngăn được, ngặt vì mang bệnh, cả mình mệt mỏi, làm sao ra trận cho nổi". Tương Vương nghe rồi cúi đầu, chẳng nói tiếng chi, nước mắt nhỏ sa. Cao Hiề tâu rằng: "Binh Tần rất mạnh, và nay binh mã của ta cũng không cự đặng, xin bệ hạ liệu tính lẽ nào". Tương Vương khóc nói: "Trẫm nay có một kiếp chết mà trả ơn tiên đế, có lẽ nào đứa nô tì mà đi thờ nó sao?" Nói rồi khóc rống lên. Các quan cũng đều khóc vùi. Tương Vương nói: "Các khanh hãy về mà giữ gia quyến của các khanh, trẫm cũng chết liền bây giờ". Bốn tôi nghe nói đều quỳ xuống tâu rằng: "Chúng tôi cả đời chịu ơn nhà nước, đâu dám tiếc mình này, vì hôm nay thế ngặt sức cùng, xin theo bệ hạ dặng thấy tiên vương nơi dưới đất". Nói rồi cúi mọp xuống mà khóc vùi. Tương Vương nói: "Các khanh hãy đứng dậy, các khanh đã có chí ấy, thiệt mười phần khá khen". Bèn dạy nội thi đem đô gấm cho bốn tôi ngồi, và truyền dạy quan cận thị, nơi trong điện trước sau, tả hữu, chất củi cho đầy, rồi đất lửa lên. Giây phút lửa khói tột trời, năm vua tôi ở trong điện đều hóa ra tro tà. Nội thị trong cung đều nhảy vào lửa mà chết không xiết kể, ở ngoài đều ra sức phá thành. Quân sĩ nước Tề không chúa, liền mở cửa thành ra đầu. Vương Tiển chẳng dám tự chuyên, phi báo; vua Tần Thủy Hoàng dẫn văn võ đến cửa đông thành Lâm Tri, thấy cửa thành mở hoác, bá tánh bịnh thôi mặt bàng mình ốm, người người đi té lên té xuống, đầu đội lư hương quỳ trước Thủy Hoàng, nói rằng: "Vì ôn dịch cả đấy, người ngựa không ra đánh được, nên vua tôi đóng điện đốt mình mà chế, nay chúng tôi mở cửa rước binh vua vào, xin tha tội chết". Thủy Hoàng mừng thầm, vì rõ biết công việ, liền dạy treo bảng an dân, rồi cho nổi trống chiêng, ngự giá tới cửa ngọ môn, thấy ba tòa đại điện đều cháy thành tro, duy còn một cái điện ngánh chưa cháy. Thủy Hoàng truyền chỉ tới điện tạm nghỉ.
Lúc ấy có mấy thằng nịnh không biết hổ thẹn, mặc đồ triều phục, tới chầu Thủy Hoàng. Thủy Hoàng phong theo chức cũ, truyền chỉ bày yến ăn mừng, và khao thưởng ba quân. Giây phút diên yến dọn rồi, nhường cho Hải Triều ngồi giữ. Thủy Hoàng ngồi một bên. Hai bên dọn ra sáu tiệc, mười hai vị chơn nhơn ngồi trước, kế đó Kim Tử Lăng, Vương Tiển, văn thần võ tướng cứ theo thứ tự mà ngồi. Thủy Hoàng bưng chén rượi nói với Hải Triều rằng: "Từ lúc trẫm dấy binh đến nay, đánh hơn vài trăm trận, khó nhọc gian nan nhiều bề, nếu không có phép thần thông của lão tổ, thì tiểu vương này đâu đặng cái đức lớn như hôm nay, xin khính lão tổ chén rượu này, cho rõ tấm lòng". Hải Triều đứng dậy, tiếp lấy chén rượu, nói: "Ấy là tại phước lớn của hiền vương, chớ bần đạo có tài chi, mà khen cho quá lắm, đã mang ơn ban thường, thì bần đạo xin uống hết chén rượu này, và có một lời xin tỏ". Nói rồi, hai tay bưng chén rượu uống liền. Thủy Hoàng hỏi: "Lão tổ có lời chi xin dạy biểu". Hải Triều nói: "Lúc trước Nam Cực cùng Tôn Tẩn trái trời làm bậy, vì vậy nên tôi xuống núi phò giúp bệ hạ, bữa trước bày trận Sum la, có năm vị tiểu chúa đến giản hòa. Nam Cực cùng các tiên đã về núi hết, còn Tôn Tẩn thì lên Ngô Kiều chôn mẹ, chẳng bao lâu nó cũng về núi Thiên Thai, nay tôi xin cùng các học trò về núi tu luyện, chẳng có phạm chốn hồng trần sát giới nữa, nên trước mặt hiền vương tôi xin cáo biệt". Thủy Hoàng nói: "Lão tổ muốn về núi làm chi gấy vậy. Trẫm nghĩ lại từ lúc dấy binh đến nay, mới lấy được hai nước, còn bốn nước nữa, chẳng biết ngày nào bình phục cho nên được nghiệp lớn. Xin nhờ phép lực lão tổ cùng trẫm mà bình nước Sở, Hàng, Triệu, Ngụy cho xong rồi sẽ về núi, cũng chẳng muộn gì; muôn cầu lão tổ cùng các chơn nhơn, tạm dừng tiên giá ít ngày, thì trẫm cảm ơn chẳng xiết". Lão tổ nói: "Hiền vương từ đây về sau, nhứt lộ hanh thông, không có điều chi lo lắng nữa; muốn bình bốn nước, thì có học trò nhỏ của tôi là Kim Tử Lăng cùng Vương Tiển thì cũng đủ rồi, bần đạo ở đây không làm gì, quyết xin về núi". Thủy Hoàng thấy Hải Triều nói như vậy thì liệu không cầm lại được, bèn dạy nội thị rót một chung rượu đầy, trẫm xin đưa đi, chúc cho lão tổ phước thọ vô cương". Hải Triều uống luôn một hơi cạn chén. Kim Tử Lăng, Vương Tiển hay được dâng rượu. Hải Triều đều tiếp mỗi người mà uống hết. Thủy Hoàng bước tới các chơn nhơn, kỉnh rượu tiễn biệt, rồi kế Tử Lăng, Vương Tiển đều cùng các chơn nhơn nâng chén. Chuyện vãn vui cười, uống vùi một hồi tiệc tan, Hải Triều cùng các chơn nhơn đứng dậy cúi mình nói với Thủy Hoàng rằng: "Bệ hạ chớ lo, cứ việc thẳng tới, ứng theo trời, chẳng mấy ngày thì được thành công, làm nên nghiệp đế, bần đạo xin từ biệt về núi". Thủy Hoàng nói: "Tôi xin vâng lời dạy". Lúc ấy Tử Lăng, Vương Tiển dẫn thanh mao hẩu đứng sẵn trước thềm chờ đó. Hải Triều lên lưng hẩu, bay bổng lên mây, các tiên cũng đều về hết.
Nói về Tôn Tẩn, Mao Toại, Bạch Viên, ba người theo phò xe tang, nhắm Ngô Kiều tấn phát, ngày kia đang đi, Tôn Tẩn vùng qùy xuống, khóc rống lên, nói: "Không phải tôi chẳng muốn hết trung đền nợ nước, ngặt số trời đã định, tôi không dám cãi!" Mao Toại, Bạch Viên lật đật đỡ dậy, nói: "Tam ca, anh làm cái chi như vậy?" Tôn Tẩn nói: "Lúc này vua Tề đóng cửa điện mà đốt mình, lòng ta chẳng thương xót sao được". Mao Toại, Bạch Viên nghe nói, cũng đều thê thảm. Mao Toại nói: "Cũng bởi số trười, không cứu được, thôi chúng ta lo việc của chúng ta cho rồi". Đoạn kéo nhau đi nữa. Ngày kia, phút đến Ngô Kiều. Tôn Tẩn lựa một chỗ đất tốt, dạy quân cất lều tranh, rồi để quan cửa chôn xuống. Tôn Tẩn cùng Tôn Yên, chú cháu Tôn Tẩn lau nước mắt, dạy quân lấp đất lại xong rồi, dọn bày lễ vật, hương đăng tế điện. Tôn Tẩn, Tôn Yên cởi hết đồ tang, để nơi một mà đốt, rồi cùng Mao Toại, Bạch Viên vào lều tranh mà ngồi. Tôn Tẩn nói: "Hôm nay an táng tiên linh, thì lòng ta sở nguyện, công việc đủ chẳng dám xuống hồng trần phạm sát giới mà nghịch lòng trời nữa; còn hệu điệt, cháu phải chạy qua nước Triệu cho sớm mà an thân lạc nghiệp". Tôn Yên nghe rồi đau lòng xót dạ nói: "Nay chú bỏ cháu mà đi, tưởng cháu mồ côi một mình, chẳng có thân thích chi cả, không biết ngày sau có làm nên việc được chăng, xin chú dắt cháu cùng đi". Tôn Tẩn nói: "Chú là người tu hành, dứt không tưởng đến phàm tục, cháu phải nghe theo mạng trời, tùy thời an thân, chú không có lời chi mà dặn nữa". Đoạn Bạch Viện, Mao Toại cùng với Tôn Yên cáo biệt. Tôn Tẩn thót lên thanh ngưu, vỗ sừng con trâu cái, tức thị bay bổng trên không. Mao Toại, Bạch Viên đều lui hết. Tôn Yên quỳ lạy giữa trời, thấy các tiên đi xa rồi, bèn đứng dậy dẫn gia tướng tuốt qua nước Triệu. Tôn Tẩn về núi Thiên Thai, Mao Toại về động Nhàn Âm, Bạch Viên về Nhạn sầu giảng. Từ đó đến sau, tu thành tiên hết.
Nói về vua Tần kéo binh đánh nước Hàng, dứt nước Ngụy, lấy nước Triệu, phá nước Sở, tới đâu không ai dám cự, thế tợ chẻ tre, gồm nên một mối. Thiên hạ tuy rộn rực tranh giành, song những kẻ phàm tục tử, cự sao cho lại cây gươm của Vương Tiển, cho nên không có ai là tay đối thủ với y đặng.
Thế là Tần Thủy Hoàng đã gồm thâu sáu nước làm một vậy.
Hết