Xưa nay các bật tài trí muốn chung sức lại với nhau để làm việc lớn trong thiên hạ, thì trước hết phải tìm người lãnh đạo.
Người lãnh đạo, tài trí nếu tuyệt luân thì đức hạnh toàn vẹn, và phải biết nghe lời phải, theo kế hay, thấy rõ người, dùng đúng chỗ. Bốn điều đó, cổ nhân gọi trong tám chữ là " ngôn thích, kế tùng, tri nhân, thiện dụng ".
Thuật Lãnh đạo chỉ có tám chữ ấy. Hễ áp dụng triệt để thì thành công.
Như Tề Hoàn Công biết rõ tài trí của Quản Di Ngô mà dùng làm tướng quốc, nghìn lời đều theo, nên dựng nên nghiệp Bá.
Quản Di Ngô thường gọi là Quản Trọng, có người tiểu thiếp tên Tĩnh Nương, vừa thông minh vừa uyên bác. Vì vậy Quản Trọng đi đâu cũng đều đem nàng theo.
Một hôm, Quản Trọng kéo quân đến núi Diêu Sơn thì gặp một người chăn trâu, mặc áo cộc, đội nón rách, vừa gõ sừng trâu vừa ca. Nghe tiếng ca, Quản Trọng biết không phải kẻ tầm thường, bèn khiến quân sĩ đem rượu thịt đến đãi. Người chăn trâu ăn xong nói.
- Tôi muốn được yết kiến quan Tể Tướng.
Quân sĩ đáp:
- Xe quan Tể Tướng đi đã xa rồi. Vậy cứ ăn cho no, cần chi phải gặp mặt.
Người chăn trâu nói:
- Tôi có một lời muốn thưa.
Quân sĩ nói:
- Lời gì ? Nếu chỉ nói một lời thì bọn ta giúp cho cũng được.
Người chăn trâu bèn đọc:
- Hạo hạo bạch thủy.
Quân sĩ đem lời ấy trình lên. Quản Trọng không hiểu ý nghĩa, bèn hỏi Tĩnh Nương. Nàng đáp:
- Thiếp có nghe một bài cổ thi rằng:
Hạo Hạo bạch thủy,
Đằng đằng chi ngư.
Quân lai triệu ngã,
Ngã tương an cư.
Nghĩa là:
Nước trong ngời ngời,
Cá lội thảnh thơi.
Người đến đón rước,
Ta về cùng người.
Ý chừng người ấy muốn ra làm quan.
Quản Trọng khiến xe dừng lại, sai người đến vời người chăn trâu. Người chăn trâu đến cúi đầu thi lễ, chứ không lạy. Quản Trọng hỏi tông tích. Người chăn trâu đáp:
- Tôi là Nịnh Thích, người nước Vệ. Được nghe Tướng Quốc là kẻ ưa hiền, chuộng sĩ, nên tìm qua nước Tề để tiến thân. Ngặt không có người tiến dẫn, nên phải tạm chăn trâu cho người mà sống.
Quản Trọng thử thách để xem trình độ học vấn, Nịnh Thích ứng đáp như lưu. Quản Trọng rất mừng, nói:
- Kẻ hào kiệt lúc chưa gặp vận cũng khó thi thố tài năng. Đại binh của Chúa Công cũng sắp đến. Ta viết cho nhà ngươi một phong thư, mà ngươi an lòng ở đây mà chờ. Lúc Chúa Công đến, hãy xin yết kiến mà dân thư, ắt được trọng dụng.
Nói rồi viết thư trao cho Nịnh Thích.
Nịnh Thích nhận thư ở lại Diêu Sơn chăn trâu như cũ.
Ba hôm sao đại binh Tề Hoàn Công kéo đến. Nịnh Thích cũng gõ sừng trâu ca hát vang lừng. Trong câu hát có ý chê bai thiên hạ không có minh quân, hiền sĩ. Hoàn Công nghe ca, lấy làm lạ, kêu lại hỏi tên họ, quê quán. Nịnh Thích tâu:
- Tôi người nước Vệ, lưu lạc đến đây.
Nhà vua mắng:
- Người là một đứa chăn trâu, sao dám chê bai thiên hạ?
Nịnh Thích đáp:
- Tôi đâu dám chê bai. Tôi chỉ tiếc rằng đời nay không có người hiền.
Hoàn Công hỏi :
- Sao ngươi dám nói rằng: " Đời thiếu minh quân ", trong lúc Thiên Tử nhà Châu đương trị vì thiên hạ, còn ta làm vua một nước chư hầu cường thịnh, trên phục tùng Thiên tử, dưới chế ngự chư hầu, đêm lại thái bình cho thiên hạ ?
Nịnh Thích đáp:
- Một minh quân tất phải biết mình biết người, rõ được thời bình, thấy được lúc biến, đem ân đức rải khắp nhân gian, lấy lòng nhân mà trị thiên hạ. Như nhà Châu hiện nay, vận nước mỗi lúc một suy, trong thì dân tình không phục, ngoài thì chư hầu không tuân, tài trị nước không có, sao gọi là minh quân? Đến như Chúa Công giết anh ruột mình mà cướp ngôi, mượn uy thiên tử để chế ngự chư hầu, nhưng chư hầu đều không phục. Như vậy sao gọi là cường thịch?
Tề Hoàn Công nổi giận mắng lớn:
- Đứa thất phu, sao dám nói càn?
Liền hô kẻ tả hữu bắt đem chém.
Nịnh Thích không chút sợ hãi, ngước mặt lên trời than:
- Ngày xưa vua Kiệt giết Long Bàng, vua Trụ giết Tỷ can, nay tôi cùng hai ông ấy chết, kể là ba người.
Thấp Bằng vội đến tâu cùng Hoàn Công:
- Người ấy, lời nói không dua mị, lòng không sợ uy vũ, chắc không phải kẻ tầm thường. Xin Chúa Công chớ nên giết.
Tề Hoàn Công sực nghĩ lại, cơn giận liền nguôi, bước tới mở trói cho Nịnh Thích, và nói:
- Ta thử nhà ngươi đó thôi. Nhà ngươi quả là người có khí phách.
Nịnh Thích thò tay vào túi lấy phong thư của Quản Trọng dâng cho Tề Hoàn Công. Nhà vua tiếp thư đọc, rồi nói :
- Nhà ngươi đã có bức thư củ Trọng Phụ, sao không tâu trình cho sớm?
Nịnh Thích đáp:
- Tôi nghe nói vua hiền chọn người ngay, tôi trung chọn chúa có đức. Nếu Chúa Công ghét người thẳng, ưa kẻ nịnh, thì thà tôi chịu chết còn hơn đưa thư để được tận dụng.
Hoàn Công rất đẹp lòng, truyền ngồi vào cỗ xe theo sau. Và đêm hôm đó đóng quân lại nghỉ, sai thắp đuốc, tìm mũ áo để phong chức tước cho Nịnh Thích. Tên gian thần là Thụ Điêu tâu:
- Từ đây đến nước Vệ không xa. Xin Chúa Công đợi tới đó hỏi xem Nịnh Thích có phải thật là người hiền không đã rồi sẽ phong cũng không muộn gì.
Hoàn Công nói :
- Đã nghi thì không nên dùng, mà đã dùng thì đừng nên nghi. Giả sử trước kia Nịnh Thích có một vài lỗi nhỏ đi nữa, nay ta cũng không nên vì lỗi nhỏ mà bỏ phí một nhân tài.
Nói xong, ngay đêm ấy, phong Nịnh Thích làm quan Đại Phu, lại khiến cùng Quản Trọng coi việc quốc chính.
Nhờ có Nịnh Thích phụ tá Quản Trọng mà nước Tề mỗi ngày một thêm thịnh vượng và ngôi bá chủ của Tề Hoàn Công thêm vững bền.
Nhưng đến lúc trở về già. Tề Hoàn Công không còn được sáng suốt. Không chịu nghe theo lời trối của Quản Trọng, không chịu nghe theo lời can gián của Bảo Thúc Nha, nhà vua đã tin dùng hai tên nịnh thần là Thụ Điêu và Dịch Nha, đến nỗi quốc chính loạn, nhà vua bị chết sình ở trong một xó tối và nước Tề đi lần lần đến chỗ diệt vong!
Cũng thì một người, mà trước biết xét người, biết dùng người đúng chỗ, biết nghe lời phải, biết theo kế hay, lập nên bá nghiệp; sau vì không biết dùng người, không biết nghe lời phải, mà chẳng những làm hại cho bản thân, còn để lụy cho Tổ Quốc.
Chẳng riêng gì một mình Tề Hoàn Công.
Trong sử sách còn để lại nhiều tấm gương đáng soi. Ví dụ gương Lưu Bang và Hạng Võ.
Nếu đem so tài so sức, thì Hạng Võ nghìn muôn lần vượt hẳn Lưu Bang. Thế mà Lưu Bang lại thắng Hạng Võ chỉ vì một bên tự cho mình là thần thánh, coi khinh cả mọi người, chê Hàn Tín là kẻ luồn trôn, không chịu nghe lời phải của Phạm Tăng chỉ thích nghe những lời mơn trớn của kẻ thù địch.
Nhưng chớ vội chê.
" Tri Nhân " không phải dễ. Chính Khổng Minh mà còn lầm Mã Tắc, huống những người không có tài trí như Khổng Minh.
" Tri nhân " đã khó, mà " thiện dụng " lại còn khó hơn. Lưu Bang tuy đã biết rõ Hàn Tín có tài, nhưng nếu không có Trương Lương thì Hàn Tín đâu được dùng đúng chỗ.
"Tri nhân, thiện dung " đã khó, mà " ngôn thính kế tùng " lại còn khó hơn. Bởi vì những kẻ trung trực, tài năng chỉ nhắm đến sự lợi ích chung cho nhân dân cho Tổ Quốc. Những cái ưa thích quá đáng của kẻ có quyền ưa thích ít được kẻ trung người tài tán thành. Một lần còn nhịn được, hai lần còn ráng nhịn được, ba lần đã hết nhịn được nhưng còn cố dằn, đến bốn lần thì lòng sân hận nổi lên, tất cả đều đổ xuống sông xuống biển ...! Tục có câu " Lời thật mích lòng ", " Trung ngôn nghịch nhĩ ". Cho nên khó lắm, khó lắm...
Bởi vậy sử dụng tám chữ kia được chu đáo, tất phải là người sáng suốt, biết đặt sự lợi ích chung lên trên quyền lợi riêng. Các nhà lãnh đạo thành công xưa nay đều là những người nắm vững trong tay tám chữ ấy.