4
Trăng vằng vặc. Sau khi chúng tôi đã ngủ say, Lai Đệ rón rén xuống giường để khỏi kinh động thằng Câm suốt ngày ngoài đồng, đêm về ngủ như chết. ánh trăng sáng tỏ khuôn mặt đen nhẻm của thằng Câm, hắt lên những tia nhấp nhoáng chẳng khác tảng đá gan gà phủ lớp sương trên mặt. Anh ta miệng há hốc, ngáy như sấm, hàm răng như đúc bằng thép. Nhìn ngôi sao Thái tuế của đời mình tóc mai đã điểm sương, trong lòng Lai Đệ có phần áy náy. Thời kỳ này đã có rất nhiều người biết chị và Hàn Chim có quan hệ xác thịt, chỉ mỗi thằng Câm say sưa trong giấc mộng anh hùng nên chưa biết. Con người này quân trang đã rách nhiều chỗ, chiếc huy hiệu công thần đã phai màu, tróc mạ, trơ cả kim loại ra. Lai Đệ đẩy nhẹ cánh cửa, chị nghe thấy tiếng thở dài nặng nề và bất lực của mẹ. ánh trăng tuôn chảy như dòng suối bạc, gió đêm mát đến nghẹn thở. Hàn Chim chàng e dè gì cả, ho rất to ngoài sân. Anh ta hỏi:
- Em sợ cái gì?
Lai Đệ vội lấy tay bịt miệng anh, ra hiệu đừng nói. Anh ta vẫn lẩm bẩm:
- Sợ cái gì cơ chứ?
Lai Đệ cùng Hàn Chim đi theo con đường mòn màu vàng xỉn, hai bên là hoa màu chưa thu hoạch. Ra khỏi thôn, nhằm hướng đầm lầy mà đi tới. Lúc này là giữa mùa thu, sương đêm bám đầy mặt lá trông như những chuỗi hạt. Vùng Cao Mật không yên tĩnh, những lò luyện thép theo lối thủ công hắt ánh lửa vàng nhạt, hơi than cuồn cuộn như dòng chảy. ánh trăng quả là đẹp, có thể trông rõ từng cột khói bay lên trời rồi trên tầng cao tít tắp, chúng liên kết thành những đám mây hình mắt võng.
Lai Đệ theo Hàn Chim đi bẫy chim. Hàn Chim đã trở lại nghề cũ vì đi nói chuyện mãi cũng đã nhàm. Ban ngày, anh đi bẫy cò để bồi dưỡng cho Lai Đệ. Họ đi men theo đường nhỏ trên cánh đồng, gió lạnh, hai người đi sát vào nhau. Tính khí ngang tàng của Hàn Chim đã lôi cuốn Lai Đệ, khiến chị tạm thời trút bỏ gánh nặng tinh thần. Mùi của loài chim tỏa từ nách Hàn Chim khiến Lai Đệ ngây ngất. Chị hỏi khẽ:
- Anh Hàn, anh Hàn! Thằng Câm sớm muộn thế nào cũng biết, nó sẽ không tha chúng mình?...
Hàn Chim càng ôm chặt eo lưng chị, miệng huýt sáo lanh lảnh, không nói gì. Ra đến ven đầm, Hàn Chim để chị ở lại trong túp lều hình tam giác được dựng bằng những cây cao lương, dặn chị không được làm ồn, rồi anh mò mẫm lấy trong xó lều một nắm lông đuôi ngựa, dây thép, rồi lặng lẽ lách qua những bụi lau vào sâu bên trong. Dưới ánh trăng, người anh lấp lóa như con mèo đốm, cử động nhanh nhẹn, im lặng như một bóng ma. Cặp mắt đen láy của Lai Đệ dõi theo cái bóng cao lớn của người tình, trong lòng vô cùng cảm khái. Đâu phải người mà là thần. Con người thì làm sao chịu nổi hơn mươi năm cuộc sống của muông thú, nói thì làm sao sống được, hơn nữa làm sao hồi phục nhanh đến thế? Thân hình tráng kiện, sắc bén như thanh bảo đao mới mài. Người thì làm sao thần tình đến như vậy, nói bắt chim gì là bắt chim ấy, nói bắt mấy con là bắt mấy con, hình như anh ấy hiểu tiếng chim, biết hết những bí mật về chim, là vua của các loài chim? Nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, chị lại nghĩ tới cô em thứ ba có đôi mắt phượng. Người đàn ông trước mặt vốn là của cô ấy. Cô ấy lẽ ra phải là Hoàng hậu của vương quốc chim, nhưng trời xui khiến vậy thế nào, âm dương lẫn lộn thế nào mà của cô ấy lại thành ra của mình? Của mình rồi lại thành của ai? Lập tức chị nghĩ đến Sa Nguyệt Lượng đen như cột nhà cháy, nghĩ đến Tư Mã Khố sôi nổi mãnh liệt, nghĩ đến Tôn Bất Ngôn cưỡng hiếp Tiên Chim, ngọt bùi cay đắng mấy chục năm trở về đầy ắp trong ký ức. Nghĩ mình đã từng phi ngựa múa dao tung hoành trong thiên hạ, đã từng phong gấm rủ là, cao lương mỹ vị, vó ngựa trắng như tuyết, áo bào đỏ như huyết, như phượng hoàng sải cánh, như khổng tước xòe đuôi, phồn hoa như cánh nhạn, phú quí như mây trôi! Từ khi Sa Nguyệt Lượng tự vẫn, Lai Đệ ta rơi vào vòng lẩn quẩn, điên điên khùng khùng là ta, ai cũng có thể là chồng ta, người người nguyền rủa ta, cuộc sống như vậy tốt hay xấu? Nói rằng tốt thì chưa ai tốt bằng, xấu cũng chưa ai xấu bằng! Nghiến răng lại gồng người lên mà xả láng với Hàn Chim!... Lai Đệ suy nghĩ mông lung đã mấy bận tủi thân suýt khóc. ảnh trăng quả thật đẹp, trong vắt, bao la, như dòng sông ngân tràn lên cây cỏ, như dát bạc lên mặt nước trong đầm, vẩy vàng vẩy bạc như manh lưu ly, mùi bùn, mùi cỏ mục hòa quyện với ánh trăng mê ly tỏa khắp đất trời.
Hàn Chim đã quay lại với hai bàn tay không. Anh nói đã đặt xong bẫy, đến một lát sẽ đi bắt. Đêm nay trăng sáng, chim thú đều rối loạn đồng hồ sinh học. Tôm cá đùa giỡn với ánh trăng, cò đi kiếm mồi dưới trăng. Hàn Chim nói rằng, vào những đêm bình thường, cò đứng bất động suốt đêm bằng một chân, nhưng đêm nay thì lò dò đi lại, cái cổ cong vươn ra rụt lại như lò xo. Con cò cẳng cao cổ dài, tầm nhìn thoải mái, thăng bằng lúc đứng, uyển chuyển khi đi, ôi sao mà đẹp mắt! Trong mắt Lai Đệ, Hàn Chim lom khom chui vào trong lều chính là con cò?
Anh ta ngồi bên Lai Đệ. Chị hít lấy hít để mùi cỏ dại và mùi ánh trăng trên người anh, cái mùi khiến chị như tỉnh như say, như thư thái như điên cuồng! Trong khoảng thời gian đợi chim mắc bẫy và trong căn lều ấm áp cách xa thôn xóm này, người đàn bà tự trút bỏ quần áo, còn quần áo của người đàn ông thì do người đàn bà cơi hộ. Lần giao hoan này giữa Hàn Chim và Lai Đệ là để hiến tế trời đất bao la vùng Cao Mật, là sự trình diện mẫu mực cho loài người. Về trình độ, cao hơn chín từng mây, về kiểu cách, nhiều hơn các loài hoa trên mặt đất. Quả thật họ không còn nghĩ tới sự sống còn nữa. Vầng trăng lóa mắt, cằn nhằn chui vào đám mây nghỉ ngơi. Hàn Chim nằm phục trên người Lai Đệ, nhớ lại chuyện thương tâm trong rừng sâu núi thẳm ở Nhật. Anh nói:
- Lai Đệ, trước khi biết em, anh có lần đã trông thấy thân thể người phụ nữ!...
Lai Đệ mắt long lanh trong tiếng dế kêu. Chị bảo:
- Anh kể cho em nghe đi!
Như một anh nông dân cuốc đất. Hàn Chim vừa vung cán cuốc vừa kể chuyện. Anh kể mùa thu năm ấy anh có ý định bẻ trộm một bắp ngô để ăn. Trong rừng đại ngàn của Nhật Bản, lá vàng chen lá đỏ rực rỡ, hoa rùng thơm ngát nở khắp thâm sơn cùng cốc. Lúc này anh đã mất con dao thái rau, râu tóc bù xù bết lại từng mảng, trên mình khoác chiếc áo bằng giấy, bảy phần giống quỉ, ba phần giống người. Những cây ngô, phần bắp đã bị bẻ chỉ còn lại phần bẹ, rất giống người đàn bà góa đang bưng mặt khóc. Anh sục sạo khắp ruộng, không tin rằng đã bị bẻ sạch. Quả nhiên anh vớ được một bắp, vội bóc bẹ ăn ngấu nghiến. Đã lâu lắm không được ăn thức ăn của người, răng tê dại đi. Có tiếng loạt soạt, anh tưởng gặp gấu chó. Gấu chó và anh vốn có duyên nợ với nhau, thật ra, anh rất sợ gấu! Anh vội nằm sấp giả vờ chết, tất nhiên cũng phải nín thở. Không phải gấu mà là một phụ nữ Nhật. Thoạt tiên, anh tưởng đó là người đàn ông vì chị ta mặc chiếc quần bảo bộ lao động bằng vải bạt rộng thùng thình, áo dài màu vàng xỉn đóng cúc giữa, lưng thắt sợi dây thừng, đầu đội mũ rơm hình nấm. Chị ta bỏ nón, chụp lên ngọn cây ngô. Anh trông rõ khuôn mặt gầy gò, vàng bủng, khuôn mặt của người đói ăn. Trông thấy mớ tóc cuộn tròn trên đầu, anh đoán người này là nữ, nên bớt sợ đến quá nửa. Chị ta cơi sợi thừng ngang lưng, phanh ngực áo dài ra rồi hai tay cầm hai vạt quạt phần phật cho bộ ngực lấm tấm mồ hôi, y hệt con chim vỗ cánh. Trên bộ ngực dính đầy hạt cỏ là cặp vú dẹt như lưỡi bò, hai núm vú như hai quả táo khô dính lủng lẳng ở đầu nhọn của hai lưỡi bò đó. Trời ơi, đây là một phụ nữ, một con cái. Hàn Chim cảm thấy có cái gì nổ tung trong đầu, máu chảy rần rật trong huyết quản. Cơ thể khô cằn của anh đột nhiên trở nên nhanh nhẹn. Anh đứng phắt dậy. Người phụ nữ Nhật mở tròn đôi mắt một mí, kêu lên một tiếng lạc cả giọng rồi thụt lùi mấy bước. Như hổ đói vô mồi, anh nhảy tới trước mặt người phụ nữ sắp ngất đi vì sợ, tay run lẩy bẩy chụp lấy bầu vú trắng nhợt, lép kẹp như con cá chết. Vậy mà bầu vú lạnh ngát ấy khi chạm phải, anh thấy các đầu ngón tay nóng ran như bánh mới ra lò. Anh lẩm bẩm điều gì đó, vụng về xé toạc mảnh vải quấn quanh người chị ta, hai chiếc bánh đậu bẹp dí văng ra, một mùi thơm của đậu khiến anh ngây ngất, thu hút toàn bộ tâm trí anh. Mắt anh mờ đi, hai chiếc bánh chừng như trêu ghẹo anh, nhảy như hai con sóc. Bất chấp tất cả, anh chạy theo vồ chúng, nghe thấy chúng kêu chi chí trong lòng bàn tay rồi anh cảm thấy cổ họng bị tắc nghẹn. Hai tay anh bây giờ không có gì cả, không hiểu hai cái bánh bỏ chạy hay đã rơi vào trong bụng anh. Cuối cùng thì anh hiểu ra, chính cái bánh đã làm anh nghẹn. Anh giơ tay xoa cổ, trong miệng anh toàn mùi vị của bánh đậu, anh cảm thấy bụng sôi ùng ục, nước miếng chỉ chực ứa ra, chiếc bánh xinh đẹp lăn lông lốc trước mặt. Anh khám rất kỹ trên người chị ta rồi lại ngó xung quanh, những chiếc bánh đậu không xuất hiện theo ý muốn của anh, anh cảm thấy thất vọng quá Anh quay người định bỏ đi thì lại trông thấy cặp vú lép kẹp của chị ta và cảm thấy hình như còn một chuyện quan trọng chưa được thực hiện, không nên bỏ đi vội. Đàn bà, người đàn bà Nhật đang đứng trước mặt anh, có thể chính chị ta là người nữ cảnh sát năm xưa, do người ấy báo động mà có chuyện lục soát trong núi, dẫn đến hai người anh em bị thiệt mạng. Mối thù với người Nhật được khơi lại, quang cảnh bị bắt đi làm phu ở Cao Mật, quang cảnh làm thân trâu ngừa ở mỏ than, rồi thì cuộc chia tay tử biệt sinh ly với cô gái thơ ngây nhà Thượng Quan, tất cả hiện rõ mồn một trước mắt. Một giọng âm vang từ trên trời dội xuống: Mần nó đi, trả thù! Thế là anh hung hãn xé toang chiếc quần đang mặc của chị ta, để lộ chiếc quần lót bẩn thỉu màu hồng xỉn có miếng vá đen bằng bàn tay. Như bị dội nước lạnh lên đầu, anh run lên vì một nỗi đau ập đến. Đó là cách dây nhiều năm, khi thay quần áo để khâm liệm cho mẹ anh bị thằng du đãng đánh chết, mẹ anh cũng mặc chiếc quần lót như thế này, cũng vá một miếng vải đen bằng bàn tay như thế này. Tự nhiên anh thấy lọm giọng và nôn hết bánh đậu và ngô trong bụng. Cố nén cơn đau quặn, anh ném hai cục đất vào người đàn bà rồi đứng dậy lảo đảo chạy vào rừng...
Lai Đệ quay nói lại ngắm khuôn mạt đường nét phân minh của Hàn Chim, khẽ nói:
- Anh thân yêu, anh quả là con người tốt...
Hàn Chim cọ bộ râu cứng trên núm vú như quả anh đào của Lai Đệ, nói:
- Nếu anh làm chuyện ấy là không phải với trời đất, không phải với em! Mà đã vậy thì anh không thể trở về Cao Mật để gặp lại em!...
Hai người ôm chặt nhau đầy thông cảm, chỉ tiếc người nọ không thể tan biến vào người kia để không còn phải xoắn xuýt lăn lộn, không còn phải nói năng lảm nhảm khi cuồng hoan. ánh trăng thấp thoáng trên người họ, lấp lánh như rượu có thuốc độc. Gần sáng, họ trở dậy mặc quần áo, ra đầm bắt cò sa bẫy. Trăng trong gió mát, không khí lấp lánh như vẩy bạc. Trong đầm, từng cụm hoa nở về đêm tỏa hương ngây ngất, vài con chim lớn kêu quàng quạc bay dưới ánh trăng. Một đàn chim nước đậu trên một cây lùn, tán rộng, trông như những quả cây. ánh trăng đẹp vô ngần. Lai Đệ bám sát Hàn Chim chui qua những bụi lau vào sâu khoảng một tầm tên bắn, quả nhiên thấy hai con cò đã mắc bẫy. Chúng bị nghẹt thở gần chết, chiếc mỏ dài màu xám đen cắm trong bùn. Lai Đệ cảm thấy bất nhẫn, hỏi khẽ Hàn Chim:
- Làm cho chúng sống lại được không?
Hàn Chim trả lời dứt khoát:
- Chết hay sống là tùy ở em!
Mỗi khi trời chạng vạng tối, từng đàn cò bay lượn trên đầm lầy, dưới ráng chiều đỏ rực, cánh cò chấp chới như tà áo của một tuyệt thế giai nhân.
5
Để cứu tính mạng cho cả nhà, chị Tư đã tự bán mình làm điếm. Đây là một bí mật đau xót của nhà Thượng Quan chúng tôi. Cả nhà chịu ơn chị, vậy nên khi chị từ phương trời nào không biết, ôm cây đàn yêu quí của chị trở về, nước mắt mẹ tuôn rơi như chuỗi hạt châu, ướt đầm ngực áo. Lúc này, nhà Thượng Quan chúng tôi người thì chết, người thì bỏ đi, tan đàn sẻ nghé, mẹ trông thấy chị Tư đã lâu bặt vô âm tín thì làm sao không đứt từng khúc ruột! Số vàng ngọc châu báu chị Tư giấu trong hộp đàn tì bà đã bị cán bộ công xã tịch thu, chỉ cho phép chị mang cây đàn đã bị đập vỡ hộp cộng hưởng về nhà. Chị và mẹ ôm nhau khóc, khóc chán, lau sạch nước mắt. Chị Tư nhìn mái đầu hoa râm của mẹ, nói:
- Mẹ, không ngờ kiếp này con còn được gặp lại mẹ!...
Nói chưa dứt câu, chị đã òa khóc. Mẹ xoa vai chị, nói:
- Tưởng Đệ, con gái xấu số của mẹ...
Chị Tư hỏi thăm tình hình các chị, mẹ xua tay:
- Đừng hỏi gì nữa!
Chị Tư nhìn tôi, nói:
- Chỉ cần còn Kim Đồng là chị yên tâm, nhà Thượng Quan chúng ta có người nối dõi rồi!
Mẹ ngao ngán, nói:
- Cô ngốc của mẹ, gì mà nối dõi với chả nối dõi? Thời buổi bây giờ làm sao tính được những chuyện ấy!
Chị Tư có một tiểu sử cay đắng, đầy nước mắt, chúng tôi không có quyền hỏi. Chúng tôi thận trọng bảo vệ vết thương hễ chạm là ứa máu của chị. Nhưng người ngoài thì không nghĩ vậy, họ muốn gia đình tôi ngày nào cũng có chuyện giật gân cho họ xem. Sau khi trở về, chị Tư ở lì trong nhà, nhưng cái tin cô gái nhà Thượng Quan làm điếm mấy chục năm, đem về không biết bao nhiêu vàng ngọc châu báu đã lan rất nhanh khắp vùng Cao Mật. Tôi ra đồng tìm lương thực trong các hang chuột, vợ ông Trần Thọt là Trương Quốc Hoa cuối hí hí bảo tôi:
- Ông anh, việc gì ông anh khổ sở thế! Việc gì phải đào hang chuột để lấy lương thực? Chỉ cần bán một thứ trong số châu báu chị Tư đem về đã đủ mua một chuyến tầu bột mì ngoại?
Tôi trừng mắt nhìn người đàn bà tai tiếng vì thông dâm với bố chồng, nói:
- Chị nói thối như cứt ấy!
Chị ta xán lại, hỏi nhỏ:
- Ông anh này, nghe nói có một viên ngọc dạ minh châu to bằng quả trúng gà phải không? Về đêm nó phát sáng, soi rõ mọi thứ trong buồng, đúng không? Liệu có thể cho chị đây ngó qua một tí để mở rộng tầm mắt? Liệu có thể xin chị Tư một hạt, dù chỉ bằng hạt đỗ làm đồ trang sức, dù chỉ một dây chuyền mảnh như sợi tóc cũng tốt chán?- Chị ta đưa mắt tống tình, trêu - Đừng chê chị có nước da đen, chị đây là dưa Ha-mi, vỏ thô nhưng cùi ngọt. Chàng chẳng nghe người ta nói đấy sao: Thông trắng cám vàng, đen thì lắm nước, hói đầu rỗ mặt thì không biết mệt đó sao!...
Chị Tư ở lì trong nhà cũng không thoát nạn, đúng như câu cây muốn lặng nhưng gió chẳng đừng. Cái tật thích đấu tranh trong công xã lại kịch phát, họ tổ chức triển lãm nhằm giáo dục đấu tranh giai cấp ở hội trường công xã. Đây là cuộc triển lãm đấu tranh giai cấp lần thứ hai trong lịch sử Cao Mật, so với lần đầu thì về nội dung có khác đôi chút. Tranh ảnh và áp phích đều xoay quanh hai nhà Thượng Quan và Tư Mã, làm như lịch sử Cao Mật là lịch sử hai gia đình Thượng Quan và Tư Mã vậy. Dân chúng không thích xem những tranh ảnh này, chỉ thích xem triển lãm về chị Tư. Các cán bộ đáng ghét của công xã trưng bày trong tủ kính tất cả những thứ mà cả đời chị Tư ky cóp được, cho mọi người xem. Chúng sáng lấp lánh khiến mọi người hoa mắt. Sau ba ngày triển lãm, nhiệt tình với báu vật giảm đi, hận thù giai cấp vẫn không thấy nâng cao rõ rệt, các cán bộ công xã liền nảy ra một ý, bắt chị Tư đến triển lãm làm hiện vật sống, bắt chị tự tố cáo chị. Uỷ viên tuyên truyền của Đảng ủy công xã Dương Giải Phóng đeo kính, đầu nhẵn bóng như chiếc gáo, mặt như mặt khỉ, dẫn bốn dân quân đeo tiểu liên đến đập cổng nhà tôi. Chị Tư run bắn, hai tay sờ soạng hai bên. Chị nghiện thuốc lá, Răng vàng khè vì ám khói. Cuối cùng chị cũng tìm thấy thuốc, bật diêm châm lửa hút. Dù là con đẻ, dù chị có ơn với cả nhà, nhưng mẹ vốn tiết kiệm, rất ghét cái tật nghiện thuốc của chị. Thuốc của chị là do tôi mua ở hợp tác xã cung tiêu nhãn hiệu Cần kiệm, giá một hào một bao. Tôi cho rằng trong túi chị chỉ còn đủ tiền mua hai bao thuốc. Chị rít tóp cả má, đầu thuốc kêu xèo xèo, thuốc tồi, mùi khét lẹt! Trong một thoáng tôi thấy chị đã biến thành một bà già. Chị cúi đầu, những giọt nước mắt được dính như keo ứa ra, đến nỗi những con nhặng dính chân không bay được. Có lẽ chị sợ, có lẽ chị không sợ! Có thể chị căm thù, cũng có thể chị không căm thù! Khuôn mặt kinh khủng của chị bị trùm lên một lớp sương mù, khiến người ta không dám nhìn thẳng vào chị. Vốn là người từng trải, mẹ bảo:
- Kim Đồng, ra mở cổng, không biết phúc hay họa, nếu họa thì có tránh cũng không xong!
Cánh cổng mở toang, ủy viên Dương ngạo nghễ bước vào mặt vênh váo ra vẻ ta đây cán bộ công xã. Hắn người nhỏ thó, nhưng cực kỳ hăng hái, y hệt cái giống của con lừa đực lúc cương cường. Bốn tên dân quân cũng cáo mượn oai hùm, hạ súng trên vai xuống, vỗ báng súng bôm bốp. Mẹ nheo mắt nhìn ủy viên Dương từ đầu đến chân. Hắn có vẻ chờn, húng hắng ho mấy tiếng như con cừu, quay mặt lại bảo chị Tư:
- Thượng Quan Tưởng Đệ, mời chị đi cùng chúng tôi!
Mấy chục năm qua, nhà Thượng Quan đã quen nghe giọng lưỡi kiểu này. Đằng sau câu nói ấy là một nội dung tàn nhẫn, gian ác, chúng tôi còn lạ gì, nó đồng nghĩa với vào nhà giam, ra trường g bắn. Mẹ hỏi: Sao vậy? Con gái tôi phạm tội gì? Uỷ viên Dương chống chế:
- Ai bảo con bà phạm tội? Tôi bảo cô ta phạm tội hả? Tôi có nói cô ta phạm tội đâu, chỉ lôi cô ta đi thôi mà!
Mẹ hỏi:
- Các ông đưa nó đi đâu? Uỷ viên Dương nói:
- Bà hỏi tôi, vậy tôi hỏi ai? Tôi chỉ là thiên lôi, chỉ đâu đánh đấy, là đầu sai mà thôi?
Mẹ đứng chắn trước mặt chị Tư, kiên quyết:
- Không đi đâu cả, chúng tôi không phạm pháp, không đi đâu cả?
Bốn tên dân quân lại vỗ báng súng bôm bốp. Mẹ nguýt chúng, vẻ khinh bỉ:
- Đừng vỗ nữa, cái trò ấy tôi nghe mãi rồi, khi bọn Nhật nã đại bác vào đây, các người còn chưa đẻ kia! Uủ viên Dương đành chịu nhún, dằn giọng nói:
- Bà ơi, đừng có rượu mời không uống, uống rượu phạt!
Mẹ nói:
- Ăn hiếp mẹ góa con côi thì trời đất không dung!
Chị Tư cười nhạt, đứng dậy:
- Mẹ đừng phí lời với bọn họ! - Chị quay sang bảo Uỷ viên Dương - Các ông ra trước đi, tôi phải sửa soạn một chút đã!
Tôi đoán chị Tư muốn bắt chước hình ảnh anh dũng hy sinh của cái liệt nữ, trước khi ra pháp trường tắm gội sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tể. Nhưng có lẽ cũng do thiên tính của chị, bình sinh chị yêu cái đẹp, không thích đầu bù tóc rối, mặt mũi nhem nhuốc trình diện thiên hạ. Chị rít mẩu thuốc cho đến khi bỏng tay rồi thổi phù một cái, khiến sợi thuốc đi một nơi, giấy cuốn đi một ngả - trò chơi này, Tưởng Đệ rất giỏi - bay đến dưới chân ủy viên Dương. Động tác này vừa có tính chất khiêu khích vừa có tính chất đùa cợt. Uỷ viên Dương cúi nhặt mẩu thuốc vẫn còn khói, nét mặt lộ vẻ lúng túng. Anh ta bảo:
- Cho cô mười phút, nhanh lên!
Chị Tư thủng thẳng đi vào chái đông và ở lì trong đó dễ đến hơn một tiếng, ủy viên Dương và bốn tên dân quân sốt ruột cứ nháo nhác lên trong sân. Uỷ viên Dương mấy lần gõ cửa sổ, nhưng chị Tư im lặng không thèm lên tiếng. Cuối cùng, chị cũng ra. Chị mặc chiếc áo trông mà rợn người: áo vóc đại hồng, chân đi giày lụa thêu hoa, cổ đeo chuỗi hạt ngọc, má đánh phấn, môi thoa son, eo lưng mềm mại như nhành liễu, cặp đùi trắng nõn thấp thoáng sau tà áo xẻ. Mắt chị ánh lên những tia hung dữ và ngạo nghễ. Chị Tư mặc đẹp quá khiến trong lòng tôi đầy mặc cảm tội lỗi. Tôi không có cách nào tha thứ cho mình, chỉ dám nhìn chị một thoáng rồi gằm mặt xuống. Tôi sinh ra dưới cờ mặt trời, nhưng lớn lên dưới ngọn cờ đỏ, những người phụ nữ như chị Tư tôi chỉ thấy trên phim ảnh. Khuôn mặt bé choắt của ủy viên Dương đỏ lụng, bốn tên dân quân đứng ngây như phỗng. Chúng líu ríu theo sau chị Tư. Trước khi ra khỏi cổng, chị ngoảnh lại mỉm cười với tôi nụ cười đầy ma quái, khiến tôi suốt đến không bao giờ quên. Nụ cười ấy còn len vào trong giấc ngủ của tôi, biến những giấc mơ trở thành ác mộng. Mẹ thở dài, dàn dụa nước mắt.
Chị Tư được mời đến gian triển lãm giáo dục giai cấp, đứng trước tủ kính bày những đồ châu báu. Dân Cao Mật phát điên lên, người ta chen chúc nhau, ngắm chị như ngắm một động vật quí hiếm. Cán bộ công xã yêu cầu chị khai rõ chị làm thế nào mà bóc lột được những thứ quí giá như thế. Chị Tư mỉm cười, không trả lời Trên thực tế, sự xuất hiện của chị Tư, khiến cuộc triển lãm giáo dục giai cấp ở Cao Mật hoàn toàn mất hết ý nghĩa. Đàn ông đến xem con điếm. Đám phụ nữ cũng đến xem con điếm. Chị Tư tuy đã hoa tàn nhị rữa, nhưng lạc đà gầy còn to hơn ngựa, xấu phượng hoàng còn đẹp hơn gà! Đặc biệt là chiếc áo bằng vóc đại hồng của chị đỏ rục cả gian triển lãm, trông từ xa tưởng gian phòng phát hỏa, mẹ kiếp, đúng như mụ Phạm Quốc Hoa từng nói. Chị Tư là người từng trải, rất thạo tâm lý đàn ông. Chị thi triển thuật làm duyên, tay cầm hoa lan, đưa mắt tống tình, uốn éo cặp mông, ngửa đầu sửa tóc, khiến gian triển lãm sôi sục như nước lũ tràn bờ, ngay cả đám cán bộ công xã cũng nhíu mũi nhăn mày, trông mà chướng mắt! May mà ông Hồ, bí thư đảng ủy công xã là bậc cách mạng kỳ cựu, lập trường vững vàng. Ông ta nhảy lên bục, nhằm giữa ngực chị Tư đấm một quả. Ông ta có sức khỏe, quả đấm của ông tróc cây bay đá, chị Tư làm sao chịu nổi? Chị lảo đảo rồi ngã ngửa. Ông bí thư túm tóc dựng chị dậy, cất giọng Giao Đông nặng trịch chửi:
- Đ. mẹ mày! Dám hành nghề nhà thổ ngay tại triển lãm! Đ. mẹ, nói, mày đã bóc lột người nghèo như thế nào?
Trong khi bí thư Hồ chửi rủa, các cán bộ công xã thi nhau quát tháo để tỏ ra mình có lập trường vững vàng. Uỷ viên Dương vung tay hô khẩu hiệu, nội dung cũng vẫn như mấy năm trước, đại loại: không quên nỗi khổ giai cấp, nhớ mãi mối thù máu và nước mắt, vân vân và vân vân. Quần chúng hưởng ứng lèo tèo. Chị Tư mắt nẩy lửa, luôn miệng cười nhạt. Sau khi bí thư Hồ bỏ tay ra, chị sửa lại mái tóc rối bù:
- Tôi sẽ nói, tôi sẽ nói, các ông bảo tôi nói gì bây giờ!...
Các cán bộ gầm lên:
- Khai ra, không được giấu giếm!
ánh mắt chị Tư dịu dần, giọt nước mắt long lanh tự nhiên trào ra rồi rớt xuống vạt áo dài. Chị nói:
- Làm điếm là bán trôn nuôi miệng, kiếm được đồng tiền đâu có dễ, mụ chủ cưỡng ép, lưu manh làm nhục, chút tài sản này đẫm máu cả đấy!...
Cặp mắt rất đẹp của chị lại sáng rực lên, nước mắt đã bị ngọn lửa hong khô, chị nói:
- Các người cướp của mồ hôi của tôi mà vẫn chưa thôi, còn bắt tôi ra hạ nhục? Người đàn bà như tôi thì có loại đàn ông nào mà tôi chưa biết? Giặc Nhật tôi đã biết, quan cao chức trọng tôi đã biết, tiểu thương tiểu chủ tôi đã biết, bọn choai choai trộm tiền cha mẹ đến gặp tôi, tôi cũng hắt hủi chúng, ai có vú thì người ấy là mẹ, ai có tiền thì người ấy là chồng!...
Các cán bộ gầm lên:
- Nói cụ thể một chút!
Chị Tư cười nhạt:
- Các ông đấu tranh với tôi là giả vờ đấu tranh, thực ra là muốn ngắm tôi. Nhưng vướng quần áo khó xem lắm, hôm nay bà cho các người xem đã mắt!
Chị vừa nói vừa cởi khuy áo nách, phanh vạt, trút bỏ chiếc áo dài xuống, chị hiện ra trần truồng. Chị gào to:
- Xem đi! Mở mắt ra mà xem! Dựa vào cái gì để bóc lột hả? Dựa vào cái này, cái này? Kẻ nào trả tiền, bà cho kẻ đó mần! Công việc này nhàn nhã đấy, mưa không đến mặt, nắng không tới đầu, ngọt bùi cay đắng, ngày nào cũng là cô dâu, đêm nào cũng động phòng hoa chúc! Các người có vợ có con gái hãy cho họ làm nghề này, hãy bảo họ đến gặp bà. Bà sẽ dạy cho họ xướng ca đàn dịch, bà sẽ dạy họ đủ các mánh khóe để thù tiếp đàn ông, biến họ thành mỏ vàng của các ngươi, để các người nếm mùi làm đĩ! Thế nào, ớn rồi hả? ỉu xìu như con c. sau khi xuất tinh rồi hả?
Nghe chị Tư chửi như tát nước vào mặt, cánh đàn ông Cao Mật cách đó ít phút mắt còn sáng lên, giờ đây vội cúi gầm mặt. Chị Tư ưỡn ngực, ngạo ngược bảo bí thư Hồ:
- Thưa quan lớn, tôi đếch tin rằng ông không muốn! Trông kìa, cái gì như tỏi gà đang đội quần ông lên thế kia? Khéo bục quần ra đấy! Lại đây nào, ông mà không cầm đầu thì ai dám mần? Chị Tư làm một cử chỉ tục tĩu về phía ông bí thư, vừa ưỡn hai bầu vú đầy thương tích, vừa tiến lại chỗ ông ta. Ông ta đỏ mặt, lùi lại. Con người Giao Đông vạm vỡ này toát mồ hôi hột trên khuôn mặt như đẽo bằng rìu, mớ tóc rễ tre cứng như lông lợn bốc hơi chẳng khác nồi hấp khi mở vung. Đột nhiên ông ta hộc lên một tiếng như con chó bị mỏ kìm nung đỏ kẹp trúng mũi nổi điên lên, nắm đấm thép nện liên tiếp vào đầu vào mặt chị Tư những cú trời giáng. Chị Tư ngã sóng soài, quăn quại vì đau đớn, mũi và các kẽ răng rỉ máu.
Bí thư Hồ phạm sai lầm, bị điều đi nơi nào không rõ. Hôm ấy, lương tâm trỗi dậy trong những người phụ nữ vùng Cao Mật. Họ nguyền rủa đám cán bộ công xã đã gây tai họa, nguyền rủa cánh đàn ông của họ. Họ ùa tới, đứng vòng trong vòng ngoài, mặc quần áo cho chị Tư. Vài người khỏe mạnh cáng chị lúc ấy chỉ còn thoi thóp, ra khỏi nhà triển lãm, diễu trên đường phố, theo sau là một đoàn phụ nữ nước mắt ràn rụa và lũ trẻ nét mặt trầm lắng như ông già. Không ai nói một lời như một cuộc tuần hành biểu dương sức mạnh đầy bi tráng. Tà áo đỏ như lửa của chị Tư kéo lê trên mặt đất, chị như một liệt sĩ đã anh dũng hy sinh. Từ hôm đó, chị Tư trở nên nổi tiếng. Chích máu cho những tâm hồn ngu muội cố chấp, dùng phương thuốc dĩ độc trị độc, rõ ràng là biến thối nát thành diệu kỳ, biến bị động thành chủ động. Các bà các chị tốt bụng, bưng đến bát to bát nhỏ, những muỗng bằng quả bầu, trong bát là mì sợi, trong muỗng là trứng gà. Họ đến để thăm hỏi chị Tư. Mẹ xúc động sâu sắc, bà nói rằng chưa bao giờ nhà Thượng Quan gần gũi dân làng đến thế. Chỉ tiếc là chị Tư sẽ không bao giờ tỉnh táo trở lại, chị bị chấn thương sọ não vì những quả đấm thép của bí thư Hồ.
6
Trong hội nghị cán bộ ba cấp do tỉnh triệu tập, bài phát biểu của Lỗ Thắng Lợi được coi là trọng điểm. Qua ánh mắt tán thưởng của mấy vị lãnh đạo kỳ cựu và tiếng xì xào to nhỏ của các đồng nghiệp, Lỗ Thắng Lợi hiểu rằng bài phát biểu của mình rất thành công. Những năm gần đây, địa phương cũng bắt chước Trung ương, ở các hội nghị lớn, người ta không đứng tại chỗ phát biểu mà lên nói trước mi-cờ-rô. với các quan chúc tư duy chậm chạp, nói năng lúng túng, mắt không rời được bản viết sẵn trên tay, thì nói trước mi-cờ-rô quả là cực hình, nhưng Lỗ Thắng Lợi thì thoải mái như một lần biểu diễn. Cô cuộn bài nói thành chiếc ống, múa nó trong tay. Giọng cô thánh thót mà không hụt hẫng. Thái độ nghiêm chỉnh mà không thiếu vẻ hoạt bát. Cô rất diệu mà không quá trớn, tay vung lia lịa nhưng không khoa trương. Cô đã gần năm mươi nhưng phong độ vẫn trẻ trung. Cô tỉa tót cẩn thận nhưng không để lộ dấu vết của hóa trang. Cô ăn mặc giản dị nhưng lại cao sang về chất liệu vải. Cô đứng trước mi-cơ-rô, mọi cặp mắt đổ dồn vào, cô trở thành ngôi sao sáng trong hội nghị cán bộ ba cấp. Trong buổi dạ tiệc để chia tay, vị lãnh đạo lão thành đặc cách cho gọi cô đến ngồi bên cạnh ông. Ông giữ bàn tay nóng hổi, to như bàn tay gấu, vỗ vỗ đầu gối để trần của cô, dịu dàng hỏi thăm: Cô Lỗ này, chuyện riêng tư thế nào rồi?. Cô cười khanh khách, nói: Hung Nô chưa diệt, đâu dám lo chuyện riêng tư. Ông cũng cười khà khà tỏ vẻ tán thưởng rồi huấn thị một hồi ra vẻ quan tâm..
Tan tiệc trở về khách sạn, cô cảm thấy hơi váng đầu. Ông thị trưởng của thành phố bạn gọi điện mời xuống khiêu vũ dưới tầng hai. Cô nói cô say, không nhảy được nữa. Ông bạn nói bóng gió mấy câu, cô chửi lớn rồi gác máy nói. Cô đem tấm biển Xin đừng làm phiền móc vào dấm cửa rồi ngâm mình trong bồn tắm. Ngâm trong nước nóng cô cảm thấy buồn ngủ. Chuông điện thoại lại reo. Cô cho rằng lại mời đi nhảy nên không nhấc máy, bên kia đầu dây sẽ bỏ máy ngay thôi, nhưng chuông cứ réo liên tục, xem ra có vẻ nhất quyết gặp bằng được. Cuối cùng, cô đầu hàng, giơ tay với cái tai nghe treo trên tường ốp gạch men phía sau thùng xả nước. Cô uể oải lên tiếng. Đầu bên kia im lặng. Cô hỏi ai đấy. Bên kia hỏi có phải thị trưởng Lỗ đấy không. Cô trả lời phải. Bên kia nói thị trưởng Lỗ phải hết sức cẩn thận. Cô nói có gì mà cẩn thận! Bên kia nói có người định hạ bệ chị, hồ sơ đã ở chỗ thị ủy, chúng cứ không thể chối cãi. Lỗ Thắng Lợi nói cây ngay không sợ chết đứng. Bên kia cười nói rằng vì thiện chí nên mới nhắc chị. Lỗ Thắng Lợi trầm ngâm hồi lâu rồi hỏi anh là ai. Bên kia nói: Thành phố chị có Trung tâm nuôi chim Phương Đông phải không?. Lỗ Thắng Lợi nói tôi muốn gặp anh. Bên kia nói không cần thiết, thị trưởng Lỗ, chúc chị may mắn.
Cô mệt rũ, nằm trong bồn nhìn hơi nước cuồn cuộn bay lên, nghe tiếng nước xối ào ào ở phòng bên. Trong đầu cô như một cái xoáy cuốn theo những rác rưởi, cô cảm thấy mình cũng đang trong dòng xoáy nhơ bẩn đó và trôi tuột xuống đường cống ngầm tăm tối. Cô nằm trong bồn cho tới khi nước nguội, những giọt nước đọng trên trần lặng lẽ rơi xuống bồn, tiếng rơi thánh thót như tiếng gõ vào pha lê. Nước trong bồn phủ một lớp như váng đầu. Những giọt nước rơi trên cái đầu cao ngạo của cô, tiếng rơi bộp bộp như gõ vào khay đậu phụ. Cô vọt ra khỏi bồn như cá nhảy, lau người trước gương, thấy mình tuy đã gần năm mươi nhưng vú vẫn nẩy, eo vẫn thắt đáy lưng ong, bụng vẫn thon thả. Dũng khí chiến thắng hèn nhát, cái đẹp là sức mạnh. Cô khôi phục sự nhanh nhẹn và tháo vát, thoắt cái lau xong ngươi, nhanh nhẹn thay quần áo, xịt lên cổ một chút nước hoa. Rồi cô gọi điện cho anh lái xe hôm trước đã đưa cô đến nhà khách của tỉnh, bảo anh ta chuẩn bị xe. Nửa tiếng sau, Lỗ Thắng Lợi đã ngồi trên chiếc xe du lịch sang trọng chạy trên đường cao tốc với tốc độ một trăm năm mươi cây số/giờ, nhằm hướng thành phố Đại Lan vùng Cao Mật.
Khi cô bước vào ngôi biệt thự riêng thì đã ba giờ sáng. Cô cởi áo dài, chỉ mặc quần lót và nịt vú, đi lại trên mặt sàn đánh xi bóng loáng, như con thú cái đi thị sát lãnh địa của mình. Cô bật đèn bàn, tắt đèn trần, ánh đèn dìu dịu chiếu qua chiếc chao đèn màu vàng. Trong phòng ấm áp và yên tĩnh. Mấy ngày không về, gian phòng có mùi ẩm mốc. Cô kéo rèm, mở một cánh cửa sổ khung nhôm. Không khí ban đêm trong lành cùng với mùi thơm của hoa lan tràn vào phòng. Cô trông thấy dưới ánh đèn trong sân ba cây lan nếp trồng trong ba bồn gỗ lá bóng mượt, lốm đốm những vụn vàng ở cuống. Trong sân còn có các cây tượng bì, cây thiết mộc lan và mấy khóm trúc dáng thanh nhã. Trên con đường mờ tối bên ngoài, một chiếc xe du lịch ngoại nhập chạy vụt qua, đèn xe đỏ như máu, thân xe rất dài và dáng chạy êm như ru, cô nhận ra đó là chiếc Win 600 của bí thư thành ủy Tôn X. Thế là hình ảnh người đàn ông nhỏ con tóc thưa, mép nhẵn thín cực kỳ gian ngoan chập chờn trước mặt cô. Giống như rất nhiều địa phương khác, thị trưởng Lỗ Thắng Lợi và bí thư thành ủy này cứ lủng củng thế nào ấy. Mối quan hệ đặc thù giữa người với người này mang đậm màu sắc Trung Quốc. Bảo rằng mâu thuẫn thì không có mâu thuẫn, bảo rằng không mâu thuẫn thì cũng khó nói. Lỗ Thắng Lợi nghĩ đến ô dù của mình rồi lại nghĩ đến ô dù của bí thư Tôn X. Một cảm giác ớn lạnh xâm chiếm khắp cơ thể. Ô dù của cô có khả năng bị đổ, ô dù của Tôn X có thể lên. Nghĩ vậy liền hiểu ngay toàn bộ ý nghĩa của cú điện thoại lúc còn ở khách sạn. Nghĩ vậy liền hiểu rằng, chiếc Win 600 của Tôn X ra khỏi chuồng giữa đêm khuya không phải là ngẫu nhiên. Sau đó, cô cảm thấy hai vai tê dại, lẽ ra cô phải mặc áo ngủ bằng lụa màu phấn hồng vào, thì cô lại cởi nịt vú ra, tất nhiên là nịt vú của Thú Một Sừng, bố toàn tơ. Cô gắn lên người chiếc máy điện tử đa năng, vừa xoa bóp vừa rung cho vú nở, rất phức tạp. Chị nhớ lại câu chuyện lưu truyền ở Cao Mật cách đây mấy chục năm, câu chuyện về một nữ gián điệp nhét máy phát vào trong bầu vú, hoang đường đến nỗi cô rất thất vọng về bản án đã tuyên đối với chị ta. Tiếp theo, cô lại nhớ người đàn bà đầu tiên mặc váy ra đồng. Đó là Hoắc Lệ Na, cô giáo viên tiếng Nga xinh đẹp, bọn lưu manh chạy như bay đến trước mặt cô rồi giả vờ ngã để nhìn ngược lên, xem trong váy có mặc quần lót không. Bí thư Hồ nói rất hăng: Những người mặc váy đều dễ xỏ chân như giày rách, làm chuyện đó rất tiện, chị cần tốc ngược lên, banh hai chân ra là xong! Bỏ nịt ra thì tất nhiên là vú chảy xuống, năm mươi tuổi rồi còn gì, sơn hào hải vị, gấm vóc lụa là cũng không kéo lại vẻ thanh xuân. Cô lấy trong tủ ra bình rượu ngoại màu hổ phách, mở nút, rót đầy cốc pha lê chân cao. Tất cả những gì ở đây đều không kém vẻ hào hoa so với trong phim Hôliút, cần gì có nấy, muốn ăn thứ gì là ăn thứ đó, muốn uống thứ gì là có thứ đó, muốn mặc gì là có cái đó, kiếp này như vậy là quá đủ rồi, cô nghĩ. Cô tợp một ngụm rượu rồi tay cầm cốc rượu, cô quan sát căn phòng, Đèn màu, máy ảnh, dàn stêrêô v.v... đã trở thành bình thường như cái bàn chiếc ghế, không còn là những vật quí hiếm. Cô mở tủ quần áo kê sát tường, chiếc tủ bằng gỗ đàn hương thơm phức, trong tủ treo hàng dãy quần áo hợp thời trang, mỗi bộ chí ít giá tiền bằng một con trâu, thậm chí mười con trâu. Nếu đem tất cả quần áo này đổi lấy gạo, e rằng một kho cũng không chứa hết. Cô buồn rầu mỉm cười.
Cô lại tợp một ngụm rượu, lẩm bẩm:
- Thối nát, quá thối nát!
Cô mở ngăn kéo, vun các đồ trang sức lại thành đống rồi đếm, dây chuyền vàng 185 chiếc, vòng tay vàng 98 chiếc, khuyên tai vàng 87 chiếc, nhẫn kim cương, nhẫn nạm ngọc, nhẫn trơn tổng cộng 127 chiếc, nhẫn bạch kim 19 chiếc, hoa cài ngực bằng vàng 17 chiếc, đồng tiền kỷ niệm bằng vàng ròng 24 đồng, đồng hồ Lônggin 7 chiếc, các loại đồng hồ nữ khác một đống. Các thứ này, nếu qui ra thịt lợn, nếu làm nhân bánh bao thì được bao nhiêu chiếc? Cô nhếch mép cười buồn, tợp một ngụm rượu, nói một mình:
- Thối nát, thối nát quá!
Cô cầm cốc rượu đi sang gian phòng chứa các thứ linh tinh, mở chiếc tủ lặn trong vách bếp, từng tập nhân dân tệ xếp ngay ngắn ở một góc, mùi hôi xộc lên mũi. Cô đóng cánh cửa lại, tợp một ngụm rượu, lẩm bẩm:
- Tiền là thứ bẩn thỉu nhất trên đời, chẳng trách những nhân vật lớn không sờ vào tiền. Thực ra mình cũng không cần sờ đến tiền, trong mười năm qua, mình có dùng tiền để mua cái gì đâu? Chưa một lần!
Rời bỏ số tiền này, trong lòng cô rất nặng nề, rất không bằng lòng về mình, mình gom cái của này để làm gì nhỉ? Cô nghĩ. Cô ngán ngẩm khi nghĩ rằng trong tủ lạnh ở bếp có khoảng một triệu đồng nhân dân tệ, hình như còn một khoản tiền trong hộp sắt dưới nền nhà tầng một, đây là thành quả trong thời kỳ làm Giám đốc ngân hàng. Sau khi kiểm kê toàn bộ tài sản, cô ngồi xuống ghế xô pha bằng da thật, hình như uống liền hai cốc rượu. Cô cảm thấy đùi chảy mồ hôi, dính nhem nhép trên mặt ghế xô pha. Cô nghĩ, đáng đem bắn bỏ được rồi. Mọi người đều tham, tối mắt vì tiền, cuối cùng bị đồng tiền cắn chết. Cô linh cảm giờ xấu của mình đã điểm. Để chứng thực sự phán đoán của mình, cô quay thử số điện thoại mật của Tôn X. Điện thoại tu lên một tiếng rồi đầu bên kia có người nhấc máy. Cô không nói gì, lặng lẽ đặt ống nghe xuống, hiểu ra tất cả. Tôn X chưa ngủ, hắn tranh thủ thời gian khi cô họp trên tỉnh, bố trí đâu vào đấy cả rồi.
Cô nghĩ rất lâu, nghĩ ra một cách tiêu hủy số tiền.
Cô bỏ tiền vào một túi ni lông rồi xách xuống bếp lấy nồi cao áp ra, lấy nước đầy nửa nồi rồi đặt lên bếp ga, mồi lửa. Có mà đần thì mới đem tiền ra đốt, cô nghĩ, mùi hôi thối của tiền giấy khiến người ta ngạt thở. Cô quẳng mấy chục bó tiền vào nồi, nước trong nồi sắp tràn ra ngoài. Cô đậy nắp lại. Cô cho rằng chỉ sau nửa giờ là chỗ tiền giấy sẽ thành bột, qua lavabô là tống xuống cống ngầm, thần không biết, quỉ không hay, các người cứ xuống cống ngầm lấy mẫu mà xét nghiệm? Có lấy được mẫu bột thì kết quả xét nghiệm chúng minh được gì? Cô rất tự đắc vì trí thông minh của mình.
Trở lại phòng khách, cô tiếp tục uống rượu, đợi số tiền nhân dân tệ biến thành hồ. Cô chợt nghĩ phải gọi điện cho ô dù, nhưng lại sợ phá giấc ngủ đang ngon của ông ta. Đang do dự thì tiếng chuông điện thoại réo. Cô bấm nút thông máy rồi hỏi ai, tiếng nói ân cần của ô dù vang lên. Ô dù bảo, tôi gọi điện cho cô về tỉnh, không có người nhấc máy, tôi đoán là cô đã về nhà. Về nhà là tốt, thu dọn nhà cửa tinh tươm một tí, kẻo có khách quí, không đến nỗi ngượng mặt!...
Đối với cô mọi việc đã rõ như ban ngày. Cô uống hết chai rượu. Khi cô đứng dậy để đi xem chỗ tiền đã thành hồ chưa thì cảm thấy hai chân mềm nhũn như đi trên đống bông. Chưa tới nhà bếp thì đã nghe một tiếng nổ rung cả cửa kính. Cô đẩy cửa bếp bước vào, thấy nồi cao áp vỡ toác từng mảnh, cái giăng. cong queo như một khúc ruột, một thứ đặc như cháo bắn đầy nền gạch men và trên tường, mùi hôi thối sặc sụa, máu đỏ tía như mủ đặc chảy ra từ cái nhọt bọc. Cô cảm thấy buồn nôn, vội bịt miệng chạy trở lại phòng khách.
Cô nghe sau lưng có người nói, Thị trưởng Lỗ, cô say rồi! Cô nói, ai bảo tôi say?... Tôi chưa say! Tôi uống rượu như hũ chìm!... Nhà tôi có máu di truyền... Ông ngoại tôi uống một hũ Nhị Oa đầu mà không say? Các dì tôi đều uống được rượu... Không tin, tôi uống cho anh xem. Cô lảo đảo đến trước tủ rượu, lấy ra một chai, nói, Anh Mã Lương, ở đây không có thị trưởng cái quái gì hết, chỉ có đàn bà... Hai chúng ta không cùng dòng máu... Lại đây, quần một trận cho đã đời! Lại dây nào, ai dám? Bọn đốn mạt thử vào đây xem, tôi thì bóp chết tươi chúng nó! Anh Mã Lương, anh Mã Lương ơi, anh đúng là xấu dây tốt củ, người bốn lạng, c. nửa cân!... Đêm nay ta hãy trổ tài xem ai hơn ai? Kim Bình Mai... Anh là Tây Môn Khánh... Tôi là Phan Kim Liên, Lý Bình Nhi, Xuân Mai, thím Lại Vượng... Muốn nhiều đàn bà thì chui vào Hồng lâu mộng... Lỗ Thắng Lợi nói đứt quãng, dốc tuột chai rượu vào miệng, tu òng ọc, một phần nhỏ vào miệng, phần lớn chảy ra cằm, xuống ngực, xuống hai bầu vú say, phủ lên một lớp mỏng óng ánh...
Lỗ Thắng Lợi theo Tư Mã Lương lên tầng mười sáu của Quế Hoa đại lầu, vào hệ phòng tổng thống. Đây là lần đầu tiên có người thuê bao loại phòng này kể từ khi khai thông. Vừa vào trong phòng, Mã Lương đã ôm chặt Lỗ Thắng Lợi. Lúc đầu, thật tình Lỗ Thắng Lợi không chịu, vùng vẫy để thoát ra, thậm chí giận đỏ mặt. Nhưng khi Mã Lương tóm được bầu vú và thì thầm vào tai những câu tục tĩu thì cô mềm nhũn ra, toàn thân co giật, y hệt con voi bị trúng đạn.
7
Kim Đồng chôn mẹ qua loa ở một vạt cỏ bên cạnh đầm lầy. Anh quì xuống lạy tạ mấy người hàng xóm, cảm ơn họ giúp đỡ trong việc chôn cất. Bác Trương Vẹo Cổ cầm tay kéo anh đứng lên, bảo:
- Miễn lễ, miễn lễ!
Các anh Vương Cán và Lý Đại Quan cũng vòng tay đáp lễ, nói:
- Thôi, thôi!
Họ nhìn anh thương hại, nấn ná chưa về. Kim Đồng sực nhớ ra, vội móc túi lấy mấy chục đồng đưa cho bác Trương, nói:
- Bác ơi, ít quá chẳng thấm tháp gì, các bác uống chén rượu nhạt!
Lão Trương đẩy tay Kim Đồng lại, nói:
- Cháu ơi, khỏi cần!
Kim Đồng nài nỉ:
- Bây giờ phải như vậy mới hợp lẽ, mong bác nhận cho!
Bác Trương nói:
- Chỗ bà con lối xóm, tắt lửa tối đèn có nhau, chuyện ma chay có ai làm một mình mà được đâu?
Ngô Pháp Nhân khịt khịt mũi, nói:
- Từ nay trở đi, nhà ai có người chết thì tự đem đi mà chôn!
Anh ta nhìn về khu vục thành phố Đại Lan cát bụi mù trời, bành trướng như điên cuồng, nói:
- Trong khoảng mườii năm nữa, chẳng ai ngó ngàng đến ai đâu!
Kim Đồng móc bao thuốc lá bóc ra mời từng người. Cánh bác Trương tỏ vẻ khách khí từng người nhón lấy một điếu rồi chụm đầu châm lửa, nhả khói, nhặt nhạnh dụng cụ để chuẩn bị ra về. Bác Trương Vẹo Cổ nói:
- Cháu Kim Đồng này, bà thím qui tiên ở tuổi chín lăm là thọ lắm rồi? Người chết như ngọn đèn tắt, khí hóa gió, thịt hóa đất, dù có là vua cũng không thể khác! Cháu đừng buồn rầu quá!
Kim Đồng gật đầu xin vâng. Bác Trương lại hỏi:
- Cháu cùng về với mọi người chứ?
Kim Đồng nói:
- Bác và các anh cứ về trước, cháu xin ở lại một lát với mẹ cháu!
Mấy người kia thở dài, nhặt nhạnh cuốc xẻng, đòn khiêng ra về. Đi được khoảng chục bước, bác Trương ngoái lại khuyên:
- Phải nghĩ cho thoáng, cháu ạ, để bà thím về cõi Phật cho thanh thản?
Kim Đồng nước mắt lưng tròng, nhìn mãi khuôn mặt chất phác của bác Trương, gật đầu liền mấy cái. Nhân dân đi qua bàn tán về những nhà kính trồng rau, nguyền rủa bọn cán bộ thối nát và những khoản thu tàn bạo, cười nhạo những luống đất trên tầng 9, than vãn về những hành vi quái đản của lớp trẻ... Tiếng ồn ào xa dần, họ đã bỏ đi. Từ xa dội đến tiếng thình thịch nặng nề. Đó là tiếng đóng cọc của đội cầu sông Thuồng Luồng. Kim Đồng nhìn quanh, cảm thấy trong lòng trống rỗng, không biết đi đâu về đâu! Anh thấy thành phố Đại Lan giở nanh múa vuốt, phát triển với tốc độ của ung thư ác tính. Những ngôi nhà cao tầng ngỗ ngược, điên cuồng nuốt chửng thôn xóm và đất trồng trọt. Ngôi nhà tranh mẹ ký ngụ đã mấy chục năm, cũng do kinh hoảng mà tự đổ sụp. Ngọn tháp bảy tầng đã chao nghiêng. Mặt trời lên, tiếng ồn từ thành phố lan tới như làn sóng. Hơi nước mù mịt trên đầm, cánh rừng hòe phía tây, chim chóc đã bắt đầu ríu rít, hoa hòe tỏa mùi thơm ngào ngạt. Anh thẫn thờ đi dạo quanh ngôi mộ mới đắp của mẹ sặc mùi đất bùn, rồi quì xuống, kính cẩn dập đầu lạy mẹ lần nữa, nhủ thầm:
- Mẹ ơi, con là đồ vô tích sự, chỉ làm khổ mẹ! Giờ đây mẹ mất rồi, thành Phật thành Tiên rồi, lên hồng phúc trên thiên đàng rồi, không bị con làm phiền nữa! Con cũng già rồi, cuộc đời con cũng sắp đi tong rồi. Con sẽ dâng hiến cái thân tàn này cho Thượng đế. Người anh em cùng cha khác mẹ với con đã thu xếp cho con một công việc trong nhà thờ. Anh ấy sẽ giao cho con nhiệm vụ gác cổng và làm vệ sinh, định kỳ mở nắp hố xí lộ thiên chuyển những thứ ô uế ra cánh đồng rau. Mẹ, đó là nơi trở về tốt nhất của con, có lẽ nó cũng phù hợp với ước nguyện của mẹ?...
Chìm đắm trong suy tưởng, anh như nghe thấy tiếng tụng kinh của các con chiên văng vẳng bên tai:
- Chúa ơi, Chúa của chúng con ở trên trời, chúng con tắm trong ánh hào quang của Chúa! Máu của Chúa tưới cho hoa hồng và hoa tường vi, hãy cho chúng con được ngửi mùi thơm thiêng liêng đó, chúng con được rửa tội, chúng con được yên ổn trong lòng. A men! A men!
Anh áp khuôn mặt nóng bừng vì cảm động lên nấm mồ ẩm ướt, anh ngửi thấy mùi máu và mùi mồ hôi, cảm thấy làn gió mát mẻ thổi qua đầu. Trong cơn thảng thốt, anh thấy mẹ ngồi bên cạnh anh, làn gió sớm mai chính là bàn tay mẹ vừa rửa bằng nước lạnh. Anh cảm thấy không phải mẹ đang nằm trong huyệt mà chính là anh đang nằm, mẹ rắc từng nắm đất lên mặt anh, trong đất có mồ hôi và nước mắt của mẹ. Cảm thấy quá sung sướng, anh ôm mặt khóc hu hu.
- Này, này, đứng dậy đi!
Có tiếng quát nạt phía sau, anh cảm thấy gót chân bị ai đá mấy cái, tiếp theo là mông đít bị một đạp. Hốt hoảng chồm dậy, anh thấy cái khớp xương bị bệnh tê thấp kêu răng rắc, ngực buốt như kim châm. Mặt trời đã lên cao, ánh nắng chan hòa, một bóng xám đen to lớn đang đi động trước mặt anh. Người ấy vênh mặt, dằn giọng hỏi:
- Ai cho anh chôn người ở đây?
Kim Đồng lập tức cảm thấy người nóng ran, chân tay quýnh lên, mồ hôi toát cùng mình, đồng thời, dòng nước tiểu âm ấm cũng vãi ra quần. Anh biết mình vẫn có khả năng nhịn đái, nhưng cứ để mặc cho nó tuôn ra, làm như vãi đái ra quần thì ông người nhà nước này sẽ thương hại anh mà bỏ qua.
Ông.người nhà nước này không thông cảm cho anh, ánh mắt ông đầy vẻ khinh người, kênh kiệu. Phù hiệu trên mũ trên ngực áo ông sáng lóa, trông mà phát khiếp! Không khách khí gì hết, ông ra lệnh:
- Đào tử thi lên lập tức đưa đi hỏa táng!
Kim Đồng nói:
- Thưa lãnh đạo, chỗ đất này là đất hoang, mong ông giơ cao đánh sẽ cho!... Ông người nhà nước nhảy dựng lên như bị chó cắn, nghiêm giọng quát:
- Anh nói lại tôi xem nào? Đất hoang? Ai bảo anh đây là đất hoang? Dù là đất hoang thì vẫn là mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc, ai cho phép anh bậy bạ như thế!
Kim Đồng sụt sịt khóc:
- Lãnh đạo làm ơn, mẹ tôi đã hơn chín mươi tuổi, nhập thổ đâu có dễ, xin đừng hành hạ bà cụ...
Ông người nhà nước nổi giận, nói dứt khoát:
- Đừng nhiều lời, đào lên đi!
Kim Đồng nói:
- Tôi san bằng đi không được sao? San bằng thì không chiếm mặt đất của nhà nước!
Ông người nhà nước tỏ vẻ ngán ngẩm:
- Anh làm sao thế! Anh giả vờ hay lẩm cẩm thật rồi? Hỏa táng người chết là pháp qui!
Kim Đồng quì xuống, nước mắt, nước mũi dàn dụa, van xin:
- Lãnh đạo ơi Chính phủ ơi, xin mở lượng làm phúc, trời tháng sáu nóng nực này mà lại đào lên thì thối rữa ra mất, mẹ tôi chịu sao nổi hở trời?
Ông người nhà nước giận dữ quát:
- Kêu cũng chẳng ích gì, gào cũng chẳng ích gì, chuyện này tôi cũng không quyết định được!
Kim Đồng Chợt có linh cảm, móc túi lấy ra mấy chục đồng nhân dân tệ lúc nãy, dùng cả hai tay đưa cho ông người nhà nước, vừa khóc vừa van xin:
- Lãnh đạo nhận cho chén rượu nhạt, tôi sống độc thân, lại nghèo rớt mồng tơi, tìm người giúp một tay trong chuyện này không dễ dàng chút nào? Trong người chỉ còn mấy đồng tiền còm này thì phí hỏa táng cũng không đủ, có đem đến đó thì chỉ tốn điện nhà nước, ô nhiễm môi trường của Chính phủ, xin ông rủ lòng thương cho mẹ tôi được ở lại đây... Xin Chính phủ rủ lòng thương?
Ông người nhà nước liếc nhìn mấy tờ giấy bạc nhăn nhúm bẩn thỉu, nổi giận quát:
- Anh định làm gì thế! Anh có biết anh đang làm gì không? Anh đang hối lộ đấy, đang hủ hóa cán bộ nhà nước đây, là phạm tội đấy? Anh định dùng mấy đồng tiền còm này để ta vứt bỏ nguyên tắc hả? Đừng có mà nằm mơ! - Ông người nhà nước dậm chân, nói giọng pháp luật - Trước lúc trời tối phải lôi cái xác lên, nếu không đừng có trách?
Ông người nhà nước hiên ngang bỏ đi. Ông đến, như trên trời rơi xuống. Ông đi như đất nẻ, mất tăm. Kim Đồng bị đổ gục trước khó khăn vượt quá sức anh, hai tay ôm đầu, anh khe khẽ cất tiếng khóc. Chính phủ ơi, chính phủ - ngươi dân ở đây quen gọi các quan chức nhà nước và tất cả những người ăn lương nhà nước là Chính phủ - Vậy là ông Chính phủ gây khó dễ cho tôi rồi! Ngay dù tôi có hỏa thiêu mẹ tôi, thì tôi cũng cần một chỗ đất để chôn tro thi hài chứ? Chỗ này xa thành phố, không phải đất trồng trọt, chôn người ở đây thì chỉ vài năm là biến thành bùn đất. Ông bắt tôi đào lên. Đào lên rồi tôi xoay xở thế nào? Tôi chỉ có một mình, cõng không nổi, kéo thì không có xe, hỏa thiêu thì không đủ tiền trả lệ phí, càng không có tiền mua hộp đựng tro. Để nhờ được mấy ông trong làng, tôi phải chạy rạc cảng! Chính phủ ơi! Ông há không biết rằng thời buổi bây giờ khác trước, bây giờ không có tiền người ta không làm, không còn nghĩa khí như ngày xưa. Tuy bác Trương không lấy tiền của tôi những người giúp chôn cất không lấy tiền của tôi, nhưng đào lên thì phải trả tiền họ mới dào, ngay dù người ta không lấy tiền, thì cái nợ nhân tình này tôi biết lấy gì để trả? Chính phủ ơi, Chính phủ kính mến ơi, xin ông nghĩ lại cho tôi...
Anh vừa khóc vừa kể lể, làm như ông người nhà nước đang đứng trước mặt.
Một chiếc xe com măng ca Nhật màu kim nhũ từ con đường nhỏ chạy tới, kéo theo cát bụi mù mịt. Kim Đồng hoảng sợ, tưởng người ta đến bắt anh. Thoạt đầu, anh gần như chết khiếp, nhưng cùng với chiếc xe tiến lại gần, trong lòng anh lại cảm thấy thanh thản. Mình đã tám năm lao động cải tạo ở nông trường, bây giờ ngồi tù tám năm nữa thì có gì đáng ngại. ở tù, công việc do người cắt đặt, cơm nước có người nấu nướng, chỉ cần nai lưng ra mà làm là yên thân, đối với Kim Đồng thì ở tu là thiên đàng. Điều quan trọng là, bắt mình đi rồi thì họ có bỏ ra một vạn nhân dân tệ cũng không thuê được người đào xác mẹ mình lên. Và như vậy, mẹ không bị hành hạ nữa, mẹ có một mảnh đất ở Cao Mật, coi như được yên nghỉ. Mình báo hại mẹ cả một đời, giờ đây đổi lấy bằng an cho mẹ bằng sự mất tự do của mình là dáng giá, là một lần báo hiếu của đứa con bất hiếu này, là sự vươn lên của đồ bị thịt là mình. Nghĩ đến đây, anh sung sướng đến lịm người, anh gạt nước mắt đứng lên, những nếp nhăn trên mặt giãn ra, hai vai thoải mái như cất được gánh nặng. Anh duỗi hai tay ra phía trước như chờ đợi người ta còng tay anh lại. Nhưng rất đáng tiếc là chiếc xe com măng ca lắc lư chạy qua trước mặt anh, kính xe tráng thủy ngân sáng lóa mắt, không thể nhìn rõ trong xe có những gì. Đến chỗ cách mộ mới khoảng trăm thước, chiếc xe dùng lại. Cửa xe mở, ba người xuống xe, hai người đàn ông thì một to béo, mặc quần áo săn màu xanh pha trắng; một mảnh khảnh, tay cầm khẩu súng săn hai nòng, cổ tay đeo một bao da nhỏ, bên trong là mobil phone.
Kim Đồng trong thời kỳ Trung tâm nuôi chim Phương Đông làm ăn phát đạt, anh cũng từng đeo của này ở cổ tay, vì vậy anh biết nó. Đi giữa hai người đàn ông là một phụ nữ mặc váy màu đỏ, vì xa nên trông không rõ mặt mũi, nhưng qua sắc da mịn màng màu sứ, có thể đoán người đàn bà này đẹp.
Ba người đi thành hàng dọc theo con đường nhỏ ven đầm, chậm rãi đi lại về phía Kim Đồng. Người đàn bà ríu rít kể chuyện gì đó, thỉnh thoảng lại bật cười khanh khách. Người đàn ông to lớn đôi lúc lại ho một tiếng, tiếng ho khỏe nghe như tiếng sắt tiếng đồng. Người đàn ông mảnh khảnh đi sau cùng, thái dộ cung kính, thoạt nhìn đã biết ngay là thư ký. Đột nhiên, người cao to quài tay về phía sau, viên thư ký nhanh nhẹn dưa khẩu súng cho ông ta. Người cao to dón lấy khẩu súng, không ngắm, nâng lên ngang tầm là lẩy có, bắn liền hai phát, tiếng nổ sắc nhọn, ù cả tai. Nhìn ra phía đầm, đàn thiên nga đang khó nhọc cất cánh. Hai con trúng đạn, một con nổi trên mặt nước, đã chết, còn một con đang đập cánh lia lịa trong bụi cỏ nước, cổ đầy máu lắc lư như rắn hổ mang. Người đàn bà mặc váy đỏ vỗ tay hoan hô:
- Trúng rồi, trúng rồi! Ôi anh phó thị trưởng Mã, anh quả là nhà thiện xạ!
Nhìn cặp vú tung tẩy của chị ta, Kim Đồng biết rằng chị ta ăn mặc trẻ trung thế thôi, thực ra không còn trẻ nữa. Động tác nhảy cẫng chẳng qua là bắt chước nữ sinh trung học một cách vụng về và điều đó khiến Kim Đồng ngán ngẩm. Còn anh chàng đàn ông cũng là loại bất trị, sắp chết đến nơi mà vẫn đi tìm thú tiêu khiển. Người đàn bà váy đỏ như cố ý trêu tức Kim Đồng. Chị ta giơ hai cánh tay trắng nõn ôm lấy cổ người đàn ông rồi dướn người lên dẩu mỏ hôn đánh chụt một cái. Anh thư ký cởi giày da, xắn quần lội ra nhặt hai con thiên nga. Khi nhặt con thiên nga chưa chết hẳn, anh thư ký suýt nữa bị sa lầy chỗ bùn sâu lút đầu, khiến phó thị trưởng Mã sợ quá gọi to:
- Cẩn thận, Tiểu Hà!
Anh thư ký đặt cả hai con thiên nga lên đám cỏ xanh. Người đàn bà váy đỏ cúi xuống lấy ngón tay gãi gãi lông con thiên nga, đột nhiên kinh ngạc kêu lên:
- Ôi, thiên nga có rận này!
Những người đi săn tiếp tục tiến lên, đi qua trước mặt Kim Đồng. Phó thị trưởng Mã và anh thư ký mải tìm kiếm con mồi trong đầm, hoàn toàn không để ý nấm mồ mới đắp, ngược lại, người đàn bà váy đỏ mấy bận đưa mắt nhìn Kim Đồng. Trong mùi nước hoa đắt tiền sục nức trên người đàn bà, Kim Đồng phân biệt được ngay mùi chồn hôi quyện lẫn. Người đàn bà này có một hình thể tuyệt đẹp, chân dài, cổ cao ba ngấn nhưng vú đã chảy dù đã dùng hàng của Thú Một Sừng, nhưng giả thì chung qui vẫn là giả không che mắt được những người sành sỏi. Trong một thoáng khi khoát tay, Kim Đồng còn phát hiện ra chùm lông nách màu lửa của chị ta, và cái mùi hôi như chồn toát ra từ đó. Họ đã đi qua. Kim Đồng hiểu rằng, họ đến không phải vì chuyện của anh, tuy vẫn còn đôi chút băn khoăn, nhưng đã nửa mừng nửa lo. Những người đi săn và hai con thiên nga khiến anh nhớ tới Hàn Chim. Anh ta đúng là một quái nhân trong chuyện hiểu ngôn ngữ của loài chim, nếu không anh ta làm sao sống nổi mười lăm năm trong thâm sơn cùng cốc? Chắc chắn anh ta trò chuyện, giao lưu tư tưởng với các loài chim, kể lể với chúng về nỗi nhớ quê da diết. Có thể rất nhiều con chim vượt trùng dương sang Cao Mật báo tin, có điều, ta không hiểu tiếng nói của chúng đấy thôi. Đoàng, đoành? Lại hai tiếng súng nữa, lại một con vịt trời bị bắn chết. Con chim đáng thương bay khỏi mặt nước mấy thước mới trúng đạn, nó rơi thẳng xuống như một cục gạch. Anh thư ký tay xách đôi giày da, tay xắn quần định xuống vớt con vịt, nhưng ông Mã ngăn lại:
- Chú Hà, bỏ, con này nhỏ!
Người đàn bà váy đỏ õng ẹo:
- ứ ừ, em thích những lông xanh biếc trên người nó cơ!
Tiểu Hà nói:
- Không sao, để em xuống nhặt!
Anh ta hăng hái lội ào xuống, bước trong bùn oàm oạp, bước đi khó khăn vì bùn đã lút đầu gối. Khi gần đến chỗ con vịt thì rõ ràng là bùn đã sâu, lút ngang đùi. Ông Mã gọi to:
- Chú Hà, quay lại!
Nhưng đã muộn, mặt bùn sủi bong bóng có mùi lưu huỳnh, không phải cơ thể Tiểu Hà lún xuống mà như bùn dềnh lên. Tiểu Hà ngoảnh lại kêu lên điều gì đó mà Kim Đồng nghe không rõ, nhưng khuôn mặt trắng bệch của chàng thanh niên đã ăn sâu trong tâm trí anh.
Trời chạng vạng tối, đám người cấp cứu anh thư ký bất lực ra về, chỉ còn lại một bà già ngồi phệt bên đầm mà gào khóc đến khản giọng. Những dấu chân người dày đặc. Không khí buổi chiều hôm có mùi hơi người, mùi xe cộ và mùi đầm lầy trộn lẫn. Mấy chiến sĩ dò dẫm hết cách cũng không dò thấy đáy. Anh thư ký đã biến thành con luơn, không biết chui vào chỗ nào.
Cả ngày hôm ấy Kim Đồng ngồi bên mộ mẹ, không ai chuyện trò với anh, càng không có ai hỏi người dưới mộ là ai. Cái chết của anh thư ký đã gợi cho anh một ý nghĩ: Nếu ông nhà nước lại đến bắt anh phải khai quật mộ lên thì anh sẽ đào, sẽ khai quật, rồi cõng mẹ trên lưng, chỉ vài chục bước chân là anh sẽ chìm nghỉm trong bùn lầy. Anh nhất quyết không rời mẹ ra để càng nặng hơn, chìm nhanh hơn.
Bóng đêm sẫm dần, chim chóc trú trong bụi cỏ chuẩn bị qua đêm. Thi thoảng có vài con chim hoảng sợ bay vọt lên như bị rắn đớp. Chuyến tầu chạy về hướng tây ầm ầm lao qua. Những bông hoa độc màu đỏ tía bắt đầu nở giữa đầm, nơi con người không thể lội ra. Từng đợt gió đêm đưa lại mùi của đầm lầy. Lúc này mà ông người nhà nước không trở lại thì có nghĩa là ông ta không đến nữa. Ông đến thì tôi cũng không sợ, anh nghĩ. Chàng thanh niên hoạt bát là thế, triển vọng là thế mà chỉ trong ít phút ngay cả thi thể cũng không tìm thấy. Vậy thì với cái tuổi gần kề miệng lỗ như anh có gì đáng sợ? Sau khi rũ bỏ hoàn toàn gánh nặng tinh thần, anh thấy bụng đau quặn, biết là mình đói. Kể từ lúc mẹ nằm xuống, anh ăn uống chẳng ra làm sao. Anh lờ mờ cảm thấy phải vào phố kiếm chút gì ăn. ở đó, những nam nữ thanh niên áo quần lòe loẹt rất thích lãng phí thức ăn. Nhặt lấy mà ăn, một là trong sạch môi trường, hai là không chết đói, ba là đỡ lãng phí. Người ta muốn sống thực ra cũng không khó. Anh định đi, nhưng hai chân không cất nổi. Anh trông thấy phía sau mộ mẹ, nơi không bị dẫm nát, có rất nhiều hoa đang nở, những bông hoa màu nhợt nhạt, chỉ một bông giữa là màu đỏ nhờ nhờ. Loại hoa này có mùi thơm. Anh bò lên mấy bước, giơ tay ngắt lấy bông hoa rồi đưa vào miệng. Cánh hoa rất giòn, như thịt tôm sống, nhưng khi nhai thì xộc lên mũi toàn mùi máu. Vì sao hoa có mùi máu? Vì trên mảnh đất này thấm đẫm máu người.
Đêm hôm ấy, một đêm trời đầy sao, Kim Đồng nằm ngửa bên mộ mẹ, miệng ngậm những cánh hoa, anh nhớ lại bao nhiêu chuyện cũ, đều là những mẩu lấp lánh. Sau đó, dòng hồi ức gián đoạn, lướt qua trước mặt anh là những bầu vú. Trong đời anh đã trông thấy đủ các loại vú, dài có, tròn có, nhọn có, dẹt có, đen có, trắng có, thô có, mịn có. Những bảo bối ấy, nhưng tinh linh ấy trình diễn trước mắt anh kỹ xảo phi hành đặc biệt và những diệu múa kỳ ảo. Chúng giống chim, giống hoa, giống những tia chớp hình cầu, đẹp tuyệt. Báu vật trên trời là mặt trời mặt trăng và những vì sao. Báu vật của đời là vú to mông nẩy? Anh từ bỏ ý nghĩ tóm được chúng, dứt khoát không tóm nổi thì phí sức làm gì? Anh chỉ cần sung sướng ngăm nhìn chúng. Sau đó, trên đầu anh, những bầu vú bay dọc bay ngang ấy tụ lại thành một bầu vú khổng lồ, lớn dần ra, cao dần lên thành quả núi cao, cao nhất giữa trời và đất, núm vú phủ tuyết trắng, mặt trời mặt trăng xoay quanh như hai con bọ dừa màu nhũ bạc.
------ Hết --------