Phước Long - Đồng Xoài - trận đánh chuyển tiếp giữa hai chiến lược chiến tranh: "chiến tranh đặc biệt" chưa tàn lụi mất đi nhưng đã bắt đầu xuất hiện các yếu tố của "chiến tranh cục bộ".
Trong trận đánh này, anh Lê Trọng Tấn tư lệnh trưởng, anh Trần Độ chính uỷ và tôi được giao nhiệm vụ tư lệnh phó Bộ chỉ huy chiến dịch.
Thực là một sự ngẫu nhiên đầy hứng khởi! Bộ tư lệnh Sư đoàn 312 lại đủ mặt trong chiến dịch này.
Anh Tấn vỗ vai tôi tâm sự:
- Anh em mình sống với nhau từ mặt trận Sơn La. Đã có lúc mình hiểu không đúng về cậu. Bây giờ vào đây không hẹn mà gặp đủ cả - Tấn - Độ - Cầm, và còn khỏe cả. Phải cùng nhau cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.
Tôi xúc động thật nhiều về những điều anh tâm sự, tuy ngắn mà ấm lòng trước khi ra trận.
Thời gian lúc này thật khẩn trương, tôi cười và thật lòng đáp:
- Nhưng không ai hiểu Hoàng Cầm bằng anh, nhất là từ sau thất thủ ở mặt trận Mộc Châu trở về tây-nam Phú Thọ.
- Cảm ơn Hoàng Cầm - Anh Tấn nói và cầm tay tôi lắc mạnh, để rồi mỗi người vào việc được giao.
Trước khi vào chuyện xin được lưu ý bạn đọc đôi điều.
Về sự kiện Phước Long, Đồng Xoài có một vài cuốn sách, bài báo, phản ánh nhưng lại theo biên niên như hai trận đánh tách biệt nhau. Cũng có tài liệu phản ánh trận Đồng Xoài như một chiến dịch riêng biệt, không liên quan gì với chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài. Đúng là về thời gian trận Phước Long đã được khởi sự trước vào thượng tuần tháng 5 năm 1965, Đồng Xoài mãi thượng tuần tháng 6 mới nổ súng.
Nhưng sự thật thì hai trận đánh này đều gắn bó trong một ý đồ chung. Còn lý do vì sao khoảng cách giữa hai trận đánh dài thế (trên dưới một tháng) sẽ trình bày phần diễn biến cụ thể Như bạn đọc đã biết, Phước Long dưới triều Nguyễn chỉ là một huyện của dinh Trấn Biên, sau thành huyện Bà Rá thuộc tỉnh Biên Hoà cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Phước Long mang dáng dấp một cao nguyên chuyển tiếp, thấp dần và là chân đứng phía nam của dãy Trường Sơn hùng vĩ chạy từ Bắc vào.
Phước Long là một dải rừng bằng trải rộng xen lẫn với rừng cao su nhân tạo, giữa nổi lên một ngọn núi đột xuất uy nghi, đường bệ mang tên núi Bà Rá cao 730 mét, như một điểm tựa vững chắc trấn giữ phía tây-nam của Tổ quốc. Dưới chân núi là sông Bé uốn khúc, tạo thành các ghềnh thác hưng dữ mang những cái tên dịu dàng - thác Mơ Thượng, thác Mơ Hạ, cách thị xã 4 ki-lô-mét về phía đông có công suất điện năng từ 50.000 - 100.000 kw. Nhưng dưới chân núi Bà vẫn còn in hằn dấu vết tội ác của bọn thực dân Pháp thống trị, chúng đã đặt ở đây một nhà tù - gọi là "Căng Bà Rá" giam cầm các chiến sĩ Cách mạng, trong đó có các đồng chí Trần Văn Giàu, Tô Ký, Nguyễn Thị Định.
Nhưng Phước Long không chỉ đẹp về cảnh quan mà còn là một vị trí chiến lược quân sự quan trọng của cả hai bên. Nhìn vào bản đồ quân sự đặt trong bối cảnh chung lúc ấy dễ thấy Phước Long địa thế thuận lợi cho việc tạo thế cho chiến trường Đông Nam Bộ nói riêng, cho chiến trường Nam Bộ nói chung.
Chính vì lẽ đó từ năm 1954 Mỹ - Diệm đã đổ tiền của vào để xây dựng Phước Long thành tuyến phòng ngự bảo vệ Sài Gòn từ xa. Thực hiện chia nhỏ để kiểm soát, kìm kẹp, địch tách Phước Long từ một huyện của tỉnh Biên Hoà, lập tỉnh mới gồm bốn huyện: Phước Bình, Đôn Luân (Đồng Xoài), Đức Phong (Bù Đăng), Bố Đức (Bù Đốp). Từ 1957 đến 1962, cùng một lúc địch tiến hành nhiều âm mưu tăng quân, xây dựng căn cứ, sân bay, mở rộng hệ thống đồn bót, dồn đồng bào các dân tộc tại chỗ vào các ấp chiến lược, đẩy nhân dân từ các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, giáo dân di cư của vùng Bùi Chu, Phát Diệm lên Phước Long để lập các khu dinh điền, hình thành một hệ thống bao quanh thị xã, thị trấn, trên các trục đường. Mỗi ấp chiến lược khu dinh điền đều được quân sự hoá, có rào kẽm gai bao quanh, có bãi mìn, có lực lượng dân vệ, bảo an ngày đêm tuần phòng canh gác. Địch phát cho mỗi gia đình một cái mõ để khua lên khi có người lạ đến, cả ấp khua theo, gây tâm lý nghi kỵ lẫn nhau.
Phước Long từ một thị trấn hẻo lánh, thưa vắng ở vùng biên ải bỗng trở thành một thị xã chứa đầy ắp các sắc lính, hình thành một hệ thống phòng ngự vững chắc chạy từ núi Bà Rá qua tỉnh lỵ ra sân bay xuống chi khu quân sự Phước Bình, thành một tập đoàn cứ điểm mạnh với 8 trận địa pháo, 200 ấp chiến lược, khu dinh điền bao quanh, quân số chiếm đóng lên tới 3.000 tên.
Đúng là địch tạm thời kìm kẹp và khống chế được nhân dân, cơ sở cách mạng bị xáo trộn, quần chúng trung kiên tạm thời nằm yên, số cán bộ, đảng viên được phân công ở lại bám trụ nằm vùng giữ vững phong trào tạo thời cơ, tạm thời phải phân tán rút vào rừng sâu sống cầm hơi bằng rau rừng nước lã, để mà tồn tại tính kế khác. Tình hình trở nên cực kỳ khó khăn, Xứ uỷ Nam Kỳ (sau này là Trung ương Cục) đã chủ trương mua sở cao su Bù Ca vừa làm nơi sản xuất lấy tiền nuôi cán bộ vừa là nơi hợp pháp để chỉ đạo phong trào.
Tháng 9 năm 1959 theo chỉ thị của Xứ uỷ, một tổ công tác do các anh Nguyễn Văn Thuận (Ba Thu), Nguyễn Văn Dinh (Ba Dinh), Phú, Sáu A, do đồng chí Lâm Quốc Đăng chỉ huy, từ chiến khu Đ lên vùng Phước Long soi đường liên lạc với các đoàn cán bộ từ miền Bắc đang trên đường trở vào. Cuộc hành trình đầy gian khổ, phải đóng giả nhiều vai, dò tìm các đồng chí ta còn nằm vùng ở đây, bắt liên lạc với đồng bào trung kiên vẫn một lòng với cách mạng bị địch xáo trộn đẩy vào các ấp chiến lược khu dinh điền. Cứ thế vừa tuyên truyền vận động quần chúng, xây dựng cơ sở trong đồng bào các dân tộc tổ chức trạm liên lạc, vận chuyển quyên góp, mua lương thực dự trữ; vừa làm đủ nghề kiếm sống, các anh đã tạo được chỗ đứng chân ở vùng Đắc Nhân, được đặt tên là căn cứ "nửa lon", vì những ngày ở đây hàng ngày mỗi người ăn chưa đầy nửa lon gạo. Tổ soi đường đi tiếp theo hướng bắc thì gặp đoàn cán bộ miền Bắc khởi hành từ 20-4-1959. Phải mất hơn sáu tháng các anh mới đặt chân lên phía tây Quảng Nam. Đoàn có 29 người, phần lớn là cán bộ quân đội, cấp bậc cao nhất là thượng uý. Trong số này có anh Bảy Kính, quê miền Bắc đi phu cao su rồi tham gia chiến đấu ở miền Nam, tập kết ra Bắc nay trở lại.
Tôi gặp anh trong chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài năm ấy, đã gần như người địa phương thực thụ. Anh người xương xương nhưng chắc khỏe, trụ lại đây đến miền Nam hoàn toàn giải phóng. Sau đại hội IV, anh tham gia tỉnh uỷ Sông Bé kiêm bí thư huyện Phước Long. Được biết anh đã nghỉ hưu, về sống với gia đình ở chân núi Bà Rá. Ở hoàn cảnh anh, việc đưa gia đình về thị xã Thủ Dầu Một, Lái Thiêu không khó, nhưng anh tự nguyện định cư tại Phước Long, nhưng không ở thị xã cũ mà về chân núi Bà Rá là có cái lý cái tình của riêng anh. Vì anh gắn với mảnh đất đầy đau thương này từ những năm chưa có đồng khởi rất đen tối còn chịu được, nay đã khác xưa, đi làm sao được xa làm sao được, mảnh đất sâu nghĩa nặng tình này. Cuộc sống của anh thật giản dị, khiêm nhường mà cao cả.
Cuộc hành trình soi đường của tổ công tác đã thành công, Phước Long đã chuyển mình, trở thành nơi hội tụ các đồng chí miền Bắc vào hợp sức. Phong trào được hồi phục, cơ sở chính trị được phát triển. Tháng 1 năm 1960 lực lượng vũ trang của Phước Long thành lập mang tên B270, thiết thực hỗ trợ cho cuộc nổi dậy của nhân dân. Hàng loạt ấp chiến lược, khu dinh điền trên trục đường 10, đường 14 bị phá vỡ. 24 đồn bót lẻ của địch bị san bằng, vùng giải phóng được mở rộng từ Bù Na - Quảng Đức đến Phước Quả - Liếu Đức. Lực lượng du kích được tổ chức, lực lượng dân công được thành lập sẵn sàng phục vụ chiến đấu. Tiếng mõ khua báo mỗi khi có người lạ mặt đến ấp đã tắt và xa dần. Đã có đủ điều kiện đưa lực lượng chiến đấu vào gần đồn địch, cho phép chúng tôi, những người đi trước chuẩn bị chiến trường, nằm lại núi Bà Rá ban ngày để quan sát toàn cảnh trận địa địch ở thị xã Phước Long; đã có các điều kiện thuận lợi để chúng tôi bò sát vào rào kẽm gai của địch để nghiên cứu tính toán đặt bộc phá mở cửa cho bộ đội tiến vào diệt địch. Đã có biết bao gương hy sinh thầm lặng của đồng bào đồng chí, của những người đi trước soi đường tạo thế cho trận đánh hôm nay.
Phước Long đã trở thành căn cứ của ta. Từ đây có thể đón người và hàng từ miền Bắc vào, từ đây có thể ra Tây Nguyên, sang Khu 6. Cái thế ấy là nguyên nhân làm nên thắng lợi của chiến dịch mà tôi sẽ kể cùng bạn đọc dưới đây.
Nhân hoà tạo nên thế lợi như vậy là tạm ổn. Nhưng cái khó chính lúc này khiến tôi băn khoăn thực sự là lấy đâu ra lương thực đủ cung cấp cho hơn một sư đoàn ăn trong quá trình chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu.
Hình như đoán biết được điều băn khoăn này, nên khi gặp tôi đồng chí bí thư huyện uỷ Bù Đốp nói ngay:
- Các anh khỏi lo, lương thực cho bộ đội ăn tụi này đã chuẩn bị rồi.
- Bao nhiêu? - Tôi hỏi lại.
Vừa tự hào vừa ra vẻ quan trọng, đồng chí bí thư huyện uỷ dẫn tôi đến một vạt rừng rậm nhiều cây to rồi chi lên, nói:
- Anh thấy không, lương thực treo trên các cây cao - ngoảnh lại tôi anh hỏi tiếp - Thấy không?
Tôi ngước mắt nhìn lên, từng bó lúa nương được chải tuốt sạch sẽ chỉ còn hạt thóc treo lơ lửng trên các cành cây, đề phòng biệt kích địch phát hiện và thú rừng phá hoại.
- Bao nhiêu ký - tôi hỏi.
- Năm tạ! - đồng chí bí thư trả lời, kèm theo tiếng cười sảng khoái.
Tôi thực sự xúc động: Năm tạ thóc xay xát còn ba tạ rưỡi là cùng. Đủ nuôi hàng nghìn con người được mấy ngày. Đúng là như muối bỏ bể, nhưng ở cái vùng đang còn đầy rẫy khó khăn, nhiều gia đình mà tôi bắt gặp đang ăn cháo, ăn củ rừng, lá bép thay gạo, vậy mà khi nói góp gạo nuôi bộ đội ăn no đánh giặc là ai nấy đều sẵn sàng.
Lại một chuyện cảm động khác mà tôi được nghe kể trên đường đi chuẩn bị chiến trường: trên giao nhiệm vụ cho nhân dân Sóc Bom Bo trong hai ngày phải có đủ một tấn gạo trong điều kiện có nhiều khó khăn, địch uy hiếp, phi pháo của chúng bắn phá không kể giờ. Nhưng nhân dân vẫn bình thản, lạc quan, ai có sức khỏe đều xung phong nhận nhiệm vụ, tiếng chày giã gạo các cùm cum suốt đêm. Chỉ năm ngày sau số gạo cần có đã được đồng bào gùi tới địa điểm tập trung. Nhạc sĩ Xuân Hồng cảm hứng về hình ảnh đẹp này dã sáng tác "Tiếng chày trên Sóc Bom Bo" - một ca khúc trữ tình sâu đậm ngợi ca tinh thần yêu nước của người dân Bom Bo thuần phác, nói ít mà nghĩ sâu, nhìn lẽ phải bằng việc làm thực tế, cái tư chất quý hiếm ấy đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng.
Đến đây xin đi vào nội dung của sự kiện.
Một câu hỏi được đặt ra sau hội nghị tổng kết chiến dịch Bình Giã: Hướng hoạt động quân sự trong thời gian tiếp theo là đâu?
Lại một dịp trao đổi sôi nổi. Có ý kiến đề nghị Long Khánh (Xuân Lộc); ý kiến khác: thọc lên Mê Pu, Tánh Linh, mở rộng địa bàn, tạo thêm chỗ đứng.
Như thế là vẫn duy trì đánh cấp trung đoàn trở xuống, chắc chắn sẽ diệt được địch, nhưng không lớn, nhất là không phục vụ cho củng cố thế đứng để phát triển lực lượng.
Tất nhiên là không nhất trí với ý kiến này nhưng tôi không biểu thị thái độ rõ ràng dù sao thì mình mới vào mà đề xuất chuyển hướng hoạt động để có điều kiện đánh lớn thì không có cơ sở. Vì các yếu tố địch tình, địa hình, dân tình chưa có tích luỹ gì tất cả đều mới mẻ đang trong thời gian tìm hiểu.
Hôm sau, cả Bộ tư lệnh chiến dịch chúng tôi lại được lệnh đến họp để nghe anh Thanh phổ biến quyết định của Bộ chỉ huy Miền mở chiến dịch mới: Phước Long.
Anh nói:
- Về mọi mặt chiến dịch này cao hơn Bình Giã, bước đầu chúng ta thí nghiệm đánh tập trung. Ấp Bắc, Đường Long, Bình Giã tuy thắng lớn nhưng chưa phải đánh lớn trên cấp trung đoàn. Cuộc ra quân lần này trước hết phải tiêu diệt cho được một bộ phận sinh lực quan trọng của chủ lực nguỵ, đẩy mạnh chiến tranh du kích, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, củng cố và mở rộng căn cứ.
Đến đây anh chỉ tay vào bản đồ, vùng Phước Long đã được nét chì đỏ tô đậm thành hình bầu dục, nhấn mạnh:
- Đánh địch để tạo điều kiện xây dựng nơi đây thành căn cứ trong cái thế đứng liên hoàn của mặt trận Đông Nam Bộ là một yêu cầu vừa bức bách vừa cơ bản.
Bỗng giọng anh thấp dần và chậm lại, như tiếp sức lòng tin cho chúng tôi. Anh nói:
- Lấy Phước Long làm hướng tiến công chủ yếu trong đợt hoạt động xuân hè còn nhằm thực hiện ý định nghi binh lừa địch, tạo thế bất ngờ, bảo đảm chắc thắng. Sau Bình Giã, địch đoán và đề phòng ta đánh Long Khánh, vì Bà Rịa, Long Khánh cùng một địa bàn. Để củng cố thêm phán đoán sai lầm của địch, ta để lại một bộ phận ở đó phối hợp với bộ đội địa phương và lực lượng vũ trang khu G hoạt động trên lộ 2 (Bà Rịa – Long Khánh), đồng thời Bộ tư lệnh Miền đã điện cho các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Biên Hoà có kế hoạch đẩy mạnh hoạt động quân sự trước và trong khi Phước Long nổ súng.
Cuối cùng anh như trao đổi tâm tình, để có thêm thực tế thuyết phục một nhận thức gần như cố hữu, tuyệt đối hoá chiến tranh du kích, vì sau Bình Giã, cán bộ đại đội, tiểu đoàn vẫn chưa thật thông lối đánh tập trung, quen phân tán, đánh theo kiểu tự do lựa chọn mục tiêu. Nếu sau Ấp Bắc địch thấy khó thắng ta, thì sau Phước Long phải chứng tỏ ta có khả năng đánh lớn, tiêu diệt ngày càng nhiều sinh lực địch, diệt quận lỵ, chi khu, diệt tiểu đoàn, chiến đoàn địch; đánh phục kích, tập kích và đánh cả địch phòng thủ trong công sự vững chắc, giáng một đòn cơ bản vào chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của địch.
Anh động viên chúng tôi:
- Đây là chiến dịch quy mô lớn đầu tiên ở chiến trường Nam Bộ, đòi hỏi chúng ta không những có quyết tâm cao mà còn có cả biện pháp chiến đấu mưu trí, để giành cho được thắng lợi.
Kết thúc buổi giao nhiệm vụ, anh Thanh lần lượt nắm chặt tay từng người lắc mạnh và chúc thắng lợi.
Tất cả chúng tôi đều đã trải qua nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch lớn trong cuộc kháng chiến chín năm, vậy mà hôm nay như có chung sự háo hức, hăm hở của những người lần đầu ra trận, vì đây là một chiến trường thật xa, tất cả đều mới lạ!
Lúc này đã là đầu tháng tư, bầu trời vần vũ mang những đám mây mọng nước báo hiệu mùa mưa sắp đến. Thời gian không còn nhiều. Bộ tư lệnh họp trong tinh thần khẩn trương, sau khi khẳng định quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, rồi phân công từng người hoàn thành công tác chuẩn bị trước khi bàn kế hoạch tác chiến cụ thể. Anh Tấn, anh Trần Độ lo sắp xếp lực lượng, chuẩn bị tư tưởng, tinh thần bộ đội, tôi dẫn đoàn cán bộ đi trinh sát thực địa.
Đêm trước khi lên đường, tôi miên man suy nghĩ. Đúng là muốn giải quyết được vấn đề đánh tập trung, đánh địch trong công sự vững chắc thì điều kiện tiên quyết là tạo được thế bất ngờ. Điều này cấp trên đã tạo cho ta, chọn Phước Long vừa có tầm nhìn chiến lược trong tạo thế, vừa thông minh trong nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch. Tuy bộ đội phải hành quân tiếp cận chiến đấu xa và vất vả, nhưng lợi là đánh lạc hướng địch theo dõi, đề phòng. Ta phải bằng mọi cách giữ cho được lợi thế này, không được sơ suất một hành động nhỏ trước hết là trong chuẩn bị chiến đấu. Yêu cầu đặt ra cho đoàn cán bộ đi trinh sát thực địa không phải chỉ nhận biết đầy đủ địa hình, hệ thống phòng thủ của địch để có kế hoạch bố trí binh hoả lực, mà còn phải xác định được hướng đột phá, điểm đặt pháo, ĐKZ, thích hợp để làm nhiệm vụ phối hợp, hỗ trợ bộ binh có hiệu quả ngay từ phút đầu của giờ G - Giờ nổ súng tiến công thống nhất.
Tuy chưa hình dung đầy đủ hình thể vùng rừng núi Phước Long nói chung, thị xã Phước Long nói riêng nhưng đầu óc tôi lúc này lại hiện về những trận công đồn ở Đông Khê, Nghĩa Lộ, hữu ngạn sông Đà và ở Điện Biên Phủ năm xưa mà mình đã tham gia, từ đó mà hình dung những khó khăn sẽ gặp, cùng các việc phải làm.
Sáng hôm sau đoàn cán bộ trinh sát thực địa lên đường. Từ căn cứ Mã Đà đoàn cắt rừng qua suối Nhung ngược lên hướng bắc - sát biên giới Campuchia để gặp các anh trong thường vụ tinh uỷ Phước Long sơ bộ bàn kế hoạch phối hợp với nhân dân nồi dậy và xin các anh cho giao liên dẫn đường và móc nối với cơ sở hoạt động hợp pháp trong vùng địch trao đổi nắm tình hình cụ thể. Vẫn là những cánh rừng bằng đại ngàn đi không mỏi gối chồn chân nhưng tầm nhìn rất khó, ngay cả bầu trời có lúc cũng không thấy vì các cây đan chen thành một lớp lá dày như một trần nhà rộng mênh mông che lấp. Không gian thu hẹp cả bốn chiều, rất khó quan sát, dễ mất hướng và lạc đường.
Từ cực bắc chúng tôi lại xuôi về hướng đông-nam. Bốn giờ chiều ngày thứ ba mới đến bờ bắc thác Mơ. Từ xa đã nghe thấy tiếng nước gầm réo như đang đến gần một nhà máy cơ khí cỡ lớn.
Không biết ai đã đặt tên cho con thác này thật đúng với cảnh quan đầy chất thơ. Dòng thác rộng vừa phải nhưng độ dốc cao, từng cột nước đổ xuống quyện với sương mù ban chiều tạo thành biển mây bạc, bờ thác gồ ghề bởi nhiều phiến đá to nhỏ tạo thành êm ả mà gân guốc, ngồi trên những phiến đá thả chân xuống dòng nước tận hưởng cáì mát dịu trong lành, tan nhanh những mệt nhọc, âu lo, thần kinh mau được thư giãn trở lại.
Từ thác Mơ chúng tôi nhìn thấy núi Bà Rá, mặc dầu dãy núi đột xuất có "ngoại hình" hùng vĩ cao gần 800 mét mà mãi hôm nay - sau ba ngày hành quân mới nhìn thấy nó.
Lại một đặc điểm nữa của riêng Đông Nam Bộ, vì nơi đây, chủ yếu vẫn là hình dáng của rừng bằng, muốn quan sát được địch phải leo lên các cây cao - tức là phải biết leo trèo. Từ thực tiễn sau chuyến đi chúng tôi cho bộ đội tập luyện, từ leo trèo tự nhiên đúc kết ra thành yếu lĩnh động tác, thứ tự phối hợp chân, tay, nâng, bám đẩy người lên cao để phổ biến cho cán bộ chiến sĩ ở ngoài Bắc mới bổ sung vào, coi đây như một "kỹ thuật" chiến đấu cần biết đối với mọi người.
Vượt thác Mơ sang núi Bà Rá, chúng tôi nằm lại một ngày ở lưng chừng phía đông quả núi, ăn gạo rang, uống nước lã cầm hơi, vì đây là đất lạ, trên đỉnh núi có lính địch đóng chốt bảo vệ hệ thống truyền tin, máy phát hiện tiếng động. Dưới chân núi là hệ thống ấp chiến lược, đồn bót dày đặc, các đội biệt kích, thám báo ngày đêm tuần tra, lùng sục.
Tuy ta có cơ sở trong các ấp chiến lược nhưng lúc này hệ thống kìm kẹp của địch rất chặt. Tình nghi ai là chúng cứ bắt bớ, cầm tù, tra tấn và bắn bỏ. Vì vậy các cơ sở của ta tạm thời rút vào bí mật, hoạt động đơn tuyến, không ai biết ai.
Đúng là thời gian đã ủng hộ chúng tôi. Bầu trời hôm nay trong xanh không có sương mù. Chúng tôi di chuyển địa hình sang triền núi phía bắc cách xa điểm ban đầu khoảng 500 mét để làm nhiệm vụ, theo từng nhóm nhỏ đã được phân công. Qua kẽ lá, leo lên cây cao nhìn bằng mắt thường, qua ống nhòm toàn cảnh thị xã Phước Long hiện ra rất rõ, giống như một mô hình cao nguyên được thu nhỏ, chung quanh đều có sườn dốc cao thấp khác nhau, nhất là phía đông-bắc có quãng như một vách đứng, bộ mặt thị xã lại bằng phẳng, rộng khoảng hơn một cây số vuông. Có cơ sở địa phương đi cùng đoàn trinh sát đã nhìn rõ các mục tiêu trọng điểm và đánh dấu chúng trên bản đồ mang theo: sở chỉ huy tiểu khu, dinh tỉnh trưởng, ty cảnh sát, trận địa pháo, bước đầu đã có dự kiến hướng mũi tiến công và mục tiêu cần đánh chiếm.
Đêm nằm ở sườn núi Bà Rá thoạt đầu tưởng sẽ ngủ một giấc thật ngon, nào ngờ lại một đêm thao thức với những lo lắng và liên tưởng như một cuốn phim dài cứ xuất hiện trước mặt; nghĩ xa, nghĩ gần, nghĩ về thời tiết thật lạ, đối nghịch nhau như trên cung trăng. Ngày nắng như bốc lửa, cổ họng lúc nào cũng đòi nước vì khô đắng, đêm xuống - càng về khuya cái lạnh càng ùa nhanh. Sáng dậy người mỏi mệt tức thở vì sương mù dày đặc tạo thành hạt nhỏ, làm mặt đất ẩm ướt khó chịu, chẳng khác gì cảnh núi rừng Tây Bắc.
Ngày hôm sau chúng tôi quyết định rời núi Bà Rá lật cánh sang hướng tây-bắc. Đây là cuộc hành quân táo bạo. Nhưng không có con đường nào khác vì nhiệm vụ chưa hoàn thành, vì qua kinh nghiệm bản thân cho thấy khi đi trinh sát thực địa phải đi một đường về một đường, đề phòng bất trắc; và trên thực tế chúng tôi đã bị lộ, địch phát hiện dấu vết chúng tôi khi qua thác Mơ. Lại một bài học nữa về đi không dấu, nấu không khói nói không tiếng cần phải được nghiêm túc thực hiện.
Vượt qua hệ thống ấp chiến lược thuộc khu vực Sơn Giang, đến địa điểm vọt qua đường là quãng nằm kẹp giữa sân bay và chi khu quân sự Phước Bình. Pháo sáng địch bắn cầm canh để vừa hù doạ vừa quan sát dấu vết. Chỉ cần một tiếng động nhỏ là đạn các cỡ đã tính sẵn đổ vào đây. Thần kinh chúng tôi căng nhão vì phải chờ ở đây hai tiếng. Cái lạnh đã luồn qua áo quần, lan khắp làn da, may mà không ai vì thế mà ho. Theo dõi kim đồng hồ đến từng giây, khi đó đúng một giờ sáng của ngày hôm sau, từng người nhẹ nhàng, nhanh chóng vượt qua đường, tự động tìm về điểm hẹn.
Xốc lại đội hình, chúng tôi tiếp tục lầm lũi xuyên qua màn đêm theo giao liên dẫn đường ngược lên hướng Bù Gia Mập – Bù Đốp, để từ đây quay ngược lại tiếp tục xác định địa điểm tập kết lực lượng, hướng đột phá - mở cửa cho các đơn vị tiến công thị xã Phước Long từ hướng bắc, tây-bắc, đánh Phước Bình từ hướng tây-nam.
Thoảng gặp một cơn mưa bất chợt, rồi tạnh nhanh, nắng nóng trở lại, làm cảnh vật thay đổi, rõ nhất là nước sông Bé đã nhờ nhờ đỏ chảy mạnh hơn. Dấu hiệu mùa mưa bắt đầu khiến chúng tôi càng phải khẩn trương hoàn thành nhiệm vụ càng sớm càng tốt.
Thượng tuần tháng 4, Bộ chỉ huy chiến dịch họp (có cả chỉ huy các trung đoàn và đơn vị trực thuộc dự) để nghe chúng tôi báo cáo kết quả chuyến đi trinh sát thực địa, thảo luận và thông qua quyết tâm chiến đấu của chiến dịch.
Cuộc họp diễn ra trong không khí ung dung, đàng hoàng, chững chạc và phấn hứng. Trật tự trở lại thật nhanh khi anh Tấn đứng dậy tuyên bố lý do rất ngắn gọn và nói:
- Anh Thanh muốn chúng ta lúc này thật tỉnh táo, minh mẫn trong khi trao đổi, thảo luận hạ quyết tâm.
Trong khi rất chăm chú nghe tôi báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ trinh sát thực địa, thỉnh thoảng anh Tấn xen vào hỏi thêm về giá trị phòng thủ, tiến công của khu vực Bà Rá, về đặc điểm các đoạn sông Bé chảy qua thị xã Phước Long, hướng hồ Long Thuỷ có thể là nơi hiểm yếu không, về sự yểm trở qua lại giữa Phước Long và Phước Bình.
Anh Trần Độ hỏi sâu về dân tình bị dồn vào ấp chiến lược, khu dinh điền, đánh giá, cấp uỷ địa phương về khả năng nổi dậy của mũi đấu tranh chính trị.
Sang phần thảo luận về cách đánh, sử dụng lực lượng, bố trí binh hoả lực thì không khí cuộc họp bỗng sôi động hẳn lên. Các trung đoàn trưởng trong đoàn đi trinh sát thực địa đề xuất nhiều vấn đề thiết thực, bổ ích. Ý kiến bố trí phân tán theo kiểu đánh nhỏ đánh tiêu hao gần như không ai đặt ra. Nhận thức về đánh tập trung đã có bước chuyển biến; nhưng lẻ tẻ có tư tưởng chủ quan hiểu đánh lớn một cách máy móc như kiến nghị đưa cả ba trung đoàn vào chiến đấu, tiến công cùng một lúc, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Phước Long, Phước Bình, cái thế để chúng ta giữ đất đã có vì đoàn cán bộ mở đường từ miền Bắc vào, đoàn cán bộ soi đường từ miền Nam ra đã gặp nhau, con đường chiến lược Bắc - Nam đã và đang có điều kiện thực hiện.
Anh Tấn đứng lên kết luận. Sau khi nhắc lại mục đích, ý nghĩa có tính chất chiến lược của chiến dịch, nhiệm vụ cụ thể của các mũi, các hướng, anh Tấn nhấn mạnh mục đích yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của các đơn vị trong đợt 1 chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài vừa như kêu gọi, động viên tinh thần trách nhiệm vừa như ra lệnh cho các lực lượng tham chiến phải nghiêm chỉnh chấp hành kế hoạch hiệp đồng chiến đấu giữa các mũi trong một hướng, giữa hướng chủ yếu và hướng thứ yếu của chiến dịch, đồng thời phải hỗ trợ có hiệu quả giữa lực lượng đánh điểm và lực lượng diệt viện khi tiến công các cứ điểm trên toàn địa bàn.
Giai đoạn chuẩn bị không kém phần vất vả, gian khổ đã kết thúc.
Cuộc ra quân đầy hào hứng bắt đầu.
Theo kế hoạch đã vạch, 0 giờ 45 phút ngày 11-5-1965 tiểu đoàn 1 (trung đoàn 1) cùng với tiểu đoàn 840 chủ lực của Quân khu 6 đồng loạt nổ súng tiến công thị xã Phước Long, thì 15 phút sau đó tiểu đoàn 5 (trung đoàn 2) tiến công chi khu quân sự Phước Bình cách Phước Long 9 ki-lô-mét về phía tây-nam.
Nhưng ở hướng Phước Bình đã phát sinh một trục trặc, nếu giải quyết không khéo sẽ dẫn tới toàn bộ kế hoạch chiến dịch bị đổ vỡ.
Số là trước giờ "G", có chuông điện thoại liên tục đổ hồi về sở chỉ huy chiến dịch.
Anh Tấn nhấc ống nghe, nói:
- Ở đâu gọi! Ai đấy. Trung đoàn 2 à. Có gì cần báo cáo gấp? - Cái gì? Nói lại? - Anh Tấn hỏi - 17 giờ chiều nay à?
Vừa hỏi, tay anh vừa giơ lên nhìn đồng hồ, rồi anh nói tiếp:
- Cần theo dõi chặt và báo cáo kịp thời mọi diễn biến về sở chỉ huy, nhưng tất cả phải thật bình tĩnh.
Anh buông máy với nét mặt không vui, đượm vẻ đăm chiêu suy nghĩ.
Chúng tôi chưa hiểu điều gì đã xảy ra, nhưng qua nét mặt thay đổi rất nhanh của anh, chắc có chuyện chẳng lành.
Bộ chỉ huy hội ý chớp nhoáng. Anh Tấn thông báo:
- Trung đoàn 2 vừa báo cáo có một tiểu đội trưởng quê ở Bến Tre vào hàng địch.
Đúng là một tình huống khôn lường. Nhưng lúc này không phải lúc trách cứ, tìm nguyên nhân, rút kinh nghiệm. Chúng tôi thống nhất một biện pháp tình thế. Trước hết điện cho các đơn vị khẩn trương triển khai, rất có thể Bộ chỉ huy ra lệnh tiến công sớm hơn giờ G quy định. Riêng với trung đoàn 2, nhắc lại cần nghiêm chỉnh chấp hành lệnh của anh Tấn đã nhắc qua điện thoại vừa rồi: Theo dõi chặt chẽ tình hình, nhưng phải thật bình tĩnh và sẵn sàng đợi lệnh.
Chuông điện thoại lại réo, đổ hồi. Trung đoàn 2 báo cáo: Không thấy có động tĩnh gì, trong chi khu vẫn im ắng, pháo sáng vẫn bắn cầm canh như mọi ngày.
Đồng hồ lúc này hai kim đã chập một - chỉ 24 giờ. Không khí trong sở chỉ huy căng thẳng, không gian yên lặng, ai cũng cảm thấy thời gian trôi đi quá chậm. Tuy chỉ còn nửa giờ nữa nhưng ai mà biết được diễn biến của tình hình, chiến dịch vẫn xảy ra nhưng rất có thể rơi vào trạng thái bị động.
Thần kinh mọi người căng nhão cho đến phút chót khi súng nổ rền từ hướng thị xã Phước Long vọng về thì tất cả đều thở phào - thế là chiến dịch vẫn giữ được bí mật đến phút chót.
Trên hướng Phước Bình phát triển thuận lợi. Chỉ 45 phút tiến công, Trung đoàn 2 đã hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm chi khu tiêu diệt, bắt sống toàn bộ quân địch ở đây, ta có ba chiến sĩ bị thương nhẹ.
Khi trung đoàn phát triển vào tung thâm, bắt được người tiểu đội trưởng bỏ vào đồn địch khi chiều, hỏi:
- Sao hàng địch?
- Dạ, tôi không hàng.
- Không hàng sao lại bỏ đơn vị vào đây.
- Vì nhớ nhà, vào để nhờ xe về thăm quê được dễ dàng.
Đúng là địch chủ quan, hoàn toàn bị bất ngờ trước đợt tiến công của ta, chứng tỏ người tiểu đội trưởng không khai báo, mà chỉ có một suy nghĩ giản đơn vào đồn địch có thể dễ dàng xin đi nhờ xe về thăm gia đình.
Trong khi Trung đoàn 2 đang tranh thủ thu dọn chiến trường, chuyển vũ khí đạn dược và các chiến lợi phẩm thu được của địch ra khỏi chi khu, giải thích để phóng thích tại chỗ số tù hàng binh, thì tại Phước Long súng nổ dữ dội.
Trọng tâm công việc của sở chỉ huy chuyển sang hướng thị xã. Lúc này đã 5 giờ sáng, sương mù tan dần, qua hệ thống thông tin chúng tôi được biết các mũi tiến công của ta đã vượt qua cửa mở, đang đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu như: dinh tỉnh trưởng, sở chỉ huy tiểu khu, ty cảnh sát, trung tâm truyền tin, trận địa pháo. Khoảng 10 giờ, địch tổ chức đổ bộ đường không, gồm 4 tiểu đoàn (3 tiểu đoàn bộ binh của trung đoàn 48, 1 tiểu đoàn 84 biệt động quân) xuống khu vực thị xã, một bộ phận của lực lượng viện binh này đánh bọc phía Đức Hạnh để chặn đường rút của ta từ trong ra, chặn lực lượng chi viện từ ngoài vào. Nhưng các lực lượng của Trung đoàn 3 và tiểu đoàn 840 Quân khu 6 vẫn ngoan cường chiến đấu, trụ lại đánh lui sáu đợt phản kích của địch, mãi chiều ngày 11 tháng 5 các đơn vị mới rút ra đánh địch ở vòng ngoài theo lệnh của sở chỉ huy.
Đến đây, chiến dịch Phước Long (1) đã kết thúc, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trên giao: tiêu diệt hoàn toàn chi khu quân sự Phước Bình, tiêu diệt nhiều sinh lực địch ở khu vực Phước Long, đánh chiếm một số mục tiêu quan trọng và làm chủ thị xã trong nhiều giờ.
Tôi thấy không cần thiết phải nói về diễn biến, kết quả cụ thể, về ý nghĩa chiến thắng của chiến dịch vì các phương tiện truyền thông đại chúng đã phản ánh khá đầy đủ, nhưng với tư cách là người được tham dự, chứng kiến, tôi xin trình bày cùng bạn đọc một số cảm thụ của cá nhân, hy vọng góp thêm những khía cạnh của bức chân dung sự kiện, được tạo dựng bởi lòng dũng cảm và trí thông minh của các lực lượng tham gia chiến dịch.
Giữa hai khu vực quân sự Phước Long và Phước Bình, chúng tôi chọn Phước Long làm hướng tiến công chủ yếu là đúng vì ở đây tập trung các cơ quan đầu não của tỉnh, đánh mạnh vào đây sẽ làm cho thế trận phòng thủ của địch trên toàn địa bàn bị lưng lay, dẫn tới sụp đổ. Nhưng địch ở đây không sơ hở, mà trái lại chúng tăng cường phòng thủ hướng bắc, đề phòng đối phương tiến công.
Về phía ta cũng không còn cách lựa chọn nào khác là phải lấy hướng bắc làm điểm đột phá, vì hướng đông-bắc tuy địch có sơ hở nhưng địa hình phức tạp, có chỗ dốc ngược như vách đứng, dưới chân là sông Bé, hướng nam vướng núi Bà Rá với các hệ thống phòng thủ dày đặc dưới chân núi.
Phải đánh vào vỏ cứng của địch nhưng vẫn thành công, trước hết là do tinh thần trách nhiệm chiến đấu cao của các đơn vị tham chiến. Trung đoàn 1 mang danh hiệu Bình Giã vẫn còn nóng hổi trong mình khí phách dũng cảm đánh địch và thắng địch trong chiến dịch Bình Giã; tiểu đoàn 840 vẫn phát huy là quả đấm tin cậy của chiến trường Cực Nam Trung Bộ trong kháng chiến chống Pháp, là đơn vị chủ lực tin cậy của Quân khu 6 trong chống Mỹ. Theo kế hoạch ban đầu, đối với Phước Long chúng tôi quyết định dùng một trung đoàn tăng cường bằng cách điều chỉnh trong nội bộ các trung đoàn tham gia chiến dịch, nhưng sau có sự thay đổi, vì Bộ tư lệnh Miền chấp thuận đề nghị của Quân khu 6 xin cho tiểu đoàn 840 đang đứng chân ở khu vực Phước Long được đứng trong đội hình chiến dịch, trước hết thể theo nguyện vọng tha thiết của cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 840 mong có được cơ hội góp phần vào chiến công chung. Như vậy lực lượng một trung đoàn tăng cường cho hướng chủ yếu không thay đổi, chỉ khác thành phần tăng cường là tiểu đoàn 840. Đây là một tiểu đoàn mạnh biên chế bốn đại đội, trong đó có đại đội 85 đặc công, đại đội 54 được tổ chức và huấn luyện tốt ở miền Bắc vừa được bổ sung cho chiến trường.
Cùng với Trung đoàn 1, tiểu đoàn 840 là một đơn vị tăng cường đã đóng góp xứng đáng phần mình trên hướng chủ yếu của chiến dịch. Mùa xuân 1983, tức 18 năm sau tôi có dịp trở lại Phước Long, rất may mắn được gặp lại một chiến sĩ của tiểu đoàn này, nay là thượng tá Nguyễn Văn Ngoan, chỉ huy trưởng huyện đội Phước Long. Anh quê ở Nam Thanh (Hải Hưng), là chiến sĩ của đại đội 54 từ miền Bắc lên đường vào Nam từ tháng 7 năm 1964, có mặt ở Bù Gia Mập tháng 11 cùng năm và được biên chế về tiểu đoàn 840, hoạt động ở địa bàn Phước Long cho đến nay.
Đưa mắt nhìn nhanh toàn cảnh để định lại trong ký ức anh nói:
- Vẫn là hướng bắc nhưng tiểu đoàn chúng tôi chọn hướng đột phá hơi chếch về phía tây - bắc vì ở chỗ này là nơi tiếp giáp giữa hai đơn vị phòng thủ, nên chúng có sơ hở. Mặt khác để tạo điều kiện thuận lợi cho tiểu đoàn, Quân khu tăng viện cho hai "hoàng tử lưng gù".
Tôi cắt ngang:
- Hoàng tử lưng gù là cái gì?
- Báo cáo anh - đó là hai khẩu sơn pháo 75 ly của Nhật - Ba Ngoan trả lời.
- Nhưng tại sao gọi nó là "hoàng tử lưng gù"? - tôi hỏi tiếp.
Ba Ngoan cười sảng khoái, nói vui:
- Không rõ nó được chế tạo từ bao giờ nhưng trông trên sống lưng có hơi gù nên anh em tự đặt cho nó cái tên "hoàng tử lưng gù". Nhìn dáng vẻ vừa cổ lỗ vừa xấu xí, nhưng hai hoàng tử đó đã hỗ trợ đắc lực cho tiểu đoàn trong giai đoạn đột phá mở đường.
Như vậy là phải đánh vào hướng mà địch chủ động đề phòng nhưng Trung đoàn 1 Bình Giã, tiểu đoàn 840 đã tìm được điểm yếu trong cái mạnh của địch, đã chỉ huy hiệp đồng tốt sức mạnh của hoả lực đi cùng chế áp ăn ý, có hiệu quả, với một trung đội đặc công đi trước mưu trí mở đường, các đơn vị bộ binh đã dũng cảm thực hành đột phá đánh chiếm phần lớn các mục tiêu chủ yếu và làm chủ nhiều giờ trong thị xã này.
Đó là một việc làm thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao cả, lòng yêu nước vô giá mà mỗi chúng tôi mãi mãi kính trọng, biết ơn.
Nhưng mặt khác, đứng về tổng thể chiến dịch, chúng tôi - những người được giao trọng trách cao nhất cũng đã dành thời gian trao đổi, tính toán cho những bước đi chủ động để hỗ trợ cho hướng tiến công chủ yếu. Qua nghiên cứu, theo dõi, phân tích chúng tôi thấy khi địch tăng cường phòng thủ hướng bắc, nhất là ở khu vực Phước Long, đề phòng ta từ Đắc Ơ, Bù Gia Mập đánh xuống, thì lại rất sơ hở, cho ta không có khả năng tiến công từ hướng nam lên, đánh vào chi khu quân sự Phước Bình. Ngay cả lực lượng đồn trú ở căn cứ này do chưa bị ta đánh lần nào nên cũng rất chủ quan, hệ thống công sự sơ sài, việc tổ chức canh gác tuần phòng không được cẩn mật.
Rõ ràng, nếu từ hướng nam chúng ta bí mật hành quân, bất thần đột phá diệt chi khu quân sự Phước Bình là nằm ngoài sự đề phòng của địch. Trong quân sự gặp phải tình huống bất ngờ sẽ dẫn đến tình trạng hoang mang dao động về tinh thần, lúng túng bị động về xử lý đối phó, là những nguyên nhân gây nên đảo lộn, ảnh hưởng đến thế trận, đến cục diện, đến thành bại của trận đánh.
Từ nhận thức trên, Bộ chỉ huy chiến dịch đã hạ quyết tâm: vượt lên mọi khó khăn, tổ chức một lực lượng đủ mạnh đánh địch từ hướng nam lên mà mục tiêu cần diệt là Phước Bình, để hỗ trợ thiết thực cho hướng tiến công chủ yếu.
Và thế là những phán đoán, những mong ước của chúng tôi đã trở thành sự thật. Mười lăm phút sau khi Phước Long nổ súng, thì ở hướng nam Trung đoàn 2 được lệnh tiến công chi khu quân sự Phước Bình. Trận đánh diễn ra 45 phút, ta làm chủ căn cứ, diệt và bắt sống toàn bộ quân địch chốt giữ ở đây.
Sự việc diễn ra quá nhanh, khiến chúng tôi vui mà cứ thấy ngỡ ngàng, thật mà vẫn như mơ. Có thể nói đây là một trận đánh "ngon" nhất mà tôi được chứng kiến.
Nhưng điều khiến tôi tâm đắc là tác dụng thắng lợi ở hướng thứ yếu Phước Bình đẩy nhanh tinh thần suy sụp các lực lượng địch ở Phước Long, tạo đà cho Trung đoàn 1, tiểu đoàn 840 hoàn thành nhiệm vụ phát triển nhanh vào tung thâm thị xã, cổ vũ tinh thần bám trụ trong nhiều giờ để truy quét tàn quân và đánh địch phản kích. Rõ ràng Phước Bình tuy là hướng thứ yếu nhưng nó lại mang tính chất hiểm yếu trên toàn khu vực phòng thủ của địch ở tỉnh Phước Long lúc bấy giờ, nên khi ta đánh chiếm và tiêu diệt toàn bộ quân địch ở đây đã làm rung chuyển toàn bộ khu vực phòng thủ Sài Gòn ở hướng bắc, đông- bắc. Lúc ấy trong giới cầm đầu nguỵ quân, nguỵ quyền ở Sài Gòn, đã có ý kiến: có thể phải rút bỏ thị xã Phước Long để tránh hiểm hoạ.
Đợt hai chiến dịch, mục tiêu tiến công là chi khu quân sự Đồng Xoài, không có trong kế hoạch ban đầu, mà được nảy sinh trong quá trình chiến đấu. Đó cũng là lý do cắt nghĩa vì sao giữa đợt một - đánh Phước Long, Phước Bình với đợt hai tiêu diệt sinh lực địch ở Đồng Xoài có khoảng cách những gần một tháng.
Sau chiến thắng địch ở mặt trận Phước Long - Phước Bình, anh Lê Trọng Tấn, anh Trần Độ được Bộ tư lệnh Miền gọi về báo cáo, tôi ở lại hướng dẫn các đơn vị rút kinh nghiệm về tổ chức và thực hành chiến đấu.
Trong lúc tôi đang suy nghĩ sắp tới sẽ làm gì, ở đâu, thì anh Tấn, anh Độ từ Bộ tư lệnh Miền trở về phấn khởi báo tin:
- Có nhiệm vụ mới rồi! Nhưng thời gian gấp lắm, phải chuẩn bị thật khẩn trương.
Liền sau đó cuộc họp Bộ chỉ huy chiến dịch được triệu tập. Anh Tấn phổ biến mệnh lệnh chiến đấu do anh Nguyễn Chí Thanh, thay mặt Bộ tư lệnh Miền giao nhiệm vụ tiếp theo của chiến dịch là tổ chức cuộc tiến công đợt hai vào chi khu quân sự Đồng Xoài và các đồn bót xung quanh nhằm tiếp tục thực hiện tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực quân nguỵ, đẩy mạnh chiến tranh du kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, gây chấn động vào vùng ven đô và nội đô. Phải lựa chọn cách đánh quyết liệt vào căn cứ quân sự Đồng Xoài vì địch xây dựng nơi đây thành một trung tâm hành quân để tiến hành các cuộc hành quân càn quét đánh phá căn cứ, kho tàng, tạo lập một cứ điểm vững chắc của tứ giác Bình Long - Phước Long - Đồng Xoài - Chơn Thành trong hệ thống phòng thủ vòng ngoài ở phía bắc Sài Gòn.
Ngừng một lát, anh Tấn hạ giọng như tâm tình:
- Trước khi ra về anh Thanh bắt tay tạm biệt hai chúng tôi nhắc nhở thêm: phải có biện pháp tập trung binh hoả lực đánh mạnh, đánh tiêu diệt địch chốt giữ mục tiêu chủ yếu Đồng Xoài góp phần làm phá sản hoàn toàn chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đồng thời giữ vững thế chủ động tiến công trong tình huống địch chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến. Đợt một đã thắng, đợt hai thắng giòn giã hơn, gây cho địch thất bại đau hơn, lớn hơn. Nhưng cần phải có biện pháp khắc phục công sự, hầm ngầm của địch, thực hiện bí mật, luồn sâu, đưa lực lượng vào đảm bảo chắc thắng, giảm thương vong đến mức tối thiểu.
Địa hình nơi đây đang còn xa lạ, nhưng nhìn vị trí Đồng Xoài trên bản đồ tình huống, chúng tôi càng thấy sự chỉ đạo của anh Thanh có tầm nhìn xa, tính toán nhiều nước đi cho một thế cờ, củng cố thêm lòng tin và tinh thần quyết tâm đối với những người thực hiện, mặc dầu phía trước đang có biết bao nhiêu khó khăn đang chờ.
Sau khi họp quán triệt nhiệm vụ trên giao, thảo luận thống nhất bước đầu về quyết tâm chiến đấu, Bộ chỉ huy phân công mỗi người một việc: anh Tấn chuẩn bị nội dung mệnh lệnh chiến đấu, anh Trần Độ dự thảo chỉ thị về công tác chính trị, lãnh đạo tư tưởng bộ đội, tôi được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy trận tiến công mục tiêu Đồng Xoài.
Tuy thời gian chuẩn bị không còn nhiều nhưng phải mất gần tuần lễ chúng tôi mới hoàn thành nhiệm vụ của bước trinh sát thực địa. Vì yếu tố bất ngờ gần như không còn, sau khi Phước Long, Phước Bình bị ta tiến công, địch ở Đồng Xoài tăng cường đề phòng tuần tra, canh gác, báo động chiến đấu. Thường ngày chúng tung từ 1 đến 2 trung đội ra làm nhiệm vụ cảnh giới ở khu vực sân bay, đưa từ 1 đến 2 trung đội khác ra phục kích ở hướng đông-bắc và hướng đông ấp chiến lược để phát hiện các hoạt động của ta. Đêm đêm địch tập bắn (2), báo động những giờ giấc không cố định, vào buổi tối, nửa đêm, gần sáng; mỗi lần kéo dài 5 đến 10 phút, tất cả các loại súng trong chi khu đều bắn dồn dập, mãnh liệt như một trận đánh thực sự. Khác với Phước Long, ở đây không có điểm cao như núi Bà Rá, mọi yêu cầu quan sát toàn cảnh từ xa đều phải leo lên cây cao nhưng không phải ai cũng biết trèo cây. Hơn nữa, thời gian để tiến hành nhiệm vụ cũng bị hạn chế, các công việc mất nhiều thời gian như tiếp cận mục tiêu, nắm tình hình cụ thể về bố trí binh hoả lực, hệ thống vật cản, công sự, lô cốt, hầm ngầm lại chỉ làm vào lúc 17 giờ 30 phút đến 19 giờ 30 phút là lúc địch đổi gác, ăn cơm, chưa tổ chức tuần tiễu, phục kích. Phần lớn tình hình cụ thể đều dựa vào dân, do dân cung cấp nhưng tiến hành không thể nhanh mà là câu dầm, bắt bóng, có lúc được lúc không. Thường phải chờ dân ra vào ấp chiến lược vào những giờ nhất địch để tiếp xúc, vừa tranh thủ giáo dục, thuyết phục gắn với trao đổi để tìm hiểu những điều cần biết. Có khi chúng tôi còn bí mật, bất thần lúc tranh tối tranh sáng gặp dân ra vào ấp chiến lược để hỏi thêm.
Hạ tuần tháng 5, Bộ chỉ huy chiến dịch họp lần cuối để chính thức thông qua quyết tâm chiến đấu và các kế hoạch bảo đảm của các đơn vị hoả lực, đặc công, hậu cần.
Qua báo cáo kết quả tình hình địch của đoàn trinh sát thực địa, các nguồn thông tin của cấp trên, của cấp uỷ, chính quyền địa phương, chúng tôi nhất trí đánh giá:
- Tuy chỉ là một chi khu, nhưng Đồng Xoài là một căn cứ quân sự mạnh hơn cả tiểu khu Phước Long, nó có một hệ thống công sự liên hoàn, vững chắc, nhiều lớp; hệ thống hoả lực được bố trí hiểm hóc, sẵn sàng lưới lửa dày đặc để chặn đối phương trước tiền duyên bị tấn công. Song đây lại là một chi khu tương đối biệt lập, sự chi viện trực tiếp của pháo binh từ các điểm xung quanh bị hạn chế: Đồn gần nhất như cầu Sông Bé cách 19 ki-lô-mét về phía tây nhưng không có pháo, tiểu khu Phước Thành cách 30 ki-lô-mét về phía nam, tiểu khu Phước Long cách 35 ki-lô-mét về phía bắc. Về phía ta sau chiến dịch Bình Giã, sau đợt một của chiến dịch này tinh thần phấn khởi, tin tưởng của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên rõ rệt, đã có những trưởng thành về nhiều mặt, nhất là những kinh nghiệm về tổ chức, chỉ huy đánh tập trung, hiệp đồng binh chủng. Trang bị vũ khí được tăng cường, ngoài 4 khẩu sơn pháo 75 ly của Nhật còn được bổ sung thêm một số vũ khí bộ binh hiện đại kể cả súng phun lửa được đưa từ miền Bắc vào theo đường biển cập bến Lộc An (Bà Rịa) tháng 12 năm 1964. Nhưng nếu nói đánh địch trong công sự vững chắc theo đúng nghĩa của từ này thì đây là lần đầu bộ đội Đông Nam Bộ ra quân, trong khi tư tưởng ngại đánh lớn, đánh tập trung tuy đã được giải quyết nhưng chưa căn bản, chưa đủ cơ sở thực tế để thuyết phục. Tuy không phải là phổ biến, nhưng lẻ tẻ đến đâu vẫn còn nghe những ý kiến: tiêu diệt địch cỡ nào, đại đội, tiểu đoàn trên cứ khoán, còn hoàn thành ra sao để đơn vị lo, mắc gì phải giao mục tiêu cụ thể.
Đúng là chúng tôi đang sắp phải đương đầu với một cứ điểm quân sự thuộc loại rắn nhất của địch trong thời điểm lúc ấy. Đây vừa là một mệnh lệnh quân sự thực sự nghiêm túc, không chi giới hạn ở tiêu diệt sinh lực địch tại chỗ mà còn là một bước đi trước quan trọng, của một thế trận tiếp sau, như ý kiến chỉ đạo cuối cùng của anh Thanh trong đợt hai chiến dịch: "Giải quyết Phước Long khó, mà có đánh dứt điểm thì tiếng vang của nó không bằng Đồng Xoài. Đánh Đồng Xoài có giá trị nhiều mặt, nhưng phải chuẩn bị thật tốt".
Từ những nhận định trên và để thực hiện ý kiến chỉ đạo của anh Thanh, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tăng thêm thời gian chuẩn bị và giao cho tôi trực tiếp tổ chức triển khai làm tốt một số việc chủ yếu sau:
- Đắp sa bàn chi khu quân sự Đồng Xoài để phổ biến cho cán bộ chỉ huy nhận dạng địa hình, thấy được hình thái bố trí của địch; giao nhiệm vụ chiến đấu cho các đơn vị, các mũi, các hướng; thực tập chiến đấu hiệp đồng chung và hiệp đồng cụ thể giữa các tổ hoả lực, bộc phá, đội đột kích, đội dự bị trong thực hành đột phá mở cửa.
- Huấn luyện kỹ thuật gói bộc phá, động tác đặt bộc phá, giật nụ xòe, cắt rào vượt chướng ngại vật.
- Tổng hợp và phổ biến cho các đơn vị nắm được một số kinh nghiệm qua các trận đánh công kiên trong kháng chiến chống Pháp như trận Đông Khê, Bản Hoa, Đồi A1 (Điện Biên Phủ) để có cơ sở vận dụng trong thực hành chiến đấu.
Cái quy trình trong một trận đánh công kiên từ kháng chiến chống Pháp, bắt đầu là trận đánh Đông Khê ở biên giới Việt - Trung (1950) nay được sống lại, tất cả như còn mới nguyên, được các đơn vị đón nhận, cố học, cố luyện, cố nhớ để vận dụng khi vào trận.
Tuy có bận rộn, vất vả nhưng tôi rất hào hứng, phấn khởi thực hiện các công việc mà Bộ chỉ huy chiến dịch giao. Không khí chuẩn bị bỗng sôi nổi hào hứng trào lên, lan ra các lán dã ngoại ẩn mình dưới cánh rừng già cách căn cứ Đồng Xoài 20 ki- lô-mét về phía tây bắc (3), càng thôi thúc cổ vũ tôi làm hết sức mình với tinh thần tất cả cho trận đánh đang tới gần.
Ngày N đã đến!
Trưa ngày 9 tháng 6 các đơn vị tham chiến được lệnh rời vị trí tập kết hành quân vào chiếm lĩnh trận địa.
Từ một địa điểm giấu quân giữa cánh rừng già thuộc địa phận khu vực Chơn Thành, tôi đi cùng với đơn vị tiến vào hướng tây, tây-bắc (hướng chủ yếu của cuộc tiến công - khu phòng ngự then chốt của căn cứ, nơi đặt sở chỉ huy của chi khu).
Theo kế hoạch, 17 giờ 30 phút mới xuất phát, nhưng Bộ chỉ huy lệnh cho các đơn vị lên đường sớm một tiếng (16 giờ 30 phút) vì lúc này trời đổ mưa, một trận mưa to, xối xả ầm ầm như thác đổ bầu trời mờ đục như một tấm màn nguỵ trang thiên nhiên lý tưởng. Đoàn quân đi trong ướt lạnh, đường trơn, nhưng lại tranh thủ lúc ban ngày, vừa tạo được bất ngờ vừa có điều kiện quan sát địch; các chiến sĩ đơn vị ĐKZ, đại liên cười nói râm ran "đỡ phải mò đường, lạc bạn, đỡ bị ngã, lại được ngắm cảnh, nhìn rõ bầu trời".
Đúng 9 giờ 30 phút, các hướng, các mũi đã vào hết vị trí quy định. Tất cả đều an toàn, sung sức, đang triển khai đào công sự.
Trận đánh chưa bắt đầu mà tôi thấy niềm phấn khởi đến nhanh, cái lo giảm đi, đầu óc thanh thản, bớt căng. Tranh thủ đi kiểm tra tình hình chuẩn bị của một đơn vị, tôi thấy việc đào công sự còn sơ sài, giản đơn, chưa thật nghiêm túc, thường dựa vào gốc cây to, vào những cây gỗ đổ ngang làm vật che khuất, kế đó có hầm hố nhưng nông bờ chắn mỏng, thấp. Việc đã rồi, không còn điều kiện để khắc phục cơ bản, tôi chỉ nhắc: việc làm này còn sai, dễ bị địch sát thương trước khi tiến công chúng, cần tranh thủ sửa.
Ngay cả sở chỉ huy chiến đấu cũng vậy. Đặt ở sườn đồi phía trước là không đúng (nếu là đài quan sát thì được) dễ lộ, bị địch đánh phá. Công sự cũng sơ sài, chủ yếu dựa vào cây gỗ đổ ngang không an toàn. Tôi, anh Lê Xuân Lựu (phó chủ nhiệm chính trị), đồng chí Diễn trinh sát của Bộ và đồng chí liên lạc phải bắt tay vào việc cải tạo lại sở chỉ huy, trước hết là đào hố ẩn nấp cá nhân. Qua thực tế này tôi thấy ý thức đánh phân tán, nhỏ lẻ, tự do lựa chọn, chắc ăn thì đánh, không chắc ăn bỏ vẫn tồn tại; mặt khác cũng do khuyết điểm của chúng tôi, việc giáo dục, hướng dẫn chuẩn bị chiến đấu cho bộ đội chưa kỹ, chưa bao quát đầy đủ các nội dung đồng bộ của một nhận thức về cách đánh mới.
Không gian lúc này im ắng. Căn cứ địch chìm trong màn đêm không một động tĩnh. Tôi quay sang anh Lựu:
- Yếu tố bất ngờ như vậy là tốt.
- Vâng, đúng là như thế! - Xuân Lựu vui vẻ hưởng ứng và giơ tay xem đồng hồ rồi tiếp - đã 22 giờ rồi anh ạ.
Vừa nói, Xuân Lựu vừa giơ đồng hồ sát mặt tôi để chứng minh rằng mắt mình còn tinh - Anh nhìn này có đúng là kim chỉ 22 giờ không.
Mặt đồng hồ dạ quang sáng trong đêm tối, hai kim lúc này thành hình góc nhọn, bé hơn 90 độ, đúng như Lựu nói.
Hai chúng tôi cười đủ nghe để chia sẻ niềm vui cho nhau trong giây phút chờ đợi đầy hồi hộp, rồi lại nhanh chóng trở về im lặng mà trận đánh đang đòi hỏi, tránh mọi động tĩnh cho đến phút chót.
Nhưng với tôi im lặng chỉ là hình thức, cái thanh thản chỉ thoáng nhanh, cái lo lắng, phấp phỏng, bồn chồn lại rộn lên, bởi còn những 2 giờ nữa mới nổ súng. Ai mà biết được từ đây đến đấy cái gì sẽ xảy ra. Thời gian lúc này sao mà dài thế!
Đồng chí liên lạc đang giúp tôi đắp thêm bờ chắn miệng hầm cao thêm thì pháo 105 ly từ trong đồn địch bắn ra, phá tan không gian im lặng. Xuân Lựu từ hầm bên nói vọng sang:
- Báo cáo anh, lúc này là 22 giờ 40 phút.
Liền sau đó hầu như các loại súng trong chi khu bắn ra các hướng rất dữ dội, chủ yếu là hướng tây, tây-bắc và hướng bắc.
Một quả rơi vào sở chỉ huy. Diễn, tiểu đoàn trường trinh sát của bộ và đồng chí giữ máy điện thoại hy sinh, đồng chí liên lạc bị thương, chỉ có tôi và Xuân Lựu an toàn.
Súng phía trước vẫn nổ ngày eàng dữ dội. Có cái gì đó như không bình thường. Tôi quay sang hầm Xuân Lựu trao đổi:
- Anh ở lại đây nắm máy điện thoại liên lạc với anh Tấn ở sở chỉ huy chiến dịch, tôi xuống sở chỉ huy Trung đoàn 2 xem sao.
Tôi vừa đi được vài bước thì gặp Năm Phòng đi lên:
- Báo cáo anh tình hình gay, có lẽ bị lộ, địch bắn dữ.
- Có ai bị thương không? - Tôi hỏi.
- Dạ, chưa rõ.
- Pháo ta đã bắn chưa?
- Dạ, chưa - Năm Phòng tiếp - anh Sáu Khâm đề nghị anh xuống.
Đúng lúc quá! Tôi đang trên đường xuống chỗ các anh. Ngoảnh lại thấy Xuân Lựu đứng bên, anh muốn cùng chia sẻ khó khăn chứ không chịu ngồi ôm máy điện thoại.
Vừa đến nơi tình hình im ắng trở lại. Xuân Lựu ghé sát tai tôi nói vui:
- Địch sợ tướng Hoàng Cầm đấy!
Căn cứ vào diễn biến thực tế cho đến lúc này, nhìn đồng hồ kim đã chỉ 23 giờ, chúng tôi trao đổi, đều nhất trí nhận định ta chưa bị lộ, vì loạt đạn pháo 105 ly đầu tiên địch bắn về hướng nam, chứng tỏ chúng bắn tập báo động như mọi đêm.
Sau đó tôi có nối dây điện thoại để báo cáo anh Tấn và trao đổi với anh Sáu Khâm (trung đoàn trường), Năm Phòng (chính uỷ) lệnh cho các đơn vị chuẩn bị sẵn sàng, phải tranh thủ tối đa yếu tố bất ngờ, cho kiểm tra xem có đơn vị nào bắn lại. Nếu có cho đơn vị đó lùi ra, xoá dấu vết đề phòng địch phát hiện. Tôi sẽ xuống các đại đội, tiểu đoàn kiểm tra.
- Anh khỏi phải xuống, để tụi tôi lo - Sáu Khâm nói.
Chúng tôi vừa kết thúc những vấn đề cần xử lý trước mắt thì súng từ trong chi khu tiếp tục bắn dữ dội về hướng tây, tây-bắc, có cả súng của ta từ hướng đó bắn trả lại. Mặt đất rung lên, bầu trời hiện lên một quầng sáng vì ánh lửa đạn và pháo sáng địch liên tục bắn lên.
Chưa biết rõ nguyên nhân nhưng tất cả chúng tôi đều có chung nhận định - dấu hiệu bị lộ đã rõ, khả năng bất ngờ không còn nữa.
Tình huống thay đổi mau lẹ. Từ kỳ tập chúng tôi phải chuyển sang cường tập, phát huy tối đa các loại hoả lực sơn pháo 75 ly, ĐKZ 75, súng cối 82 bắn chế áp mạnh mẽ hỗ trợ cho các mũi, các hướng đồng loạt tiến công. Cuộc chiến đấu từ đây diễn ra rất gay go, ác liệt. Số thương vong tăng lên, phần lớn các chiến sĩ đánh bộc phá bị thương và hy sinh, một số trận địa pháo bắn thẳng bị trúng đạn, pháo bị hỏng. Sau hai mươi phút đầu nổ súng, các hướng mới mở được hai đến ba lớp hàng rào, chưa mũi nào vào được chi khu.
Sau khi khẩn trương vận chuyển thương binh về phía sau cứu chữa, chấn chỉnh, bổ sung lực lượng, điều trận địa hoả lực lên gần hơn để nâng hiệu quả bắn chế áp hoả điểm địch, chúng tôi hạ lệnh đợt đột phá lần thứ hai vào lúc một giờ sáng ngày 10 tháng 6, kéo dài đến 5 giờ mới kết thúc, ta chiếm phần lớn các mục tiêu trong chi khu.
Nhiệm vụ đã hoàn thành, trận địa đã im tiếng súng, vậy mà cả hai anh Sáu Khâm, Năm Phòng đều khóc, với nét mặt ngậm ngùi, thương cảm, vì ta bị thương vong quá nhiều (4)
Chiến thắng mà buồn lo, giống như tôi đã ôm khóc nức nở vì thương xót đại đội trưởng Trần Cừ hy sinh trong trận đánh chiếm cứ điểm quân sự Đông Khê (trong chiến dịch Biên Giới Thu Đông năm 1950), khóc vì ân hận, vì hôm trước tôi nặng lời, do hiểu lầm anh!
Hiểu được phút yếu đuối chân thật đời thường, không thể có lý do trách cứ, tôi lựa lời trao đổi với hai anh:
- Thương vong không ai muốn nhưng cũng là điều tất nhiên. Có chiến thắng nào lại không mất mát, điều quan trọng là phải nghiêm khắc kiểm điểm, biết rút kinh nghiệm để các trận đánh sau tránh được những vấp ngã không đáng có.
Trời chưa sáng rõ. Không gian vẫn yên tĩnh. Tranh thủ khoảnh khắc quý hiếm này, tôi lại tiếp: "Không sợ mất sức chiến đấu, vì ta tiến công địch trong đội hình sư đoàn, theo phương thức đánh lớn, ngoài Trung đoàn 2 còn có Trung đoàn 1, Trung đoàn 8 sẵn sàng thay thế làm nhiệm vụ tiếp sau. Cuộc chiến đấu còn dài, không phải hết thời cơ sửa chữa khuyết điểm. Bây giờ là lúc đòi hỏi phải biến đau thương thành sức mạnh, thành hành động cụ thể. Trước mắt tôi đề nghị các anh tranh thủ thời gian cho điều chỉnh củng cố lại lực lượng sẵn có, hình thành ngay thế bố trí trụ bám chiến đấu, bằng bất cứ giá nào không cho địch tăng viện bằng đường không xuống căn cứ Đồng Xoài, tạo điều kiện cho đơn vị bạn đánh viện như đã nêu trong kế hoạch hiệp đồng chiến đấu chung.
Như một công thức, nhưng lúc này những điều tôi vừa trao đổi lại có tác dụng an ủi động viên lẫn nhau, tăng thêm cảm thông, gắn bó và tinh thần trách nhiệm cộng đồng giữa trên dưới, để cùng nhau xốc tới, vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
Ngay sau đó anh Sáu Khâm, anh Năm Phòng cùng với các cấp phó trong ban chỉ huy Trung đoàn 2 lấy lại được khí thế ban đầu, chỉ huy đơn vị đương đầu với địch trong điều kiện mới đầy thử thách gay go - trụ bám đánh địch giữa ban ngày, chịu đói chịu khát, chịu liên tục nhiều đợt máy bay phản lực Mỹ từ sân bay Biên Hoà, Tân Sơn Nhất đến bắn phá, để yểm trợ cho máy bay lên thẳng đến đổ quân xuống phản kích chiếm lại khu vực chúng đã mất, nhưng chúng đã thất bại. Lại có thêm cán bộ, chiến sĩ ta hy sinh và bị thương. Nhưng cái được thật lớn, buộc địch phải thay đổi kế hoạch. Ngày 10 tháng 6 địch cho máy bay lên thẳng đổ tiểu đoàn 1 trung đoàn 7 (sư đoàn 5) xuống khu vực Thuận Lợi cách Đồng Xoài 7 ki-lô-mét về phía bắc, đã bị Trung đoàn 1 bố trí sẵn ở đây tiêu diệt. Ngày 12 tháng 6, ta lại tiêu diệt gọn tiểu đoàn 7 khi chúng vừa được máy bay lên thẳng đổ xuống tăng viện chưa kịp phản kích chiếm lại Đồng Xoài.
Đến đây bạn đọc đã rõ: Đồng Xoài là trận tiến công then chết của chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài, nhưng không nằm trong kế hoạch tác chiến ban đầu; nó chỉ được hình thành sau khi ta đánh thắng địch ở Phước Long, Phước Bình. Vì vậy khoảng cách giữa hai đợt tiến công khá xa, trên dưới một tháng (đợt một từ 10 đến 11 tháng 5 đánh Phước Long, Phước Bình; đợt hai từ 9 đến 11 tháng 6 đánh Đồng Xoài). Tuy hình thành sau nhưng cuộc tiến công căn cứ Đồng Xoài không phải do ngẫu hứng, bị động mà trái lại, nó được cấp trên trù liệu từ rất sớm trong nghệ thuật chỉ đạo tạo thế trên chiến trường Nam Bộ nói chung, Đông Nam Bộ nói riêng. Năm 1961, trung ương và Bộ Chính trị đã có chỉ thị rất cơ bản về đường lối và phương pháp công tác cho cách mạng miền Nam, trong đó nhấn mạnh "căn cứ lâu dài cho toàn miền Nam là khu vực rừng núi Tây Nguyên và Đông Nam Bộ".
Để thực hiện yêu cầu này, Bộ Chính trị còn nêu phương châm công tác cụ thể ở các vùng rừng núi lấy "đấu tranh quân sự làm chủ yếu".
Ngay khi họp giao nhiệm vụ cho chúng tôi tổ chức triển khai mở chiến dịch tiến công Phước Long, Phước Bình, anh Thanh có nhắc đến mục tiêu quân sự Đồng Xoài nhưng anh lại không đưa nó vào kế hoạch chung.
Theo cảm thụ của tôi, tương quan lực lượng lúc đó chưa cho phép cùng một lúc mở rộng không gian chiến dịch. Mặt khác các đơn vị chủ lực Đông Nam Bộ ở thời điểm này vẫn chưa quen đánh lớn, đánh hiệp đồng binh chủng, đánh địch trong công sự vững chắc. mà phải vừa đánh vừa rút kinh nghiệm từ thấp đến cao, phải có thời gian chuẩn bị về nhận thức, tư tưởng, huấn luyện chiến thuật kỹ thuật mới. Tuy không phải là chiến dịch riêng lẻ, nhưng do ý nghĩa quan trọng và tiếng vang lớn của trận then chốt chiến dịch diễn ra ở Đồng Xoài, nên tên gọi phổ biến sau này là chiến dịch Đồng Xoài.
Thực hiện chỉ thị của Bộ tư lệnh Miền, chúng tôi tổ chức tổng kết chiến dịch, có cả đại biểu Trung ương Cục, Quân uỷ Miền xuống dự, có mời cả Quân khu 7 và đặc khu Sài Gòn - Gia Định, vì đây là chiến dịch lớn đầu tiên ở chiến trường B2, có nhiều bài học thực tiễn về chì đạo chiến dịch và chỉ huy chiến đấu rất cần cho hoạt động quân sự tiếp sau.
Anh Nguyễn Chí Thanh có mặt từ đầu đến cuối hội nghị tổng kết. Ngoài nghe phát biểu chung, anh tranh thủ gặp gỡ nhiều cán bộ, chiến sĩ để tìm hiểu về nhận thức, hỏi sâu các vấn đề xử lý cụ thể trong quá trình chiến đấu. Anh vẫn sôi nổi, giản dị và chan hoà. Gặp tôi anh hỏi:
- Sút gầy thế này thì chịu được mấy chiến dịch (vì sau chiến dịch tôi gầy đi 8 ki-lô-gam).
- Báo cáo anh, sẽ quen.
- Có nhiều khó khăn không? - Anh Thanh hỏi tiếp.
- Báo cáo anh tương tự như Điện Biên Phủ.
Anh Thanh phát biểu trước khi hội nghị kết thúc. Sau khi biểu dương tinh thần khắc phục khó khăn, chiến đấu dũng cảm của các đơn vị tham gia chiến dịch, anh phân tích ý nghĩa chiến thắng và bài học rút ra về chỉ đạo chiến dịch. Anh nói:
- Thắng lợi của chiến dịch Sông Bé - Đồng Xoài đã giáng một đòn quyết định góp phần làm phá sản chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ. Các đồng chí đã tiêu diệt được Đồng Xoài thì có thể diệt được các căn cứ chi khu khác ở miền Đông Nam Bộ.
Cuối cùng anh nhấn mạnh:
- Bài học mà tất cả chúng ta đều thấy là muốn tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, làm chuyển biến cục diện thì phải thực hiện đánh lớn, hiệp đồng binh chủng, tức là phải có quả đấm chủ lực.
Ngày 2-9-1965, lễ thành lập sư đoàn 9 được cử hành giản dị mà trang nghiêm bên bờ suối Nhung thuộc địa phận Phước Thành.
Lễ thành lập sư đoàn diễn ra trong điều kiện rất đặc biệt, đậm nét màu sắc chiến trường. Vì các trung đoàn lúc này đang phân tán, ở xa làm nhiệm vụ chiến đấu, nên chỉ triệu tập đại biểu cán bộ phụ trách từ đại đội trở lên về dự lễ ra mắt.
Thay mặt Bộ tư lệnh và Quân uỷ Miền, anh Nguyễn Chí Thanh (cùng đi còn có luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam) xuống công bố quyết định thành lập sư đoàn.
Không khí trang nghiêm mà thân mật ấm tình đồng chí. Tất cả chúng tôi đều yên lặng lắng nghe anh Thanh đọc quyết định và chỉ thị. Sư đoàn 9 là đơn vị chủ lực đầu tiên của B2 và Đông Nam Bộ, có vai trò rất quan trọng trong nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch cỡ binh đoàn, góp phần đánh bại hoàn toàn chiến lược "chiến tranh đặc biệt". Nhưng muốn đánh bại loại chiến tranh này chúng ta phải phá vỡ hệ thống ấp chiến lược, đánh bại thủ đoạn phòng thủ diện địa, tiêu diệt tiểu đoàn, chiến đoàn, sư đoàn địch. Thắng lợi vừa qua là lớn, nhưng chưa đủ. Lực lượng địch còn đông, chúng phát triển thành nhiều sư đoàn, hình thành quân khu, quân đoàn, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều quả đấm chủ lực. Trước mắt cần có kế hoạch tiêu diệt quận lỵ Dầu Tiếng, kết hợp đánh viện, phát triển về Bầu Bàng, Lai Khê, Bình Dương, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế, mở rộng lực lượng chuẩn bị sẵn sàng đánh Mỹ.
Chú thích:(1) Phước Long là tên chiến dịch trong kế hoạch ban đầu.
(2) Vừa nhằm hiệu chỉnh tầm hướng. vừa tập báo động hù doạ đối phương rằng chúng luôn tỉnh táo sẵn sàng đánh trả nếu bị ta tấn công.
(3) Địa điểm trú quân của đội hình chiến dịch ở bắc đường 14 nhằm phân tán sự phán đoán của địch: đối phương sẽ đánh Đồng Xoài hay Chơn Thành?
(4) Theo số thống kê, riêng trận tiến công chi khu quân sự Đồng Xoài, số thương vong 424 (trong đó có 134 đồng chí hy sinh).