Thế giới, nơi mỗi cái đều có thể xảy ra… Nhạc sĩ Italia Giudepê Tartini sống vào thế kỷ 18, là người mang dấu ấn của thời đại ông. Ông tin vào sự tồn tại của địa ngục và thiên đường. Một lần, dưới ảnh hưởng của những ý nghĩ về sự trừng phạt ở "thế giới bên kia", ông đã mơ thấy quỷ sứ đến xin ông nhận vào dàn nhạc của mình. "Nhưng tôi chỉ cần những nhạc công chơi vĩ cầm thôi" - nhạc sĩ rụt rè trả lời. "Vì sao ngài lại nghĩ rằng tôi không biết chơi vĩ cầm?" - chủ nhân ông của địa ngục trả lời. Gã vớ ngay lấy cây đàn và bắt đầu chơi. Ngay khi những hợp âm đầu tiên vang lên, Tartini đã quên phắt nỗi kinh sợ trước vị khách đêm hôm khủng khiếp ấy và ông hết sức lắng nghe.
Tiếng nhạc đã quyến rũ ông. Tỉnh dậy lúc sáng ngày, ông mau mắn ghi lại những gì đã nghe thấy vào sổ chép nhạc. Và ông đặt tên cho sáng tác đấy là "Xônat của quỷ sứ".
Đó là bản Xônat nổi tiếng nhất trong các sáng tác của nhạc sĩ Giudepê Tartini.
Trong vòng tay của thần MorphêCó vô vàn những điều mê tín liên quan tới giấc ngủ và giấc mơ. không phải vô cớ mà thần thoại cổ Hy lạp, thậm chí còn có cả một vị thần đặc biệt là thần mộng - Morphê. Con người thiếp đi và nhập vào vương quốc của thần. Vì vậy mà tất cả đều xảy ra trong giấc ngủ!
Quả là có rất nhiều điều bí ẩn trong đất nước của những giấc mơ. Câu chuyện vừa kể hoàn toàn không phải đã là lạ lùng nhất. Chẳng hạn, bạn sẽ nói gì về giấc ngủ như thế này. Nhà bác học người Pháp A. Mori đã mơ thấy mình ở Pari trong những năm nổ ra cuộc cách mạng vĩ đại khi ông trọ tại một khách sạn tỉnh lẻ. Do nguồn gốc quý tộc, ông đã bị kết tội phản quốc và bị xử tử hình. Trong giấc mơ, ông đã nếm trải rất chi tiết những giờ phút cuối cùng trước giờ xử trảm: này đây, người ta dẫn ông qua những đường phố, dân chúng kêu gào tán thưởng bản án… rồi quảng trường nơi đoạn đầu đài đã được bố trí, bản án tử hình được tuyên đọc… Kẻ sắp sửa bị hành quyết bước lên bục và quỳ xuống. Lưỡi dao sập xuống, Mori cảm thấy rõ ràng một cách kinh khủng và ông tỉnh dậy.
Một chi tiết trang trí trên thành giường rơi xuống đã làm ông tỉnh giấc.
Điều gì xảy ra vậy? Cái mà trong hiện thực diễn ra mất vài giờ thì người ngủ mê có thể thấy trong vài chục giây.
Người ta có thể kể về giấc ngủ của một nhà soạn kịch, do quá mệt mỏi đã thiếp đi trong buổi diễn vở kịch của mình. Trong giấc mơ ông đã xem cả năm màn, xem diễn xuất của diễn viên và thấy năm tiếng vỗ tay của khán giả. Vở kịch kết thúc, và tác giả vở diễn được chúc mừng thành công, ông tỉnh giấc và thấy trên sân khấu chỉ mới bắt đầu cảnh một. Hoá ra là nhà soạn kịch mới thiếp đi có vài phút.
Có những giấc mơ mà những năm tháng dài đằng đẵng của cuộc đời đã diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn ngủi trong óc người đang ngủ. Trong giấc mơ, chúng ta tiến hành những chuyến du lịch xa xôi, chúng ta thấy lại mình trong những năm thơ ấu, những năm thời sinh viên, những năm chiến tranh… Chẳng có điều gì lạ lùng ở đây cả. Bởi những hình ảnh lướt qua trong trí não khi mơ chỉ là những hình ảnh trong ý nghĩ, mà ai đã đo được tốc độ của quá trình suy nghĩ?
Song chúng ta gặp một điều bí ẩn khác, rất hiếm có trong giấc mơ của Mori. Tự nhiên hơn cả là ra thử giả định rằng chi tiết trang trí rơi đã gây nên giấc mơ đó, thế nhưng chi tiết đó đã rơi xuống vào thời điểm Mori mơ thấy đoạn cuối cùng khi ông bị hành quyết. Và Mori đã tỉnh dậy ngay lập tức. Mà ngay trước đó ông ta đã thấy rất chi tiết tất cả những gì diễn ra trước khi án tử hình được thực hiện. Giải thích thế nào đây về giấc mơ lạ lùng như thế?
Điều bí ẩn về giấc mơ của Mori ngày nay vẫn còn là điều bí ẩn …
Môn khoa học nghiên cứu những quá trình diễn ra trong ý thức chúng ta khi ngủ còn rất non trẻ. Một trong những tác phẩm khoa học nghiêm túc đầu tiên "Thí nghiệm xây dựng lý thuyết về giấc mơ" được viết vào năm cuối thế kỷ 18. Tác giả công trình này, bác sĩ Nuđôp kể về những tác động ngoại cảnh có ảnh hưởng như thế nào đến các giấc mơ. Ông dẫn ra một ví dụ sau: Người ta nhỏ vài giọt nước vào miệng một người đang ngủ nằm ngửa há miệng; người đó liền xoay sang nằm sấp xuống và bắt đầu khua khoắng chân tay theo những động tác bơi. Anh ta mơ thấy rơi xuống nước và đang cố gắng bơi vào bờ.
Trong mọi trường hợp, các giấc mơ đều phản ánh cuộc sống của chúng ta, nhưng chúng phản ánh rất sai lạc. Sự ức chế cục bộ vỏ đại não diễn ra trong lúc ngủ đã cản trở khả năng tư duy đúng đắn của chúng ta. Điều này giải thích vì sao trong giấc ngủ, chúng ta không ngạc nhiên với những giấc mơ kỳ cục nhất.
Khi một người đang ngủ, ý thức của anh ta dường như lui lại phía sau và nhường hết quyền cho tưởng tượng. Trong não người đang ngủ, bất giác phát hiện lên những bức tranh khác nhau về quá khứ và hiện tại: những ý nghĩ, những hình ảnh - tất cả những gì người đó đã thấy đã học hoặc đã nghe một khi nào đấy, những gì đã từng làm người đó xúc động. Tất cả những điều đó trộn lẫn nhau nhiều khi tạo nên các giấc mơ huyễn tưởng lạ lùng nhất.
Các giấc mơ còn có một đặc điểm rất lý thú. Nó bộc lộ dưới dạng những hình ảnh trực quan rõ rệt. Nếu trong giấc mơ chúng ta nhớ lại những người bạn cũ của mình thì họ hiên lên trước mắt chúng ta như những con người sống động. Tất cả những gì chúng ta thấy trong mơ đều có vẻ như thật sự và dàn trải trước mắt.
Khi chúng ta thức, bất kỳ sự vật gì cũng là một sự kích thích mạnh hơn là hồi ức về sự vật đó. Còn trong lúc ngủ, một hồi ức kích thích yếu cũng bắt đầu tác động như một kích thích mạnh. Khi nhớ tới một sự vật nào đó, chúng ta thấy nó như thể nó đang có ở trước mắt ta vậy.
Thường chúng ta vẫn được nghe thấy những câu:"Vì sao tôi lại mơ thấy thế nhỉ?! Chưa bao giơ tôi nghĩ, tôi đọc hay nghe thấy một cái gì đại loại - vậy mà bỗng dưng tôi lại thấy nó trong mơ!"
Nếu như một người nhiễm thói mê tín thì nhiều khi sau giấc mơ người đó lại nghĩ ngợi rằng giấc mơ đâu phải là ngẫu nhiên. Và nó đã tiên đoán một điều gì đấy.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ nghiêm túc và lành mạnh thì dễ dàng hiểu rằng trong mỗi giấc mơ, cho dù nó là lạ lùng, bí ẩn đến thế nào đi nữa, cũng đều chỉ có những gì đã được trí não tiếp thu một cách có ý thức, hoặc vô thức trong trạng thái tỉnh táo không ngủ mà thôi. Không phải bao giờ chúng ta cũng nhớ ra những gì đã xảy ra trong thời thơ ấu xa xôi. Song những sự kiện hay kiến thức từng bị lãng quên lại thường xuất hiện một cách hoàn toàn bất ngờ trong giấc mơ..
"Sự kết hợp lạ thường của những ấn tượng thường tình quen thuộc - đã có lần nhà sinh lý học Nga vĩ đại I. M. Setsenôp định nghĩa như vậy về những giấc mơ của chúng ta. Hình tượng này phản ánh rõ ràng đặc điểm quan trọng của giấc mơ: không thể thấy được trong mơ những gì chưa từng được não tiếp thu. Chỉ những gì một khi nào đó đã để lại dấu vết, cho dù là thoảng qua, trong tế bào thần kinh não mới có thể phục hồi, hiện ra trong ý thức dưới dạng hình ảnh rõ ràng trong mơ. Nói cách khác, trong lúc ngủ, ý thức có thể moi ra từ kho tàng trí nhớ những gì đã từng được đưa vào đó một khi nào đấy.
Không thể nào lấy được từ kho đó những gì không có ở đó. Chẳng hạn, người ta biết rõ rằng những người mù bẩm sinh sẽ không thể nào mơ thấy được những hình ảnh thị giác.
Những phân tử của giấc ngủ và của sự thức giấcĐể hiêu sâu sắc hơn về giấc ngủ và những giấc mơ, tất nhiên là ta cần phải thâm nhập vào chính cơ chế của giấc ngủ. Điều đó diễn ra trong cơ thể khi chúng ta đang ngủ?
Chỉ cách đây không lâu, khoa học mới có thể trả lời được câu hỏi giấc ngủ là gì: đó là sự nghỉ ngơi của các tế bào thần kinh vỏ não. Nói chính xác hơn, đó là quá trình ức chế tự vệ, quá trình này bao trùm các tế bào - các nơron của võ não và lan truyền dẫn tới những vùng sâu hơn của não. Khi đó, các nơron chấm dứt việc đáp lại những tín hiệu kích thích và chúng ở trong trạng thái ức chế. Như vậy, các tế bào của vỏ não chịu trách nhiệm đảm bảo giấc ngủ. Những công trình nghiên cứu mới đây của các nhà bác học đã phát hiện ra một bức tranh còn phức tạp hơn nhiều.
Gần bốn mươi năm trước, nhà bác học Xô viết P.K.Anôkin phát biểu một ý tưởng: cùng với các tế bào của vỏ não, các bộ phận của não bộ dưới vỏ não cũng tham gia vào cơ chế của giấc ngủ. Các công trình nghiên cứu đã cho thấy đúng là như vậy. Tiến hành thí nghiệm trên các động vật bậc cao, các nhà khoa học dùng dòng điện kích thích những vùng sâu của não. Và họ thấy động vật chìm vào trong giấc ngủ. Giấc ngủ say đến cả vào lúc thân não (như ta biết, trong não bộ có các bán cầu đại não, tiểu não và thân não gồm thoi não, trung gian và gian não) bị tách ra khỏi các bán cầu đại não.
Người ta đã biết rõ rằng chính tại đây, ở thân não có một cơ chế nào đó tạo nên giấc ngủ. Nhưng đấy là cơ chế nào? Câu trả lời đã được tìm ra khi người ta bắt đầu nghiên cứu hoạt động của cấu tạo lưới của thân não - tức là thể lưới (chúng tôi đã nói về chất này ở các phần trên). Thì ra thể lưới tiếp nhận tất cả các tác nhân kích thích từ môi trường bên trong và bên ngoài, và sau khi tiến hành xử lý, nó gửi các tác nhân kích thích ấy tới các tế bào ở vỏ các bán cầu đại não và giúp chúng chuẩn bị tiếp nhận thông tin.
Chính thể lưới đem năng lượng đến cho các nơron của vỏ não, điều đó làm cho cơ thể được tỉnh táo. Giống như nhà máy điện, thể lưới bảo đảm cung cấp năng lượng cho "thành phố nơron" - tức là não, và khi cắt "cầu dao", thành phố thiếp đi.
Người ta cũng đã tìm được ra những nguồn nuôi của thể lưới. Đó chính là các cơ quan cảm giác và một số chất: khí cacbonic, các hocmôn, máu thừa chất dinh dưỡng. Các nhà khoa học còn phát hiện ra những chất kìm hãm hoạt động của các tế bào thể lưới, nghĩa là có tác dụng gây ngủ. Nhiều loại thuốc mê cũng thuộc về các dạng chất này.
Những phát minh mới đã mâu thuẫn với một số sự kiện được xác lập trước đây. Nói riêng, các thí nghiệm của nhà bác học Thuỵ sĩ Ghex đã cho thấy "trung tâm của giấc ngủ" không phải là thể lưới, mà là dưới đồi thị. Cần phải xác định xem ai đúng. Những công trình nghiên cứu tiếp theo đã dẫn các nhà khoa học đến kết luận: Mối liên hệ giữa các tế bào vỏ não và các tế bào thể lưới phức tạp hơn nhiều. Vùng dưới vỏ cung cấp năng lượng cho vỏ não, nhưng việc cung cấp đó chịu sự kiểm soát của các nơron vỏ não. Các nơron này tự điều chỉnh, khi nào chúng cần năng lượng và cần bao nhiêu, chúng quyết định cho thể lưới làm việc hết công suất hoặc tạm thời ngắt mạch nó.
Các nơron vỏ não còn tác động đến hoạt động của vùng dưới đồi thị. Khi con người còn thức thì có nghĩa là các nơron đó ức chế hoạt động của "các trung tâm giấc ngủ". Nhưng khi các tế bào vỏ não bắt đầu mệt mỏi thì chúng cần được nghỉ ngơi. Tác động của chúng lên vùng dưới đồi thị giảm đi, và các tế bào ở vùng dưới đồi thị lập tức chớp lấy cơ hội đó - chúng đóng "cầu dao" thể lưới. Thành phố nơron chìm vào trong bóng tối, con người bắt đầu ngủ thiếp đi.
Đó là lý thuyết của giấc ngủ nhờ vỏ não và dưới vỏ do P. K. Anôkhin đề ra. Nói vắn tắt, giấc ngủ là kết quả của mối liên hệ từ hai phía của vỏ não và cơ chế dưới vỏ não của não bộ.
Các nhà khoa học còn đi theo một hướng khác để chọn lựa ra những "chìa khoá" dẫn đến cơ chế phức tạp của giấc ngủ. Vào đầu thế kỷ này, hai nhà nghiên cứu người Pháp đã làm thí nghiệm như sau: họ không cho các con chó được ngủ suốt hơn một tuần, sau đó rút ra từ não chúng chất chiết xuất, và đưa vào não những con chó khác. Những con chó này phút trước phút sau đã ngủ thiếp đi ngay trước mắt họ.
Tiếp đó, các nhà khoa học đã lấy chất chiết xuất từ não của những con vật đang ngủ đông. Những con mèo và chó nhận được một "liều" chiết suất ấy đã rơi vào trạng thái ngủ suốt một thời gian dài. Giả thiết về bản chất hoá học giấc ngủ đã tự nó nảy sinh như thế. Có lẽ, toàn bộ vấn đề là ở chỗ khi con người (hay động vật) thức, trong máu và trong não họ tích tụ những chất độc đáo nào đó gây ra sự mệt mỏi. Trong lúc ngủ, cơ thể mới được giải thoát khỏi những chất độc ấy.
Trong những năm gần đây, ở viện tâm lý học Baden (Thuỵ sĩ) đã thực hiện những công trình nghiên cứu rất lý thú. M. Môniê và các cộng sự của ông đã đặt một câu hỏi: "Liệu giấc ngủ có thể được truyền từ con vật này sang con vật khác hay không?" Để tìm ra câu trả lời, họ đã làm phẫu thuật ghép hai con thỏ lại với nhau như thể hợp thành một cơ thể vậy - cũng có đường tuần hoàn máu chung như ở hai anh em sinh đôi nổi tiếng ở Thái lan vậy. Sau đó ở vỏ não từng con thỏ người ta cắm những điện cực nối với máy ghi điện não đồ (máy ghi điện thế sinh học của não bộ).
Các nhà nghiên cứu đã biết rằng, giấc ngủ hay sự thức giấc có thể được gây ra bằng những con đường nhân tạo khi đưa các xung điện vào thể lưới và vào một vùng khác dưới vỏ não là vùng đồi thị. Khi thức, điện não đồ ghi nhận sự xuất hiện của cái gọi là nhịp denta. Khi con vật không ngủ, các nhịp của não nhanh, máy ghi vạch ra một đường thẳng với nét gợn mảnh rất nhỏ. Nhưng chỉ cần vùng đồi thị vừa được tiếp điện, lập tức xuất hiện các sóng nhịp denta chậm rãi và lượn sóng. Điều đó có nghĩa là con vật đã ngủ.
Tất cả những cái đó là để chuẩn bị cho thí nghiệm chính: liệu con thỏ thứ hai có ngủ theo "người anh em sinh đôi" của mình hay không khi tín hiệu ngủ không được gửi tới não của con vật này.
Sau lần tiếp điện thứ ba, con thỏ thứ nhất ngủ thiếp đi. Một thời gian ngắn trôi qua, và những nhịp não ở con thỏ thứ hai bắt đầu chậm dần, nhịp denta xuất hiện. Giấc ngủ được truyền từ con vật này sang con vật khác!
Sau đó thí nghiệm được tiếp tục như trong bộ phim chiếu ngược từ cuối lên đầu. Lần này, thể lưới của con thỏ thứ nhất nhận được xung điện; nói cách khác, lệnh đánh thức được truyền đi. Các sóng denta của não lại duỗi ra thành đường thẳng hơi gợn đặc trưng cho trạng thái tỉnh. Con vật tỉnh dậy, và con thỏ thứ hai cũng theo gương con thứ nhất.
Vậy là bằng chứng hùng hồn về bản chất hoá học của giấc ngủ đã được xác lập: Vùng đồi thị và thể lưới của não có khả năng tiết vào máu những hoá chất khác nhau: một chất gây ngủ, chất kia làm tỉnh giấc. Khi theo đường tuần hoàn máu đi vào não của con vật được kiểm tra, các chất này gây ra giấc ngủ hoặc làm con vật thức dậy.
Tiến sĩ Môniê đã thử tách riêng ra "những phân tử gây ngủ và thức giấc" bí ẩn ấy. Ông lấy máu từ tĩnh mạch của các con thỏ thí nghiệm vào đúng lúc cả hai vùng não đã nhận được xung điện và phải gửi đi những mênh lệnh dưới dạng hoá học của mình: "Hãy ngủ đi", "hãy tỉnh dậy". Máu được truyền qua thận lọc nhân tạo, sau đó các "tính chất" gây ngủ và thức được điều chế. Cất này được đưa vào các máu các con thỏ khác đang ngủ hoặc đang thức. Kết quả thật đáng sửng sốt các con vật đang thức liền ngủ thiếp đi, các con vật đang ngủ thì tỉnh dậy. Nhiều năm tháng trôi qua, cuối cùng Môniê đã thành công trong việc tách ra các "phân tử gây ngủ tinh khiết". Đó là một dạng prôtit bao gồm 9 axit amin với phân tử lượng là 860. chất này được đặt tên là hypnotoxin (độc tố gây ngủ).
… Không cần phải cố gắng lắm mới hình dung được cái ngày tìm ra các chất gây ngủ và thức bằng con đường nhân tạo ở trong phòng thí nghiệm sẽ trở thành một ngày hội như thế nào đối với khoa học. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không vội vã. Có thể hypnotoxin chưa phải là nguyên nhân duy nhất gây ngủ.
Biết bao điều bí ẩn còn chưa được giải thích trong các quá trình của giấc ngủ và giấc mơ! Ngay cả hiện tượng "đơn giản" mà ai cũng biết là ngáp để làm gì? Hiện nay còn chưa có câu trả lời. Người ta ngáp khi buồn ngủ, nhưng người ta cũng ngáp vì buồn chán hay vì hồi hộp. Vì sao vậy? Và còn một người bên cạnh ngáp, và hãy nhìn xem, những người khác cũng ngáp theo. Tại sao?
Giấc ngủ - đó là nghỉ ngơi, nhưng…Khi nghiên cứu bản chất và các cơ chế của giấc ngủ, những biến thể của nó, các nhà khoa học đã phát hiện ra nhiều điều bất ngờ vào những năm gần đây.
Giấc ngủ cần thiết cho chúng ta như thức ăn vậy. Đó là một tiêu đề. Những người khoẻ mạnh nhất không thể sống mà không ngủ quá vài ngày. Không phải vô cớ mà ở thời trung cổ, một trong những kiểu tra tấn kinh khủng nhất là hành hạ bằng cách không cho ngủ. Những nhà nghiên cứu tình nguyện đã tự thí nghiệm trên cơ thể mình xem tình trạng thức lâu dài có ảnh hưởng như thế nào đến con người. Sau ba ngày đêm, những người thí nghiệm còn có thể chống lại được sự buồn ngủ bằng cách không ngừng đi lại. Sau đó xuất hiện ảo giác, mê sảng. Chỉ có giấc ngủ mới bù đắp được những rối loạn - sau khi ngủ liền 9 đến 12 giờ, người ta mới trở lại trạng thái bình thường.
Quan niệm cho rằng, đối với chúng ta, giấc ngủ làm nhiệm vụ phục hồi sức lực, để các tế bào thần kinh của cơ thể có thể nghỉ ngơi, đã được coi là hiển nhiên và không còn gì để bàn cãi nữa.
Nhưng điều đó chưa phải là toàn bộ sự thật.
Tất nhiên, giấc ngủ đem lại cho chúng ta sự nghỉ ngơi. Song giấc ngủ hoàn toàn không phải là sự ức chế lan toả của não như trước kia người ta vẫn nghĩ. Phép ghi điện thế sinh học của não cho thấy trong lúc ngủ, một nửa số nơron của não không chỉ không bị ức chế, mà còn ở trong trạng thái hoạt động tích cực. Một số vùng ở não đang chuẩn bị cho sự chuyển tiếp sang giấc ngủ làm việc còn mạnh hơn nữa.
Có thể nói như thế này: giấc ngủ là hoạt động tích cực của cơ thể, chỉ có điều hoạt động đó khác hơn so với khi thức. Hoạt động sống của cơ thể vẫn tiếp tục cả trong thời gian ngủ. Các cơ quan bên trong cơ thể tiếp tục hoạt động tích cực. Trong đó có một số quá trình thậm chí còn được đẩy mạnh hơn, chẳng hạn như sự tiêu hoá. Đồng thời còn diễn ra các quá trình thúc đẩy sự phục hồi những sức lực đã được chi phí trong ngày.
Giấc ngủ - đó tựa hồ một cuộc sống khác của cơ thể. Người ta xác định được rằng số lượng các nơron hoạt động tích cực trong giấc ngủ không ít hơn, thậm chí trong một số giai đoạn của giấc ngủ lại còn nhiều hơn cả khi thức. Vào ban đêm, các nơron đó điều chỉnh lại hoạt động, tương tác với nhau theo những quan hệ mới.
Ai mà không biết câu ngạn ngữ cổ xưa này : "Buổi sáng minh mẫn hơn buổi chiều". Hoá ra là câu nói ấy chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều so với những gì mà người ta biết trước đây. Các nhà bác học đã phát hiện được rằng vào lúc ngủ, não của chúng ta dường như xử lý thông tin tới sau một ngày. Trong đó, một phần nào đó của thông tin quan trọng hơn được chuyển từ dạng thông tin chớp nhoáng thành trí nhớ lâu dài. Điều này đã giải thích cho một sự kiện ai cũng biết là một văn liệu, chẳng hạn một bài thơ được học thuộc lúc ban chiều sẽ được củng cố vững chắc sau một đêm và đến sáng, người đó sẽ nhắc lại được bài thơ đó theo cách thuộc lòng không khó khăn lắm.
Có lẽ, việc củng cố trong trí nhớ những sự kiện đã qua trong ngày vào lúc ngủ được tăng cường là do vào ban đêm, dòng thông tin từ môi trường bên ngoài đi vào não chúng ta đã giảm xuống đột ngột…
Cách đây không lâu, không chút băn khoăn gì, chúng ta đã chia cuộc sống của mình ra hai giai đoạn khác nhau về căn bản: thức và ngủ. Nhưng hoá ra là mỗi người trong chúng ta có hai giấc ngủ: giấc ngủ chậm và giấc ngủ nhanh, hay là giấc ngủ nghịch thường. Ở người lớn, gần một phần tư toàn bộ thời gian ngủ là thuộc về giấc ngủ nhanh, còn lại thuộc về giấc ngủ chậm.
Nếu như bạn hỏi người thân rằng họ mơ thấy gì thì sẽ có người trả lời: "Chẳng bao giờ tôi mơ cả". Đó là một sự lầm lẫn. Những nhà nghiên cứu đã tiến hành những thí nghiệm: khi giấc ngủ nhanh vừa xuất hiện ở một người, người ta liền đánh thức người đó dậy và hỏi xem đã mơ thấy gì. Người bị đánh thức nhớ lại ngay giấc mơ và kể về nó.
Trên thực tế, khi quan sát một người đang ở giai đoạn của giấc ngủ nghịch thường, có thể kết luận rằng người ấy đang trải qua một cái gì đó: nhịp thở của người đó nhanh hơn, nhịp tim thay đổi, tay và chân động đậy, người ta còn thấy những cử động nhanh của mắt và của các cơ trên mặt. Các nhà khoa học đã giả định rằng, chính vào những lúc như thế, người ngủ đang mơ. Sự thật đúng là như thế. Nhưng nếu đánh thức một người vào lúc giấc ngủ chậm thì người đó sẽ trả lời rằng không mơ thấy gì hết. Nguyên nhân là do người ấy đã quên hết giấc mơ ấy.
Các nhà nghiên cứu đã cho thấy trong vòng sáu hay bảy giờ ngủ, giấc ngủ chậm kéo dài độ một đến một tiếng rưỡi vài lần bị thay thế bằng giấc ngủ nhanh - chừng 10-20 phút. Như vậy, trong một đêm chúng ta có chứng kiến bốn hay năm giấc ngủ nhanh mười lăm - hai mươi phút, những lúc đó não cho phép mình được "dạo chơi" trong vương quốc của giấc mơ ".
Sau khi đã phát hiện ra hai giai đoạn bắt buộc của giấc ngủ, các nhà bác học lại đặt ta một câu hỏi khác: điều gì sẽ xảy ra nếu làm cho người ta mất những giấc mơ? Những giấc mơ đó cần cho người để làm gì?
Hàng trăm người tình nguyện đã được thí nghiệm. Họ chỉ được phép ngủ trong thời gian của giấc ngủ chậm, và khi giấc ngủ nghịch thường vừa mới xuất hiện họ liền bị đánh thức. Nói cách khác, người ta được phép ngủ nhưng không được phép nằm mơ. Song song với những người này, có những người khác cũng bị đánh thức thường xuyên như thế, nhưng lại là vào những giai đoạn ngủ không mơ.
Người ta quan sát thấy gì ở những người không được phép mơ? Trước hết, tần số xuất hiện các giấc mơ tăng lên - giấc ngủ nhanh đến sau những khoảng thời gian ngắn hơn. Sau thời gian nào đó, ở những người không được phép mơ đã xuất hiện chứng loạn thần kinh chức năng - họ có cảm giác sợ hãi, lo âu, căng thẳng, Còn sau khi họ lại được phép ngủ trong giấc ngủ nhanh, giấc ngủ kéo dài hơn thường lệ, dường như cơ thể muốn bù lại cái đã bị tước mất.
Kết luận đã rõ: những giấc mơ của chúng ta là hoạt động cần thiết của não như mọi hoạt động trí tuệ bình thường vậy!
Và còn một kết luận khác nữa: có thể chia cuộc sống của chúng ta làm ba giai đoạn: ngủ không mơ, ngủ có mơ, và thức. Ngủ có mơ - đó là một trạng thái hoàn toàn đặc biệt của cơ thể trong đó não làm việc mạnh như khi thức, chỉ có điều là công việc đó của não được tổ chức khác hơn.
Cũng có thể giả thiết rằng những giấc mơ của chúng ta mang một chức năng bảo vệ độc đáo trong cơ thể. Như đã nói, khi người ngủ, có những tín hiệu kích thích đến với anh ta từ môi trường bên ngoài (ánh sáng vừa được bật lên, cảm giác lạnh v. v…) cũng như từ những cơ quan khác của cơ thể. Tất cả những tác nhân kích thích ấy đều được đưa vào cốt chuyện của các giấc mơ và vì thế chúng không xâm phạm gì đến giấc ngủ, con người cứ tiếp tục ngủ say. Ngoài ra, trong những thời điểm đó não nắm bắt tốt hơn những tín hiệu yếu báo về những lệch lạc trong cơ thể và những tín hiệu ấy có thể được phản ánh trong các giấc mơ.
Còn mọi sự kiện rất lý thú khác. Khi nghiên cứu tác động của công việc thể lực nặng nhọc đến giấc ngủ của con người (thí nghiệm được tiến hành với các vận động viên), các nhà nghiên cứu Grudia đã xác định được là, ở những vận động viên đấu vật chẳng hạn, thời gian giấc ngủ chậm (ngủ sâu) tăng lên rõ rệt so với thời gian giấc ngủ nghịch thường. Từ đó có thể kết luận rằng khi ngủ say, trong cơ thể các quá trình có tác dụng phục hồi những sức mạnh thể lực (tổng hợp prôtit) được gia tăng, đồng thời cũng như trong giấc ngủ nhanh, khi con người chu du trong thế giới mơ mộng, nơi tất cả mọi điều đều có thể xảy ra, dường như diễn ra sự làm dịu về tình cảm. Người ta nhận thấy là bán cầu não bên phải của chúng ta gắn bó phần lớn với các giấc mơ.
Cần phải nói rằng các công trình nghiên cứu vào những năm gần đây đã cho ta thấy là các giấc mơ tới thăm chúng ta vào thời gian giấc ngủ chậm. Song những hình ảnh của các giấc mơ đó không rõ rệt và không kỳ lạ cho lắm. Dường như đó là những suy tư trong giấc ngủ. Không phải vô cớ mà trong những giai đoạn như thế những người ngủ mê thường hay nói mê hơn là trong giấc ngủ nhanh.
Rất lâu và rất chóngĐúng, giấc ngủ là như vậy, cũng có thể rất lâu, cũng có thể rất chóng.
… Neđêgiơđa Lêbêđin 35 tuổi khi chị bất ngờ ngủ thiếp đi trong lúc làm việc. Chuyện đó xảy ra năm 1853 ở thành phố Đnaprôpêtrôpxkơ. Và chị chỉ thức dậy sau hai mươi năm ròng. Chị kể lại: Vào năm ấy, lúc nào tôi cũng thấy buồn ngủ. Cả lúc làm việc, cả ở nhà, cả khi đi xem phim, bất cứ lúc nào tôi cũng thèm ngủ. Khi về đến nhà, có khi tôi không thể lê đến được giường nữa: tôi ngồi ngay trên sàn nhà, đầu gục xuống giường và thiếp đi. Có lần tôi ngâm quần áo để giặt. Ngay lúc đó, chồng tôi đi đến và tôi nói với anh ấy: Em chết đây! Và tôi không nhớ gì hơn nữa…
Người phụ nữ này ngủ suốt năm năm ở bệnh viện. Sau đó bà mẹ mang chị về nhà. Cô con gái nghe và hiểu được những gì người thân của chị nói, nhưng trả lời thì không. Chị chỉ thực hiện được những cử động nhẹ bằng tay chân. Mùa hè năm 1973, mẹ chị qua đời. Khi đó người ta bế chị tới quan tài và bảo: Nađia ơi, cháu hãy từ biệt mẹ đi! Vừa nhìn thấy người mẹ nay không còn nữa, chị bật lên khóc. Cơn chấn động tình cảm mạnh đã trả lại cuộc sống cho chị…
Giấc ngủ bệnh lý không bình thường này được gọi là chứng ngủ lịm, mặc dù các bác sĩ thường không sử dụng thuật ngữ này bởi vì nguyên nhân của giấc ngủ lâu như vậy thường là khác nhau. Người ta có thể thiếp đi vì bị chấn thương tâm lý nặng. Trong trường hợp đó, các bác sĩ coi giấc ngủ lịm như một dạng đặc biệt của sự tự bảo vệ. Cơ thể lịm đi để không chết hoàn toàn, để trải qua được giai đoạn nguy hiểm nhất đầu tiên.
Một nguyên nhân khác của chứng ngủ lịm là những bệnh hữu cơ của não. Dạng đặc biệt của giấc ngủ được quan sát thấy được gọi là chứng ngủ triền miên, một loại bệnh tâm thần thường gặp ở những người mắc bệnh tâm thần phân lập. Còn giấc ngủ dài hai mươi năm của Neđêgiơđa Lêbêđin thì thế nào? Nó là hậu quả của một loại bệnh nặng làm chấn thương não của chị - bệnh viêm não dưới vỏ.
Trong mọi trường hợp, chứng ngủ lịm chỉ xảy ra với điều kiện là ở người đó, các tế bào thần kinh của não bộ bị suy yếu.
Trong giấc ngủ lịm rất sâu, toàn bộ tâm trạng của con người được duy trì trong trạng thái giống như trước khi bị bệnh. Người ta biết một trường hợp rất thú vị là một cô bé ngủ thiếp đi, khi tỉnh dậy lúc mười tám tuổi đã hỏi về … con búp bê yêu quý của mình.
Chị Lingarđơ người Nauy ngủ thiếp đi vào năm 1919. Tất cả những cố gắng nhằm đánh thức chị dậy đều vô hiệu. Chị chỉ tỉnh dậy vào năm 1941. Khi người phụ nữ này mở mắt ra, ngồi bên giường chị là cô con gái đã lớn và ông chồng già nua, còn chị nom vẫn như 22 năm trước đó. Chị có cảm giác như mình vừa mới ngủ qua có một đêm thôi. Chị bắt đầu nói về những công việc ngày hôm qua, về việc phải cho đứa con gái nhỏ ăn. Nhưng một năm sau, chị già đi trông thấy như đã sống qua cả hai chục năm ngủ lịm đó.
Trước kia, giấc ngủ lịm đã gây ra ở những người được chứng kiến nỗi hoạng sợ đầy mê tín, nó đã trở thành một nguồn dinh dưỡng cho những điều huyễn hoặc. Khắp nơi đều lan truyền những câu chuyện khủng khiếp về những người bị chôn sống. Sau đây là một trong những câu chuyện như thế. Một sĩ quan pháo binh bị ngựa hất ngã, khi rơi xuống đất, đầu anh ta bị thương nặng. Người ta đã tiếp máu, thực hiện mọi biện pháp để làm cho anh ta tỉnh lại. Nhưng mọi cố gắng của bác sĩ đều vô hiệu, và người đó bị coi như đã chết rồi. Lúc đó trời rất nóng, vì vậy mà việc chôn cất được tiến hành vội vã.
Đã hai ngày trôi qua. Chủ nhật, thân nhân của những người chết đến nghĩa địa viếng mộ. Bỗng nhiên người nông dân kêu toáng lên rằng ở chỗ ông ta vừa ngồi, đất "động đậy". Đó là chỗ có ngôi mộ người sĩ quan nọ. Sau khi hội ý, những người nông dân liền lấy xẻng đào ngôi mộ nông choèn được lấp qua loa đó. "Người chết" đã không nằm, mà nhổm người trong quan tài, nắp quan tài bị bật ra và được nâng lên một chút.
Sau khi được đưa vào bệnh viện, anh ta kể là đã nghe thấy cả tiếng bước chân của người đi lại trên đầu. Những người quản trang đã lấp quan tài anh ta qua quýt, và không khí đã lọt qua những tảng đất tơi vụn đó…
Thật dễ dàng hình dung ra những trường hợp tượng tự trong quá khứ là môi trường thuận lợi đến thế nào cho sự nảy nở những kiến giải thần bí. Cần phải nghĩ rằng kể cả câu chuyện kể trong kinh thánh về "sự phục sinh của những người chết" là được rút ra từ các câu chuyện dân giân về những người chết giả.
Sự trỗi dậy bất ngờ của những người chết được mọi người khóc than đã làm sửng sốt cả những người có suy nghĩ lành mạnh nhất, những người không nhiễm chút mê tín nào. Vậy thì những người có xu hướng tin vào điều huyền diệu thì còn cảm thấy thế nào?
Ngày nay, tất cả những sự việc như thế đã lui vào dĩ vãng. Cho dù giấc ngủ lịm có sâu đến thế nào đi nữa thì bao giờ bác sĩ cũng có thể xác định được chính xác rằng người đó không chết mà đang lâm vào một giấc ngủ lịm. Bởi những quá trình tối cần thiết cho sự sống vẫn không chấm dứt. Trái tim tiếp tục làm việc, nhưng ở một mức độ khó nắm bắt được: thay vì 70 - 80 lần đập trong một phút là 2 - 3 lần đập rất yếu. Với nhịp thở cũng thế - nhịp thở yếu đến mức ngay khi đặt chiếc gương trước mặt thì cũng không hề thấy một vết hơi nước nào. Nhiệt độ của người ngủ lịm sụt xuống đáng kể, chỉ cao hơn nhiệt độ không khí xung quanh một ít. Vậy là xảy ra hiện tượng bề ngoài sự sống không còn, nhưng cái chết cũng chưa tới.
Còn đây là một trường hợp rất hiếm gặp đối với ngủ lịm. Vài năm trước, tờ báo Anh "Weekend" đã đưa tin về một trường hợp này. Khi cô bé người Nam tư Nizzeta Makhôvich mười một tuổi đi học về, bà em bảo em: "Mẹ cháu sinh em trai rồi đấy".
Nizzeta đã quát lên trả lời bà : "Cháu chẳng cần em trai nào hết! Cháu căm ghét nó!" Cô bé chạy bổ về phòng mình và lịm ngay vào giấc ngủ say. Khi về nhà, người cha cố đánh thức em nhưng không được. Người ta bèn gọi bác sĩ. Bác sĩ đến, khám và nói rằng không hề có bất cứ sự tổn thương nào trong trạng thái sinh lý ở cô bé cả. Còn Nizzeta tiếp tuc ngủ. Em được tiêm glucôda để trợ lực.
Người ta chuyển cô bé tới thành phố Xcôple. Các bác sĩ và các chuyên gia về tâm thần từ nhiều nước đã được mời tới đây. Người ta cố gắng đánh thức cô bé bằng những câu hỏi, họ lắc em trên tay, thử cưỡng bức em tỉnh lại - tất cả đều vô hiệu. Mí mắt "người đẹp ngủ" chỉ hơi động đậy, cô bé thở dài và lại tiếp tục ngủ.
Nizzeta tự tỉnh dậy vào ngày thứ hai mươi nhăm. Lập tức em hỏi ngay: "Cháu ở đâu thế này? Tại sao cháu lại nằm trên cái giường này? Mẹ cháu đâu?"
Một sự trùng hợp lạ lùng đã xảy ra: ở nhà, cậu em của cô bé lại đã qua đời vào cùng giờ đó.
Trong số những hiện tượng kỳ lạ liên quan đến giấc ngủ, một "thái cực" khác - cuộc sống không ngủ - cũng rất hấp dẫn sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Người ta đã nhiều lần đưa tin trên các báo, chẳng hạn, về cô gái người Thuỵ điển Xvea Eclunđơ đã không ngủ suốt từ năm 1918. Một cơn choáng thần kinh nào đó đã gây ra chứng mất ngủ lạ lùng đến tế. "Người ta gọi điện cho tôi từ bệnh viện - người phụ nữ này đã luống tuổi này kể lại, - và bảo tôi đến bệnh viện ngay. Tôi phóng tới đó, nhưng mẹ tôi đã mất. Bà đã mắc bệnh nặng. Sau suốt nhiều đêm tôi đã không chợp mắt và thậm chí không hề có ý nghĩ đi ngủ nữa. Bây giờ vào ban đêm tôi chỉ nằm độ một giờ trên giường, sau đó tôi dậy đun caphe, làm việc nhà. Tất nhiên là tôi có mệt, nhưng sau khi nghỉ ngơi chừng mười phút, tôi lại thấy mình sảng khoái. Các bác sĩ bảo chỉ cần một lát nghỉ ngơi như thế là đủ. Tôi cũng có nghỉ ngơi một chút vào ban ngày… Đã nhiều lần tôi tới gặp bác sĩ và đề nghị họ giúp tôi thoát khỏi chứng mất ngủ. Người ta kê cho tôi những loại thuốc an thần và thuốc ngủ mạnh. Nhưng chẳng đỡ được tí nào.
Cho đến năm 1973, cụ Eclunđơ "luôn luôn thức" đã 86 tuổi. Cụ sống trong nhà an dưỡng dành cho người già.
Các nhà khoa học giải thích như thế nào về điều bí ẩn của "bệnh mất ngủ vĩnh viễn" đó? Đây là trả lời của tiến sĩ y học A. Vêin:
- Cả tôi, cả những đồng nghiệp của tôi chưa bao giờ thấy những người như vậy, mặc dầu chúng tôi nghiên cứu giấc ngủ đã nhiều năm nay. Sự thật là trong số những bệnh nhân của chúng tôi cũng có những người khẳng định rằng họ mất khả năng ngủ. Song việc kiểm tra chi tiết bằng cách ứng dụng các nghiên cứu giấc ngủ theo phương pháp in chụp, chúng tôi xác định được rằng: họ cũng ngủ không dưới 3 - 4 giờ trong một ngày đêm. Đôi khi được nghe nói về những người có thể không ngủ hàng năm trời hay chẳng bao giờ ngủ, tôi lại nhớ đế câu chơi chữ của nhà tâm lý học người Pháp Pierông : "Người không ngủ là người luôn luôn nằm ngủ". Còn nếu nói một cách nghiêm túc thì tức là không hề có những người hoàn toàn không ngủ…
Có lẽ, những ai khẳng định không bao giờ ngủ và không thể chợp mắt được, đều có giấc ngủ rất nông và giấc ngủ đó trải qua theo những giai đoạn ngắn. Giấc ngủ ngắn ngủi như thế đến trong khoảnh khắc không hề được chính người đang ngủ hay những người xung quanh nhận ra.
Bởi lẽ chúng ta đã nói về những tổn thương khác nhau xảy ra với giấc ngủ mà trong thời đại văn minh của chúng ta đôi khi gây nên những ý nghĩ đầy thần bí, thiết tưởng cũng cần nhắc tới những người mắc bệmh mộng du. Trong y học người ta gọi bệnh này là trạng thái miên hành hay vừa ngủ vừa đi. Nhà sinh học nổi tiếng người Nga I. I. Metanikôp đã kể về một trường hợp như vậy:
"Một cô gái 24 tuổi mắc bệnh mộng du đã được tiếp nhận vào bệnh viện làm hộ lý. Có lần vào ban đêm, bác sĩ trực đã chứng kiến cảnh tương sau. Cô gái tỉnh dậy và đi lên tầng áp mái… Khi tới buồng cầu thang trên cùng, cô mở cửa sổ, đi ra và dạo bước trên mép mái nhà ngay trước mắt một cô hộ lý khác đang kinh hoàng theo dõi cô ta; sau đó cô ta vào bằng cửa sổ khác và xuống thang. Cô đi không hề gây ra tiếng động nào, các cử chỉ của cô hoàn toàn tự động, hai tay thõng theo thân người hơi cúi xuống; đầu cô giữ thẳng và bất động; mái tóc cô buông xuống, mắt mở to. Cô ta hoàn toàn giống như một bóng mà huyễn tưởng".
Sáng ra, người mộng du không còn nhớ gì đến những "cuộc đi dạo" ban đêm của mình. Đôi khi vào thời gian đó, người mộng du còn làm những việc khác nữa như nấu ăn, khâu vá, quét nhà… Tỉnh dậy và ban sáng và thấy công việc đã hoàn thành, người mê tín bất giác nghĩ rằng mọi chuyện không thể diễn ra nếu không có các sức mạnh "siêu nhiên".
Có lần người ta bắt gặp người mộng du đang ngồi dịch sách từ tiếng Italia sang tiếng Pháp; anh ta cặm cụi với quyển từ điển và tra từ dưới ánh sáng của ngọn nến đặt bên cạnh. Khi người ta tắt nến đi, anh ta lại châm nó lên, và tất cả những việc đó đều xảy ra trong giấc ngủ.
Các bác sĩ đã từng chứng kiến một trường hợp khác thường: cứ đêm đến là cả một gia đình sáu người lại tập trung trong phòng ăn và uống trà. Sau đó cả nhà tản đi ngủ.
Trong lúc vừa đi vừa ngủ, người bệnh ở trong một trạng thái đặc biệt gọi là trạng thái hoàng hôn. Người đó thực hiện các động tác một các tự động mà không nhận thức được mình làm gì. Những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học và những quan sát đối với người vừa đi vừa ngủ đã cho thấy ở đây đang hoạt động những cơ chế và bản năng chuyển động cổ xưa mà tổ tiên chúng ta là loài vượn người đã truyền lại cho chúng ta. Chẳng hạn, những người mộng du bẻ quặp được các ngón tay và gập bàn chân vào phía trong.
Tuy nhiên, làm thế nào để giải thích được sự khéo léo lạ lùng của những người đó? Nhiều lần người ta đã chứng kiến người mộng du đi thoải mái trên mép mái của toàn nhà cao. Câu trả lời ở đây cũng không quá phức tạp. Các bạn hãy nhớ lại hình ảnh của một người bình thản đi trên tấm ván rộng và chắc chắn bắc qua dòng suối hay một lạch nước không sâu lắm. Đó là do anh ta không hề có chút ý nghĩ nào về sự nguy hiểm thậm chí nếu anh ta có trượt chân đi chăng nữa. Song bạn hãy hình dung cũng tấm ván đó, nhưng được bắc trên một độ cao kha khá qua một hẻm vực nằm giữa hai cái xà trên một công trình xây dựng toà nhà nhiều tầng. Và ở đây dứt khoát một ý nghĩ sẽ cản trở bạn: "Mình ngã mất!" Và bước đi của bạn không còn chắc chắn, tự tin nữa. Thế nhưng những ý nghĩ như thế không hề có ở người mộng du đi trên cái mép hẹp của mái nhà. Bởi ý thức của anh ta còn đang ngủ.
Chỉ có những bản năng, những mong muốn nào đó ẩn sâu trong tiềm thức là chỉ huy anh ta trong những khoảng khắc ấy.
"Đó chính là Martưn Dađêka, thưa các bạn…"Quyển sách này đâu phải
Những hư cấu ngọt ngào của nhà thơ
Cũng chẳng phải những chân lý anh minh hay tranh nhà danh hoạ
Nhưng cũng không phải Viêcgin hay Raxin thi sĩ,
Không phải Xcôt, Bairơn, Xênêca hiền triết,
Cũng không đúng tờ tạp chí thời trang của các bà các chị
Sách này đâu có kể đến một ai:
Đó chính là Martưn Dađêka, thưa các bạn.
Người cầm chịch những bậc anh minh thông thái
Đây - người bói toán, đoán giải mọi mộng mơ.Có lẽ, trong những dòng thơ đó của A. X. Puskin không có chút gì là phóng đại, Xưa kia, thực tế là niêm tin của con người vào sức mạnh tiên báo của các giấc mơ thật phổ biến và mạnh mẽ vô cùng. Sự lạ thường của những gì con người mơ thấy đã sinh ra một niềm tin: chính trong các giấc mơ đã mở ra một thế giới siêu nhiên mà tôn giáo đã và đang răn dạy. Thế có nghĩa là trong mơ, con người có thể được thấy tương lai của mình - tất nhiên nếu các vị thần linh muốn như vậy.
Trước kia, người ta rất hâm mộ những cuốn sách giải mộng - đó là loại sách trong đó giải thích hầu như bất kỳ giấc mộng như thế nào. Trong những điều kiện diễn giải ấy có biết bao cái tốt đẹp yên lành. Mơ thấy cừu, thể nào cũng được trọng vọng, thấy cái chong chóng chỉ hướng gió tất sẽ có chuyện ly dị, thấy rắn rết nhất định có sự chẳng lành. Mơ thấy ổ bánh mì tất nhiên sẽ giàu sang… Thấy có bán mua mỡ lợn là sẽ gặp may mắn trong tình duyên. Thấy đeo kính nhất định có những đổi thay trong công việc làm ăn. Thấy nhiều lừa thì hãy chờ đợi hạnh phúc. Mơ thấy cái bàn chải giặt quần áo là điềm báo trước sầu và tủi… Hôn người gác đêm thể nào cũng có những mưu mô trong công chuyện…
Đôi khi sự "lý giải" các giấc mơ chỉ đơn thuần bắt nguồn từ những trùng hợp bề ngoài: Thấy con sói xâu xé đàn súc vật của nông dân có nghĩa là có chuyện rủi ro; rụng răng trong mơ thì hãy đợi sự mất mát. Thậm chí còn đơn giản hơn nữa: mối liên hệ giữa giấc mơ với thực tế được xem xét trong sự trùng hợp đơn thuần của âm tiết các từ - thấy bếp lò trong mơ có nghĩa là sẽ phải buồn chán (Trong tiếng Nga, hai từ "bếp lò" và "buồn chán" đọc na ná như nhau (N.D.).
Điều thú vị hơn cả có lẽ là ở chỗ trong những cuốn sách giải mộng được in la liệt ở nước Nga sa hoàng, một giấc mộng lại thường được lý giải khác nhau. Thấy con bọ chét, một tác giả cho rằng sẽ gặp điều hạnh phúc nào đó. Không, một tác giả khác phản đối, bọ chét sẽ dẫn đến nỗi phiền muộn. Song điều đó không hề làm những người mê tín phải phân vân. Họ muốn tin và đã cứ tin.
Vào thế kỷ trước, ở nước Nga hàng chục cuốn sách giải mộng dày cộp đã được in ra. Tên gọi của các cuốn sách ấy rất đa dạng: "Sách giải mộng nói toàn sự thật", "Một triệu giấc mộng chọn lọc" các tác phẩm của những nhà thiên văn và thông thái Ai cập, Ấn Độ trứ danh. Còn người đoán mộng nổi tiếng nhất chính người đã được A. X. Puskin nhắc đến trong "Epghêni Ônêghin": "Một cuốn sách tiên tri cổ xưa và luôn luôn mới mẻ đã được tìm thấy ở một trưởng lão một trăm linh sáu tuổi Martưn Dađêka sau khi chết, nhờ cuốn sách ấy ông ta đã tiên đoán số phận cho từng người qua những cái vòng hạnh phúc và bất hạnh của con người có kèm theo chiếc gương thần hay những lời giải đoán mọi giấc mơ.
Các nhà xuất bản thời ấy quả đã khéo che đậy "món hàng" đáng ngờ của họ dưới cái "vỏ" thật quyến rũ và hấp dẫn!
Tuy nhiên, những cuốn sách giải mộng đã được bán rất chạy mà không cần quảng cáo gì đặc biệt. Niềm tin vào những giấc mộng "tiên tri" thật chắc chắn. Và, than ôi, niềm tin đó vẫn còn được lưu lại. Bởi vì cho đến bây giờ vẫn còn nhiều người tin rằng giấc mông có thể nói trước được tương lai. Vì sao vậy? Câu trả lời không đơn giản như mới thoạt nhìn. Sự thể là do người ta đã biết nhiều bằng chứng không thể chối cãi rằng điều thấy trong mơ sau đó đã trở thành hiện thực.
Nhà tự nhiên học và bác sĩ người Đức Ghexner một lần mơ thấy mình bị rắn cắn. Sau đó một thời gian, ở chỗ "rắn cắn" xuất hiện vết loét. "Chà, giấc mơ tiên tri thực sự nhé! - những ai tin vào giấc mơ liền vội nói. - Bởi khi Ghexner nằm mơ, đâu đã có vết loét". Đúng, thực tế lúc đó chưa có vết loét. Nhưng quá trình sinh bệnh đã diễn ra. Bệnh phát những tín hiệu đau đớn tới não người cả vào lúc ban ngày, nhưng những tín hiệu đó bị chìm lấp đi trước những ấn tượng, những sự kiện, cảm giác khác mạnh mẽ hơn mà não người tiếp nhận lúc ban ngày. Vì vậy người đó không nhận ta, không cảm thấy được những tín hiệu đó.
Khi giấc ngủ đã tới và kích thích mạnh đã hết, những kích thích yếu bắt đầu bộc lộ rõ. Chúng được con người "nhận ra" dưới dạng giấc mơ bị rắn cắn. Điều đó có nghĩa là giấc mơ không báo trước mà chỉ phản ánh cái trên thực tế. Nhưng giấc mơ "tiên tri" như thế hoàn toàn không hiếm gì.
Tất nhiên, không phải giấc mơ khó chịu nào cũng nói về bệnh tật cả. Thường hơn cả, nguyên nhân của các giấc mơ nặng nề chính là những điều như sự ngột ngạt trong phòng, dạ dày quá no đủ, vị trí kém thoải mái của người nằm ngủ.
Sau đây là một biến thái khác của giấc mộng "tiên tri". Một người phụ nữ trẻ đi khỏi nhà, chị chào tạm biệt mẹ. Buổi tối ấy trong xe lửa chị mơ thấy một giấc mơ ghê gớm: bà mẹ ốm nặng và gọi con gái trở về nhà. Đêm hôm sau giấc mơ lại lặp lại như đêm trước. Lần này chị thấy những sự kiện tiếp theo - người ta đưa tang bà mẹ. Vô cùng lo lắng, người con gái đánh điện ngay về nhà. Người em trai trả lời chị: "Mẹ ốm". Người phụ nữ quay trở về và thấy mẹ ốm rất nặng, một tuần sau bà mẹ mất.
Ở đây không có gì là huyền bí. Khi tạm biệt mẹ, người con gái nhận thấy khuôn mặt nhợt nhạt ốm yếu của bà. Chị nhìn thấy nhưng không coi điều đó là hệ trọng. Những ý nghĩ lúc ấy còn bận với chuyến đi sắp tới. Nhưng óc chị đã gác hình ảnh bà mẹ đau ốm sang một trong những tầng nhỏ trong trí nhớ. Trên tàu hoả, người con gái nghĩ không biết có còn được gặp mẹ hay không, bởi bà cụ đã già lắm rồi. Một lần nữa, trong trí nhớ lại hiện lên cảnh tiễn biệt, cái nhìn buồn rầu của người mẹ. Và trong đêm đầu trên tàu, chị mơ thấy giấc mơ trong đó não đưa ra hồi ức về gia đình dưới dạng một hình ảnh rõ ràng. Rồi sau đấy lại giấc mơ - hình ảnh đám tang - điều chị nghĩ tới lúc ban ngày.
Sau đây là một ví dụ nữa. Ai cũng biết một điều mê tín cổ xưa: mơ thấy cha mẹ đã mất từ lâu có nghĩa là thời tiết sẽ xấu đi. Nhà sinh lý học Nga N. E. Vvêđenxki viết rằng trong sự mê tín ấy có ý nghĩa nào đó. Sự thể là do giấc ngủ của con người càng say bao nhiêu, những dấu vết sống động của những ấn tượng đã xảy ra càng thuộc về giai đoạn sớm hơn bấy nhiêu trong cuộc đời người đó. Trước khi tiết trời trở nên xấu đi, người ta thường ngủ say hơn, và giấc ngủ càng say thì càng hay xuất hiện những hình ảnh của quá khứ xa xôi hơn.
Và tất nhiên thường hơn cả những giấc mơ trở thành hiện thực là những trùng hợp ngẫu nhiên, hoặc đơn giản hơn nữa, người ta tin vào các giấc mơ "tiên tri" thường hay "lùa" sự kiện nào đó trong đời mình vào giấc mơ để biện hộ cho sự kiện đó và thuyết phục chính mình và những người khác rằng giấc mơ đích thực là tiên tri.
Cuối cùng, không nên quên rằng nhiều khi các câu chuyện về các giấc mơ đã thành hiện thực chỉ là những điều bịa đặt của những người giàu trí tưởng tượng thích làm cho người nghe phải ngạc nhiên sửng sốt với chuyện gì đó.
Tất cả mọi người đều biết rằng không phải bất cứ giấc mơ nào cũng thành hiện thực. Vì vậy những kẻ đoán mộng phải viện đến những xảo thuật khác nhau. Họ bảo rằng chỉ có một phần các giấc mộng là tiên tri, còn những giấc mộng khác thì không. Rốt cuộc nếu người ta thấy sự việc trong đời mình khớp với giấc mơ thì đó là giấc mơ "tiên tri"; không khớp thì đó chỉ là giấc mơ bình thường. Cách giải thích ấy thật là tiện lợi!
Những người đoán mộng khác nói rằng chỉ có thể thấy giấc mơ "tiên tri" vào những ngày nhất định trong tuần, chẳng hạn như vào thứ sáu, hoặc thậm chí vào ngày đầu tiên sau khi bắt đầu tuần trăng là giấc mơ "xác thực", vào ngày thứ hai "sẽ nhanh chóng được thực hiện", vào ngày thứ hai mốt là "dứt khoát sẽ được thực hiện", vào ngày thức hai mươi sáu là "yên lành", vào ngày thứ hai mươi chín, sẽ "không thành hiện thực", v. v…
Bạn thấy đấy, có biết bao khả năng được cung cấp cho những người mê tín khiến cho sau khi một điều trong mơ và sau đó thấy điều đó thành hiện thực, cho đến tận cuối đời họ vẫn tin chắc vào sự tồn tại của những giấc mộng "tiên tri". Có nghĩa là họ tin vào sự tồn tại của những sức mạnh bí ẩn siêu nhiên nào đó dường như tiên báo cho họ những sự kiện sẽ xảy ra.
Song nếu con người bắt đầu tỉnh táo suy nghĩ về vấn đề này, nhất định người đó sẽ đi đến kết luận rằng trên thực tế không hề có những giấc mộng tiên tri nào hết.
Nếu như con người không quên đi lòng tin mù quáng vào các giấc mơ tiên tri thì lòng tin ấy có thể đem lại cho người đó không ít những giờ phút nặng nề. Trước mắt tôi là một bức thư tôi nhận được từ một phụ nữ ở Ukraina sáu năm trước đây. "Trước kia tôi không tin vào các giấc mộng. Nhưng một trường hợp dường như đã đảo lộn cả cuộc đời tôi toàn bộ niềm vui của tôi". Và sau đó chị kể rằng ba ngày trước khi chồng chị phải mổ (anh ta bị viêm mủ ruột thừa), chị mơ thấy bị gẫy một cái răng. Chị kể chuyện đó cho cô bạn gái nghe và cô bạn cho biết là đã từng mơ thấy một giấc mơ hệt như thế một ngày trước khi chồng cô qua đời. "Tôi không cho rằng chuyện ấy có một ý nghĩa gì, như khi bác sĩ bảo tôi rằng bệnh trạng của chồng tôi hầu như là vô vọng thì lập tức tôi nhớ lại giấc mơ vừa rồi. Tôi cũng nhớ lại những trường hợp người nào đó quen biết đã chết sau những giấc mộng như thế…"
Trái với lo sợ của người phụ nữ mê tín đó, cuộc phẫu thuật cho chồng cô ta đã diễn ra tốt đẹp, chẳng bao lâu sau, người chồng ra viện. Song điều đó không làm cho người vợ yên lòng. "Từ khi ấy đã bảy tháng trôi qua, và đến giờ tôi vẫn nghĩ về giấc mơ đó. Tôi gầy đi trông thấy, ăn hoàn toàn mất ngon,người luôn luôn yếu mệt. Tôi cho hạnh phúc của mình là ngắn ngủi (vì giấc mộng đó), còn bản thân mình là bất hạnh".
Một ví dụ thật điển hình! Ví dụ cho ta thấy rõ rằng đôi khi đức tin mù quáng vào sức mạnh tiên tri của các giấc mơ có thể ảnh hưởng tai hại đến thế nào đối với con người…
Có thể xếp đặt trước giấc mơNgười ta đặt một cái túi chườm nóng ở sát chân một người đang ngủ, và người này mơ thấy núi lửa phun; anh ra chạy từ trên núi xuống trên những viên đá nóng bỏng. Trước khi thí nghiệm đó được thực hiện không lâu, người này đã đọc một cuốn sách viết về núi lửa và các vụ núi lửa phun trào...
Thật chẳng khó khăn gì để có thể hình dung một người mê tín sẽ có những kết luận như thế nào sau khi thấy trong mơ điều tương tự. Anh ta sẽ cố gắng làm sáng tỏ vấn đề bằng cách hỏi "những người hiểu biết" xem giấc mộng đó tiên báo điềm gì. Nhưng thực ra người ta đã buộc anh ta mơ một giấc mơ như thế! Nói cách khác, người ta đã nắm số phận anh ta trong tay và bắt đầu quyết định điều gì sẽ xảy ra trong cuộc sống tương lai của anh ta.
Như các công trình vừa qua cho thấy, trời lạnh ảnh hưởng không tốt đến tính chất các giấc mơ. Trong tạp chí "Hóa học và đời sống" có đưa tin về một thí nghiệm như vậy. Ba nhóm người (từ 15 đến 30 tuổi) ngủ trong các phòng khác nhau ở nhiệt độ 12, 17 và 22 độ. Tất cả các điều kiện khác đều như nhau. Những người đó đã mơ thấy các giấc mơ khác nhau. Nhóm người ngủ trong phòng lạnh nhất phần lớn mơ những điều khó chịu, kinh sợ, còn ở phòng ấm nhất, những giấc mơ êm ái, nhẹ nhàng đã đến trong giấc ngủ của những người ở đó.
Các nhà khoa học giả định rằng, sự thay đổi nhiệt độ bên ngoài có ảnh hớn nhất định đến mạch máu của người đang ngủ, trong phòng lạnh, mạch máu co lại và những tín hiệu âm tính sẽ tác động đến hệ thần kinh trung ương. Trong phòng ấm, sự giãn nở các mạch máu lại tạo nên những cảm giác dương tính.
… Một người đang mơ thấy mình đang bay xuống vực sâu hoặc ngã xuống hố, thường là sau đó anh ra tỉnh dậy ngay. Giấc mơnhư vậy có thể xảy ra vì người ngủ nằm nghiêng bên trái và cản trở sự làm việc của tim. Trong khoảnh khắc tim ngừng đập, và người đó có thể mơ thấy đang rơi xuống vực. Có thể gây ra giấc mơ như vậy bằng một cách khác: duỗi thẳng thật nhanh hai chân người đang ngủ nằm co gối.
Thế nhưng, người tin vào các giấc mộng "tiên tri" lại sẽ nghĩ: "Đâu có giản đơn như thế!"
Hiện nay, các nhà nghiên cứu có thể tuỳ ý mà tạo nên các giấc mơ có nội dung khác nhau nhất - tức là theo đơn đặt hàng.
Trong vấn đề chúng ta đang nghiên cứu - "các giấc mơ theo đơn đặt hàng" - còn có một khía cạnh rất lý thú. Chúng ta nói rằng vào ban đêm, khi con người đã thiếp ngủ, não được ngắt mạch khỏi môi trường xung quanh, nhiều tế bào não tiếp tục làm việc với cường độ cao. Các tế bào đó "thảo luận" về những gì con người đã nghĩ đến lúc ban ngày, cái gì làm con người bận tâm lo lắng, hay ngược lại, cái gì làm cho người ta vui vẻ v. v… Vào những lúc ấy, trong ý thức chúng ta, nhiều khi những ấn tượng xưa kia, những gì đó đã từng được nhìn thấy và tàng trữ trong "kho" trí nhớ lại trỗi dậy rõ ràng. Dường như điều đã bị lãng quên hay hơn nữa, đã thoáng qua ý thức vào chính lúc ta nhìn thấy nó trên thực tế, lại bỗng hiển hiện trong giấc mơ thành một bức tranh rõ rệt.
Nhưng nếu điều đó là như thế thì chúng ta có thể mong đợi không chỉ những giấc mơ lộn xộn, huyễn tưởng, mà cả những công việc thuộc về hoạt động trí tuệ đối với những gì con người suy nghĩ lúc ban ngày. Đặc biệt, có thể trông đợi điều đó trong những trường hợp con người đã suy nghĩ về một vấn đề nào đó, một câu hỏi phức tạp không phải ngày một ngày hai. Ở mức độ nào đó, điều này làm ta nhớ đến các ý tưởng ám ảnh ở những người bệnh tâm thần. Ở họ những ý tưởng như thế thường sinh ra ảo giác, nhưng ở một người lành mạnh thì sao? Có thể, trong giấc mơ, con người có khả năng tiếp tục những suy nghĩ của mình và tìm được lời giải đáp?
Trong việc này không có chút gì huyền bí cả. Cuộc sống đã khẳng định là có như vậy.
Chúng ta đã từng biết: trong giấc ngủ, các nhà toán học giải các bài tập, các nhạc sĩ soạn nhạc, các nhà thơ sáng tác thơ.
Dẫn chứng ư? Có rất nhiều. Một lần A. X. Gribôeđôp nằm mơ thấy giữa các bạn bè, ông kể về đề cương vở hài kịch như thể ông đã viết xong, thậm chí ông còn đọc một vài đoạn nữa. Khi tỉnh giấc, nhà văn cầm lấy cây bút chì, chạy ra vườn và ngay đêm ấy ông đã phác xong đề cương vở "Đau khổ vì trí tuệ", soạn được một vài cảnh trong hồi đầu. Raphaen đã nhìn thấy hình ảnh Đức bà hiện lên lúc ông ngủ. Puskin đã từng mơ thấy nhiều hình tượng trong thơ.
Nhà địa chất Nga, giáo sư A. A. Iuôxtratxop, một người gần gũi với Đ. I. Menđêlêep, đã hồi tưởng lại những chi tiết thú vị cho biết trong những hoàn cảnh nào nhà khoa học vĩ đại đã hoàn thành giai đoạn quyết định cho công việc sáng tạo bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học:
"Một lần, tôi đến nhà Đ. I. Menđêlêep vì một công việc gì đấy và bắt gặp ông đang trong trạng thái phấn khích cao độ; thậm chí ông còn nói đùa nữa, mà nói đùa là một điều rất hiếm xảy ra trong cuộc sống của ông. Chuyện đó xảy ra ngay trong phát minh trứ danh về định luật tuần hoàn các nguyên tố. Lợi dụng tâm trạng hứng khởi của Đmitri Ivanôvich, tôi liền hỏi ông ta điều gì đã thúc đẩy ông tới phát minh tuyệt vời đó. Đáp lại, ông cho biết rằng đã từ lâu ông ngờ là có mối liên hệ giữa các nguyên tố với nhau và suy nghĩ rất nhiều về điều này. Trong những tháng cuối cùng trước phát minh, Đmitri Ivanôvich đã viết hết rất nhiều giấy để tìm cho ra tính quy luật đó dưới dạng bảng, nhưng ông đã không thành công. Cuối cùng ông lại ra sức nghiên cứu vấn đề, và theo lời kể của ông, ông đã từng tiến đến rất gần phát minh đó, nhưng rốt cuộc cũng chẳng ra sao cả. Ngay trước lúc phát minh ra định luật, Đmitri Menđêlêep vẫn còn loay hoay tìm bảng tuần hoàn suốt cả đêm cho đến tận sáng, nhưng cũng chẳng ăn nhằm gì: ông bực tức gác bỏ công việc lại và do mệt mỏi vì buồn ngủ, ông nằm ngay trên đivăng trên phòng làm việc, để nguyên quần áo và ngủ thiếp đi ngay.
Trong giấc mơ ông đã thấy rất rõ ràng bảng tuần hoàn mà sau đó sẽ được in ra. Ông lập tức tỉnh dậy và viết vội lên mảnh giấy đầu tiên ông nhặt được trên bàn viết của mình…
Tất cả những ví dụ tương tự đều được giải thích một cách khoa học nhất và tự nhiên nhất. Các bạn hãy nhớ lại khi bạn đọc một cuốn sách rất lý thú, khi bạn say mê với một công việc cuốn hút bạn thì giấc ngủ biến đi. Nguyên nhân ở đây là do ở vỏ não đã sinh ra một ô hưng phấn mạnh. Cũng có khi như thế này: một tình cảm nào đó vui sướng, lo âu, sợ hãi, - choán lấy tâm tư một người, trong trường hợp đó ở vỏ não sinh ra một ổ hưng phấn mạnh và giấc ngủ không còn nữa. Khi con người thiếp đi, ổ hưng phấn đó nhiều khi vẫn liên hệ với công việc tư duy đã bắt đầu lúc ban ngày, ổ hưng phấn ấy tiếp tục hoạt động cả trong giấc ngủ, tuy nhiên, nếu trong thời gian đó không có tác nhân kích thích bên ngoài não đến quấy rầy não, công việc đó thậm chí có thể có hiệu quả hơn.
Tất nhiên, ở đây, nếu ta muốn, có thể khẳng định rằng giấc mơ đã "tiên báo" phát minh tương lai. Trên thực tế trước mắt chúng ta là sự hoàn tất một ý tưởng nào đó không phải lúc ban ngày, mà vào lúc con người đang ngủ.
Ngành khoa học mới đang tập trung sức lựcChúng ta đã kể về những giấc mơ tiên báo cho con người biết về mầm sống của bệnh tật. Các nhà nghiên cứu y học từ lâu đã chú ý đến những giấc mơ đó. Ngay từ năm 1935, bác sĩ M. I. Axtvaxaturôp đã viết: "Có thể, chẳng hạn, thừa nhận rằng nếu những giấc mơ đầy lo lắng về cái chết kết hợp với các kích thích bất ngờ đi kèm theo sự lo sợ bản năng đối với cái chết, thì điều đó có thể gợi lên mối nghi ngờ về bệnh tim ở vào giai đoạn chưa hề có bất kỳ lời than phiền chủ quan nào khác về sự hiện diện của bệnh đó".
Vào những năm 30, bác sĩ V. N. Kaxatkin đã quan tâm nghiêm túc đến vấn đề này. Ông tiến hành quan sát đầu tiên ở chính mình. Ông đã ghi lại như sau: "Cả đêm tôi đánh nhau với bọn lưu manh. Một tên trong bọn lúc nào cũng rình bóp cổ tôi… Tôi tỉnh dậy thấy đầu nặng trĩu, và nuốt thấy hơi đau. Hai ngày sau, tôi thấy phát bệnh viêm đường hô hấp trên và viêm họng".
Suốt gần ba mươi năm trời nhà khoa học người Lêningrat đó nghiên cứu giấc mơ. Ông đã phân tích hơn bốn ngàn giấc mơ người khoẻ và người ốm, ở người mù và người câm điếc trước khi ông viết xong và cho xuất bản công trình đầu tiên của mình "Lý thuyết về các giấc mơ".
Một người đau ốm có thể mơ thấy những gì? Có thể chuẩn đoán về những bệnh gì theo các giấc mơ?
Trước hết cần nhấn mạnh rằng sự thay đổi tính chất và nội dung các giấc mơ chính là kẻ tiên báo về những bệnh mới phát. Xuất hiện những giấc mơ ám ảnh cùng kiểu, và như ta thấy, các giấc mơ đó khó chịu, nặng nề, đôi khi là những cơn ác mộng thật sự. Một người mơ thấy, chẳng hạn, đang muốn nhoi lên khỏi mặt nước, hoặc bị một vật nặng đè lên ngực, hoặc người đó đang bò vào một cái khe hẹp và mắc nghẽn ở trong đó, người đó đang leo lên núi mà quần áo nặng trĩu ép chặt lấy ngực - những giấc mơ tương tự có thể báo hiệu về bệnh phổi mới chớm, về bệnh viêm màng phổi hoặc bệnh lao phổi.
Có lần, một phụ nữ đứng tuổi đến gặp bác sĩ Kaxatkin, bà ta đã một tháng nay bị một giấc mơ ám ảnh: chính bà ta hoặc một ai đó trong số những người quen của bà ta ăn cá sống hay cá ươn. Bác sĩ đã gửi bà ta đi xét nghiệm ống da dày - ruột và ông đã không nhầm: người phụ nữ bị viêm dạ dày ở dạng cấp tính.
Một nữ bệnh nhân khác đi ngủ và không thấy gì khó chịu. Ban đêm và ta mơ thấy người ta mời ba ăn một chiếc bánh ngọt rất ngon, nhưng bà không tài nào nuốt trôi được miếng bánh đã cắn. Đến sáng, bác sĩ khám và thấy bà ta bị viêm họng.
Tất nhiên, ở đây không phải tất cả đều giản đơn như vậy. Những điều ngẫu nhiên và sai lệch có thể đều cản trở việc chuẩn đoán căn cứ vào giấc mơ. Nhưng nếu các giấc mơ là ám ảnh và cùng một dạng thì trong nhiều trường hợp chúng bộc lộ một bệnh nào đó đang ẩn náu.
Những quan sát nhiều năm của V. N. Kaxatkin cho thấy các tính chất giấc mơ thay đổi chừng 2 - 3 tháng trước khi bệnh cao huyết áp xuất hiện, một tháng trước khi có bệnh viêm dạ dày, hai tháng trước những triệu chứng rõ rệt đầu tiên của bệnh lao. Còn một số bệnh ở não thậm chí còn bộc lộ qua các giấc mơ một năm trước khi phát bệnh. Trong khi đó, ở nhiều trường hợp, có thể dự đoán khá chính xác chính bệnh nào sẽ đe doạ cơ thể. Chẳng hạn, những cảnh nghẹt thở thể hiện qua các giấc mơ báo trước về bệnh phổi, mắc bệnh viêm dạ dày sẽ nằm mơ thấy các thức phẩm thiu thối.
Còn tất cả các bệnh tiến triển nhanh như cúm, viêm họng, ngộ độc dạ dày - ruột, viêm ruột thừa cấp tính, viêm đường hô hấp, có thể được thể hiện trong giấc mơ ngay trước hôm bệnh phát rõ ràng.
Bác sĩ V. N. Kaxatkin nhấn mạnh: không có chút gì là huyền bí trong việc giấc mơ có thể phản ánh sự bắt đầu của bệnh tật khá lâu trước khi bác sĩ chữa bệnh thừa nhận có bệnh đó. Điều này được chứng thực bởi một điều là thời hạn tiên đoán của "giấc mơ - chuẩn đoán" hầu như trùng hoàn toàn với thời gian của giai đoạn ủ bệnh.
Cần phải nói rằng, việc phân tích các giấc mơ giúp người ta không chỉ trong việc chuẩn đoán bệnh mà còn cả trong việc chữa bệnh: theo sự thay đổi các giấc mơ có thể phán đoán về sự phát triển của bệnh, về việc các loại thuốc do bác sĩ chỉ định có giúp gì cho họ không .
Và cách đây không lâu, các nhà tội phạm học đã bắt đầu quan tâm đến các giấc mơ. Người ta biết rằng một phần nào đó của các tội ác là do các bệnh nhân mắc bệnh tâm thần gây nên. Và hoá ra là một tội ác tương lai đôi khi được phản ánh trong các giấc mơ ám ảnh ở những người như vậy - ý thức và tiềm thức của họ dường như đang phác ra các bức tranh về sự việc mà tâm trạng bệnh hoạn đang đẩy họ tới. Đồng thời họ không giấu giếm điều họ thấy trong mơ. Bằng cách xét hỏi mang trong mình mầm mống nguy hiểm, có thể ngăn ngừa được những tội ác nghiêm trọng.
Một ngành khoa học mới về các giấc mơ như là những trợ thủ của y học mới chỉ bắt đầu con đường của mình. Nhưng ngay bây giờ đã có thể dự đoán rằng, trong tương lai không xa bạn có thể nghe thấy câu hỏi sau đây trong buổi bác sĩ tiếp bệnh nhân:
- Hôm qua và hôm kia, ông (bà) đã có những giấc mơ như thế nào? Tháng gần đây ông (bà) đã thấy gì trong mơ?