Hãy gắng gỏi một lần cuối cùng, tôi tự khuyên mình, biết đâu còn cơ may. Tôi rời bỏ vùng rừng Thái Nguyên, con suối Linh Nham, cái lán xiêu vẹo, vài bộ quần áo chàm cũ bạc, chân vận đôi dép tự tay đục lấy từ cái lốp máy kéo hỏng, tôi lần về thành phố Huế quê nội. Tôi hy vọng trên mảnh đất chôn nhau, tôi sẽ đào bới tìm thấy lại mạch Thơ.
Chớm mùa thu năm đó, vào một buổi chiều mặt trời gác núi, tôi cúi mình rửa khuôn mặt nhọc nhằn, lấm bụi đường và mồ hôi, trên bến Văn Lâu. Thành phố quê nội xót thương tôi như người mẹ đông con với đứa con số phận rủi ro, quá nửa dời người gặp phải cảnh truân chuyên… Nay gót nhọc lòng đau, tìm về với Mẹ.
Ba mươi năm
Tôi bị dìm trong bùn-nhơ-lăng-nhục
Nhưng cuối cùng quê hương đã nhận ra
Trái-tim-thơ trong sạch
Và gương mặt thơ bi thiết của tôi Đó là câu thơ đầu tiên khi gặp lại Huế tôi nức nở thành lời. Thi hữu và bạn hữu quê nội đùm bọc và chiều đãi tôi.
Thi hữu và văn hữu quê tôi nghèo lắm, có lẽ nghèo nhất đất nước này. Thế mà vẫn đãi tôi như các bậc hoàng đế, vương hầu thời Chiến quốc: ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn.
Rượu như lửa tôi uống tràn thay nước! Tôi van các bạn: đừng cho tôi uống nữa, rượu đắt lắm!
Các bạn gạt đi:
Đất cố đô bao giờ chịu mang tiếng
Để một nhà thơ phải đói rượu giữa quê hương. Tôi ngất ngưởng sống, ngất ngưởng say… Và tôi gặp Nàng… Như trong mê sảng, tôi tấu thơ cho nàng nghe.
“Anh chép tặng em những bài thơ anh đọc…”
“Những bài thơ cũ, sao xứng với em?” - Tôi nói trong cơn bốc – “Tôi sẽ xưng tụng em với một tập thơ mới.”
Nàng đứng lên, mở ngăn kéo, lục tìm cái gì trong đó, một cuốn sổ lịch, in chữ nhũ vàng trên bìa ni lông đen. Cuốn sổ lịch nhàm chán, tầm phơ, vụt hoá thành báu vật trong bàn tay có ngón dài thanh mảnh, trắng muốt như đá cẩm thạch tượng Rô-đanh. Ngón tay đeo nhẫn lấp lánh ánh vàng, mặt đá quý màu hồng ngọc.
“Em rất tiếc không tìm thấy cuốn sổ nào giấy trắng tinh. Cuốn sổ này các trang giấy đều có kẻ dòng… Em biết các nhà thơ đều thích viết thơ mình trên giấy trắng tinh…”
“Tôi thì ngược lại, tôi chỉ thích viết trên giấy có kẻ dòng.”
Sáng hôm sau tỉnh rượu, lòng tôi bỗng cồn lên nỗi nhớ. Tôi ao ước được nhìn thấy gương mặt huyền hoặc của Nàng. Trí nhớ tôi như phiến gỗ thông Đà Lạt, khoảnh khắc tạc lên mặt Nàng bằng bút lửa.
Tôi chợt nhìn thấy cuốn sổ bìa ni lông đen trên mặt bàn viết. Lời hứa bốc đồng hôm qua bỗng cộm lên trong trí nhớ như những viên sỏi có nhiều cạnh sắt… Chỉ hình dung ánh mắt thất vọng pha chế riễu của Nàng khi nhìn thấy tôi đến với hai bàn tay không, tôi đã muốn chui xuống đất vì xấu hổ.
Ôi, lời hứa của các nhà thơ!
Tôi ngồi xuống, giở từng trang cuốn sổ lịch mà chẳng hiểu để làm gì… Tôi chỉ viết trên giấy có kẻ dòng… Câu nói vô tình bỗng xuyên qua trí nhớ tôi như một ánh chớp. Cảm hứng thơ không biết từ cõi miền nào đột ngột dâng lên như cơn lũ suối Linh Nham, tràn ngập cả hồn tôi…
Và như cách nói một nhà thơ xưa: Bút đòi mực, mực đòi giấy, giấy đòi thơ…
Từ ngày mới tập viết
Nay gần trọn đời văn
Số chữ tôi đã viết
Có thể phủ kín một cồn Giã Viên
Một niềm yêu tôi không đổi thay
Một niềm tin tôi không thay đổi:
Viết trên giấy có kẻ dòng
Là nhà văn
Tôi đã viết suốt ba mươi năm
Là chiến sĩ
Tôi là xạ thủ cấp kiện tướng trung đoàn
Tôi có thể viết như bắn
Trên giấy không kẻ dòng
Nhưng tôi vẫn viết trên giấy có kẻ dòng
Như cái thuở vỡ lòng tập viết
Với nhiều người
Giấy kẻ dòng dễ viết đẹp
Nhưng với tôi
Không có gì đẹp hơn
Viết ngay và viết thẳng
Là nhà văn
Tôi yêu tha thiết
Sự ngay thẳng tột cùng
Ngay thẳng thuỷ chung
Của mỗi dòng chữ viết
Nhưng là nhà văn xạ thủ
Tôi biết
Khó vô cùng bắn trăm phát trúng cả trăm
Và càng khó hơn
Viết trọn một đời văn
Dòng đầu thẳng ngay như dòng cuối
Khi bàn tay đã đuối
Khi tấm lòng đã mỏi
Khi con mắt bớt trong
Khi dũng khí đã nguội
Trang giấy có kẻ dòng
Giúp các em bé vỡ lòng
Và nâng đỡ các nhà văn
Viết ngay và viết thẳng
Ngay thẳng thuỷ chung
Từ dòng đầu đến dòng cuối