Đọc xong khóa giảng các bạn thấy lý trí bị đả kích mạnh? Nên nhận rằng lý trí không phải vì vô ích nhưng vì là duy lý nên nó cản bước tiến của tâm thức con người. Vì một khi đã duy lý thì sớm muộn con người đi đến kết nạp các ý niệm thành những hệ thống rất dày đặc làm như bức thảm trải khắp đầy mặt tâm thức không còn chỗ cho tiềm thức giô lên để hòa hợp với ý thức. Có người nói Âu châu duy vật thì không phải vì Âu Châu thiếu chú ý đến linh thiêng, nhưng là tại linh thiêng được quan niệm theo hình thức giác quan, được tổ chức theo ý hệ, linh thiêng mà đã bị đổ khuôn theo sản phẩm giác quan thì là một thứ vật chất nối dài, nói khác đó là siêu hình mà chưa phải siêu tượng. Tượng có hai loại, từ tiêm thức dâng lên gọi là sơ tượng (sinh tượng hay linh tượng) có nội dung tâm linh; còn từ ý thức sản ra thì là biểu tượng, hay tượng hình, chỉ có nội dung của lý trí hay ý thức là cái gì ngoại lai đối với thân tâm, nên vẫn còn xa người, chưa thẩm thấu đồng hóa với thân tâm như trong trường hợp thể nghiệm. Điều ta thể nghiệm là chính thân tâm ta, không còn thể phân ra chủ thể và đối tượng, dù chỉ là hình hay tượng cũng xóa hết. Có thế Đạo mới không xa người, mới là thiên lý tại nhân tâm. Triết học lý niệm đã không nhìn ra chỗ tế vi đó để xả bỏ ý niệm, lại còn đem chúng kết thành hệ thống vững chắc, thì đó chính là tự rèn xiềng để xích tâm trí làm giảm thiểu khả năng nhập vào thế giới tâm linh toàn diện. Từ đấy duy lý chỉ còn "tiến tại chỗ": chỗ của lý trí là hàng ngang, vòng ngoài.
Muốn lên hàng dọc, tức là còn tiến hóa nữa trên đường mở rộng tâm thức thì bước thứ hai sau lý trí, thiết yếu phải là xả. Xả là gỡ mình ra khỏi những gì bé nhỏ thuộc cá thể. Tất cả mọi ý niệm ta ý thức được rõ ràng, có đường viền chính xác đều thuộc cá thể tiểu ngã: nó rõ ràng vì có mốc giới, nên mới nhìn được chung quanh, phân biệt cái này với cái kia rất minh bạch, như vậy minh bạch là hậu quả của sự phân chia nên cần phải xả bớt, tức là gỡ mình ra khỏi những minh bạch đó vì chúng bé nhỏ, bì phu. Có vậy mới trông được tham dự vào đời sống vô biên của vũ trụ. Như thế xả ví được với việc gỡ mình ra khỏi cái sống của một quan năng riêng để hòa vào cái sống của toàn thân tâm. Xả là từ khước chú ý đến cái nhỏ để nhập vào cái bao la toàn diện. Vì thế xả là bước thiết yếu. Tuy nhiên xả chưa phải là bước cuối cùng, còn phải đi nữa, ngừng lại nơi đây coi như đích điểm thì lại là ứ đọng. Bởi vì xả nhằm mục đích trút bỏ những cái nhỏ bé để đạt miền cao xa, rộng lớn hơn, nay nếu chấp vào xả thì sẽ trở thành ứ trệ, rơi vào bệnh trầm không u tịch. Vì thế xả mới là bước tiêu cực chưa là tích cực tối hậu, nó cũng mang theo một nguy hiểm ứ đọng không kém duy lý: đó là chấp vào ý niệm Vô, nên vẫn còn là một thứ duy lý tàng hình, thí dụ quan niệm về Niết Bàn như cái không u tịch trống rỗng. Những kiểu trầm không u tịch này không những nghèo nàn hóa tâm trạng mà còn làm tê liệt khả năng hoạt động của người mắc phải.
Cũng có khi dòng sống bị ứ trệ đó phát phì ra những hình thái bệnh hoạn như những thứ huyền niệm xây trên các phóng tượng, phóng ảnh, vọng phát kiểu vu nghiễn, hoặc xây trên quan niệm về Niết bàn như một cõi thiên thai xa tắp, thì đó cũng là một sự ứ đọng.
Chính để tránh sự sa đọa ở giai đoạn xả này mà triết lý Nho Việt đưa ra một lối xả khác là an thổ, có thể gọi là lối xả hoạt động (détachement dynamique) và phương pháp nổi nhất của nó là nghệ thuật. Sở dĩ nghệ thuật có thể coi là một cách xả vì nghệ thuật hiểu theo nghĩa rộng thì hàm chứ sáng tạo mà sáng tạo là làm nảy ra một hình thể mới, một dạng thức mới, điều đó đòi phải xả bỏ hình thức hay trạng thái cũ đã cứng đọng, không xả bỏ cũ thì mới đứng vào đâu. Chính vì chỗ ấy mà thấy tâm hồn nghệ sĩ chân thực rất thanh thoát, rất ít câu chấp hình thức này nọ, nhưng luôn luôn đi tìm những hình thái mới, và sẵn sàng đón nhận những hình thái chưa xuất hiện bao giờ. Tuy nhiên đó mới là hậu quả của riêng nghệ thuật, chưa được triết lý tu luyện vun tưới. Có nền triết nào khai thác hiệu năng xả đó của nghệ thuật chăng? Thưa có, đó là Nho triết. Nho triết vì lấy Kinh Dịch làm nên, mà tinh túy Dịch là không thể đưa ra một hình thức điển yếu cố định, nhưng "duy biến khả thích" và "vô khả vô bất khả" nên cũng là tính chất của nghệ thuật. Chính nhờ tính chất "biến dịch", tính chất nghệ sĩ đó mà Nho triết không vướng vào những lối huyền niệm u tích, những dị đoan vu nghiễn, và vẫn luôn luôn có thể xả, xả mãi để một sáng kia được "nghe Đạo" bước vào đợt ba là:
Triêu văn đạo. Triêu hiểu theo nghĩa bóng khác với xả. Xả là tiêu cực, là đêm tối, thì triêu là bình minh. Xả lý trí bé nhỏ cùng những sản phẩm eo hẹp của nó, thì ý thức tưởng như mất hết, như không còn gì nên kể là tối tăm, nhưng có đêm tối rồi mới có bình minh: có xả lý trí mới đạt tâm linh như mặt nhật huy hoàng tỏa ánh triêu dương soi khắp chân trời, gây nên một sự sáng tạo chân thực không những về hình thức, mà còn cả nội dung, đường hướng, tất cả đều rộng hơn trước nhiều, đến nỗi không còn hạn chế trong sản phẩm nghệ thuật, nhưng tràn tới tất cả cuộc đời: sống thanh thoát uyển chuyển linh động sẵn sáng chấp nhận mọi hình thái, mọi hoàn cảnh. Đó mới là sáng tạo thật nói đến ở hào 5 quẻ Kiền "Đại nhân tạo dã, thánh nhân tác dã". Hậu quả chữ Văn Đạo lớn là như vậy.
Hầu hết người học triết không phân biệt chữ Văn Đạo như thế nào. Câu nói của Mạnh Tử sau đây phải được chú ý: "tiểu hữu tài vị văn quân tử chi đại đạo". Thường người ta không coi trọng văn đạo, đến nỗi lẫn "tiểu hữu tài" với "văn đại đạo" là cái thống quan biết nhìn tất cả trong liên hệ với toàn thể, để rồi đánh giá triết theo sự cao thấp của tiểu tài như viết văn hay tư tưởng độc đáo, kết cấu hệ thống nguy nga, phân tích tỉ mỉ… nhưng tất cả hạn hẹp trong một góc nào đó mà không kể chi đến Đại Đạo hay đường hướng. Như thế là lấy cái bé nhỏ làm hơn cái lớn, tệ hơn nữa lấy làm tất cả. Tình trạng đó hiện đang ngự trị hôm nay là vì tất cả đều chấp nhất: không hữu vi (bất xả) thì lại vô vi (duy xả), không biết cách xả trung thực, thì sao trông mong được "triêu văn đạo". Mà Đạo đã không được Văn tức không thể nghiệm thì tất nhiên chỉ biết đánh giá mọi sự theo cái "có" của lý trí tức các sản phẩm của tiểu ngã: ý niệm, văn từ, hệ thống... nói khác chỉ biết có suy tư (danh lý, biện chứng…) mà không biết đến Tâm Tư.
So với luận lý bất kể thứ nào dù là tối tân thì Tâm Tư cũng đều hơn hẳn được hai chiều kích nữa, một là lý nhưng hai là xả bớt lý trí để rồi đôn hậu tình người, để đến lúc tình thâm thì văn sẽ minh. Văn minh như vậy không hiểu về máy móc cơ khí khách quan, nhưng hiểu về nội tâm, nên văn minh cũng là Văn Đạo, tức nhận ra con người ngoài chiều kích tiểu ngã hạn hẹp chịu điều kiện của không gian thời gian, còn có một đời sống vô biên. Triêu văn Đạo là nói lên lúc con người tiểu ngã được hớp vào dòng sống tâm linh man mác đó để cùng rung một nhịp với vạn vật trong vũ trụ.
Và như thế ta hiểu tại sao triết lý Nho Việt chú trọng đến tình, coi tình là cửa ngõ dẫn vào tâm. Vì tình là cái gì bao la không vật nào không có. Lý trí suy luận chỉ có nơi người, nhưng còn cảm xúc thì con vật, cây cối, kim loại đều cảm xúc cả, chính vì cảm xúc cảm tình, cũng như sự bóp nở của các cơ năng cùng chung với vạn vật nên ta không ý thức nổi, vì ý thức có hạn mà cảm xúc, bóp vào nở ra là cái gì vô biên nên nó gắn liền với tiềm thức, vô thức. Vì thế cần nghệ thuật để hòa hợp với những cái vô biên đó. Hãy lấy nhạc làm thí dụ khi tiên Nho nói "cố nhạc hành nhi nhĩ, mục thông minh, khí huyết hòa bình" thì ta thấy được giá trị của nhạc, vì nó ảnh hưởng vào những miền vượt sức ý chí (ý thức): ý chí không thể làm cho nhĩ mục thông minh, cho khí huyết hòa bình, vì đó thuộc phạm vi vô thức. Khí huyết lưu thông bên ngoài tầm ý thức. Vậy mà nhạc tác động vào tận khí huyết, thì đủ hiểu nhạc có khả năng sâu rộng vào đến các tầng lớp vô thức (thiên địa). Vì thế mà nói "nhạc dữ thiên địa đồng hòa".
Mỗi khi qua cầu xa lộ đến chỗ nối thì bạn hãy nhớ rằng vì xi măng cốt sắt cũng biết cảm xúc, lúc rét thì co, lúc nóng thì duỗi, nên kỹ sư phải trù liệu chỗ cho "người ta duỗi chân". Thiếu đường nối cầu sẽ sụp, nhà sẽ đổ. Do đó các người xây cất mới để đường nối đặng tránh tai họa. Nhưng đấy mới là cử chỉ tiêu cực, chưa biết từ đó để tìm hiểu sâu hơn rằng: cầu sụp nhà đổ chỉ là những sự phản đối của kim loại trước thái độ nông cạn của con người, dám kiêu căng gọi kim loại là "vô tri". Ừ thì "vô tri" vậy mà khi người làm sái luật, thì vô tri vẫn biết "phản đối". Sự phản đối này nói to lên rằng con người quá cạn cợt: có mắt tai mà không biết xem nghe là vì "tâm bất tại", nên hễ cái gì vượt ra qua tầm giác quan và lý trí là không đếm kể tới nữa. Có nói lên được mới cho là biết, là triết!
Nho triết ý thức chỗ sơ hở đó, nên lấy việc đôn hậu tình người làm quan trọng, dùng nghệ thuật, nhất là thi và nhạc để tinh luận hóa tình và tâm, để con người học đạo càng ngày càng trở nên nhạy cảm mẫn tiệp: để từ một băng lý trí cảm giác vươn lên băng thứ hai là tình thâm để rồi vào băng thứ ba là "văn minh" và lúc ấy thì bắt được hết mọi đài phát thanh, kể cả đài thảo mộc đến đài kim loại. Tất cả đồng thanh đồng khí, nên tương ứng tương cầu. Đã tương ứng tương cầu đựơc với kim khí thì phương chi thủy, hỏa, mộc, tất cả đều liên hệ với thổ trung tâm và tự do đó đồ biểu ngũ hành không còn là đồ biểu chết, nhưng rung lên một chân lý bao la thực sự. Vì thế tiên nho mới nói "nhất nhơn chi tâm tức thiên địa chi tâm, nhất vật chi lý tức vạn vật chi lý": tâm một người cũng là tâm thiên địa, lý một vật cũng là lý vạn vật. Lý đó mới là triết lý. Tâm đó mới là Tâm tư. Nó không còn ở trong đợt biệt thời: cái này xa các cái kia (discontinu), tất cả vạn vật chỉ là cá thể, không có liên hệ nào, nhưng đây đã đi vào đợt hòa thời, nên tất cả ràng buộc trong nhất thể sống động được thể nghiệm qua toàn thân tâm con người lúc ấy như phồng lên đến bằng vũ trụ, làm nên một tâm trường (champ continu psychique). Cho nên chữ Tâm không thể dịch ra chữ gì cho cân xứng: dù tiềm thể, tiềm thức, vô thức, siêu việt, thì chữ nào cũng là gượng, nhưng vì mạch văn phải thay đổi để trình bày khía cạnh của Tâm, điều cốt yếu là tránh những danh từ làm cho tâm bị hiểu ran xa khỏi người. Vì Tâm mà đúng nghĩa có nội dung chân thực là khi thể nghiệm. Thể nghiệm ví được với "giếng thiêng" tuôn trào, như ăngten rất nhạy cảm, mẫn tiệp, nên liên tiếp tương ứng tương cầu với vạn vật, với toàn thể vũ trụ. Tất cả mọi vật đều phát đều thu: thu thanh khí rồi phát khí thanh, làm nên dòng sống sinh sinh bất tức. Người biết tâm tư là người tham dự vào dòng sống ấy và sẽ thấy Tâm là dòng sông viên mãn đầy tròn. Cho nên người học triết phải coi việc vun tưới tâm tư là bước tối đại. Viết tới đây tôi nhớ có lúc đã hùa theo công luận trách các cụ xưa sao bỏ bê khoa học mà chỉ toàn khóc gió vịnh trăng. Đến nay tôi mới nhận ra rằng nghĩ như thế chỉ là a dua theo lưu tục, chỉ biết coi trọng những cái chi hữu ích hiện hình ra trước mắt, mà không biết vươn mình lên đến đợt an vi để nhìn thấy giá trị của việc khóc gió than mây.
Theo triết lý an vi thì tác động qui định bởi đối tượng: đối tượng càng thô dại, nghĩa là càng thuộc vật chất, thuộc quyền giác quan thì càng qui định tác động, đến nỗi nếu đối tượng hoàn toàn vật chất thì nó qui định trọn vẹn tác động và luôn cả chủ thể cũng bị bóc lột trọn vẹn giá trị. Thế giới hiện đại là vật giới với các con người bị tước đoạt chủ quyền vì đó, nên các bậc thang giá trị được xếp theo năng suất, theo tiền của, cao thấp được xếp theo cái chúng ta có (avoir) chứ không theo cái chúng ta là (être).
Muốn lấy lại chủ quyền cho con người thì cần đem trọng tâm di chuyển sang bên tác động. Khi nào tác động đã gỡ ra khỏi đối tượng, thì lúc đó chủ thể sẽ lấy lại được quyền quyết định và trở nên chủ thể. Như vậy lý tưởng phải là tác động tinh tuyền (acte pur) nghĩa là làm mà không "chấp" vào thành quả. Khi đã không chấp thành quả thì ý niệm về thành quả (lo âu canh cánh sợ thất bại) không rút tỉa được sinh lực của chủ thể, nên toàn khối sinh lực được đầu tư trọn vẹn vào tác động. Tác động vì thế trở nên thành khẩn hăng say đầy khả năng giúp chủ thể vươn lên đợt an hành.
Đại khái đó là lý tưởng. Phương tiện sẽ là xả bỏ nhẹ mọi cái thô dại thuộc giác quan để đi lên. Nhưng tiểu ngã không dễ gì chịu thua mau lẽ như thế mà không phản động để tự vệ, để củng cố địa vị mổi khi có sự xả. Vì xả là làm yếu tiểu ngã. Vì thế nó mới phản động. Muốn tránh phản động thì cần phải đi lối an vi: an là không dứt bỏ đột ngột, không xả bằng cách cự tuyệt kiểu vô vi, nhưng êm đềm vì có làm, nhưng làm cách an vi. Theo đó thì lúc khởi đầu không bỏ đối tượng mà chỉ thay thế đối tượng thô dại nặng tính chất ích dụng bằng những đối tượng vi tế, uyển chuyển, phi ích (gratuit). Tìm đâu cho ra những đối tượng lọai phi ích, uyển chuyển vi tế này? Thưa có đây: đầy cả một kho vũ trụ, đó là gió trăng, là sông núi, là mây mưa… toàn là những cái rất biến dịch, mau tàn như sương mai, luôn chảy như nước suối, vi vu như gió thoảng, thay đổi như trăng lúc khuyết lúc tròn…
Kìa xem bóng nguyệt dòng sông
Ai hay không có có không là gì?
Là vì chảy như thế ngày đêm không ngừng nghỉ hơi đặng lấy sức để mà chảy nữa, tha hồ cho mà khen, mà ngợi, tha hồ cho mà vịnh mà hát, mà khóc mà than chán cũng không sao bám vào được, có khen ngợi hết lời cũng không được, thế mà lại vẫn có làm, vẫn có đối tượng, tiểu ngã khỏi lo bị xả. Đã không lo thì hết tự vệ, hết cứng rắn lập trường, nên dần dần trở thành mềm ra, yếu đi, đang lúc đó tâm thức cứ làm, cứ "có" tác động, nên mạnh lên dần, mạnh lên mãi… Khiến dần dần cảm thấy lâng lâng thanh thoát, đột nhiên một lúc nào đó sẽ đạt miền an hành, ở đây hoạt động say nồng mà không còn bám vào thành quả tức không bám vào tiểu lợi chật hẹp, nhưng lấy tòan thể vũ trụ làm môi trường hoạt động, bởi đấy việc nào trong vũ trụ cũng được coi inhư phận sự của mình, thành khẩn coi như thế: "vũ trụ nội mạc phi phận sự". Trong cái thế giới đang ngạt thở vì danh với lợi, giá mỗi người biết vịnh gió ngắm mây thì hay biết mấy.
Đại để đó là bí quyết, đó là cái triết lý thâm sâu của việc vịnh gió khóc mây. Thoạt coi tưởng như làm những chuyện không đâu. Nhưng chính nhờ những tác động không đâu ấy mà xưa kia nước ta đã có những ta tế thế an ban, đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết. Còn nay với cái học rất thiết thực, quá ích dụng, nên càng ngày càng thưa mãi, thưa mãi những tâm hồn quảng đại bao la, không những biết suy tư và cảm xúc mà còn biết tung cánh tâm tư bao trùm vũ trụ.