Katharine bước ra khỏi văn phòng của mình, đi vào màn sương dày đặc như thể mong ước lúc này của nàng là chôn vùi mình để khỏi phải nhìn mặt mọi người cũng như các mối quan hệ khác. Đầu nàng như nổ tung ra và đôi mắt vô hồn ngó không định hướng về phía trước, nàng cứ thế tiếp tục bước tới phố Sáu Mươi Mốt, đối diện với phố Madison, tới nơi nàng mới nhận ra rằng bản năng ngu xuẩn đã đưa nàng tới một ốc đảo bỏ hoang ở trong Công Viên Central. Sau khi dạo một vòng được vài phút, nàng mới ngồi xuống một chiếc ghế băng cạnh bờ hồ đã đóng băng cứng ngắc và cố gắng một cách mù quáng trấn tĩnh các suy nghĩ của mình.
Thoạt đầu, không có một điều gì khác xảy ra cho nàng ngoài vẻ thê thảm âm ỉ vì cái chết bất thình lình của ngài Brandt. Nàng mến ông ta thật sự. Trong tất cả những chuyến giao dịch với nàng, ông ta luôn tỉ mỉ để lộ vừa đủ tinh hoa quyền lực của mình như là tính tình đơn giản mộc mạc và cao thượng đến nỗi nàng tỏ ra kính mến ông ta không chỉ vì ông ta là khách hàng quen mà như là một người bạn. Và bây giờ thì ông ta đã đi xa rồi.
Nỗi phiền muộn ập tới nàng khi nàng ngồi xuống, một hình dáng lạ lẫm cô độc trong một công viên đã bị lãng quên. Xung quanh nàng, trong cái không khí ảm đạm phủ kín đó chợt nhô lên những ngôi tháp (ở giáo đường Hồi giáo) và những ngôi đền của một nền văn minh vĩ đại như hoà âm với nốt nhạc của cuộc sống với vô số tầng lớp. Nhưng nàng lại chỉ có một mình. Trên cái vũng nước đóng băng kia trước mặt nàng, một vài đứa bé đã từng trượt băng, nhưng chúng đã về nhà từ lâu, để lại những đường gạch đều đặn bị khuấy tung như đánh dấu chúng đã ở từng đây. Một vài con chim nước, những đôi cánh lạnh lẽo cụp che đôi chân cà khoeo, tụ lại thành bầy một cách buồn phiền trong cái chòi trên hoang đảo nhỏ bé. Những bóng đèn trong công viên được treo như những chuỗi hạt mờ ảo trên dây xích vô hình căng ra vào hư không. Những cảnh còn lại thì u ám và sự yên tĩnh như bị bóp nghẹt.
Vị trí xã hội của nàng đã dần dần tuột xuống dốc. Nàng đã xong rồi. Với Brandt bị loại ra một cách buồn bã, cơ hội để nàng bán đi bức tiểu họa một cách nhanh chóng và thiện ý đã tiêu tan tất cả, trừ một cơ hội nhỏ nhoi vô cùng. Những gì nàng đã hứa hẹn với nhà băng sẽ tới hạn kỳ phải thanh toán. Để giải quyết việc đó và trang trải hết nợ nần, nàng phải bán tống bán tháo tất cả - nếu như chúng không làm nàng phá sản - mọi thứ nàng sở hữu: cổ phiếu, thuê mướn, ngay cả uy tín tốt trong kinh doanh. May mắn lắm nàng cũng mấp mé sự phá sản nhục nhã này. Nhưng, với hay không với may mắn, nàng đã bị hạ đo ván, bị phá huỷ, và tang gia bại sản. Đây là đoạn cuối cùng của sự nghiệp của nàng, cuộc sụp đổ đầy thương hại của một kế hoạch bấp bênh mà nàng đã gầy dựng với tất cả công sức. Nỗi đau nhói như đâm xuyên qua nàng khi chỉ nghĩ đến những ý nghĩ lúc ban sơ, giờ đây tất cả đều bị dập tắt không thương tiếc, vì thành công ngọt ngào nhất thời của nàng hoàn toàn biến thành tro bụi ngay trong miệng của nàng.
Rồi, với một sự chuyển đổi nhanh lẹ trong nỗi đau, nàng chợt nghĩ đến những người khác mà thất bại của nàng có thể liên lụy. Bác Walters và Cô Mills, bác Breuget – ôi bác Breuget tội nghiệp! – và hơn tất cả mẹ nàng sẽ đau đớn như thế nào khi thấy nàng ngã gục như vậy. Nancy, xin cám ơn Thượng Đế, bây giờ lại không cần tới nàng nữa. Nhưng còn những người khác – ôi, đau đớn thay khi suy nghĩ nghiêm túc, rằng họ sẽ phải chịu khổ chịu sở bởi vì nàng. Dĩ nhiên là nàng vẫn còn có thể làm việc, và với nỗ lực tận tâm không thương xót lẫn căng thẳng là sự thừa hưởng trực tiếp từ người cha theo đạo đức chủ nghĩa, nàng có thể sẽ làm nô lệ cho chính mình cho đến tuổi già xế bóng. Nhưng nàng có thể đạt tới sự sung túc mà nàng đã từng có hay không? Những người khác, và nàng chợt nghĩ tới Bertram, thất bại đó rồi lại vực lên một cách nhanh chóng trong vòng một năm. Nhưng nàng thì lại khác. Quỹ đạo của ngôi sao chiếu mệnh của nàng lại quay quá bất thường. Một khi đã xuống dốc, không thể nào trỗi dậy lên được nữa. Ngoài ra, nàng cảm thấy mình không còn có thể chống đỡ nổi những thất bại hồi gần đây và dễ dàng bị khuynh đảo vì những nước mắt và xoay cuồng trong cuộc sống. Bây giờ, thật ra ngay giây phút này, nàng mới cảm thấy tỉnh táo cao độ và đồng thời đau khổ tột cùng cũng chỉ vì giới tính của mình. Nàng đơn giản chỉ là một phụ nữ, yếu đuối và mỏng manh, cần có một cánh tay nâng đỡ, một ý chí mạnh bạo hơn để nàng có thể dựa vào, để khóc lóc kể lể, nương ná trong sự bảo bọc đó.
Rồi tất cả những viễn cảnh vô hy vọng đó như lấn át nàng luôn, một nỗi vô vọng nghẹn ngào và bị bỏ rơi làm nàng như muốn buông xuôi tất cả và đầu hàng không điều kiện với cuộc sống này. Thật quá dễ dàng tìm ra chàng Lethe lãng quên nhưng bi quan và tử tế này. Không một ai sẽ nhận thấy hết. Chỉ một bước thôi, như bước lộn vào dòng xe cộ đang lưu chuyển – giống như một tai nạn xe cộ – nàng sẽ được tự do mãi mãi, yên giấc ngàn thu và bị lãng quên như thế.
Nhưng cũng cùng lúc đó, một luồng thức tỉnh đột ngột chợt len lỏi vào nàng, và nàng lại xô đẩy nó đi như thể nó không có tinh khiết cho lắm. Can Đảm! Đó chính là nguyên tắc sống của nàng, luôn luôn có can đảm, mọi thứ khác không thành vấn đề, và bây giờ nàng phải đem thất bại của mình mà ngoan cường chịu đựng mà nàng chưa hề bao giờ làm. Nàng đứng dậy đột ngột, và khép chặt áo khoác ngoài, nàng bước đi mạnh bạo về phía căn hộ của mình.
Khi nàng về đến nhà, Nancy đã ở đó, chập chờn muốn đi vì đã đến giờ diễn tập, và ngay tức thì nàng nhào về phía trước, ôm chặt lấy cổ của Katharine.
“Dì yêu quý Katharine ơi,” nàng kêu lên, “Con thương dì quá trời.” Nàng đã xem bản tin đặc biệt trên báo, và nhanh chóng tiếp tục: “Con hy vọng là chuyện đó không làm bất cứ thay đổi gì đáng kể. Thật là một việc không may. Giá như mà nó xảy ra sau này thay vì trước.”
Katharine đã trấn tỉnh lại. Nàng nói lặng lẽ: “Phần lớn những việc không may đó xảy ra cho Brandt nhiều hơn, nếu con nghĩ thế.”
“Ồ, dĩ nhiên rồi dì yêu,” Nancy nói. Nàng ngừng lại. “Thật đúng là dì, dì lúc nào cũng nghĩ như vậy.”
Nàng quanh quẩn đấy một hồi, ước ao chứng minh cho được mối lo âu của mình, quan trọng hoá lên một tí với Katharine, rồi van xin nàng hãy ngồi xuống, uống một ly rượu trái cây, hút một điếu thuốc, hay gọi đặt bữa tối ngay tức khắc. Nhưng rõ ràng là mối quan tâm của nàng chỉ có ở vẻ bề ngoài mà trong đầu của nàng thì thật sự muốn cho xong chuyện để đi tới nhà hát cho được việc của mình, vì rằng những buổi diễn tập quan trọng hơn và nàng dễ ăn nói với mọi người hơn. Rồi cuối cùng nàng cũng đi khỏi chỉ để lại một cử chỉ nhỏ nhoi cho hối tiếc và thông cảm tới dì của mình.
Katharine không thiết tha gì đến ăn uống. Nàng chỉ gọi mang đến sữa nóng, và khi sữa được mang tới, nàng uống cạn nó chung với hai viên thuốc ngủ. Giấc ngủ bây giờ là liều thuốc màu nhiệm nàng cần. Rồi sau đó, cởi bỏ quần áo, nàng vào giường đi ngủ tức thì.
Nàng thật sự có ngủ, dưới ảnh hưởng của sức thuốc, một giấc ngủ chập chờn đến ngay lập tức như có những cánh quạt ru nàng ngủ. Thế nhưng trong giấc ngủ mau lẹ đó, những suy nghĩ nàng đã vương vấn được thanh lọc và được biến hoá thành những cơn mơ kỳ cục và có hơi khủng bố.
Trí óc của nàng, bị vò nát và tê liệt, chuyển hướng sang một ảo tưởng hoang sơ bắt đầu ám ảnh nàng và bây giờ càng tỏ rỏ là nó có liên hệ tới những nỗi đau song sinh u phiền nàng mang theo. Tiểu thư de Quercy, người mẫu cho bức tiểu hoạ, chợt sống dậy, hoà nhập vào và trở thành nỗi u sầu của nàng, một bản ngã không hạnh phúc chút nào. Nàng, Katharine Lorimer, trở thành bức chân dung sống động của Holbein, bị thất vọng trong cuộc sống và tình yêu, môi của nàng kép với nụ cười mờ nhạt vĩnh viễn, bàn tay của nàng chắp lại với những nhành cẩm chướng trắng, có hơi bi thảm và phù phiếm. Những diễn tiến trong định mệnh đưa đẩy bức tiểu hoạ rơi vào tay nàng tại thời điểm này trong cuộc đời nàng dường như đã được định sẵn và không thể tránh khỏi. Như là một lời nhắc nhở và điềm báo trước. Đó không phải là câu chuyện lịch sử được lặp lại mà là định mệnh của nàng Lucie buồn bã như lặp lại trong nàng. Và định mệnh đó, được nhìn xuyên qua những bóng ma ảo ảnh trong giấc mơ của nàng, đủ để nàng khóc thét lên.
*
Nàng vụt thức dậy ngay, cổ họng khô đắng, mồ hôi đổ như nước từ chân mày, và nàng nhận ra trời đã sáng tỏ. Ngay lập tức, nàng nhận ra mình đã khác trước trong cơn choáng váng và không sáng tỏ cho lắm. Như thể muốn giải thoát khỏi nó, nàng vội nhảy ra khỏi giường, tắm rửa cho tỉnh táo, rồi thay quần áo thật nhanh. Liếc nhìn qua phòng của Nancy, nàng thấy cháu gái vẫn còn ngủ vùi.
Nàng đi ra ngoài. Nàng hoàn toàn không biết mình sẽ đi đâu. Dĩ nhiên là nàng không đi tới văn phòng của mình. Nàng không thể đối diện với bác Breuget được nữa, từ sau hôm nàng hốt hoảng cực độ. Lờ mờ nàng nhớ ra hành động của mình có hơi bệnh hoạn, trí óc của nàng vẫn còn bị ảnh hưởng của thuốc ngủ hay vẫn còn choáng váng. Nàng bây giờ đang ở phố Bốn Mươi Hai, sắp quẹo sang hướng Quảng Trường Time. Nàng bước vào một cửa hàng dược phẩm (có bán nhiều hàng linh tinh khác) ở góc phố, và mua một ly cà-phê cùng một ổ bánh mì nhỏ. Bước ra ngoài, nàng tiếp tục đi qua Quảng Trường, và rồi, hoà mình vào dòng người hối hả đi vào lối xuống tàu điện ngầm, nàng đi qua cánh cửa xoay và xuống bậc thang phía đoàn tàu điện.
Chạy trốn! Chạy trốn! Nàng bây giờ đang ở trên tàu điện, chuyến tàu nào nàng cũng không rõ, ngồi trong một chỗ chật chội, như bị giam cầm trong bóng tối dưới mặt đất, trong khi những bánh xe kêu kèn kẹt lẫn rít lên dưới chân nàng. Nàng chỉ ước ao có một lối thoát. Trạm cuối cùng rồi cũng đến. Nàng lại bước ra, sân ga lộng gió với tiếng ngân lanh lảnh của sóng biển vẫn trong mũi của mình, tiếng thắng xe vẫn thoang thoảng bên tai. Từ sân ga, nhìn qua con đường chính buồn tẻ đầy những cửa hàng lắp cửa chớp, những quán nhậu, nhà hàng đồ biển, những quán chơi bi-da, tất cả đều bị tróc sơn và bạc màu sương gió, những tấm áp-phích tả tơi và cũ kỹ không hợp thời. Trên nữa và xung quanh đó, những kiến trúc hình voi ma-mút trở nên hoang vắng cằn cỗi, không có sức sống và lố bịch, một công viên giải trí chỉ còn trơ lại vẻ hiu hắt thê lương. Một tia sáng như loé qua tâm trí phờ phạc tối tăm của Katharine và phơi bày cái quyết định điên rồ đưa nàng tới hoàn cảnh này. Môi nàng cong lại với nụ cười thê lương cay đắng. Đây là hòn đảo Coney Island.
Không có gì thay đổi hết. Thật ra, đằng trước đã bỏ hoang, với vòng cung ngập trong trời và biển, như một kẽ nứt trong một bình nguyên rộng lớn để lại phía sau bởi những chiếc tàu khách khổng lồ trên thế giới, không khí thật lạnh và trong sạch. Katharine bước dọc theo đường bờ biển vắng vẻ. Nàng đi cả ngày, tới và lui, đầu chúi về phía trước, đôi mắt không hồn như thể đang tìm kiếm một cái gì. Mặc dù trí óc của nàng đã tỉnh táo, sự cân bằng hơi rung rung trong tâm trí nàng đã lấy lại sự thăng bằng, nhưng nàng vẫn không tìm thấy gì hết, ngoài sự mệt mỏi và thất vọng. Trời tháng Mười Hai tối sớm đưa nàng về lại cái tỉnh lỵ vô chủ sáng chưng và rồi từ đó về lại New York phô trương như thuở nào, tiếp nhận nàng với tiếng rơi vỡ loảng xoảng như nhạo báng, những bảng điện sáng đèn neon phun ra những màu sắc ở bên trên những đường phố rùng rợn đông đúc hoang dã.
Khi nàng về lại căn hộ của mình, lột bỏ nỗi u sầu cuối cùng ra khỏi mình, mắt nàng chợt trông thấy một chồng những tấm giấy trắng luôn mang hàng chữ quen thuộc như sau, “Cô có tin nhắn ở phòng tiếp tân.” Cùng lúc đó, chuông điện thoại chợt reo lên. Người trực tổng đài của khách sạn gọi nàng.
“Ồ, Cô Lorimer,” giọng nói êm dịu như tiếng hát vang lên, “Ngài Breuget tìm cô suốt cả buổi chiều. Ông ấy gọi điện thoại tới cả chục lần và cũng đến tìm cô nữa.”
Chỉ có bác Breuget, Katharine buồn rầu nghĩ ngợi, rồi nàng nói lớn:
“Thế thì tốt quá, cám ơn cô nhiều. Tôi sẽ gọi điện cho ông ấy sau.”
Với vẻ lãnh đạm thờ ơ nàng muốn gác máy, nhưng trước khi nàng ngắt máy, giọng người trực tổng đài lại vang lên.
“Xin làm ơn đợi một chút, Cô Lorimer. Ngài Breuget đang ở trên đường dây ngay bây giờ.”
Một tiếng tách vang lên, đường dây được nối và bác Breuget nói chuyện với nàng.
“Alô! Alô! Phải cô đó không Cô Lorimer? Cô đi đâu từ sáng tới giờ thế?”
Bàn tay nàng sờ hàng chân mày vì mệt nhọc, Katharine cố trấn tĩnh để trả lời thư thả: “Tôi lấy một ngày nghỉ bác Breuget à, không có gì để lo lắng hết bác ơi.”
“Nhưng, lạy Chúa tôi,” bác Breuget kêu to lên. “Cô không biết là có chuyện gì xảy ra hay sao?”
Katharine thấm môi, trĩu nặng bởi tiếng kêu kích động kỳ lạ nơi giọng bác Breuget.
“Có chuyện gì xảy ra thế bác?”
“Tôi kiếm cô cả buổi chiều để nói cho cô biết đó,” bác Breuget kêu thét lên với như tới cơn cực điểm. “Ôi, lạy Chúa tôi! Tôi không thể nào chịu được nữa rồi, chứ không thì tôi sẽ bay lên như cái bong bóng quá. Cô Lorimer à, Cô Lorimer ơi, chúng ta bán được bức tiểu hoạ rồi.”
“Cái gì hả bác!”
“Đúng, đúng, đó là sự thật. Ha ha! Thật như là Thượng Đế ở trên cao đó. Tôi muốn cười quá đi, tôi muốn ca hát nữa, tôi muốn nhảy múa vì sung sướng quá.”
Căn phòng như bị xoay tròn xung quanh Katharine. Nàng không thể nào tin được. Nàng tưởng người đàn ông già nua đã hoá điên mất rồi. Nhanh chóng nàng đặt ống nghe sát lỗ tai và nói với giọng chậm rãi nồng nhiệt:
“Bác Breuget! Bác không có điên chứ?”
Bác ngắt ngang lời nàng vội vã. “Không mà, cám ơn Chúa, Cô Lorimer, tôi hoàn toàn tỉnh táo. Lắng nghe, lắng nghe đây! Xin lắng nghe. Đừng có ngắt lời tôi nhé, không thôi tôi sẽ lên cơn tai biến mạch máu não mất. Ascher có đến đây sáng nay, thân thiện như một người anh em. Ông ta có vẻ hối tiếc vì cái chết của ngài Brandt và những người đi cùng. Nói chuyện cả nửa giờ. Rồi ông ta đề cập đến việc kinh doanh thật sự. Ông ta được cử ra đại diện để dạm giá một trăm ngàn đô-la cho bức tiểu hoạ.”
Mọi thứ lại xoay chuyển lần nữa. Nàng phải nắm lấy mép bàn thật chặt, giữ vững thân hình với một ý chí thật mạnh để khỏi té ngã. Nàng phải tin lời bác Breuget, nàng phải, không có gì để mà nghi ngờ lời nói của bác hết.
“Tôi hy vọng thế,” nàng thở hổn hển một cách yếu ớt, “Tôi nghĩ là bác đã nhận lời?”
“Tôi nghĩ rằng tôi làm như thế,” bác Breuget kêu lên.
Rồi không gian chợt lắng đọng nhè nhẹ, rồi với giọng nói vẫn nhỏ nhẹ Katharine thì thầm: “Chúng ta cuối cùng cũng bán được nó - một trăm ngàn đô-la.”
“Đúng thế,” bác Breuget hét lên với sự tưng bừng hớn hở đến điên cuồng. “Và việc rút tiền bằng ngân phiếu được ngân hàng chấp nhận. Tôi đã bỏ vô trương mục lúc mười một giờ rưỡi. Số tiền đó đã lập nên uy tín của chúng ta rồi. Cô ở nguyên đó nha Cô Lorimer, tôi sẽ tới ngay và kể cho cô nghe tất cả!”
Katharine đặt ống nghe lại trên máy. Một tiếng thở thổn thức như lấp kín cả lồng ngực của nàng. Nàng như lắc lư ngã về phía ghế sofa. Rồi thình lình đèn đuốc xoay vần và tắt phụt đi, và mọi thứ như chìm vào bóng tối. Đó là lần đầu tiên trong đời mà Katharine ngã ra bất tỉnh nhân sự.