Xưa ,vào thời Thuật Dương Vương nhà Triệu ,quân Hán sang xâm lược,đến khi tể tướng Lữ Gia (1) thua trận bị giết ,thì nhà Triệu bị mất ,nhà Hán thôn tính nước nam Việt ,chia đặt các quan cai trị.Con cháu họ Triệu chạy đi các nơi ,sau lại tụ tập ở hoành sơn,Thần Phù,chế tạo thuyền chiến ,thường xuyên vượt biển vào đoạt lại lãnh thổ ,vơ vét vùng duyên hải ,giết bọn quan lại của nhà Hán ,khiến chúng rất lo sợ ,gọi là nam Triệu ,sau đọc sai đi là Nam Chiếu(2),tên gọi ấy lâu dần được mọi người theo.
Đến thời Tam Quốc ,Ngô Tôn quyền sai bọn Tái Lương ,Lữ Đại làm thái thú sang cai trị.Nam chiếu đến núi Thiên cầm (là cửa biển xã Hà Trung,huyện kỳ Hoa) ,nhìn bãi cát dài ven biển ,trời cao ,nước sâu ,mênh mông sóng cuộn ,không một dấu chân người lui tới.Họ thường cướp bóc để chi phí hàng ngày, bọn quan cai trị không ngăn cấm được.quân của họ khá mạnh ,rồi họ đem châu ngọc biếu nước Bà Dạ (nay là đạo Nghệ An) để cầu hôn ,mong được cứu giúp(3).Đến cuối đời Trần ,thiên hạ đại loạn ,có bọn tù trưởng địa phương là Ngụy Ông ,lý Dịch đều là dòng dỗi họ Triệu ,anh em rất đông ,can đảm hơn người ,được thiên hạ tôn sùng ,đã liên kết với Nam Chiếu ,số quân tới vài vạn ,lại dùng châu ngọc biếu nước Bà Dạ ,xin đất trồng để ở.Vua nước Bà Dạ cho phép.thế là họ lấy bờ biển đầu nguồn xen kẽ nhau ,chia thành hai lộ :một lộ từ trên Phong Sơn xuống đến Diễn châu ,do Nam Chiếu ,Ngụy Ông , và Lý Dịch ở,một lộ từ trên Quì chẫu xuống đến Hoan châu do Nhữ La Lộ và Bà Dạ ở.Họ lập lời thề ước với nhau,kết làm nước anh em.rồi Nam chiếu đắp thành ở Cao xá cho lang ở đó ,tự lập làm Vương ,có đất đai ,phía đông tới biển ,phía tây tới Ba Thục ,phìa nam giáp nước Bà Dạ,phía bắc giáp Cửu Chân.Nước Đông Tấn sai Tào Nhĩ đem quân đến đánh .Quân Tấn đến thì họ phân tán.Quân Tấn đi thì họ lại tấp kết.Họ vừa giữ nơi hiểm yếu ở đầu nguồn ,mai phục binh tượng đánh lại ,lại chạy ra đảo núi ngoài biển để né tránh ,thường xuyên ra vào ,đến hơn 4-5 tháng ,không ra giao chiến.
Quân Tấn không chịu được thủy thổ ,bị sơn lam chướng khí dày vò,chết đến quá nửa ,phải thu quân rút về phương Bắc.
Quân Nam Chiếu nổi lên vào thời Tây Hán ,thành lập vào cuối đời Tấn.Đến thời Tùy ,thời Đường lại càng cường thịnh.Vua Đường Ý Tôn sai Cao Biền đi đánh ,cũng không thắng nổi.Đến thời Ngũ đại ,Thạch Kính Đường sai Lý Tiến đem quân sang đánh. Nam Chiếu thua to,chạy theo Ai lao,gọi là nước Đầu Mô.(là tên làng Tử Mô).Họ lại hay cướp bóc để chi dung ,lúc ngừng ,lúc phát ,nhưng chưa bao giờ thôi hẳn.Đến nay thỉnh thoảng vẫn còn.
Chú thích (1): Lữ Gia ,tể tướng nhà Triệu ,(207-111 tr.CN) là người đã chống lại Hán hóa triều đình nhà Triệu và âm mưu thôn tính đất nam Việt của đế chế Hán.Cuối cùng ,ông đã bị sát hạỉ ở Hà nội có một đường phố mang tên ông.
(2) :Trần thế Pháp đã nói rõ :Nam chiếu là con cháu Triệu Đà.Tàn dư của nước nam Việt sau khi Lữ gia mất đã tổ chức thành sáu chiếu (họ gọi Vua ,lãnh tụ là "chiếu ")để chống lại nhà Hán.Trải thời gian,năm chiếu bị tiêu diệt ,chỉ còn chiếu Mông Xa ở phía cực nam (tức Nam chiếu)còn duy trì cho tới đơid Đường.Tàn quân Nam chiếu rải dài ở các đảo ngoài biển ,họ chiếm lại Việt thường thành ,tức thành ở chân núi Mụ Dạ (tổng Cao Xá ,huyện Diễn Châu,tỉnh Nghệ an) vốn có từ thời An Dương Vương ,sau chuyển sang Triệu Đà và họ tiến mãi vào tận Hoành sơ ,phía tây đến giáp Lào dựa thêo đương núi để móc nối với Vân nam.
(3) ; Bà Dạ :hay Mụ Dạ là bà mẹ.Bản vũ quỳnh chép là nước Tây Bà Dạ ở vùng Quì Châu,phía tây Nghệ An ,giáp Trấn ninh (lào).