"Ở ông Mác, trước hết, tư bản không nói lên cái khái niệm kinh tế mà mọi người đều thừa nhận, theo đó thì tư bản là một tư liệu sản xuất đã được sản xuất ra; trái lại, ông ta mưu toan tạo ra một ý niệm đặc biệt hơn, có tính chất lịch sử - biện chứng, ý niệm này ở ông ta chuyển thành một trò chơi với những sự biến đổi của các khái niệm và các hiện tượng lịch sử. Tư bản phải sinh ra từ tiền; nó hình thành một giai đoạn lịch sử bắt đầu từ thế kỷ XVI, cụ thể là từ những buổi đầu của thị trường thế giới, được giả định là ở vào thời đó. Rõ ràng là với việc lý giải như thế đối với khái niệm tư bản thì tính chất sắc bén của sự phân tích kinh tế quốc dân không còn nữa. Trong những quan niệm kỳ dị đó, những quan niệm tỏ ra có tính chất nửa lịch sử và nửa lo-gich, nhưng thật ra chỉ là những sản phẩm lai căng của câu chuyện hoang đường về lịch sử và về lô-gich, thì năng lực phân biệt của lý trí, cũng như mọi việc sử dụng khái niệm một cách trung thực, đều bị tiêu vong"...
và cứ tiếp tục ba hoa như thế suốt một trang...
"Sự nhận định của Mác đối với khái niệm tư bản chỉ tạo ra một sự rối rắm trong khoa học chặt chẽ về kinh tế quốc dân... những điều nông nổi mà người ta coi là những chân lý lo-gich sâu sắc... tính chất chênh vênh của các luận cứ" v.v...
Như vậy là, theo Mác, tư bản phải nẩy sinh từ tiền vào đầu thế kỷ XVI. Điều này cũng giống như một người nào đó nói rằng tiền kim loại đã sinh ra từ gia súc cách đây hơn ba ngàn năm, bởi vì trước kia ngoài những vật khác làm chức năng tiền thì còn có gia súc nữa. Chỉ có ông Đuy-rinh mới có thể phát biểu một cách thô thiển và lệch lạc như thế. Ở Mác, khi phân tích những hình thái kinh tế trong đó quá trình lưu thông hàng hoá vận động, thì tiền là hình thái cuối cùng. "Sản vật cuối cùng ấy của lưu thông hàng hoá là hình thái biểu hiện đầu tiên của tư bản. Xét về mặt lịch sử thì đâu đâu tư bản cũng đối lập với sở hữu ruộng đất, trước tiên là dưới hình thái tiền, với tư cách là tài sản bằng tiền, tư bản của thương nhân và tư bản cho vay nặng lãi... Lịch sử ấy hàng ngày đang diễn ra trước mắt chúng ta. Khi mới xuất hiện lần đầu tiên trên vũ đài, tức là trên thị trường, - thị trường hàng hoá, thị trường lao động hay thị trường tiền tệ, - thì mỗi một tư bản bao giờ cũng xuất hiện dưới dạng tiền, số tiền này phải được chuyển hoá thành tư bản thông qua những quá trình nhất định"[64]. Đó lại là một sự thật mà Mác một lần nữa đã nhận thấy. Không thể bác bỏ sự thật đó, ông Đuy-rinh đã xuyên tạc nó đi : tư bản sinh ra từ tiền !
Sau đó Mác tiếp tục nghiên cứu những quá trình nhờ chúng mà tiền biến thành tư bản, và trước hết ông thấy rằng hình thức trong đó tiền lưu thông với tư cách là tư bản, và một hình thức ngược lại với hình thức trong đó tiền lưu thông với tư cách là vật ngang giá chung của các hàng hoá. Một người chủ hàng hoá giản đơn thì bán để mua; anh ta bán cái mà anh ta không cần dùng, và với tiền thu được, anh ta mua cái mà anh ta cần dùng. Còn nhà tư bản bắt tay vào công việc thì thoạt tiên mua cái mà bản thân hắn không cần đến; hắn mua để bán, hơn nữa lại để bán đắt hơn, nhằm thu trở lại giá trị của số tiền đã bỏ ra lúc ban đầu để mua, cộng với số tiền tăng thêm nào đó, mà Mác gọi là giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư đó do đâu mà ra ? Nó không thể do người mua đã mua những hàng hoá dưới giá trị của nó, cũng không thể do người bán đã bán lại hàng hoá đó trên giá trị của nó. Vì trong cả hai trường hợp, cái được và cái mất của mỗi bên sẽ bù trừ lẫn nhau, vì mỗi người đều lần lượt là người mua và người bán. Nó cũng không thể do lừa gạt mà có được, vì sự lừa gạt quả là có thể làm thiệt hại người này để cho người kia giàu lên, nhưng không thể làm cho tổng số tiền của cả hai người tăng lên dược, do đó cũng không thể làm tăng thêm tổng số những giá trị đang lưu thông nói chung. "Toàn bộ giai cấp các nhà tư bản của một nước không thể kiểm lãi bằng cách lừa bịp bản thân mình được".
Tuy vậy chúng ta vẫn thấy rằng toàn bộ giai cấp các nhà tư bản ở mỗi nước đều không ngừng giàu lên bằng cách bán đắt hơn họ đã mua, bằng cách chiếm hữu giá trị thặng dư. Thế là chúng ta vẫn không nhúc nhích hơn lúc đầu chút nào : giá trị thặng dư đó do đâu mà có ? Cần phải giải quyết vấn đề đó, hơn nữa lại giải quyết bằng con đường thuần tuý kinh tế, loại bỏ mọi thủ đoạn lừa gạt, mọi sự can thiệp của một bạo lực nào, bằng cách nêu vấn đề như sau : làm thế nào có thể thường xuyên bán đắt hơn mua được, ngay cả khi giả thiết rằng những giá trị bằng nhau sẽ luôn luôn được trao đổi lấy những giá trị bằng nhau ?.
Việc giải đáp vấn đề đó là một công lao đánh giá thời đại của công trình của Mác. Nó chiếu ánh sáng rực rỡ lên những lĩnh vực kinh tế mà trước kia những nhà xã hội chủ nghĩa cũng mò mẫm trong bóng tối không kém gì những nhà kinh tế học tư sản. Chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ ngày có giải đáp đó, và nó là điểm trung tâm của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Giải đáp như sau. Sự tăng thêm giá trị của tiền là cái phải biến thành tư bản, không thể diễn ra trong bản thân số tiền ấy, hay nảy sinh từ việc mua, vì ở đây số tiền đó chỉ thực hiện giá cả của hàng hoá; và giá cả này không khác với giá trị của nó, vì chúng ta giả định rằng những giá trị ngang nhau được trao đổi với nhau. Nhưng cũng chính vì lý do đó mà việc tăng thêm giá trị không thể nảy sinh từ việc bán hàng hoá. Do đó, sự thay đổi phải xảy ra với hàng hoá đã mua; nhưng không phải với giá trị của hàng hoá đó, bởi vì hàng hoá đã được mua và bán đúng với giá trị của nó, mà với giá trị sử dụng của nó, nghĩa là sự thay đổi giá trị phải nẩy sinh từ việc tiêu dùng hàng hoá. "Nhưng muốn rút được giá trị từ việc tiêu dùng hàn hoá, thì người chủ tiền của chúng ta phải có được điều may mắn là phát hiện được... trên thị trường một thứ hàng hoá mà bản thân giá trị sử dụng của nó có cái đặc tính độc đáo là làm một nguồn sinh ra giá trị, - một thứ hàng hoá mà khi tiêu dùng nó thật sự thì vật hoá được lao động, và do đó, sẽ tạo ra được giá trị. Và người chủ tiền đã tìm được thứ hàng hoá đặc biệt ấy trên thị trường - đó là năng lực lao động hay sức lao động"[65]. Như chúng ta đã thấy, nếu lao động với tư cách là lao động không thể có giá trị, thì đối với sức lao động tình hình lại hoàn toàn không phải như thế. Sức lao động có được giá trị một khi nó trở thành hàng hoá như điều đó đang thực sự diễn ra hiện nay, và giá trị này được quyết định, "cũng như giá trị của bất kỳ một hàng hoá khác, bởi số thời gian lao động cần thiết để sản xuất và do đó cũng để tái sản xuất ra thứ sản phẩm đặc biệt ấy", nghĩa là bởi thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt mà người công nhân cần đến để tự duy trì mình trong trạng thái có thể lao động được, và để tiếp tục nòi giống của mình. Chúng ta hãy giả định rằng những tư liệu sinh hoạt đó, từ ngày này sang ngày khác, đại biểu cho một thời gian lao động mỗi ngày là sáu giờ. Như vậy, nhà tư bản bắt tay vào kinh doanh của chúng ta, người mua sức lao động cho công việc kinh doanh của mình, nghĩa là thuê một công nhân, trả cho người công nhân đó toàn bộ cái giá trị hàng ngày của sức lao động của người công nhân đó nếu như hắn trả cho người đó một số tiền cũng đại biểu cho sáu giờ lao động. Một khi người công nhân đã lao động sáu giờ cho nhà tư bản kinh doanh đó, thì anh ta đã hoàn lại cho nhà tư bản toàn bộ số chi phí của hắn, tức là giá trị của sức lao động trong một ngày mà hắn đã trả. Nhưng như thế thì tiền đã không biến thành tư bản, đã không sản xuất ra giá trị thặng dư. Chính vì thế mà người mua sức lao động cũng có một quan niệm hoàn toàn khác đối với tính chất việc giao dịch mà anh ta đã tiến hành. Chỉ cần sáu giờ lao động là đủ để cho người công nhân sống trong hai mươi bốn giờ, nhưng điều đó hoàn toàn không ngăn cản người công nhân làm mười hai giờ trong hai mươi bốn giờ. Giá trị sức lao động và giá trị mà sức lao động đó tạo ra trong quá trình lao động là hai đại lượng khác nhau. Người chủ tiền đã trả giá trị hàng ngày của sức lao động, vì vậy việc sử dụng sức lao động trong ngày đó, lao động trong cả ngày đó, cũng thuộc về hắn ta. Cái tình hình là giá trị do việc sử dụng sức lao động đó trong một ngày tạo ra lại gấp đôi giá trị hàng ngày của bản thân sức lao động ấy, - tình hình đó là một điều đặc biệt may mắn cho người mua, nhưng theo những quy luật trao đổi hàng hoá thì đó lại hoàn toàn không phải là một sự bất công đối với người bán. Vậy, theo giả thiết của chúng ta, hàng ngày người công nhân tốn kém cho người chủ tiền một giá trị sản phẩm của sáu giờ lao động, nhưng mỗi ngày người công nhân lại cung cấp cho người chủ tiền một giá trị sản phẩm của mười hai giờ lao động. Số chênh lệch có lợi cho người chủ tiền là sáu giờ lao động thặng dư không trả công, một sản phẩm thặng dư không trả công trong đó sau giờ lao động đã nhập vào. Thế là cái trò quỷ thuật đã diễn xong. Giá trị thặng dư đã được sản xuất ra, tiền đã biến thành tư bản.
Khi chứng minh bằng cách đó là giá trị thặng dư nảy sinh như thế nào, và làm thế nào mà chỉ riêng giá trị thặng dư lại có thể nẩy sinh dưới sự chi phối của những quy luật điều tiết sự trao đổi hàng hoá, Mác đã bóc trần cái cơ chế của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của phương thức chiếm hữu dựa trên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ; ông đã phát hiện ra cái hạt nhân kết tinh mà chung quanh nó toàn bộ chế độ xã hội hiện nay đã hình thành.
Tuy nhiên sự hình thành đó của tư bản có một tiền đề cơ bản : "Để chuyển hoá tiền thành tư bản, người chủ tiền phải tìm được người lao động tư do trên thị trường hàng hoá, tự do theo hai nghĩa : theo nghĩa là một con người tự do, chi phối được sức lao động của mình với tư cách một hàng hoá, và mặt khác, anh ta không còn có hàng hoá nào khác để bán, nói một cách khác là trần như nhộng, hoàn toàn không có những vật cần thiết để thực hiện sức lao động của mình" [66]. Nhưng mối quan hệ đó giữa một bên là những kẻ sở hữu tiền hay sở hữu hàng hoá, và bên kia là những người không sở hữu gì cả, ngoài sức lao động của mình, không phải là một quan hệ lịch sử tự nhiên, cũng không phải là một quan hệ chung cho tất cả mọi thời kỳ lịch sử, "rõ ràng bản thân nó là kết quả của sự phát triển lịch sử trước đó, là sản vật... của sự diệt vong của hàng loạt những hình thái sản xuất của xã hội cũ hơn". Và thật vậy, người công nhân tự do đó đã xuất hiện rất đông đảo lần đầu tiên trong lịch sử vào cuối thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI, do sự tan rã của phương thức sản xuất phong kiến. Nhưng với tình hình đó và với sự hình thành của thương nghiệp thế giới và của thị trường thế giới cũng bắt đầu vào thời kỳ đó, thì người ta cũng có cái cơ sở trên đó khối động sản hiện có tất phải ngày càng biến thành tư bản, và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhằm sản xuất ra giá trị thặng dư, nhất định phải ngày càng trở thành phương thức thống trị độc nhất.
Đó là những "quan niệm kỳ dị" của Mác, những "sản phẩm lại căng của câu chuyện hoang đường về lịch sử và về lô-gich" ấy, trong đó "năng lực phân biệt của lý trí cũng như mọi sự sử dụng khái niệm một cách trung thực đều bị tiêu vong". Bây giờ chúng ta hãy đem những "chân lý lô-gich sâu sắc" và cái "tính khoa học tột cùng và chặt chẽ nhất theo ý nghĩa của các môn khoa học chính xác", mà ông Đuy-rinh đã đưa ra cho chúng ta, ra đối lập lại với những "điều nông nổi" đó.
Vậy là, ở Mác, tư bản không nói lên cái "khái niệm kinh tế mà mọi người đều thừa nhận, theo đó thì tư bản là một tư liệu sản xuất đã được sản xuất ra" ; trái lại, ông nói rằng một số lượng giá trị chỉ biến hành tư bản khi nào có sự tăng thêm giá trị bằng cách tạo ra giá trị thặng dư. Còn ông Đuy-rinh thì nói thế nào ?
"Tư bản là cội nguồn của những phương tiện của sự hùng mạnh về kinh tế để tiếp tục sản xuất và để tạo nên những phần tham dự vào những thành quả của sức lao động chung".
Dầu cho điều này một lần nữa, lại được biểu hiện một cách mơ hồ kiểu tiên tri và cẩu thả như thế nào chăng nữa, nhưng cùng có một điều rất chắc chắn là : cái cội nguồn của những phương tiện của sự hùng mạnh về kinh tế có thể được dùng để tiếp tục tiến hành sản xuất mãi mãi, - nhưng tuy vậy, theo như lời của ông Đuy-rinh, nó vẫn không biến thành tư bản chừng nào mà cội nguồn đó không tạo ra "những phần tham dự vào những thành quả của sức lao động chung", nghĩa là giá trị thặng dư hay ít ra cũng là sản phẩm thặng dư. Do đó, những tội lỗi mà ông Đuy-rinh đã khoác cho Mác là người không tán thành các khái niệm kinh tế về tư bản mà mọi người đều thừa nhận, thì không những bản thân ông ta đã phạm phải, mà ngoài ra ông ta còn phạm cái tội cóp nhặt của Mác một cách vụng về, "được che đậy rất tồi" dưới những câu hỏi hoa mỹ.
Ở trang 262, ý kiến đó được trình bày chi tiết hơn :
"Tư bản theo ý nghĩa xã hội" (còn tư bản không theo ý nghĩa xã hội thì ông Đuy-rinh sẽ còn phải phát hiện ra) "là đặc biệt khác với tư liệu sản xuất thuần tuý ; bởi vì trong khi tư liệu sản xuất chỉ có tính chất kỹ thuật và là cần thiết trong mọi trường hợp, thì đặc điểm của tư bản là có một sức mạnh chiếm hữu có tính chất xã hội và tạo nên những phần tham dự. Cố nhiên, phần lớn tư bản xã hội chẳng qua chỉ là tư liệu sản xuất kỹ thuật trong cái chức năng xã hội của nó ; nhưng chính chức năng đó là chức năng... phải biến đi".
Nếu chúng ta chú ý rằng chính Mác là người đầu tiên đã nêu bật cái "chức năng xã hội", chỉ nhờ nó mà một số lượng giá trị nhất định biến thành tư bản, thì cố nhiên là "đối với mọi người nào quan sát vấn đề một cách chăm chú đều nhanh chóng thấy rằng sự nhận định của Mác đối với khái niệm tư bản chỉ tạo ra một sự rối rắm", - nhưng không phải là ở trong khoa học chặt chẽ về kinh tế quốc dân như ông Đuy-rinh nghĩ, mà - như trường hợp này cho thấy một cách rõ ràng điều đó - chỉ hoàn toàn ở trong đầu óc của chính ông Đuy-rinh thôi; trong cuốn " lịch sử phê phán ", ông ta đã quên mất rằng mình đã từng lợi dụng cái khái niệm tư bản ấy nhiều đến như thế nào trong tập " giáo trình " của ông ta.
Nhưng ông Đuy-rinh vẫn không hài lòng về việc ông ta đã mượn của Mác định nghĩa về tư bản, dù là dưới một hình thức "đã được tẩy sạch". ông ta còn phải đi theoMác cả trong cái " trò chơi với những sự biến đổi của các khái niệm và các hiện tượng lịch sư ", mặc dầu là bản thân ông ta biết rất rõ rằng làm như thế thì chẳng được cái gì hết ngoài những "quan niệm kỳ dị", những " điều nông nổi ", " tính chất chênh vênh của các cơ sở ". Cái "chức năng xã hội" đó của tư bản, làm cho tư bản có thể chiếm hữu được những thành quả lao động của người khác và chỉ có nhờ nó tư bản mới phân biệt được với một tư liệu sản xuất giản đơn, - cái chức năng do đâu mà ra?
ông Đuy-rinh nói " Nó không dựa trên " bản chất của những tư liệu sản xuất và trên sự cần thiết về mặt kỹ thuật của những tư liệu sản xuất đó".
Do đó, nó đã nảy sinh trong lịch sử và ở trang 262 ông Đuy-rinh chỉ nhắc lại điều mà chúng ta đã nghe đến mười lần rồi, khi ông ta giải thích sự phát sinh của chức năng đó bằng cái câu chuyện hai anh chàng, trong đó, trong buổi đầu của lịch sử, một anh đã dùng bạo lực đối với anh kia để biến tư liệu sản xuất của mình thành tư bản. Nhưng không tự hài lòng với việc gán một bước đầu lịch sử cho cái chức năng xã hội, mà chỉ nhờ nó một số lượng giá trị mới biến được thành tư bản, ông Đuy-rinh còn tiên đoán cả bước kết thúc lịch sử của chức năng đó nữa. Chức năng đó "chính là cái phải biến mất". Một hiện tượng xuất hiện trong lịch sử và lại biến mất trong lịch sử, trong ngôn ngữ thông thường, người ta có thói quen gọi là một "giai đoạn lịch sử". Nhưng vậy tư bản là một giai đoạn lịch sử không những chỉ đối với Mác mà cả đối với ông Đuy-rinh nữa, và chính vì thế mà chúng ta buộc phải kết luận rằng ở đây chúng ta đang đứng giữa những người giống tên. Nếu hai người làm cùng một việc, thì đó còn chưa phải là cùng một việc đâu!. Nếu mác nói rằng tư bản là một giai đoạn lịch sử, thì đó là một quan niệm kỳ dị, một sản phẩm lai căng của câu chuyện hoang đường về lịch sử và về lo-gích, trong đó năng lực phân biệt, cũng như mọi sự sử dụng khái niệm một cách trung thực đều bị tiêu vong. Nếu ông Đuy-rinh cũng hình dung tư bản là một giai đoạn lịch sử như thế, thì đó là một bằng chứng về tính chất sắc bén của sự phân tích kinh tế quốc dân và về cái tính khoa học tột cùng và chặt chẽ nhất theo ý nghĩa của những khoa học chính xác.
Vậy quan niệm về tư bản của ông Đuy-rinh khác quan niệm về tư bản của Mác ở chỗ nào?
Mác nói : "Tư bản không hề phát minh ra lao động thặng dư. Ở khắp mọi nơi, hễ chỗ nào một bộ phận xã hội nắm độc quyền những tư liệu sản xuất, thì người công nhân, tự do hay không tự do, đều buộc phải thêm vào thời gian trội ra dùng để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho kẻ sở hữu các tư liệu sản xuất". Vậy lao động thặng dư, lao động ngoài thời gian cần thiết để người công nhân tự nuôi sống mình và việc những người khác chiếm hữu sản phẩm của lao động thặng du ấy, tức là việc bóc lột lao động, đều có trong tất cả mọi hình thái xã hội từ trước tới nay, chừng nào những hình thái xã hội này vận động trong những mâu thuẫn giải cấp. Nhưng chỉ khi nào sản phẩm của lao động thặng dư đó mang hình thức giá trị thặng dư, chỉ khi nào mà kẻ sở hữu những tư liệu sản xuất tìm ra được người công nhân tự do - nghĩa là được giải thoát khỏi những xiềng xích xã hội, và khỏi sở hữu - với tư cách là đối tượng bóc lột, và bóc lột người công nhân đó nhằm mục đích sản xuất ra hàng hoá, thì theo Mác, chỉ khi đó tư liệu sản xuất mới mang tính chất đặc biệt là tư bản. Và điều đó chỉ diễn ra trên qui mô lớn từ cuối thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI.
Trái lại, ông Đuy-rinh lại tuyên bố rằng bất kỳ một số lượng tư liệu sản xuất nào "tạo nên những phần tham dự vào thành quả của sức lao động chung", nghĩa là tạo ra lao động thặng dư dưới bất cứ hình thức nào, cũng đều là tư bản. Nói một cách khác, ông Đuy-rinh chiếm lấy cái lao động thặng dư do Mác phát hiện ra để giết chết cái giá trị thặng dư do Mác phát hiện ra. Vậy, theo ông Đuy-rinh không những các động sản và bất động sản của các công dân ở Corinthe và E-ten dùng những người nô lệ để kinh doanh, mà cả của cải của những địa chủ lớn Rô-ma thời đế chế, cũng như những của cải của những năm trước phong kiến thời trung cổ, nếu được dùng vào sản xuất bằng một cách nào đó, thì tất cả những cái đó, không phân biệt gì hết, đều là tư bản.
Như vậy, về tư bản, chính bản thân ông Đuy-rinh " không có cái khái niệm mà mọi người đều thừa nhận, theo đó thì tư bản là một tư liệu sản xuất đã được sác ra ", mà trái lại, có một khái niệm hoàn toàn ngược lại, gộp cả những tư liệu sản xuất không do sản xuất mà ra, tức là ruộng đất và tài nguyên tự nhiên của ruộng đất vào trong đó. Nhưng cái quan niệm cho rằng tư bản chỉ đơn thuần là "một tư liệu sản xuất đã được sản xuất ra", lại là một quan niệm chỉ được thừa nhận một cách phổ biến trong khoa kinh tế tầm thường thôi. Ngoài cái khoa kinh tế tầm thường rất thân thiết của ông Đuy-rinh ra, thì "tư liệu sản xuất đã được sản xuất ra", hay một số lượng giá trị nói chung chỉ biến thành tư bản là vì nó đem lại lợi nhuận hay lợi tức, nghĩa là nó chiếm hữu sản phẩm thặng dư của lao động không được trả công dưới hình thức giá trị thặng dư, và hơn nữa lại chiếm hữu dưới hai loại hình xác định ? của giá trị thặng dư. Đồng thời, ở đây, việc toàn bộ khoa kinh tế học tư sản bị sa lầy trong cái quan niệm cho rằng đặc tính tạo ra lợi nhuận hay lợi tức, tự nó là hoàn toàn vốn có đối với mọi số lượng giá trị được sử dụng trong những điều kiện bình thường vào sản xuất hay trao đổi, điều đó hoàn toàn không quan trọng. Trong khoa kinh tế cổ điển, tư bản và lợi nhuận, hay tư bản và lợi tức cũng không thể tách rời, cũng nằm trong mối liên hệ lẫn nhau như nhân và quả, cha và con, hôm qua và hôm nay. Nhưng danh từ tư bản với ý nghĩa kinh tế hiện đại của nó chỉ xuất hiện lần đầu tiên khi mà bản thân sự vật xuất hiện, khi mà động sản ngày càng mang chức năng tư bản, bằng cách bóc lột lao động thặng dư của công nhân tự do để sản xuất ra hàng hoá, cụ thể là danh từ đó được đưa vào sử dụng bởi nước đầu tiên trong lịch sử của những nhà tư bản, tức là bởi những người Ý hồi thế kỷ XV và XVI.
Và nếu Mác là người đầu tiên đã phân tích đến tận gốc phương thức chiếm hữu vốn có của tư bản hiện đại, nếu Mác đã làm cho khái niệm tư bản phù hợp với những sự kiện lịch sử mà từ đó, xét cho đến cùng, khái niệm tư bản đã được rút ra và nhờ những sự kiện lịch sử đó mà nó đã tồn tại; nếu với điều đó Mác đã giải phóng cho cái khái niệm kinh tế đó thoát khỏi nhưng quan niệm không rõ ràng và chênh vênh đang còn bám vào nó ngay cả trong khoa kinh tế tư sản cổ điển và trong những nhà xã hội chủ nghĩa trước đây, thì điều đó có nghĩa là chính Mác đã tiến hành việc đó với một " tính khoa học tột cùng và chặt chẽ nhất ", tính khoa học mà ông Đuy-rinh luôn luôn nhắc đến, nhưng đau đớn thay lại không có được.
Thậy vậy, ở ông Đuy-rinh sự việc lại hoàn toàn khác hẳn. ông ta không hài lòng với việc thoạt tiên gọi sự trình bày tư bản là một giai đoạn lịch sử, là "sản phẩm lai căng của câu chuyện hoang đường về lịch sử và về lô-gích", rồi sau đó lại tự mình trình bày nó như là một giai đoạn lịch sử. ông ta còn tuyên bố dứt khoát rằng tất cả những phương tiện của sự hùng mạnh về kinh tế, tất cả những tư liệu sản xuất chiếm hữu, "những phần tham dự trong thành quả của sức lao động chung", do đó cả tài sản ruộng đất trong tất cả mọi xã hội có giai cấp cũng đều là tư bản, nhưng điều đó không hề cản trở ông ta sau đó, lại đem tài sản ruộng đất và địa tô ra khỏi tư bản và lợi nhuận theo đúng như truyền thống, và chỉ dùng danh từ tư bản để gọi những tư liệu sản xuất một cách chi tiết ở trang 156 và các trang tiếp theo của tập "Giáo trình" của ông ta. ông Đuy-rinh cũng sẽ có thể, một cách cũng có cơ sở như thế, thoạt tiên bao quát ngựa, bò, lừa và chó dưới cái tên gọi là đầu máy, bởi vì cũng có thể dùng những con vật đó để làm cho xe chạy ngược, và ông ta có thể trách những kỹ sư hiện nay đã giới hạn tên gọi đó trong loại xe hiện đại chạy bằng hơi nước, biến nó thành một giai đoạn lịch sử, vì họ tạo ra những quan niệm kỳ dị, những sản phẩm lai căng của câu chuyện hoang đường về lịch sử và về lo-gích, v.v; rồi sau đó, cuối cùng lại tuyên bố rằng cần phải loại ngựa, lừa, bò và chó, ra khỏi tên gọi đầu máy và danh từ này chỉ dùng cho thứ xe chạy bằng hơi nước thôi. Như vậy là một lần nữa chúng ta bắt buộc phải nói rằng chính cái cách lý giải khái niệm tư bản theo kiểu ông Đuy-rinh đã làm cho sự phân tích kinh tế quốc dân mất hết tính chất sắc bén, và làm cho năng lực phân biệt cũng như mọi việc sử dụng khái niệm một cách trung thực đều bị tiêu vong, và những quan điểm kỳ dị, sự lẫn lộn, những điều nông nổi, được coi là những chân lý lô-gích sâu sắc, và tính chất chênh vênh của các luận cứ, chính là những cái đang hưng thịnh ở ông Đuy-rinh.
Nhưng tất cả những điều đó đều không quan trọng ! ông Đuy-rinh vẫn có cái vinh dự là đã phát hiện ra cái mục, chung quanh đó vận động toàn bộ khoa kinh tế học trước đây, toàn bộ khoa chính trị học, và luật học, tóm lại là toàn bộ lịch sử trước đây. Đây là phát hiện đó :
"Bạo lực và lao động là hai nhân tố chủ yếu tác động trong việc hình thành các mối liên hệ xã hội"
Toàn bộ hiến pháp của thế giới kinh tế từ trước đến nay là nằm trong cây duy nhất đó. Hiến pháp hết sức ngắn gọn, nó nói :
Điều 1 : Lao động thì sản xuất
Điều 2 : Bạo lực thì phân phối .
Và với điều đó, "nói theo tiếng nói của con người và của người Đức", toàn bộ kiến thức kinh tế của ông Đuy-rinh cũng chấm dứt .