Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Truyện Dài >> Báu Vật Của Đời

  Cùng một tác giả


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 57879 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Báu Vật Của Đời
Mạc Ngôn

Chương 3 (tiếp)
7
Mùa thu rục rỡ của vùng Cao Mật, nước lũ mênh mông cuối cùng rút đi. Những vạt cao lương đỏ một màu đỏ-đen, những vạt hoa lau trắng một màu trắng-vàng. Nắng sớm trải trên cánh đồng mênh mông lởn vởn làn sương nhẹ. Toàn bộ binh mã của trung đoàn 17 lặng lẽ chuyển quân. Họ dắt lừa dắt ngựa nhón bước qua cây cầu mục nát trên sông Thuồng Luồng rồi khuất sau con đê ngoại vi Hà Bắc, không bao giờ còn thấy bóng dáng của họ nữa.
Đại đội binh mã của trung đoàn 17 rút đi, nguyên trung đoàn trưởng của nó là Lỗ Lập Nhân thì chuyển ngành, giữ chức vụ huyện trưởng kiêm đại đội trưởng dại đội của huyện Cao Mật mới thành lập. Thượng Quan Phán Đệ được bổ nhiệm làm khu trưởng khu Đại Lan, Thằng Câm được đề bạt làm tiểu đội trưởng tiểu đội của khu. Thằng Câm dẫn tiểu đội đến nhà Tư Mã Khố, khuân hết bàn ghế giường tủ của nhà Tư Mã chia cho các nhà trong thôn, nhưng ban ngày chia cho thì ban đêm họ lại đem trả ở cổng nhà Tư Mã. Thằng Câm sai người khênh đến nhà tôi một cái giường chạm trổ rất đẹp.
Mẹ bảo:
- Tôi không cần, khiêng về đi!
Thằng Câm bảo: - Cởi, cởi, cởi!
Mẹ quay sang bảo chị Phán Đệ:
- Con đem cái giường đi cho mẹ?
Trưởng khu Phán Đệ nói:
- Mẹ ơi, đây là phong trào, mẹ không nên từ chối?
Mẹ nói:
- Phán Đệ, Tư Mã Khố là chồng của chị Hai, mẹ đang nuôi con trai và con gái chúng nó ở đây. Rồi đây khi trở về nó sẽ nghĩ thế nào!
Những lời của mẹ khiến chị Phán Đệ suy nghĩ. Chị bỏ cái tất đang mạng dở xuống, dắt theo khẩu súng lục, vội vã đi ra cổng. Tư Mã Lương lén đi theo, trở về nói:
- Dì Năm lên huyện!
Tư Mã Lương còn nói, có một cỗ kiệu hai người khiêng, ngồi kiệu là một nhân vật cỡ bự, mười tám lính cầm súng đi bảo vệ. Huyện trưởng Lỗ trông thấy ông ta run cầm cập như chuột thấy mèo, cung kính như Tôn Tử gặp ông nội. Nghe nói ông này là chuyên gia nổi tiếng về cải cách ruộng đất.
Thằng Câm dẫn một số người đến khiêng cái giường đi.
Mẹ thở dài cất được gánh nặng. Tư Mã Lương nói:
- Ngoại ơi, ta chạy thôi! Cháu cảm thấy có chuyện lớn sắp xảy ra!
Mẹ nói:
- Phúc hay họa, là họa thì có chạy cũng không thoát! Lương này, con cứ yên tâm đi, dù thiên binh thiên tướng xuống trần thì cũng chẳng làm gì mẹ góa con côi nhà mình!
Nhân vật cỡ bự chưa thấy ló mặt. Trước cổng nhà Tư Mã có hai lính bồng súng đứng gác, các cán bộ huyện, khu ra vào như mắc cửi.
Một hôm, khi chúng tôi đi chăn dê về, gặp tiểu đội của khu và mấy cán bộ huyện, khu áp giải ông bán quan tài Hoàng Thiên Phúc, thợ đắp lò Triệu Giáp, chủ hiệu dầu Hứa Bảo, chủ hiệu dầu thơm Kim- Một-Vú, giáo viên tư thục Tần Nhị, đi trên đường. Những người bị bắt mặt mày ủ rũ. Triệu Giáp vươn cổ cãi
- Anh em ơi, thế này là thế nào? Nợ tôi cả bao tiền mà lại sổ toẹt là thế nào!
Một người nói giọng vùng Ngũ Liên, răng đồng vàng chóe, giang thẳng cánh tát Triệu Giáp một cái tát nảy lửa, chửi:
- Đ. mẹ mày! Ai nợ mày cả bao tiền? Tiền của mày từ đâu mà có?
Những người bị áp giải không dám hé răng, lùi lùi bước đi, đầu cúi gằm. Đêm, mưa lạnh rả rích. Một bóng người vượt qua tường, mẹ trầm giọng hỏi:
- Ai đấy!
Người đó bước nhanh mấy bước, quì xuống lối đi, nói:
- Thím ơi, cứu tôi mấy!
Mẹ hỏi:
- Có phải ông Cả đấy không?
Tư Mã Đình nói:
- Chính tôi, thím ơi, thím cứu tôi mấy! Ngày mai họ họp mít tinh xử bắn tôi? Chỗ dân làng với nhau, thím cứu cái mạng chó của tôi mấy?
Mẹ rên lên, mở cửa buồng, Tư Mã Đình lẻn vào. Ông ta run cầm cập trong bóng tối, nói:
- Thím ơi, cho tôi ăn chút gì đi, tôi đói chết mất!
Mẹ đưa cho ông ta cái bánh, ông ta vồ lấy nhai ngấu nghiến. Mẹ thở dài. Tư Mã Đình nói:
- Hừ, chỉ trách thằng Hai nhà tôi gây thù chuốc oán với Lỗ Lập Nhân. Thực ra họ còn là thân thích với nhau nữa đấy!
Mẹ nói: - Đừng nói nữa, đừng nói gì nữa, ông trốn vào trong này đi, hay dở gì thì tôi cũng là mẹ vợ của anh ấy!
Nhân vật bí ẩn, cuối cùng đã xuất hiện. Ông ta ngồi chính giữa mái che, tay trái nghịch chiếc nghiên mực màu chu sa, tay phải nghịch cây bút lông. Trên cái bàn trước mặt ông ta có bày một nghiên mực cỡ đại, chạm trổ rồng phượng. Nhân vật bự đeo kính gọng đen, hai má gần như không có thịt, cằm nhọn hoắt, mũi gầy nhọn, cặp mắt ti hí lấp lánh sau cặp kính. Ngón tay vờn trên nghiên vừa mảnh vừa dài, trắng như bột.
Hôm ấy, đại biểu của những người nghèo nhất ở mười tám thôn trấn vùng Cao Mật chen chúc trên một nửa sân phơi nhà Tư Mã. Xung quanh đoàn người, ba bước một trạm gác, năm bước một trạm tuần tra, đều do đại đội trên huyện và tiểu đội trên khu đảm nhiệm. Mươi tám vệ sĩ đứng trên bục đất, người nào cũng mặt lạnh như tiền, đằng đằng sát khí, y hệt mười tám La hán trong truyền thuyết. Phía dưới im phăng phắc, những đứa trẻ đã biết sợ thì không dám khóc, những đứa chưa biết sợ thì vừa oe lên là mẹ chúng nhét vú vào miệng.
Chúng tôi ngồi vây quanh mẹ. Khác với những người nhớn nhác xung quanh, mẹ bình tĩnh đến kinh người, chăm chú xe chỉ để khâu đế giày. Những tơ gai trắng lăn tròn trên bắp dùi mẹ, săn vào nhau đều đặn dài ra mãi. Hôm ấy trời lạnh, gió đông bắc như cắt vào da thịt, hơi nước từ ngoài sông Thuồng Luồng tràn vào, những người trên sân phơi run lập cập.
Trước khi đại hội chính thức khai mạc, có sự lộn xộn phía ngoài sân. Thằng Câm và mấy đội viên của tiểu đội khu áp giải Hoàng Thiên Phúc, Triệu Giáp... cộng mười tám người đợi phía ngoài sân phơi. Những người bị giải đều bị trói theo kiểu trọng tội, sau gáy cắm lá chỉ bài, gạch chéo đỏ trên chữ đen. Trông thấy những người này, dân chúng vội cúi đầu xuống, không ai dám bàn tán nửa câu.
Nhân vật bự ngồi bệ vệ trên ghế, đưa mắt nhìn một lượt những người trên sân. Mọi người rụt cổ lại, chỉ sợ ông ta nhìn thấy mặt mình. Trước sự uy hiếp của nhân vật bự, mẹ vẫn thản nhiên xe chỉ, làm như dồn hết tâm trí vào đó. Tôi cảm thấy rất rõ rằng: ánh mắt của nhân vật bự dừng lại trên khuôn mặt mẹ tôi khá lâu.
Lỗ Lập Nhân buộc chiếc khăn đen trên đầu, diễn thuyết một hồi trước đám đông, nước bọt bắn tung tóe. Anh ta bị chứng đầu thống, mặt luôn đỏ quạch ánh lên sau cặp kính như nụ hoa hồng. Nói xong, anh ta đến bên nhân vật bự xin chỉ thị. Nhân vật bự chậm rãi đứng lên. Lỗ Lập Nhân nói:
- Hoan nghênh đồng chí Trương Sinh chỉ thị cho chúng ta.
Anh ta vỗ tay trước, dân chúng ngơ ngác nhìn lên bục, không hiểu ý tứ ra sao.
Nhân vật bự đằng hắng một tiếng, chậm rãi, mỗi tiếng đều kéo dài ra y như những sợi mì kéo của mục sư Malôa năm xưa. Giọng ông ta lê thê như lá cờ phướn bay lượn trong gió đông bắc. Trong suốt mấy chục năm, mỗi khi nhìn thấy lá cờ phướn bằng giấy trắng viết tên tuổi người chết trong buổi lễ cầu hồn, tôi lại nhớ lần nói chuyện của nhân vật bự. Những lời của ông ta bay lượn trong gió như lá cờ phướn. Ông ta ngồi xuống đã lâu mà lá cờ ấy vẫn bay lượn, thậm chí còn nghe thấy tiếng nghiến răng kèn kẹt trong đó.
Tiếp theo, Lỗ Lập Nhân ra lệnh, Thằng Câm và những đội viên của tiểu khu và mấy cán bộ súng pạc-hoọc đeo trễ đít, giải những người bị trói lên bục. Họ đứng chật cả cái bục, che khuất tầm nhìn lên khán đài của những người dưới sân. Lỗ Lập Nhân ra lệnh:
- Quì xuống!
Trong số họ, người hiểu thì quì ngay, người còn đứng lớ ngớ thì bị đá vào khoeo chân, khuỵu xuống.
Những người đứng dưới sân đều cúi đầu, đưa mắt nhìn sang hai bên. Người nào dám mạnh dạn nhìn lên thì lại vội cúi đầu xuống khi trông thấy những giọt nước mũi chảy dài từ chóp mũi những người đang quì. Mẹ không xe chỉ nữa, kéo ống quần xuống che bắp đùi lạnh tím, thở dài. Lúc này, một người gầy gò rụt rè đứng lên, cất giọng khàn khàn run rẩy nói:
- Thưa bà trưởng khu, tôi có chuyện oan ức muốn tố cáo...
- Tốt! - Chị Phán Đệ phấn khởi kêu lên: - Đừng sợ, có chuyện oan ức thì nói, chúng tôi sẽ giải oan cho anh!
Quần chúng đều nhìn về phía người gầy. Đó là Thằng Gật. Chiếc áo ngoài của anh ta đã rách như tổ đỉa, thậm chí một ống tay áo gần như mất hẳn, bờ vai đen đủi lộ hẳn ra ngoài. Đường ngôi vốn thẳng như kẻ chỉ, bây giờ rối như tổ quạ. Anh ta run lẩy bầy trước gió lạnh, cặp mắt mờ đục lo ngại nhìn ra xung quanh.
- Lên trên này mà nói - Lỗ Lập Nhân nói.
- Chuyện thì không lớn - Thằng Gật nói - tôi đứng dưới này nói cũng được!
- Lên đi - Phán Đệ giục - Anh tên là Trương Đức Thành phải không? Tôi nhớ là mẹ anh từng xách làn đi ăn xin, khổ lớn thù sâu mà, lên kể đi!
Trương Đức Thành hai chân ríu vào nhau, lẩy bẩy ra khỏi đám người đang chú mục nhìn anh ta. Cái bục đất cao một thước, anh ta nhảy lên nhưng bị trượt, đất bám đầy ngực. Một vệ sĩ đứng trên bục cúi xuống thò tay lôi anh ta lên. Hai chân anh ta như đứng trên lò xo, lắc lư một hồi mới dừng lại. Anh ta nhìn xuống dưới thấy bao nhiêu ánh mắt phức tạp đang nhìn mình thì bủn rủn cả tay chân, mặt nổi lên từng đám màu xám nhạt, lắp bắp hồi lâu không nói được câu nào. Anh ta định chạy xuống thì Phán Đệ với thân hình to béo, khỏe không kém đàn ông, túm lấy vai đẩy ngược lại khiến anh ta loạng choạng suýt ngã. Anh ta trông rất thảm hại, van xin:
- Bà trưởng khu tha cho tôi, tôi chỉ là một cái rắm, bà hãy tha cho tôi?
Phán Đệ nói:
- Trương Đức Thành, anh sợ gì cơ chứ?
Trương Đúc Thành nói:
- Tôi sống độc thân, quanh ra quanh vào chỉ có một mình, chẳng sợ cái gì hết?
Phán Đệ nói:
- Chẳng có gì làm anh sợ, vậy tại sao anh không nói?
Trương Đức Thành nói:
- Chuyện chẳng to tát gì, thôi không nói nữa.
Phán Đệ nói:
- Anh tưởng đây là chuyện đùa hay sao?
Trương Đức Thành nói:
- Xin bà đừng nổi nóng để tôi nói. Hôm nay tôi coi như không có cái mạng tôi được chưa?
Trương Đức Thành đi đến trước mặt thầy giáo Tần, nói:
- Thầy Nhị, ông cũng coi là có học, cái hồi tôi học ông, đã có lần tôi ngủ gật, đúng không? Ông đã dùng thước kẻ đánh dập bàn tay tôi, còn đặt biệt hiệu cho tôi, khi ấy ông nói những gì, ông còn nhớ không?
- Hãy trả lời đi! - Phán Đệ nói to.
Thầy giáo Tần ngẩng lên, bộ râu vểnh ra phía trước như râu dê, lẩm bẩm:
- Lâu quá rồi, không nhớ
- Tất nhiên là ông không nhớ, nhưng tôi thì nhớ cho đến lúc chết - Thằng Gật hăng lên, lời lẽ bắt đầu trôi chảy. - Ông già, khi ấy ông nói như vầy: Trương Đức Thành cái gì anh, tôi gọi anh là Thằng Gật. Chỉ một câu ấy của ông mà suốt đời tôi mang cái tên Thằng Gật. Ông già gọi tôi là Thằng Gật, bà lão gọi tôi là Thằng Gật. Ngay cả những đứa trẻ hỉ mũi chưa sạch cũng gọi tôi là Thằng Gật? Vì gánh trên lưng cái biệt hiệu ấy mà đến nay ba mươi tám tuổi tôi vẫn chưa vợ! Ông nghĩ coi, ai đời lại gả con gái cho Thằng Gật! Khốn nạn thân tôi, rủi ro suốt đời vì cái biệt hiệu này?
Cơn xúc động dâng lên, Thằng Gật nước mắt nước mũi ràn rụa. Tay cán bộ huyện có hàm răng đồng túm tóc hoa râm của thầy giáo Tần giật ngược để thầy ngửa mặt lên, bộ râu dê rung rung.
- Nói? - Tay cán bộ huyện nghiêm giọng hỏi - Trương Đức Thành tố cáo có đúng không?
- Đúng, đúng ạ! - Thầy giáo Tần vâng dạ luôn miệng.
Tay cán bộ huyện dúi tay một cái, ấn đầu thầy xuống, miệng thầy đầy đất.
- Tiếp tục tố cáo - Cán bộ huyện nói.
Thằng Gật dùng mu bàn tay dụi mắt, vắt mũi bằng ngón tay cái và ngón tay trỏ rồi vẩy một cái, mũi dãi như một bãi cứt chim bay vèo tới nóc rạp. Nhân vật bự cau mày ngán ngẩm, rút khăn tay lau kính. Ông ta lạnh lùng như một hòn đá tảng. Thằng Gật nói:
- Tần Nhị, ông còn nhớ khi Tư Mã Khố học ông, hắn bắt cóc bỏ vào lọ của ông, đặt vè chửi ông rồi trèo lên dầm nhà mà đọc, ông có đánh hắn roi nào không? Có chửi hắn câu nào không có đặt biệt hiệu cho hắn không?
- Không, không, hoàn toàn không!
- Hay lắm! - Phán Đệ phấn khởi nói - Trương Đức Thành đã tố ra một vấn đề sâu sắc. Vì sao Tần Nhị không phạt Tư Mã Khố? Vì Tư Mã Khố nhiều tiền! Tiền của gia đình Tư Mã Khố do đâu mà có? Hắn không trồng mạch nhưng ăn bánh mì, không nuôi tằm nhưng mặc đồ tơ lụa, không nấu rượu nhưng ngày nào cũng say, thưa bà con, chính là mồ hôi xương máu của chúng ta đã nuôi sống bọn địa chủ. Chúng ta phân chia đất đai của chúng, của cải trong nhà chúng, thực tế là chúng ta thu hồi những gì của chúng ta!
Nhân vật bự vỗ tay khẽ tỏ ý tán thưởng lời lẽ khảng khái của Phán Đệ. Trên bục, các cán bộ huyện, khu và các đội viên vũ trang vỗ tay theo.
Thằng Gật nói tiếp:
- Chỉ riêng thằng Tư Mã Khố đã lấy bốn vợ, còn tôi thì một vợ cũng không. Như vậy có công bằng không?
Nhân vật bự cau mày, lắc đầu.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Trương Đức Thành, không nói những chuyện này?
- Không, đây mới là nguồn gốc nỗi khổ của tôi! Thằng Gật tôi cũng là thằng đàn ông, phải vậy không? Giữa hai đùi cũng lủng lẳng cái của ấy...
Lỗ Lập Nhân đứng chắn trước mặt Thằng Gật, không cho nói nữa. Anh ta cất cao giọng, át cả tiếng gào của Thằng Gật, nói:
- Thưa bà con, Trương Đức Thành tuy nói năng có đôi chút thô lỗ, nhưng đã nêu lên một lý lẽ, vì sao có người lấy đến bốn vợ, thậm chí nhiều hơn, còn những người như Trương Đúc Thành một vợ cũng không.
Dưới sân bàn tán sôi nổi, rất nhiều ánh mắt nhìn về phía mẹ. Mặt mẹ xanh mét, con mắt vô cảm, không thù không oán, phẳng lặng như nước hồ thu.
Phán Đệ đẩy nhẹ Thằng Gật một cái, nói:
- Anh có thể xuống được rồi!
Thằng Gật tiến lên hai bước định bước xuống, nhưng lại chợt nhớ ra điều gì, quay lại xách tai Triệu Giáp đánh một bạt tai, chửi:
- Đ. mẹ mày! Mày cũng có ngày hôm nay, mày còn nhớ những khi theo đóm ăn tàn, dựa vào thế lục Tư Mã Khố khinh rẻ người khác chứ!
Triệu Giáp dùng đầu húc Thằng Gật một cú vào bụng dưới. Thằng Gật kêu thét lên, ngã lăn mấy vòng xuống sân phơi..
Thằng Câm xông tới đá Triệu Giáp ngã lăn ra rồi dùng chân chặn cổ Triệu Giáp. Khuôn mặt Triệu Giáp co rúm lại một cách đáng sợ. Anh ta thở phì phò gào thét như điên: - Tôi không phục, tôi không phục. Các người là đồ vô lương tâm, trời hại các người?...
Lỗ Lập Nhân cúi xuống hỏi nhân vật bự. Nhân vật bự cầm nghiên mực gõ xuống bàn đánh chát một tiếng. Lỗ Lập Nhân lôi ra một mảnh giấy, đọc:
- Xét phú nông Triệu Giáp, sống bằng bóc lột, thời kỳ Nhật ngụy hắn đã cung cấp cho ngụy quân khối lượng lớn lương thực. Thời Tư Mã Khố thống trị, hắn đã nhiều lần tiếp tế bánh bao cho bọn phỉ. Từ cải cách ruộng đất đến nay, hắn tung ra bao nhiêu lời đồn nhảm, công khai chống lại chính quyền nhân dân. Với phần tử ngoan cố như vậy không triệt đi thì không xoa dịu được sự căm phẫn của dân. Tôi thay mặt Chính phủ nhân dân huyện Cạo Mật tuyên bố tử hình Triệu Giáp, lập tức thi hành!
Hai đội viên khu đội lôi Triệu Giáp như lôi một con chó chết đến mép đầm đầy rác rưởi và cỏ mục. Hai đội viên tránh sang hai bên, Thằng Câm nhằm gáy Triệu Giáp nổ một phát súng. Nhanh như chớp, Triệu Giáp lộn đầu xuống đầm. Thằng Câm cầm khẩu pạc-hoọc miệng súng vẫn còn nhả khói, trở lại chỗ bục đất.
Những người quỳ trên bục dập đầu lạy như tế sao, sợ vãi cứt đái ra quần. Mùi hôi thối xông lên, những người trên bục và những người ở gần dưới sân đều bịt mũi.
- Tha cho tôi, tha cho tôi? - Chủ hiệu dầu thơm Kim-Một-Vú lết hai đầu gối đến trước mặt Lỗ Lập Nhân, hai tay ôm chặt lấy chân anh ta, vừa nói vừa khóc - Ông huyện trưởng tha cho tôi, tôi nguyện đem toàn bộ đầu thơm, toàn bộ số vàng, toàn bộ gia sản, ngay cả cái máng cho gà ăn cũng không để lại, chia hết cho bà con, chỉ cần tha cho mạng sống nhỏ nhoi của tôi. Tôi không bao giờ buôn bán để bóc lột mọi người nữa!...
Lỗ Lập Nhân muốn rút chân ra khỏi vòng tay của Kim-Một-Vú, nhưng chị ta cứ ôm riết lấy chân anh ta. Mấy cán bộ huyện ùa tới gỡ các ngón tay Kim-Một-Vú đan vào nhau như gọng kìm, giải phóng cho huyện trưởng Lỗ. Kim-Một-Vú lại lết đến bên nhân vật bự. Lỗ Lập Nhân kiên quyết:
- Lôi nó đi!
Thằng Câm quay ngược khẩu pạc-hoọc gõ một phát vào thái dương Kim-Một-Vú, chỉ một cái gõ chị ta đã ngã lăn ra, mắt trợn ngược, bầu vú duy nhất chĩa thẳng lên bầu trời u ám.
- Ai còn nỗi khổ nào không? - Phán Đệ hỏi to.
Dưới sân một người cất tiếng khóc. Đó là ông già Từ Tiên Nhi, tay chống cây gậy trúc vàng óng.
- Đỡ ông già lên bục! - Phán Đệ nói to.
Không ai đến dìu ông ta. Ông mù khóc, dùng gậy dò đường, mò mẫm bước lên bục. Cây gậy của ông ta dò đến đâu mọi người tranh nhau dãn ra đến đó. Hai cán bộ bước xuống kéo ông ta lên.
Từ Tiên Nhi cầm gậy bằng hai tay, vì uất hận, ông ta chọc gậy liên hồi xuống mặt đất. Mặt đất lỗ chỗ những vết gậy.
- Nói đi, bác Từ! - Phán Đệ nói.
Từ Tiên Nhi nói:
- Thưa trưởng quan, quả thực các ông báo thù cho lão chứ?
Chị Phán Đệ nói: - Cụ cứ yên tâm. Vừa nãy chẳng phải chúng tôi đã báo thù cho Trương Đức Thành rồi đấy sao?
Từ Tiên Nhi nói:
- Để tôi nói. Cái thằng khốn kiếp Tư Mã Khố đã bức tử vợ tôi, khiến mẹ tôi uất mà chết, hắn nợ tôi hai mạng người?...
Nước mắt ứa ra từ cặp mắt ông già mù.
- Bác cứ nói. - Lỗ Lập Nhân nói.
- Năm Dân quốc thứ mười lăm, mẹ tôi đã bỏ ra ba mươi đồng bạc trắng cưới vợ cho tôi, đó là con gái của bà ăn xin ở thôn tây. Mẹ tôi bán bò, lợn, hai tạ lúa mạch, đổi lấy ba mươi đồng bạc trắng đưa cho bà ăn mày. Ai cũng bảo vợ tôi xinh xắn, nhưng chính cái đẹp đã gây tai họa! Khi ấy Tư Mã Khố cũng khoảng mười sáu mười bảy chứ mấy. Hắn không chịu học, ỷ vào quyền thế của gia đình, cứ đến nhà tôi xoành xoạch, hát xướng, chơi hồ cầm, rồi đưa vợ tôi đi xem hát, trên đường trở về hắn cưỡng đoạt vợ tôi... Sau đó vợ tôi nuốt thuốc phiện tự tử, mẹ tôi uất quá thắt cổ chết.. Tư Mã Khố nợ tôi hai mạng người, xin Chính phủ phân xử việc này cho tôi?...
Ông mù quì trên bục.
Một cán bộ khu kéo ông ta đứng dậy. Ông ta nói:
- Không trả thù cho tôi thì tôi cứ quì ở đây!
- Bác ơi - Lỗ Lập Nhân nói - Tư Mã Khố chạy đâu cho thoát bắt được nó chúng tôi sẽ giải oan cho bác!
Ông mù nói:
- Tư Mã Khố như con chim diêu bay cùng trời cuối đất, các ông không bắt được nó đâu? Tôi yêu cầu Chính phủ cứ là mạng đổi mạng, bắn bỏ con trai và con gái nó. Thưa ông huyện trưởng, lão biết ông và Tư Mã Khố có hơi hướng gia đình, nếu ông là Bao Thanh Thiên thì xin ông chuẩn y lời đề nghị của tôi. Nếu ông còn tình nghĩa riêng tư thì tôi xin về nhà treo cổ tự vẫn, để Tư Mã Khố khỏi hành hạ tôi khi hắn trở lại!
Lỗ Lập Nhân đắng họng, cố phân bua:
- Bác ơi, nợ có đầu oan có chủ, ai làm người ấy chịu. Tư Mã Khố hại người thì chỉ có thể là Tư Mã Khố phải đền mạng, trẻ con không có tội!
Ông mù chọc gậy xuống đất nói:
- Bà con đã nghe rõ chưa? Đừng bao giờ bị mắc lừa, Tư Mã Khố chạy rồi, Tư Mã Đình trốn rồi, con cái của chúng chả mấy chốc mà lớn lên, huyện trưởng Lỗ với hắn là anh em cọc chèo, phải thân với nhau chứ! Bà con ơi, lão Từ này sống với một cây gậy, chết thành thức ăn cho chó, bà con không bì được với tôi đâu. Bà con, đừng mắc lừa..
Phán Đệ giận dữ quát:
- Thằng mù ăn nói bậy bạ cái gì thế?
Từ mù nói:
- Cô nương Phán Đệ, họ Thượng Quan nhà cô quả là giỏi! Thời Nhật thì có chàng rể Sa Nguyệt Lương đắc thế, thời Quốc dân đảng có rể thứ hai Tư Mã Khố đắc thế, bây giờ có cô và Lỗ Lập Nhân đắc thế. Gia đình cô không bao giờ bị mất ngọn cờ, không bao giờ bị lật thuyền. Rồi đây người Mỹ chiếm Trung Quốc, gia đình cô còn có chàng rể tây...
Tư Mã Lương mặt trắng nhợt, túm chặt tay mẹ. Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng rúc vào nách mẹ. Sa Tảo Hoa khóc, Lỗ Thắng Lợi cũng khóc. Chị tám Ngọc Nữ là người khóc cuối cùng.
Tiếng khóc của chúng khiến người trên bục và dưới sân để ý. Nhân vật bự cũng nhìn chúng chằm chằm. Từ Tiên Nhi tuy mù nhưng rất chuẩn xác quì trước mặt nhân vật bự, gào khóc:
- Thưa trưởng quan, hãy phân xử cho lão mù này?
Lão vừa khóc vừa dập đầu lia lịa, trán lão dính đầy đất.
Lỗ Lập Nhân nhìn nhân vật bự bằng con mắt cầu cứu. Nhân vật bự lạnh lùng nhìn anh ta, cái nhìn sắc như dao. Lỗ Lập Nhân mồ hôi chảy đầy mặt, mất hẳn cái vẻ ung dung thanh thoát, khi thì cúi nhìn cái đầu ngón chân, chốc lại ngẩng nhìn những người dưới sân phơi anh ta không đủ dũng khí nhìn thẳng vào mặt nhân vật bự.
Thượng Quan Phán Đệ cũng mất đi vẻ oai vệ của một trưởng khu, mặt đỏ như gấc, môi dưới run bần bật như lên cơn sốt. Chị chửi bới như một mụ nhà quê đanh đá:
- Lão Từ kia, lão định làm loạn phỏng? Gia đình ta có chỗ nào đắc tội với lão? Con vợ thối thây của lão đã mồi chài Tư Mã Khố, bậy bạ với nhau trong ruộng lúa mạch bị người ta tóm được không còn mặt mũi nhìn mọi người, nên mới uống thuốc phiện mà chết! Ta còn nghe nói lão cắn xé cô ta suốt đêm như một con chó. Vợ lão đã cho biết bao nhiêu người xem những vết cắn thâm tím ở ngực, lão có biết không. Bức hại vợ lão chính là lão. Tư Mã Khố có tội nhưng thủ phạm là lão. Nếu tử hình, trước tiên đem lão ra bắn bỏ!
- Thưa trưởng quan! - Từ mù nói - Ông nghe thấy chưa, cháy nhà ra mặt chuột.
Lỗ Lập Nhân vội đỡ đòn cho Phán Đệ. Anh ta định kéo Từ Tiên Nhi xuống nhưng Từ Tiên Nhi như cục kẹo kéo, lôi dậy người dài ra, buông tay người vón cục. Lỗ Lập Nhân nói:
- Bác ơi, bác đề nghị bắn bỏ Tư Mã Khố là đúng, nhưng đòi bắn bỏ con cái của Tư Mã Khố là sai, trẻ con không có tội!
Từ Tiên Nhi cãi:
- Triệu Giáp làm gì có tội? Triệu Giáp chẳng qua chỉ là anh thợ bếp lò? Chẳng phải Triệu Giáp có chút tư thù với Trương Đức Thành đấy sao? Chẳng phải là các người nói bắn là lôi ra bắn đó sao? Thưa ông huyện trưởng, không bắn chết con cháu Tư Mã Khố thì lão không chịu!
Những người dưới sân bảo nhau:
- Bà cô của Triệu Giáp là mẹ đẻ Từ Tiên Nhi, hai người là anh em họ.
Lỗ Lập Nhân cười ngượng, dè dặt tới bên nhân vật bự, lúng búng điều gì đó với ông ta. Nhân vật bự xoay xoay cái nghiên mục, không nói nửa câu, nhưng hai vết hằn bên khóe miệng kéo dài xuống tận dưới cằm và cái bĩu môi của ông ta thì đầy sát khí. Lỗ Lập Nhân lại lúng túng trình bày gì đó. Lúc này cặp mắt trắng đã của ông ta ngước lên nhìn Lỗ Lập Nhân, cất giọng rè rè nói rất to:
- Cái chuyện vặt này mà phải làm hộ anh sao?
Lỗ Lập Nhân rút khăn tay lau mồ hôi trên trán, hai tay quài ra sau thắt chặt dải vải đen, mặt vàng bệch, ra phía trước bục, lớn tiếng tuyên bố.
- Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, thực hiện ý nguyện của nhân dân. Bây giờ tôi xin trưng cầu ý kiến của các vị, ai đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố thì giơ tay lên?
Phán Đệ giận dữ chất vấn Lỗ Lập Nhân:
- Anh điên hay sao?
Phía dưới, mọi người cúi gằm, không ai giơ tay, cũng không ai nói gì.
Lỗ Lập Nhân đưa mắt hỏi ý kiến nhân vật bự.
Nhân vật bự thoáng nét cười nhạt trên khuôn mặt, bảo Lỗ Lập Nhân:
- Anh hỏi lại lần nữa, ai không đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố?
Lỗ Lập Nhân hỏi: - Ai không đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố thì giơ tay?
Quần chúng vẫn im lặng, đầu cúi gằm, không giơ tay, không ai nói câu gì.
Mẹ chậm rãi đứng lên, nói:
- Từ Tiên Nhi, nếu dứt khoát phải đền mạng thì xin bắn chết tôi! Mẹ ông không thắt cổ chết, mà chết vì băng huyết. Nguồn gốc bệnh của bà là từ thời loạn thổ phỉ để lại.
Nhân vật bự đứng dậy đi vào phía trong.
Lỗ Lập Nhân vội vã đuổi theo.
Trên một khoảnh đất trống phía sau bục, nhân vật bự lúc nói chậm lúc nói nhanh, cánh tay khẳng khiu mềm oặt của ông ta lúc giơ lên lúc hạ xuống, như một lưỡi dao chém vào không khí.
Các vệ sĩ xúm xít xung quanh, hộ tống ông ta bỏ đi. Lỗ Lập Nhân đứng như trời trồng, đầu cúi gằm. Anh ta đứng rất lâu rồi như sực tỉnh, lê những bước nặng nề, đờ dẫn trở về vị trí huyện trưởng của anh ta. Anh ta nhìn chúng tôi bằng ánh mắt điên dại, nhìn rất lâu, trông thật đáng thương. Lâu lắm, anh ta mới mở được miệng, ánh mắt thì như con bạc khát nước, nói:
- Tôi tuyên bố, tử hình con trai Tư Mã Khố là Tư Mã Lương, lập tức thi hành; tử hình hai con gái Tư Mã Khố là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng, lập tức chấp hành!
Người mẹ chúi một cái, nhưng mẹ vẫn đứng vững. Mẹ nói:
- Để ta xem mày có dám không?
Mẹ ôm chặt Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng. Tư Mã Lương nhanh nhẹn nằm rạp xuống đất rồi bò lùi. Mọi người lắc lư làm như không để ý, che khuất cho Tư Mã Lương bỏ trốn.
- Tôn Bất Ngôn? - Lỗ Lập Nhân quát to - Sao không chấp hành mệnh lệnh của tôi?
Phán Đệ chửi: - Anh lú lẫn rồi, lệnh gì mà như thế!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Tôi không lú lẫn, tôi rất tỉnh? - Anh ta vừa nói vừa đấm vào đầu.
Thằng Câm ngần ngại buộc xuống bục, theo sau là hai đội viên của tiểu khu.
Tư Mã Lương bò ra khỏi đám đông, lách giữa hai trạm gác rồi chạy vụt lên đê.
- Chạy rồi, chạy rồi. - Các đội viên trên bục kêu lên. Các lính gác hạ súng trên vai xuống, kéo cơ bẩm, đẩy đạn lên nòng, rồi bắn mấy phát chỉ thiên. Tư Mã Lương mất hút trong những lùm cây lúp xúp trên đê.
Thằng Câm dẫn các đội viên, gạt những tấm lưng đen đủi ken nhau, đến trước mặt chúng tôi. Hai đứa con câm của hắn - Câm Anh, Câm Em - giương đôi mắt cô độc và ngạo mạn nhìn hắn. Hắn giơ vuốt trước như thép nguội ra, mẹ nhổ vào mặt hắn một bãi nước bọt. Hắn rụt tay lại chùi nước bọt trên mặt, chùi xong lại chìa tay ra, mẹ lại nhổ bãi nữa nhưng lần này súc yếu hơn, nước bọt chỉ đến ngực hắn. Hắn ngoảnh lại nhìn những người đứng trên bục. Lỗ Lập Nhân hai tay chắp sau lưng, đi đi lại lại. Phán Đệ thì ngồi xổm, hai tay bưng mặt. Các cán bộ huyện và khu thì nét mặt vô cảm như tuồng đất. Cái cằm dưới rắn như thép của Thằng Câm lập bập như thường ngày, miệng quát:
- Cởi, cởi, cởi?
Mẹ ưỡn ngực, thét lên chói tai:
- Thằng súc sinh, giết tao trước đi!
Mẹ xông tới trước mặt Thằng Câm cào vào mặt hắn. Mặt hắn xuất hiện bốn rãnh màu trắng, sau đó máu từ trong rãnh tứa ra.
Thằng Câm vuốt mặt một cái rồi đưa ngón tay ra trước mặt ngây ra mà nhìn, hình như để xem cái gì dính trên ngón tay. Xem xong, hắn lại đưa ngón tay lên mũi - cái mũi sư tử - để ngửi, hình như để biết trên ngón tay có mùi gì. Ngửi xong, hắn thè lại liếm đầu ngón tay như để xem mùi vị nó ra sao. Lát sau, hắn ầu ầu lên mấy tiếng, đấm mẹ một quả, mẹ ngã bay về phía chúng tôi.
Chúng tôi vừa khóc vừa phủ phục trên mình mẹ.
Thằng Câm xách từng đứa chúng tôi quẳng sang một bên. Tôi rơi trên lưng một phụ nữ, Sa Tào Hoa rơi trên bụng tôi. Lỗ Thắng Lợi rơi trên lưng một ông già. Chị Tám rơi trên vai một bà lão. Câm anh đeo dưới cánh tay của bố nó, bố nó vẩy rất mạnh cũng không rơi, nó bám chặt cổ tay không nhả. Câm em thì ôm chặt chân Thằng Câm Bố, cắn vào gối của bố. Bố nó hất chân, Câm em bay vào đầu một ông trung niên. Thằng Câm Bố giằng mạnh tay, Câm Anh văng ra, kéo theo trong miệng một miếng thịt của Câm Bố, rơi đánh bộp vào lòng một bà lão
Thằng Câm tay trái xách Tư Mã Phượng, tay phải xách Tư Mã Hoàng đi như đi trong bùn lầy, chân giơ cao rồi mới đặt xuống. Hắn đi đến trước cái bục, giơ tay trái quẳng Tư Mã Phượng lên, giơ tay phải quẳng Tư Mã Hoàng lên. Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng gào khóc, miệng gọi bà ngoại. Hai đứa muốn trườn xuống nhưng bị thăng Cầm chặn lại. Mẹ lồm cồm bò dậy loạng choạng chạy tới nhưng vừa được hai bước, mẹ ngã lăn ra.
Lỗ Lập Nhân dừnglại, giọng thê thảm:
- Các ông các bà nghèo khổ ơi, các vị nói đi, Lỗ Lập Nhân tôi có còn là con người hay không Bắn chết hai đứa trẻ này, trong lòng tôi như thế nào? Tôi đau lắm, xót xa lắm! Chúng nó là trẻ con, huống hồ lại là thân thích với tôi! Nhưng chính bởi vì chúng là họ hàng, tôi buộc phải rớt nước mắt mà tử hình chúng! Các ông các bà ơi, hãy tỉnh lại, tử hình con cái Tư Mã Khố là chúng ta không còn đường lui nữa. Thoạt nhìn, chúng ta bắn hai đứa trẻ, kỳ thực không phải là đứa trẻ, mà là chế độ lạc hậu cũ kỹ, chúng ta bắn là bắn cái chế độ đó, bắn hai dấu hiệu đó? Các ông các bà ơi, hãy vùng lên, không cách mạng thì là phản cách mạng, không có còn đường thứ ba!
Anh ta nói to quá nên ho sặc sụa, mặt đỏ gay, nước mắt ràn rụa. Một cán bộ huyện bước tới định đấm lưng cho anh ta, nhưng anh ta khoát tay từ chối. Rồi anh ta cũng điều khiển được nhịp thở, nhổ nước bọt, hổn hển như mắc bệnh lao, nói:
- Chấp hành đi!
Thằng Câm nhảy lên bục, hai tay kẹp hai đứa trẻ rảo bước đến bờ đầm. Hắn đặt hai đứa xuống rồi lùi lại hơn chục bước. Hai đứa trẻ ôm lấy nhau, khuôn mặt hẹp và dài như bôi lên lớp phấn vàng, bốn con mắt nhỏ xíu kinh hoàng nhìn Thằng Câm. Thằng Câm rút khẩu pạc-hoọc ra từ từ giơ lên, bàn tay hắn đầy máu run run như khẩu súng nặng đến hai mươi cân, vất vả mới giơ được lên. Pằng, hắn bắn một phát, cổ tay cầm súng nẩy lên một cái đầu nòng bốc khói, cánh tay hắn lập tức nhũn ra, viên đạn bay trên đầu hai đứa trẻ, làm bắn tung một chỗ bùn trên đầm.
Một phụ nữ với hai bàn chân không bị bó, người hơi nghiêng như thuyền buồm ăn gió, chạy như bay theo con đường mòn kẹp giữa hai vạt cỏ rậm, vừa chạy vừa gào thét như con gà mái chạy đến bảo vệ cho đàn con. Tôi nhận ra đó là chị Cả, vì chị từ chân đê chạy tới. Chị được coi là tâm thần không bình thường nên không dự đại hội đấu tranh. Là vợ chưa chết của Hán gian Sa Nguyệt Lượng, chị đáng bị đem xử bắn. Nếu mọi người biết chị đã từng nhất dạ phong lưu với Tư Mã Khố, chị đáng bị bắn hai lần. Tôi lo thay cho chị. Chị đang đâm đầu vào lưới. Chị chạy thẳng đến ven đầm, đứng chặn trước mặt hai đứa trẻ:
- Bắn tôi đi, giết tôi đi! - Chị gào thét điên cuồng - Tôi đã từng qua đêm với Tư Mã Khố, tôi chính là mẹ của chúng.
Cái hàm dưới của Thằng Câm lại lập cập dữ dội, chứng tỏ sóng gió đang nổi lên trong lòng hắn. Hắn chĩa súng, quát bằng giọng khàn khàn:
- Cởi, cởi, cởi!
Không chút do dự, chị Cả cởi nút áo để lộ cặp vú tuyệt mỹ của chị, Thằng Câm giương to mắt, cằm dưới của hắn như rơi xuống đất vỡ thành từng mảnh, to như cục gạch, nhỏ như mầu gạch. Hàm dưới mà mất, Thằng Câm trông thật dáng sợ. Hắn lấy tay nâng hàm dưới, chỉ sợ nó rơi xuống, nói mà không phải nghĩa như thế:
- Cởi, cởi, cởi?
Chị Cả ngoan ngoãn cởi bỏ áo, mình trần. Mặt chị đen nhưng mình thì trắng, trắng như ngà. Trong bầu không khí u ám, chị thi gan với Thằng Câm. Thằng Câm ngập ngừng đi tới, đi tới ngay trước mặt chị, một thằng đàn ông như đúc bằng thép phút chốc tan ra nước như người tuyết dưới ánh nắng mặt trời, chân một nơi tay một ngả, ruột lòng thòng như những con rắn, chỉ còn mỗi trái tim đỏ rực được nâng bằng hai tay là đang đập. Gắng gượng lắm những bộ phận đó mới trở về vị trí cũ thành hình người nguyên vẹn. Thằng Câm quỳ trước mặt chị Cả, hai tay ôm vòng mông của chị, hôn lấy hôn để cái rốn của chị.
Trước tình huống bất ngờ đó, bọn Lỗ Lập Nhân giương mắt nhìn nhau, miệng như bị bỏng, tay như chạm phải gai nhím. Dân chúng nhìn trộm về phía đầm, không hiểu tâm trạng của họ ra sao.
- Tôn Bất Ngôn! - Lỗ Lập Nhân ngán ngẩm cất tiếng gọi, nhưng Thằng Câm không thèm để ý.
Phán Đệ nhảy xuống bục chạy tới ven đầm nhặt chiếc áo cánh khoác lên người chị Cả. Chị định lôi chị Cả đi, nhưng nửa người dưới của chị Cả đã gắn chặt vào Thằng Câm, Phán Đệ gỡ ra sao được? Phán Đệ quay ngược báng súng đập vào vai Thằng Câm. Thằng Câm ngẩng mặt lên, nét mặt dịu dàng, nước mắt lưng tròng.
Sự việc xảy ra sau đó cho đến nay vẫn còn là một ẩn số có đến mười mấy nghiệm, không ai biết đích xác thật giả như thế nào. Giữa lúc chị Phán Đệ ngẩn người trước cặp mắt đầy lệ của Thằng Câm; giữa lúc chị em con Phượng líu ríu ôm nhau đứng dậy tìm bà ngoại, giữa lúc mẹ tỉnh lại - vừa kêu vừa chạy tới ven đầm; giữa lúc Từ Tiên Nhi nói: Ông huyện trưởng, đừng giết chúng, mẹ tôi không thắt cổ chết, vợ tôi chết không phải hoàn toàn do Tư Mã Khố, giữa lúc hai con chó hoang đang cắn nhau trong căn nhà bỏ hoang của người đàn bà Hồi; giữa lúc tôi đang nhớ lại khung cảnh ngọt ngào mà ấm ức bên máng cỏ, miệng tôi mặn mùi bụi đất ở đầu vú chị Cả và cái đầu vú nẩy như cao su của chị, thì có hai người cưỡi ngựa lướt tới như một cơn lốc. Hai con ngựa, một con trắng như tuyết, một con đen như mun. Người cưỡi ngựa trắng mặc áo đen, che nửa mặt dưới bằng vuông vải đen, đầu đội mũ đen. Người cưỡi ngựa đen mặc áo trắng, che nửa mặt dưới bằng vuông vải trắng, đầu đội mũ trắng. Mỗi người hai tay hai súng, tài cưỡi ngựa thì tuyệt diệu, hai chân thẳng băng trên mình ngựa, người hơi ngả về phía trước. Khi gần đến ven đầm, họ bắn một băng lên trời, các cán bộ huyện khu hoảng sợ đến nỗi nằm rạp dưới đất. Họ điều khiển dây cương cho ngựa lượn một vòng, thân ngựa hơi nghiêng vẽ thành một vòng cung đẹp mắt. Mỗi người trong họ nổ một phát súng rồi bỏ đi, đuôi ngựa bay bay, như sương như mù, chỉ chớp mắt đã biến mất, quả là đến như gió xuân, đi như gió thu, hư hư thực thực y như một giấc mộng! Họ đi rồi, mọi người mới dần dần định thần lại. Kết quả cuối cùng là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng mỗi đứa bị một phát đạn vào đầu viên đạn từ trán chui ra gáy, lỗ đạn không sai nhau mảy may, mọi người ngạc nhiên thán phục mãi.
8
Ngày đầu tiên khi rút lui, dân chúng mười tám thôn trấn vùng Cao Mật dắt ngựa ôm gà, dìu già dắt trẻ, tập trung ở bãi đất phèn ở bờ bắc sông Thuồng Luồng. Mặt đất phủ một lớp vảy như những mảnh băng chưa tan. Những loại cây cỏ chịu được mặn như cỏ lác, cỏ mao, cây sậy thì cành lá khô héo, lắc lư trong gió lạnh. Những con quạ thích ồn ào sà thấp trên đầu mọi người mà nhòm ngó, thậm chí còn kêu vang quạ quạ như những thi sĩ lãng mạn.
Bị giáng chúc làm phó huyện trưởng, Lỗ Lập Nhân đứng trên bệ tế ở đầu nấm mộ của vị cử nhân Đan Đình đời Tiền Thanh, gân cổ ra mà gào bài phát biểu có tính động viên cho cuộc rút lui. Chủ đề diễn thuyết của anh ta là: Mùa đông năm nay đã bắt đầu, vùng Cao Mật trở thành chiến trường, không sơ tán đi nơi khác thì cầm chắc cái chết? Lũ quạ đậu kín những cây tùng, đậu trên các mộ, trên người đá ngựa đá. Chúng quà, chúng quạ ầm ĩ, phá đám cuộc diễn thuyết của Lỗ Lập Nhân, khiến dân chúng càng kinh hoảng, góp phần tăng thêm quyết tâm cùng chính quyền huyện, khu rút chạy.
Một tiếng súng nổ vang, cuộc rút chạy bắt đầu. Đám người đông như kiến ồn ào tản ra. Thế là lừa kêu ngựa hí, gà bay chó chạy, bà già khóc mếu, trẻ con kêu gào: Một thanh niên nhanh nhẹn tay cầm cờ đỏ, cưỡi ngựa trắng, chạy ngược chạy xuôi trên con đường đất phèn kéo dài vô tận về phía dông bắc, chốc chốc lại phất ngọn cờ chỉ hướng cho dòng người tiến lên. Đi đầu là đơn vị gồm hơn chục con la chở hồ sơ giấy má của huyện phủ, dưới sự điều khiển của hơn chục chú lính, uể oải cất bước. Cuối đoàn la là những con lạc đà còn lại từ thời Tư Mã Khố, với bộ lông dài bẩn thỉu màu vàng xỉn, thồ hai hòm sắt tây. ở vùng Cao Mật đã lâu, nó đang từ lạc đà biến thành trâu. Đi liền sau lạc đà, là đội dân phu khênh cỗ máy in của huyện và một số máy móc của xưởng sửa chữa cơ khí huyện. Hơn chục dân phu, đều là đàn ông, quần áo đều mỏng, trên vai mỗi người đều có tấm đệm vai hình lá sen. Qua bước chân loạng choạng và cái dáng mắm môi mắm lợi của họ, thì biết máy móc rất nặng.
Sau đội dân công, là đội ngũ tạp nham của dân chúng. Đám cán bộ huyện, khu như Lỗ Lập Nhân và Phán Đệ thì cưỡi lừa hoặc ngựa chạy lên chạy xuống trên những vạt đất phèn, cố duy trì tình trạng có trật tự. Nhưng mặt đường quá hẹp, quá chật chội, mà hai bên đường thì lại rộng rãi bằng phẳng, dân chúng bèn bỏ con đường, mở rộng đội hình theo hàng ngang dẫm lép bép trên những vảy đất đi về hướng đông bắc. Ban đầu là một cuộc rút lui, nhưng nhanh chóng biến thành một cuộc tháo chạy vô cùng lộn xộn.
Cả nhà tôi bị kẹt trong dòng người đông đặc, lúc thì đi trên đường, về sau cùng không rõ là đang đi trên đường hay đi dưới ruộng. Mẹ đeo bao đay trước ngực, đẩy chiếc xe cút kít bánh gỗ hai càng cách nhau khá xa, mẹ phải đang rộng tay hết cỡ. Hai chiếc sọt hình hộp buộc hai bên xe, sọt bên trái là Lỗ Thắng Lợi và chăn gối, quần áo của cả nhà, sọt bên phải là Câm anh và Câm em. Tôi và Sa Tảo Hoa mỗi người một bên, vịn vào sọt mà đi cùng xe. Chị Tám mù thì bám vạt áo mẹ, lếch thếch đi cuối cùng. Chị Lai Đệ lúc tỉnh lúc lú thì đi trước xe, vai khoác dây, lưng gập lại, cổ ươn ra như kiếp trâu kéo. Chiếc xe rít kin kít chói tai, mẹ và chị Cả thở như kéo bễ, bàn chân nhỏ khiến chị và mẹ cực kỳ vất vả. Ba đứa trẻ trên xe đầu ngất ngưỡng, quay hết bên nọ đến bên kia xem cảnh huyên náo. Chúng tôi dẫm chân lên đất phèn lạo xạo, mũi ngửi mùi mặn của muối, lúc đầu rất thú, nhưng đi được vài dặm thì đầu váng mắt hoa, chân tay bủn rún, mồ hôi ướt đầm trong nách. Con dê trắng khỏe mạnh như lừa của tôi ngoan ngoãn theo sau, nó rất hiểu ý người, không cần dùng đến thừng chạc. Hôm ấy có gió bấc nhẹ nhưng buốt như cắt tai. Trên cánh đồng mênh mông cuộn lên những làn bụi trắng. Đó là hỗn hợp của muối, phèn và kiềm. Vào mắt, mắt chảy nước, vào da, da đau rát, ăn vào miệng thì chẳng ngon lành gì? Mọi người ngược gió mà đi, mắt nhíu lại. Những dân phu khiêng máy người ướt đẫm quần áo, nhất loạt biến thành người trắng. Mẹ cũng đã thành người trắng, lông mi lông mày trắng toát, tóc cũng trắng.
Khi tiến vào vùng trũng và ẩm ướt, bánh xe chuyển động khó khăn. Chị Cả phía trước đánh vật với con đường, sợi dây kéo hằn sâu vào thịt. Không trông thấy mặt chị, chỉ nhìn thấy lưng áo mồ hôi từng mảng. Tiếng thở của chị khiến người ta phát hoảng. Còn mẹ thì sao? Nói rằng đẩy xe, thực ra mẹ chẳng khác Chúa Giêsu chịu cực hình.
Cặp mắt u buồn của mẹ đẫm nước mắt. Nước mắt trộn mồ hôi chảy từng vệt dài trên mặt mẹ. Chị Tám đeo sau mẹ như một cái bị. Chúng tôi để lại phía sau vết hằn rất sâu của bánh xe, nhưng nó lại bị xóa hoặc mờ đi bởi những bánh xe, chân người và gia súc của những toán đi sau. Phía trước, phía sau, bên phải, bên trái chúng tôi đều là những người tị nạn. Những khuôn mặt quen và không quen đều trở nên mơ hồ. Tất cả đều vất vả, người vất vả ngựa vất vả, lừa vất vả. Tương đối dễ chịu là con gà mái trong bọc bà lão, và con dê của tôi. Nó nhanh nhẹn, trên đường đi nó tranh thủ ăn được một ít lá khô.
Mặt trời rọi những tia nắng xuống mặt đất nhiễm phèn, ánh phản quang làm lóa mắt, làn sáng trắng đi động trên mặt đất từng mảng màu bạc. Cánh đồng hoang mênh mông làm cho phía trước giống như biển bắc trong truyền thuyết.
Đến trưa, y như bệnh hay lây, mọi người không ai bảo ai mà cũng chẳng hiệu lệnh nào cả, nhất loạt ngồi xuống nghỉ. Không có nước, cổ họng khô bỏng, lưỡi rát như bị dao cứa, đưa đẩy trong miệng rất khó khăn. Mũi phả hơi nóng nhưng lưng và bụng thì lạnh toát, gió thổi khô mồ hôi, quấn áo cứng như tôn lá. Mẹ ngồi trên một càng xe, lấy trong sọt một cái bánh bột ngô, bẻ đôi chia cho chúng tôi. Chị Cả cắn một miếng, đôi môi khô nẻ của chị tóe máu, vài giọt thấm vào bánh. Ba sinh vật nhỏ trên xe mặt mày xanh tái chẳng khác lũ quỉ trong đền, chẳng còn ra hình người. Chúng không chịu ăn, cau có. Chị Tám nhe hàm răng trắng, đều dặn, nhấm từng tí một chiếc bánh khô cứng.
Mẹ thở dài, nói:
- Đây là những chủ trương tốt đẹp của các ông bố bà mẹ yêu quí của các cháu?
Sa Tảo Hoa sụt sịt:
- Ngoại ơi, mình về nhà đi! Mẹ nhìn đoàn người đông như kiến cỏ mà thở dài, không nói gì. Mẹ bảo tôi:
- Kim Đồng, từ nay phải thay đổi cách ăn.
Mẹ lấy trong bọc ra chiếc bình gốm có in ngôi sao năm cánh đi đến phía sau con dê, dùng tay phủi sạch cát bụi trên vú nó. Con dê không chịu, mẹ bảo tôi ôm lấy đầu nó. Tôi ôm lấy cái đầu lạnh như đá của nó, xem mẹ vắt sữa. Sữa rỏ tưng giọt vào bình. Con dê chắc là không thoải mái, nó đã quen với việc cho tôi nằm ngửa dưới bầu vú nó mà bú. Cái đầu nó lắc lắc trong tay tôi, lưng nó cong lên, cựa quậy như con rắn. Mẹ nhắc lại câu nói mà tôi rất sợ:
- Kim Đồng, khi nào thì con có thể ăn cơm?
Những năm tháng qua tôi đã từng ăn thử, nhưng dù tôi ăn những thức ngon đến mấy, dạ dày tôi vẫn không chịu, ăn vào là nôn ọe, nôn ra mật xanh mật vàng. Tôi xấu hổ nhìn mẹ, tự kiểm điểm nghiêm khắc bản thân, vì cái tật này mà thêm biết bao phiền toái cho mẹ, đồng thời cho tôi. Tư Mã Lương đã từng hứa chữa khỏi tật này cho tôi, nhưng từ khi nó bỏ trốn, tôi không gặp lại nó. Bộ mặt láu cá và đáng yêu của nó ẩn hiện trước mặt tôi. Lổ đạn có vết gỉ đồng xanh trên trán Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng phát ra những tia đáng sợ. Tôi nhớ lại khung cảnh hai đứa nằm chung trong một quan tài nhỏ bằng gỗ liễu. Mẹ lấy miếng giấy hồng điều dán vào lỗ đạn, biến vết đạn thành nốt ruồi trang điểm của người.
Mẹ đã vắt được nửa bình sữa, đứng dậy tìm cái chai mà ngày trước cô Đường cho Sa Tảo Hoa bú, mở nút, đổ sữa vào chai. Mẹ đưa chai sữa cho tôi. Để khỏi phụ lòng mong mỏi của mẹ, vì tự do và hạnh phúc của tôi, tôi kiên quyết nhét đầu vú cao su màu vàng nhạt vào miệng. Chiếc đầu vú cao su không súc sống làm sao sánh được bầu vú màu phấn hồng đẹp tuyệt của mẹ tôi, đó là sự yêu thương, là thơ ca, là bầu trời cao vời vợi, là mảnh đất thuần hậu dập dềnh sóng lúa; cũng không sánh được bầu vú to tướng, căng phồng, đầy những vết tàn nhang của con dê. Bầu vú cao su là một vật chết, tuy bóng loáng nhưng không mịn màng. Cái đáng sợ nhất là nó là không mùi vị. Một cảm giác lạnh tanh và lờm lợm trong miệng. Vì mẹ và vì bản thân, tôi cố nén cảm giác ngán ngẩm, cắn nó một cái, nó hăng hái rít lên một tiếng khe khẽ, một ít sữa mằn mặn rỉ ra một cách khó khăn thấm trên khoang miệng và đầu lưỡi tôi. Tôi lại ti một ngụm nữa. Tôi nhủ thầm: ngụm này cho mẹ, ngụm này cho Kim Đồng. Tôi tiếp tục ti, vì Lai Đệ này, vì Lãnh Đệ này, vì Tưởng Đệ này, vì tất cả những người trong nhà Thượng Quan đã yêu tôi, đã thương tôi, đã giúp đỡ tôi vì Tư Mã Lương, thằng nhỏ thông minh nhanh này, cũng có quan hệ máu mủ gì với nhà Thượng Quan chúng tôi. Tôi nín thở, dùng công cụ đưa chất nuôi sống vào cơ thể. Khi tôi đưa trả mẹ cái chai, nước mắt ràn rụa trên mặt mẹ. Chị Lai Đệ cười sung sướng. Sa Tảo Hoa nói:
- Cậu lớn rồi!
Tôi cố gắng kiềm chế cảm giác buồn nôn và cái đau âm ỉ ở dạ dày, coi như không có chuyện gì xảy ra, tiến lên vài bước như một trang tu mi nam tử và đứng đái theo chiều gió, và hứng lên, tôi bơm chất nước màu vàng đó đi thật xa. Tôi trông thấy con đê: trên sông Thuồng Luồng nằm vắt ngang, cái nóc nhọn của nhà thờ và cây bạch dương chọc trời của nhà Tư Phạm. Chúng tôi vất vả cả một buổi sáng, vậy mà chỉ mới đi được một đoạn đường ngắn đến thảm hại.
Bị giáng xuống làm Chủ nhiệm Hội phụ nữ cứu quốc khu, chị Phán Đệ cưỡi con ngựa chột mắt trái, trên mông phải có đóng đấu bằng chữ số ả rập, từ phía tây đi đến. Con ngựa của chị vẹo cổ một cách quái gở, vụng về cất bước với những bộ vó lóng ngóng phát ra những tiếng lạch cạch, khập khiễng đi lại chỗ chúng tôi. Nó là con ngựa ô đực, sau khi bị thiến, nó trở thành con ngựa thái giám, giọng the thé, tính tình quái đản. Bốn chân và cái bụng của nó dính một lớp đất phèn màu trắng, yên cương thấm đẫm mồ hôi bốc lên mùi chua loét. Trong một thời gian dài, con ngựa rất nhu mì, nhu mì đến nỗi bọn trẻ tinh nghịch có thể vặt lông đuôi của nó. Nhưng một khi nó đã nổi máu thì có thể làm những chuyện động trời.
Mùa hè năm ngoái, khi ấy là thời đại của Tư Mã Khố, nó cắn một miếng vào đầu Phùng Lan Chi, con gái ông lái ngựa Phùng Quí, cô bé đã tưởng không sống được, trán và sau gáy để lại những vết sẹo khủng khiếp. Loại ngựa như vậy lẽ ra phải giết quách, nhưng nghe nói nó từng lập chiến công nên ân xá. Nó đứng trước cỗ xe nhà tôi, giương con mắt độc nhỡn nhìn con dê của tôi. Con dê của tôi cảnh giác lùi lại chỗ có đất phèn dày nhất, liếm những phấn trắng trên mặt đất. Chị Phán Đệ vẫn tỏ ra nhanh nhẹn dù rằng cái bụng của chị đã lùm lùm. Chị xuống ngựa. Tôi nhìn bụng chị, đoán thử hình dáng đứa trẻ trong đó, nhưng không đoán nổi, chỉ nhìn thấy những vết ố trên bộ quân phục màu xám của chị.
- Không nên dừng lại ở đây. Mẹ ơi, chúng con đã chuẩn bị nước nóng, cơm trưa ở thôn trước mặt, ta phải đến đó - Phán Đệ nói.
Mẹ nói:
- Phán Đệ, mẹ bảo này, mẹ không muốn rút với các con nữa!
Phán Đệ cuống quít lên:
- Mẹ, dứt khoát không được, quân địch trở lại lần này hoàn toàn khác với những lần trước, một ngày giết bảy ngàn người ở khu vực Bột Hải. Bọn Hoàn Hương Đoàn hiếu sát, giết cả mẹ đẻ.
Mẹ nói:
- Tao không tin lại có người giết cả mẹ đẻ.
Chị Phán Đệ nói:
- Mẹ, dù thế nào chăng nữa cũng không thể để mẹ quay lại, quay lại là tự đâm đầu vào lưới, chắc chắn là chết! Mẹ không lo cho mẹ thì thôi, nhưng phải nghĩ đến những đứa này chứ?
Chị lấy trong xắc cốt cái lọ nhỏ mở nút đổ ra mấy viên thuốc màu trắng đưa cho mẹ, nói:
- Đây là vitamin, một viên bằng một cây cải bẹ và hai quả trứng, mẹ, khi nào mệt mỏi chịu không nổi thì mẹ uống một viên, chia cho bọn trẻ một viên. Ra khỏi vùng đất phèn là đường dễ đi, bà con Bắc Hải sẽ nhiệt tình đón tiếp chúng ta. Mẹ, đi ngay đi, đừng ngồi ở đây nữa!
Chị túm lấy bờm ngựa, lồng chân vào bàn đạp nhảy lên yên vội vã chạy đi, vừa chạy vừa nói to:
- Bà con ơi, dậy mà đi, trước mặt là Vương Gia Khưu, có nước nóng có dầu mỡ, có củ cải có hành tây, chuẩn bị sẵn cả rồi!...
Được khuyến khích, mọi người đứng dậy, tiếp tục cuộc hành trình.
Mẹ lấy khăn tay gói mấy viên thuốc chị Phán Đệ cho, bỏ vào túi, rồi vớ lấy hai càng xe:
- Nào, ta đi các con.
Đội quân rút lui ngày càng dài ra, nhìn trước không thấy đầu, nhìn sau không thấy cuối. Chúng tôi đã tới Vương Gia Khưu. Vương Gia Khưu không có nước nóng cũng không có dầu, càng không có củ cải hành tây! Đội la của huyện đã rời đây trước khi chúng tôi đến, cỏ khô và phân la vung vãi là vết tích của họ để lại. Dân chúng đốt đống lửa ở giữa sân để nướng lương khô. Mấy đứa con trai dùng cành cây đào hành dại ở ngoài đồng. Khi chúng tôi rời Vương Gia Khưu thì bắt gặp Thằng Câm dẫn hơn chục đội viên đi vào. Hắn không xuống ngựa, móc trong túi hai củ khoai lang chín dở và một củ cải đỏ ném vào sọt trên xe, suýt bươu đầu Thằng Câm em.
Tôi đặc biệt chú ý cái cười nhe cả lợi của hắn với chị Cả, cái cười của sài lang hổ báo? Gì thì chị Cả từng đính hôn với hắn. Những người có mặt không bao giờ quên màn trình diễn kinh hồn giữa hắn với chị bên bờ đầm. Các đội viên đều đeo súng tiểu liên, Thằng Câm đeo lủng lẳng trước ngực bốn quả địa lôi đen bóng.
Khi mặt trời gác núi, chúng tôi kéo theo cái bóng dài lê thê, lần tới một thôn nhỏ. Trong sân tiếng người ồn ào tất cả các ống khói của các gia đình đều tuôn khói trắng. Nhân dân nằm đầy đương, ngổn ngang như củi. Một số cán bộ mặc quần áo xám len lỏi giữa đám đông. Bên giếng nước đầu thôn, người xếp hàng dài chờ lấy nước, người len vào đã đành, súc vật cũng len vào. Mùi nước giếng trong lành khiến mọi người phấn chấn, con dê của tôi cũng hếch mũi lên, hắt hơi rõ to. Chị Lai Đệ cầm cái bát rạn vừng men xanh, nghe nói cái bát này là đồ cổ có giá len vào lấy nước. Mấy bận đã tưởng chị len vào được lại bị người ta dẩy bật ra. Một dân phu làm cấp dưỡng cho huyện nhận ra chúng tôi, bèn xách đến một thùng nước. Sa Tảo Hoa và chị Cả là những người đầu tiên chạy tới quì xuống vục đầu vào trong thùng uống nước, vội đến nỗi cụng đầu vào nhau. Mẹ không bằng lòng, trách chị Cả:
- Cho bọn nhỏ uống trước chứ!
Chị Cả sững lại, Sa Tảo Hoa đã uống ừng ực như con bê, chỉ khác con bê ở chỗ hai tay bám lấy mép thùng.
- Thôi cháu, uống ít thôi kẻo đau bụng - Mẹ khuyên, nắm vai nó đẩy ra.
Nó liếm môi như vẫn còn thèm, nước reo ùng ục trong bụng nó. Chị Cả uống một trận, lúc đứng lên, bụng chị lớn hơn nhiều. Mẹ múc nước bằng bát cho Câm anh, Câm em và Sa Tảo Hoa uống. Sau đó là chị Tám, chị đánh hơi lần đến chỗ thùng nước, quì xuống, vục đầu mà uống. Mẹ hỏi:
- Kim Đồng, con có uống không?
Tôi lắc đầu. Mẹ múc một bát nước. Tôi thả con dê, nó rất muốn xông tới, nhưng bị tôi ôm chặt cổ. Con dê của tôi khát nước là đúng vì nó ăn rất nhiều đất phèn, nó cắm đầu uống, nước trong thùng cạn rất nhanh, bụng nó thì phình dần lên. Ông già cấp dưỡng vô cùng cảm khái, nhưng ông chỉ thở dài không nói gì. Mẹ cảm ơn ông ta, ông thở dài càng dữ.
- Mẹ, sao mẹ đến muộn thế? Chị Phán Đệ phê bình mẹ.
Mẹ không giải thích. Chúng tôi đẩy xe, dắt dê đi theo chị, quanh co luồn lách giữa đám đông, nghe đủ những lời nguyền rủa và oán trách, cuối cùng vào trong một cái sân có tường vây bằng đất, cổng gỗ. Phán Đệ giúp mẹ bế mấy đứa trẻ ra khỏi sọt. Chị định đưa cái xe và con dê ra ngoài, nơi có mười mấy con lừa và ngựa, rơm cỏ chẳng có, thức ăn thì không, lũ lừa ngựa đành gặm vỏ cây. Chúng tôi để xe trong ngõ, con dê theo tôi vào trong sân. Phán Đệ nhìn tôi không nói gì, chị biết con dê là nguồn sống của tôi.
Gian giữa ánh đèn sáng trưng, một bóng người to lớn dưới ánh đèn. Các cán bộ huyện đang tranh cãi điều gì đó, trong đó có tiếng khàn khàn của Lỗ Lập Nhân. Ngoài sân, mấy chú lính bồng súng đứng gác, không chú nào đứng thẳng vì chân bị đau. Trời đầy sao, màn đêm nặng trĩu. Phán Đệ dẫn chúng tôi vào một gian chái, trên tường treo ngọn đèn leo lét. Một bà già nằm ngay ngắn trong chiếc quan tài mở nắp, thấy chúng tôi vào, bà mở mắt bảo:
- Làm ơn đậy nắp lại hộ tôi, tôi phải chiếm cái nhà này của tôi!
Mẹ nói:
- Bà ơi, sao bà lại làm vậy?
Bà già nói:
- Hôm nay là ngày lành tháng tốt của tôi, làm ơn đậy cái nắp lên hộ tôi một tí.
Phán Đệ nói:
- Phiên phiến thôi mẹ, so với ngủ ngoài đường còn tốt chán!
Đêm ấy chúng tôi ngủ không ngon giấc. Cuộc tranh cãi ngoài gian giữa đến nửa đêm mới chấm dứt. Tranh cãi vừa dứt thì ngoài đường có tiếng súng nổ, cảnh nhốn nháo vừa tạm yên thì giữa thôn có đám cháy, ngọn lửa phần phật như những dải lụa đỏ, soi rõ mặt mọi người, soi rõ cả khuôn mặt bà già nằm trong quan tài. Lúc trời sáng, bà già không động cựa gì cả, mẹ gọi, bà không mở mắt, bắt mạch thì thấy bà lão đã chết. Mẹ nói:
- Số như vậy là số tiên!
Mẹ và chị Cả đậy nắp quan tài cho bà lão.
Mấy ngày tiếp theo lại càng gian khổ. Khi tới chân núi Đại Trạch, mẹ và chị Cả đã phồng rộp cả hai bàn chân. Câm anh và Câm em đều bị ho. Lỗ Thắng Lợi bị sốt và đi ỉa chảy. Mẹ nhớ tới mấy viên thuốc của chị Năm, liền nhét một viên vào miệng nó. Chỉ có chị Tám tội nghiệp là chẳng ốm đau gì. Đã hai ngày nay chúng tôi không trông thấy bóng dáng của chị Phán Đệ. Cán bộ huyện, khu cũng không thấy một ai. Một bận trông thấy Thằng Câm, hắn cõng một đội viên bị thương từ phía sau chạy lên. Người đó gãy cả hai chân, máu rỏ giọt xuống đường qua hai ống quần rỗng, khóc mếu nài nỉ Thằng Câm:
- Đội trưởng giúp tôi một tí cho thanh thản, đau chết mất, mẹ ơi!
Khoảng ngày thứ năm kể từ khi chạy nạn, chúng tôi trông thấy dãy núi lớn phía bắc, trên núi có những lùm cây, đỉnh núi hình như có một cái miếu nhỏ. Từ con đê Thuồng Luồng sau nhà, vào những hôm đẹp trời, tôi có thể nhìn thấy quả núi này, nhưng khi đó nó có màu xanh đen. Ngọn núi đã ở trước mặt, hình thế của núi, khí hậu mát mẻ của núi khiến chúng tôi hiểu rằng mình đã rời quê rất xa. Chúng tôi đi trên con đường rải đá rất rộng, trúc mặt có một chi đội người ngựa đi ngược chiều, các binh sĩ ăn mặc như binh sĩ của trung đoàn 17. Bộ đội đi ngược chiều chứng tỏ ở quê chúng tôi đã trở thành chiến trường. Sau đội kỵ mã là bộ binh, sau bộ binh là những con la kéo pháo, đầu nòng cắm một bó hoa, các pháo thủ vênh váo ngồi trên nòng pháo. Sau pháo là đội cứu thương. Sau đội cứu thương là những xe nhỏ xếp hàng hai, trên xe là những bao bột mì hoặc bao gạo, ngoài ra còn có một số bao cỏ.
Những người dân tị nạn vùng Cao Mật sợ hãi đứng nép hai bên nhường đường cho đại quân. Trong đoàn bộ binh, có mấy người đeo súng pạc-hoọc tách ra khỏi đội ngũ, đến hỏi thăm tình hình trong đám dân tị nạn. Anh thợ cắt tóc Vương Siêu đẩy cỗ xe bánh cao su rất thời thượng, dọc đường đã trải qua ung dung, nhưng đến đoạn đường này thì anh ta gặp vận xui. Một chiếc xe trong đội vận chuyển Lương thảo bị gãy trục, người đàn ông đẩy xe tuổi trung niên lật nghiêng xe, tháo cái trục ra ngắm nghía mãi, hai bàn tay đen sì dầu mỡ. Làm bò kéo xe là một thiếu niên khoảng mười lăm tuổi trên đầu có cái nhọt mạch lươn, hai khóe mép lở loét, mình mặc chiếc áo cộc không có cúc, thắt lưng băng sợi dây thừng.
Chú hỏi:
- Sao vậy, bố?
Thì ra đó là hai bố con. Người bố mặt mày rầu rĩ, nói:
- Trục gãy rồi, con ạ!
Hai cha con hè nhau lôi cái bánh xe nặng chịch ra.
- Bố ơi làm thế nào bây giờ - chú hỏi.
Người bố ra chỗ cây bạch dương bên đường, chùi tay vào vỏ cây:
- Chẳng còn cách nào? Lúc này, một người đeo tiểu liên, cụt một tay, mặc quân phục mỏng đã cũ nhưng trên đầu lại đội một chiếc mũ da chó, người nghiêng nghiêng đi tới.
- Vương Kim, Vương Kim! - Người cụt tay giận dữ quát - sao tụt lại đằng sau hả? Có phải anh định làm mất mặt đại đội gang thép của chúng tôi?
- Thưa chỉ đạo viên - Vương Kim nhăn nhó - Xe tôi gãy trục rồi?...
Chỉ đạo viên cụt tay giận điên lên:
- Đ. mẹ, không gãy vào lúc khác mà lại nhằm vào lúc ra mặt trận? Đã bảo anh phải kiểm tra xe cho kỹ?
Chỉ đạo viên cụt tay càng nói càng cáu, khuôn mặt xám ngoét của anh ta khiến tôi lại nhớ tới Sạ nguyệt Lượng. Anh ta giơ cánh tay đặc biệt phát triển đánh Vương Kim một bạt tai. Vương Kim ối lên một tiếng, gục đầu xuống, máu chảy ra từ hai lỗ mũi.
- Ông là ai mà đánh bố tôi? - Chú bé chất vấn chỉ đạo viên. Chỉ đạo viên nói.
- Sao, không chịu hả? Giao Lương không đúng kỳ hạn thì tao bắn chết cả hai bố con!
Chú thiếu niên nói:
- Ai muốn gãy trục xe làm gì? Nhà cháu nghèo, chiếc xe này cháu mượn của cô cháu.
Vương Kim moi một ít bông trong tay áo đứt nút lỗ mũi, lầu bầu:
- Chỉ đạo viên, ông bất chấp cả lẽ phải!
- Lẽ phải nào? - chỉ đạo viên nghiêm mặt hỏi - đưa được lương thực ra mặt trận là lẽ phải, không đưa được lương thực ra mặt trận là không có lẽ phải. Các người đừng có ca cẩm nữa, dù phải cõng phải vác, cũng phải đưa hai trăm bốn mươi cân kê này tới trấn Đào Quan trong ngày hôm nay!
Vương Kim nói:
- Chỉ đạo viên, ông thường hay nói phải thực tế hai trăm bốn mươi cân... cháu lại nhỏ... tôi van ông đấy
Chỉ đạo viên ngẩng lên nhìn mặt trời, cúi xuống xem đồng hồ, ngoảnh nhìn ra tứ phía, bất chợt trông thấy cỗ xe nhà tôi, nhìn tiếp thấy cỗ xe bánh cao su của Vương Siêu. Vương Siêu có nghề cắt tóc kiếm tiền cũng khá, lại độc thân, có tiền mua thịt mua cá, dinh dưỡng tốt nên mặt mũi đầy đặn, nước da hồng hào chẳng ra dáng người làm ruộng. Chiếc xe nhỏ bánh cao su của anh ta, một bên là cái hòm đựng đồ nghề cắt tóc, bên kia là chiếc chăn hoa, bên ngoài chiếc chăn còn được bọc một tấm da chó. Chiếc xe được đóng bằng gỗ hòe gai; đánh một lớp véc ni, gỗ hòe nhẵn bóng, không những đẹp mắt mà còn rất thơm. Trước khi lên đường, anh ta còn bơm bánh xe thật căng đi trên đường rải đá, chiếc xe nhảy tâng tâng, xe nhẹ người khỏe, trong bọc giắt bình rượu, đi vài dặm lại gác càng xe mở nút làm vài ngụm, chân nhẹ tênh, miệng nghêu ngao dăm câu hát, anh ta là quí tộc trong đám dân tị nạn. Cặp mắt đen của chỉ đạo viên đảo như chớp, vừa mỉm cười vừa bước tới tỏ vẻ thân thiện:
- Các vị từ đâu tới?
Không ai trả lời anh ta, vì rằng khi hỏi câu ấy, anh ta nhìn vào cây bạch dương, thân cây có vết dầu mỡ mà anh dân phu vừa bôi lên. Những cây bạch dương màu xám, cây nọ tiếp cây kia, các cành vươn lên cao trong tư thế chọc trời. Nhưng ánh mắt anh ta nhanh chóng chuyển sang Vương Siêu, nét thân thiện trên mặt biến mất, thay vào đó là thái dộ nghiêm nghị như tượng trong đền.
- Anh thành phần gì? - Anh ta nhìn khuôn mặt bóng nhẫy của Vương Siêu hỏi.
Vương Siêu choáng váng, không hiểu đầu đuôi ra sao.
- Trông bộ anh - Anh cụt tay nói như đinh đóng cột - không địa chủ thì cũng là phú nông, không phú nông thì tiểu chủ, nghĩa là cái loại người ngồi mát ăn bát vàng chứ không sống bằng sức lao động của mình.
- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Oan cho tôi, tôi là thợ cắt tóc, sống bằng tay nghề, nhà chỉ có hai gian, ruộng không có, vợ con cũng không, một người ăn, no cả nhà, ăn hôm nay không biết có ngày mai. Nơi tôi vừa vạch xong thành phần, trên khu qui tôi là thợ thủ công, tương đương trung nông lớp dưới, thành phần cơ bản mà!
- Nói láo - Anh cụt tay nói - anh bẻm mép như vẹt cũng không qua được mắt tôi. Chúng tôi trưng dụng cái xe của anh!
Anh ta quay lại gọi cha con Vương Kim:
- Mau dỡ hàng xuống, chất lên xe này!
- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Chiếc xe này tôi tích cóp nửa đời người mới có, ông không được tước đoạt người nghèo.
Anh cụt tay nổi giận nói:
- Vì thắng lợi, ông đã hiến cả cánh tay. Cái xe rách của anh đáng mấy đồng? Các chiến sĩ ngoài tiền tuyến đang chờ lương thực mà anh dám chống lệnh hả?
- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Ông với tôi không cùng khu, cũng không cùng huyện, ông quyền gì mà trung dụng xe của tôi?
Anh cụt tay nói:
- Huyện nào khu nào cũng phải phục vụ tiền tuyến!
Vương Siêu nói:
- Không được, tôi không đồng ý!
Anh cụt tay quì một chân xuống đất, rút bút máy ra, dùng miệng mở nắp bút, lại lấy ra một mảnh giấy bằng bàn tay đặt lên đùi, nguệch ngoạc viết mấy chữ, hỏi:
- Anh tên gì? Huyện nào, khu nào?
Vuông Siêu trả lời từng điểm một.
Anh cụt tay nói:
- Tôi với Huyện trưởng Lỗ Lập Nhân là chiến hữu. Thế này nhé, xong trận này anh đưa giấy này cho ông ta, ông ta sẽ đền cho anh một chiếc xe.
Vương Siêu chỉ vào chúng tôi, nói:
- Thưa ông, đây là mẹ vợ Lỗ huyện trưởng, đây là cả gia đình!
Anh cụt nói:
- Bác ơi, nhờ bác làm chúng hộ, nói rằng tình hình khẩn cấp, chỉ đạo viên Quách Mạt Phúc của Đoàn dân công chi viện tiền tuyến khu Bột Hải có trưng dụng một chiếc xe của Vương Siêu, đề nghị anh Lỗ giải quyết chuyện đền bù cho thỏa đáng!
- Tốt rồi - Anh cụt nhét mảnh giấy vào tay Vương Siêu rồi giận dữ quát cha con Vương Kim - Còn chần chừ gì nữa? Mẹ kiếp! Giao lương không đúng hẹn, cha con anh thì ăn roi, còn tôi thì ăn đạn!
Quách Mạt Phúc chỉ vào mũi của Vương Siêu, nói:
- Mau dỡ đồ đạc của anh xuống!
Vương Siêu nói: - Thưa ông, ông bảo tôi làm thế nào bây giờ?
Quách Mạt Phúc vỗ tay vào báng súng lục, sầm mặt lại nói:
- Cứ phải lẩy cho anh một phát vào đầu mới xong phải không? Dỡ xuống! Mẹ kiếp, sao mà giác ngộ thấp thế! Tôi từng uống rượu tiết gà, kết bạn sinh tử với huyện trưởng nhà anh, anh xấu hay tốt tôi chỉ cần đá lưỡi một cái là xong!
Vương Siêu nhăn nhó nhìn mẹ:
- Bác ơi, bác làm chứng cho tôi nhé?
Mẹ gật đầu.
Cha con Vương Kim đẩy chiếc xe của Vương Siêu, vui như mở cờ trong bụng.
Anh cụt lịch sự gật đầu chào mẹ, không thèm ngó Vương Siêu - người đã hiến chiếc xe, rảo bước chạy theo đội ngũ.
Vương Siêu ngồi phịch xuống bó chăn, mặt dài như mặt khỉ, lẩm bẩm một mình: Sao mà mình xui thế không biết? Người khác chẳng sao, lại rơi đúng vào đầu mình? Mình có chơi xấu ai đâu mà đến nông nỗi này! Nước mắt chảy dài theo cặp má phúng phính, anh ta khóc như đứa trẻ lên ba.
Chúng tôi đã tới dưới chân quả núi lớn, con đường rải đá tẽ thành hơn chục con đường nhỏ ngoằn ngoèo bò lên núi. Buổi tối, những người tị nạn tụm năm tụm ba bàn luận những tin tức trái ngược nhau bằng đủ các giọng. Đêm ấy, mọi người ngủ qua đêm trong các bụi quán mộc. Từ mạn nam và mạn bắc vọng tới những tiếng nổ nặng nề, những tia chớp đầu nòng xé rách màn đêm. Vào lúc nửa đêm, không khí quánh lại và ẩm ướt, gần như có thé quơ tay mà nắm như nắm những sợi bông. Gió như những con rắn, luồn theo khe núi trơn tới, rung những lá vàng còn dính trên cây xào xạc. Tiếng cáo kêu thê tham trong hang. Tiếng hú của những con sói trong khe núi. Những đứa trẻ sắp chết rên như tiếng mèo hen. Ông già ho như gõ thanh la. Đúng là một đêm kinh khủng. Lúc trời sáng đã thấy mấy xác chết vứt trong khe núi, trẻ con có, người già có có cả trung niên. Cả nhà tôi sống sót là do chúng tôi đã chiếm được một bụi cây khá đặc biệt: những cây khác rụng hết lá, riêng nó thì còn nguyên, lại còn có một đống cỏ khô rất dày. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau, chiếc chăn duy nhất trùm lên dấu, con dê nằm sát sau lưng thành một bức tường che gió cho tôi. Cơ cục nhất là lúc nửa đêm về sáng, pháo nổ đùng đoàng phía nam càng tăng thêm cảnh tĩnh mịch trong những bụi cây, tiếng rên như cứa vào tim, khiến người nổi gai ốc, tai ong ong như có tiếng hát bội trong đó. Thực ra, đó là tiếng khóc ti tỉ của một phụ nữ.
Sương mù bám lấy chiếc chăn lạnh giá trên đầu. Trời mưa, mưa đông, những hạt mưa rơi trên chăn, mưa rơi loạt soạt trên những lá vàng khô của bụi quán mộc, rơi trên sườn núi, trên đầu dân tị nạn, rơi trên bộ lông vàng rộm và dày của những con sói đang hú. Hạt mưa rơi giữa chừng biến thành bột xốp, đến mặt đất lập tức đóng thành băng, hạt mưa tí tách, bóng đêm chứa ẩn bao điều huyền bí. Tôi chợt nhớ lại cái đêm ông ba Phàn giơ cao ngọn đuốc dẫn đắt chúng tôi ra khỏi cõi chết. Ngọn đuốc như con ngựa hồng nhảy nhót trong đêm tối. Đêm ấy tôi chìm trong hơi ấm của sữa, ôm bầu vú vĩ đại mà tưởng mình bay lên thiên đàng. Giờ đây ảo mộng đáng sợ lại bắt đầu. Luồng sáng màu vàng xuyên qua màn đêm như luồng ánh sáng trên máy chiếu phim của. Bác-bít, côn trùng bay trong luồng sáng như những chám trắng, một phụ nữ tóc dài tha thướt, áo màu mây hồng đính hàng ngàn vạn viên ngọc lấp lánh, lúc thì giống chị Lai Đệ, lúc giống Tiên Chim, lúc lại gíông Kim-Một-Vú, đột nhiên lại biến thành bà người Mỹ. Bà ta mỉm cười dịu dàng, ánh mắt sao mà đẹp, duyên dáng, mê hoặc, như đớp lấy hồn người ta, những giọt nước mắt lấp ló bên bờ mi, hàng lông mày cong vút, hàm răng trắng bóng cắn nhẹ môi dưới, đôi môi đỏ hồng. Sau đó bà lần lượt cắn nhẹ các ngón tay tôi, cắn nhẹ các ngón chân tôi. Thấp thoáng cái eo nhỏ, cái rốn xinh xinh như hạt anh đào. Tôi nhìn ngọc lên và bất giác nước mắt đâm đìa, nức nở thành tiếng: Hai bầu vú như đúc bằng vàng khối nạm hai viên ngọc thấp thoáng sau làn áo mỏng. Tiếng nói của người dẹp từ trên cao dội xuống, lạy đi, thằng nhỏ nhà Thượng Quan, đây là Thượng đế của nhà ngươi. Thì ra Thượng đế là hai bầu vú. Thượng đế có thể biến hóa, biến hóa đến vô cùng, anh mê say cái gì, Thượng đế sẽ biến thành nó để anh xem, nếu không, sao gọi là Thượng đế? Tôi không vươn tới được Người, Người cao quá!
Thế là bà ta sà thấp xuống, vén làn áo mỏng trước mặt tôi, mỏng như nước, vấn vương quanh núi. Thân hình bà chập chờn bất định, cặp vú Thượng đế của tôi có lúc chạm vào trán tôi, có lúc quệt ngang má tôi, nhưng không bao giờ chạm vào môi tôi. Tôi máy lần dưới lên như con cá vọt lên mặt nước, miệng há to nhưng toàn đớp hụt. Tôi giận dỗi, tôi sốt ruột, nhưng là giận dỗi trong hạnh phúc, sốt ruột trong hy vọng tràn trề. Bà mỉm cười, nụ cười ranh mãnh và đầy quyến rũ. Tôi không ghét sự ranh mãnh đó, vì sự ranh mãnh đó là mật ong, là búp sen hình bầu vú, là quả thảo mai ngậm sương có hình búp sen, là bầu vú có hình quả thảo mai bôi mật ong. Cái lúm đồng tiền của bà làm tôi mê mấn, chỉ một tiếng cười khiến tôi cảm động tới mức quì xuống ăn phân chó. Vì bà, tôi có thể ăn phân chó, dù rằng tôi là thằng con trai sống toàn bằng sữa. Bà không nên dập dờn như thế, tôi xin bà cho tôi cắn vào bà, tôi nguyện cùng bà bay lên chín tầng mây xem những con Ô Thước bắc cầu. Vì bà tôi có thể nắn miệng thành mỏ, khuôn mặt trở nên gớm ghiếc, trên người mọc lông tơ, hai vai mọc đôi cánh, hai chân mọc thêm vuốt, bọn trẻ nhà Thượng Quan chúng tôi, ai cũng có cảm tình với loài chim. Vậy thì người hãy mọc lông mọc cánh đi! Thế là toàn thân tôi đau đớn một cách kỳ lạ và sốt cao vì mọc lông mọc cánh.
- Kim Đồng, Kim Đồng!
Mẹ đang gọi tôi. Mẹ kéo tôi ra khỏi ảo giác. Mẹ và chị Cả xoa bóp chân tay tôi trong bóng tối, kéo tôi trở về từ chỗ ranh giới giữa cái sống và cái chết.
Trời mờ sáng. Tiếng khóc vang lên trong các bụi cây. Mọi người dùng tiếng khóc để biểu thị sự xót thương đối với người chết. Dưới tán lá khô vàng của bụi quán mộc và cái chăn có phủ lớp vải dầu, trái tim của bảy người trong gia dình tôi đang đập. Số thuốc của chị Phán Đệ cho, mẹ chia cho mỗi người một viên. Tôi không uống, mẹ nhét viên thuốc vào miệng con dê. Nó nuốt viên thuốc rồi ăn những lá khô trên bụi quán mộc. Băng bám đầy trên lá, trên cành cây, phủ một lớp trong suốt lên những hòn đá quạ dưới khe núi, tất cả đều phủ một lớp băng mỏng. Không có gió, mưa lạnh tiếp tục rơi, cành cây loạt soạt đường trên núi bóng loáng có thể soi gương.
Một người tị nạn dắt con lừa, trên lưng con lừa là cái xác của một phụ nữ, định men theo một lối mòn lên núi. Con lừa của anh ta ngã lên ngã xuống vì trượt chân.
Anh ta giúp con lừa, nhưng dùng súc quá mạnh nên ngã theo. Người và lừa trở nên lóng ngóng, cái xác của người phụ nữ lăn xuống khe. Trong thung lũng, một con báo gấm đang ngậm một cái xác trẻ con, đầu nặng đít nhẹ nên con báo ngất ngưỡng nhảy trên những tảng đá, nó nhảy liên tiếp cho khỏi ngã xuống nước. Người phụ nữ tóc xõa vừa gào khóc vừa đuổi theo con báo. Chị vừa lăn vừa bò trên tảng đá đóng băng, cằm rách, răng cửa gãy, gáy rỉ máu, móng tay gãy, cổ chân bị trẹo gân, tay trật khớp, lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo, nhưng chị không cho con báo được thở, đuổi đến cùng cuối cùng, chị tóm được đuôi con báo.
Mọi người rơi vào cảnh khó khăn, cử động là ngã, không cử động thì chết cóng. Không ai muốn chết, vậy là cái ngã đã làm mất mục tiêu của cuộc rút chạy. Ngôi miếu nhỏ trên đỉnh núi đã biến thành một đốm trắng lấp lánh, cây cối trên sườn núi cũng biến thành màu trắng. Trên độ cao ấy, mưa lạnh đã biến thành tuyết. Mọi người không dám trèo lên, chỉ loay hoay dưới chân núi. Chúng tôi nhìn thấy thi thể anh thợ cắt tóc Vương Siêu dưới gốc cây tượng thụ, anh ta dùng thắt lưng treo cổ dưới cành thấp nhất, cành cây cong như cánh cung, có thể gãy bất cứ lúc nào. Ngón chân anh ta chớm mặt đất chiếc quần dài tụt xuống đầu gối, chiếc áo khoác ngoài phủ kín mông nên không đến nỗi khó coi. Tôi chỉ nhìn thoáng qua khuôn mặt to bè tím ngắt và cái lưỡi lè ra như một mẩu vải rách rồi vội quay mặt đi. Vậy mà những hình ảnh ấy cứ ám ảnh tôi trong giấc ngủ. Không ai để ý đến anh ta. Mấy người có vẻ hiền lành đang tranh nhau cái chăn và tấm da chó của anh ta. Giằng đi kéo lại cuối cùng cắn xé nhau. Người to con đột nhiên hét tướng lên, cái tai vểnh của anh ta đã bị người bé nhỏ cắn đứt. Người bé nhỏ nhổ cái vành tai vào lòng bàn tay, cầm lên ngắm nghía, quăng trả người to con, rồi anh ta ôm bọc chăn và tấm da chó bỏ chạy, khéo léo tìm chỗ đặt anh sao cho khỏi ngã. Anh ta chạy đến bên một ông già, ông già giơ cây chống càng xe vụt cho anh ta một cái vào đầu. Anh ta ngã lăn ra như một bao tải gạo. Ông già tựa lưng vào thân cây, tay cầm cây gậy ba chạc bảo vệ cái chăn. Mấy kẻ liều mạng định đến cướp nhưng bị ông già chọc nhẹ một cái là ngã chổng bốn vó. Ông già mặc chiếc áo bông dài, thắt quanh người sợi thừng to bự, đầu thừng lủng lẳng cái tẩu và túi đựng thuốc hút. Ông có chòm râu bạc trắng bám đầy băng.
- Không sợ chết thì cứ xông vào!
Ông già thét chói tai, mặt dài ra, mắt đổi màu xanh lục. Mọi người hoang mang dãn ra.
Mẹ quyết định dứt khoát:
- Quay về, về nhà! Mẹ dựng xe lên rồi chập choạng đẩy đi. Trục xe sau khi bị nước mưa rít lên chói tai khi lăn bánh. Chúng tôi ra những người đầu têu. Nhiều người, cứ lặng lẽ đi theo chúng tôi, có người nhanh chóng vượt cả chúng tôi, lại rong ruổi trên con đường trở về quê cũ.
Băng vỡ dưới bánh xe, băng bắn sang hai bên, trời bổ sung bằng mưa lất phất, rồi đột nhiên trong mưa có những cục đá đánh rát vành tai và da mặt, cuối cùng là mưa đá. Cánh đồng hoang mênh mông rào rào như xay lúa. Chúng tôi giữ nguyên cung cách như khi đi, mẹ đẩy xe, chị Cả làm bò, gót chân chị nút nẻ gần như trông thấy xương. Chị kéo xe mà như múa ương ca. Mỗi khi xe bị chao nghiêng, chị cũng chao nghiêng, lần nào cũng như lần nào. Lục phản hồi của sợi thừng kéo căng làm chị ngã liền mấy bận. Chị vừa kéo vừa khóc hu hu. Tôi và Sa Tảo Hoa cũng khóc. Mẹ không khóc, hai mắt thâm quầng, mẹ mắm môi mắm lợi dồn hết tinh lục, vừa thận trọng vừa kiên quyết biến hai bàn chân tí xíu như hai bàn xẻng nhỏ tí bám mặt đất tiến lên từng bước chắc chắn. Chị Tám lặng lẽ đi sau mẹ, tay túm vạt áo, lon ton như một quả cà ủng trôi theo dòng nước.
Con dê của tôi là một con dê sáng giá. Nó theo tôi không rời nửa bước. Nó cũng ngã xoành xoạch, nhưng mỗi lần ngã lại bật dậy ngay lập tức. Để bảo vệ bầu vú cho nó, mẹ lấy miếng vải trắng trùm ngược vú, thắt hai nút trên lưng, lại còn lồng vào giữa hai miếng da thỏ để giữ hơi ấm. Tấm da thỏ khiến người ta nhớ lại thời kỳ yêu như điên như cuồng của Sa Nguyệt Lượng. Con dê ứa nước mắt, mũi phát ra những tiếng rên rỉ, đó là ngôn ngữ của nó. Hai tai nó nứt nẻ vì băng giá, bốn chân màu phấn hồng. Từ khi bầu vú được che ấm, nó trở thành con dê hạnh phúc nhất. Miếng vải và tấm da thỏ, ngoài tác~ dụng giữ hơi ấm, còn là vật để đỡ vú. Đó là một sáng tạo. Sau này, khi tôi là chuyên gia về nịt vú, tôi đã thiết kế kiểu nịt vú da thỏ cho phụ nữ vùng cao rét buốt.
Chúng tôi trở về với những bước chân vội vã, dự kiến giữa trưa thì về tới chỗ đường rải đá có ca bạch dương. ánh nắng chưa chọc thủng mây, nhưng đất trời đã hửng sáng. Con đường rải đá long lanh như ngọc lưu ly. Sau đó, băng mỏng bị những bông tuyết thay thế. Mặt đường, ngọn cây, đồng ruộng hai bên đường, rất nhanh chuyển sang màu trắng. Thường xuyên gặp những xác chết trên đường, xác người và xác súc vật, đôi khi có cả xác chim sẻ, chim thước, gà rừng. Chỉ có chim quạ là không chết, trên nền tuyết trắng, bộ lông con quạ càng đen nhánh. Chúng mổ xác chết, mỏ bị đau nên cất tiếng kêu than thở.
Vận may đã đến. Đầu tiên là tôi nhặt được nửa bao thức ăn gia súc, bã đậu trộn với cám mạch. Con dê ăn một bữa căng bụng, chỗ còn thừa để trên chân Câm anh, Câm em, che gió và tuyết cho chúng. Con dê ăn xong, liếm tuyết, nhìn tôi gật đầu. Tôi hiểu nó định nói gì.
- Tiếp tục tiến lên?
Sa Tảo Hoa nói nó ngửi thấy mùi lúa mạch cháy. Mẹ động viên nó lần theo mùi đó mà tìm, trong một căn nhà nhỏ dùng để trông phần mộ, chúng tôi lượm được hai bao lương khô trên người một binh sĩ đã chết. Thấy người chết nhiều nên không còn cảm giác sợ. Chúng tôi quyết định ngủ lại trong căn nhà đó. Mẹ và chị Cả kéo cái xác anh lính trẻ ra ngoài. Anh ta tự sát. Anh ta ôm súng trong lòng, miệng ngậm đầu nòng, dùng ngón chân cái lòi ra ngoài bít tất đẩy cò cho súng nổ. Viên đạn phá vỡ xương chẩm phía sau gáy. Chuột gặm hết tai của anh ta, gặm cả mũi, xương ngón tay trắng hếu như cành liễu bị bóc vỏ. Khi mẹ và chị Cả kéo cái xác ra ngoài, lũ chuột vằn mắt chạy theo. Để cảm ơn anh lính đã cho lương khô, mẹ dùng lưỡi lê của anh ta đào một cái huyệt nông choèn trên mặt đất băng giá chôn phần đầu của anh ta xuống đấy. Nấm đất nhỏ đối với vua đào hang là lũ chuột chỉ là trò đùa, nhưng lòng mẹ cũng đôi phần thanh thản.
Căn nhà chỉ chứa nổi cả nhà tôi và con dê. Chúng tôi dùng xe chặn cửa. Mẹ ôm khẩu súng trường dính óc của anh lính ngồi ngoài cùng. Lúc trời sắp tối, từng tốp dân tị nạn định chen vào trong đó không ít người có máu đạo tặc nhưng nhìn thây cây súng lăm lăm trong tay mẹ, họ đều sợ hãi bỏ đi. Một người đàn ông miệng rộng, mắt gườm gườm nhìn mẹ vẻ khinh miệt, hỏi:
- Biết bắn không? - Anh ta vừa hỏi vừa xông vào nhà. Mẹ giơ súng cản lại, mẹ không biết bắn. Chị Lai Đệ giăng lấy khẩu súng trong tay mẹ, giật cơ bẩm, cái vỏ đạn văng ra; đẩy cơ bẩm một viên đạn lên nòng, bẻ gập qui lát xuống, chĩa súng phía trên đầu hói đàn ông nổ một phát. Viên đạn cùng với tia lửa vút lên trời. Động tác thành thạo khiến tôi nhớ lại trang sử vẻ vang của chị trong những năm tháng cùng Sa Nguyệt Lượng nam chinh bắc chiến. Người đàn ông miệng rộng bỏ chạy như chó ăn đòn. Mẹ nhìn chị Lai Đệ băng ánh mắt cảm kích rồi nhích vào phía trong, nhường vị trí canh gác cho chị.
Đêm ấy tôi ngủ rất ngon, mãi khi mặt tròi tỏa nắng trên đại lục tuyết mới tỉnh dậy. Tôi muốn quì xuống van nài mẹ không nên rời căn nhà này, căn nhà mà phía trước có ngôi mộ sùng sững, không nên rời rừng tùng đen đội mũ bằng tuyết trắng. Đây là nơi đất lành, là phúc địa. Nhưng mẹ đã lên đường, khẩu súng có nước thép xanh dựng bên Lỗ Thắng Lợi, dưới tấm chăn rách. Trên đường, tuyết đầy đến nửa thước, lạo xạo dưới mỗi bước chân của chúng tôi và dưới bánh xe. Vấp ngã giảm hẳn, chúng tôi đi nhanh hơn. Tuyết chói mắt dưới nắng, người trông càng đen hơn, bất luận mặc quần áo màu gì cũng trở thành đen. Có thể, vì khẩu súng trong sọt và tài bắn súng của chị Lai Đệ khiến mẹ trở nên cứng cổ.
Buổi trưa, bọn tàn quân bỏ chạy từ hướng nam định lục soát xe của chúng tôi, mẹ dang thẳng cánh cho tên lính giả vờ cụt tay một cái tát nẩy lửa, bay cả mũ xuống đất. Tên lính bỏ chạy, không kịp nhặt mũ. Mẹ tiện tay nhặt cái mũ còn mới, chụp lên đầu con dê của toi. Nó chạy nhảy tung tăng với chiếc mũ lính trên đầu. Dân tị nạn đứng xung quanh mặc dù đói rét mụ cả người, cũng há cái miệng đen ngòm ra mà cười, tiếng cười thê thảm như tiếng khóc.
Lúc trời rạng sáng tôi uống no sữa dê, tinh thần sảng khoái, trí tuệ minh mẫn. Tôi phát hiện ra máy in và hòm công văn giấy tờ của huyện bỏ lại bên đường. Những người phu đi đâu cả rồi? Không rõ. Đội la đi đâu? Không rõ.
Mặt đường bắt đầu nhộn nhịp. Từng đội cứu thương từ phía nam rút về, trên cáng là những thương binh luôn miệng rên rỉ. Những dân công tải thương mồ hôi đầm đìa trên mặt, thở như kéo bễ, bước đi loạng choạng trên tuyết
Một số nhân viên áo bơ lu trắng, mũ trắng chạy theo đội tải thương. Một phu khiêng ngã bệt xuống đất, cái cáng lật sang bên, người bị thương ngã lăn ra. Người này băng kín mặt, chỉ hở hai con mắt và cái miệng tê tái. Anh ta vừa khóc vừa chửi:
- Đ. mẹ chúng mày, chết tao rồi?...
Anh ta khóc rồi chửi, chửi rồi khóc. Một nữ quân nhân có khuôn mặt trái xoan đeo túi cứu thương chạy tới. Thoạt nhìn tôi đã nhận ra đó là cô Đường, bạn chiến đấu của chị Phán Đệ. Cô chửi bới người phu khiêng thậm tệ, dịu dàng khuyên nhủ người thương binh. Những nếp nhăn đã xuất hiện rất nhiều trên trán, trên khóe mắt, cô nữ binh tươi tắn xưa kia, giờ đây đã trở thành một bà già khô héo. Cô hoàn toàn không nhận ra chúng tôi, mẹ cũng không nhận ra cô.
Những đội cứu thương kéo đi nườm nượp như không bao giờ hết. Chúng tôi đứng nép bên vệ đường để khỏi làm vướng họ. Cuối cùng, họ cũng đi hết, mặt đường phủ tuyết trắng tinh khiết giờ đây bẩn tới mức khó mà hình dung nổi, toàn là bùn và nước bẩn. Những chỗ tuyết còn nguyên trông chẳng khác làn da bị bỏng vì có những giọt máu rơi vào. Mũi chỉ ngửi thấy mùi tuyết tan và mùi máu, mùi mồ hôi chua loét. Chúng tôi đi tiếp, cứ phấp phỏng trong bụng, ngay cả con dê của tôi khi nãy nhảy tâng tâng vì được đội mũ lính, giờ đây cũng lấm lét chẳng khác lính mới lần đầu ra trận. Những người tị nạn tỏ ra do dự, tiến thoái lưỡng nan. Không nghi ngờ gì nữa, trước mặt là chiến trường, đi về phía nam có nghĩa là ra mặt trận, vào nơi rừng tên mũi đạn, mà đạn thì không có mắt, nó không nể gì anh, còn lính tráng thì như một lũ hổ, có kiêng dè ai. Mọi người đưa mắt nhìn nhau, không ai muốn cho người khác biết ý tứ của mình. Mẹ không nhìn ai, kiên quyết đẩy xe theo hướng về nhà. Tôi nhìn lại, thấy dân tị nạn có người đi ngược lên hướng đông bắc, có người đi theo chúng tôi.

<< Chương 3 (tiếp) | Chương 4 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 336

Return to top