Trong khi chiếc thủy phi cơ bắt đầu hạ cánh xuống Shediac, trong vịnh Saint Laurent, Harry cảm thấy quyết định ăn trộm đồ nữ trang của phu nhân Oxenford yếu đi.
Có nhiều lý do khiến anh cảm thấy thế. Thứ nhất là hình ảnh khách sạn Walford, phòng ngủ của Margaret, buổi ăn điểm tâm, anh cùng ăn với Margaret ở đấy. Sau đó là anh cùng cô sẽ đi Boston, hal người cùng sống ở đấy anh sẽ giúp cô tập sống tự lập. Sự hăm hở của Margaret đã truyền sang cho anh:
Nếu anh ăn trộm đồ nữ trang của mẹ cô, thì anh sẽ không có những thứ đó.
Shediac là trạm dừng cuối cùng trước khi đến New York. Anh phải quyết định nhanh mới được. Anh sẽ không có cơ hội nào khác nữa để vào khoang chứa hành lý.
Một lần nữa anh phân vân không biết anh có tìm được cách để vừa có Margaret lại vừa có đồ nữ trang không .Trước hết, làm sao cô biết được chính anh là người ăn trộm nữ trang? Thế nào bà Oxenford cũng phát hiện ra đồ nữ trang bị mất khi bà mở rương, có lẽ khi đến khách sạn Waldorf. Nhưng khó mà xác định nữ trang mất khi nào. Trước hay là sau khi xuống phi cơ Margaret đã biết quá khứ của Harry, cho nên chắc chắn cô sẽ nghi anh. Nhưng nếu anh chối, cô có tin không? Có lẽ cô tin.
Rồi sau đó sẽ ra sao? Họ sẽ sống nghèo khổ ở Boston trong khi anh có 100 ngàn đô la trong ngân hàng. Nhưng chuyện này sẽ không lâu. Cô sẽ có cách để trở về Anh để đầu quân vào lực lượng Nữ quân nhân, còn anh, anh sẽ sang Canada để làm phi công truy kích. Khi chiến tranh chấm dứt, anh sẽ rút tiền ở ngân hàng ra, mua một ngôi nhà ở nông thôn; có lẻ Margaret sẽ đến đấy ở cùng anh ... và khi ấy thế nào cô cũng muốn biết tiền từ đâu ra.
Sớm muộn gì, thế nào rồi Harry cũng, phải nói cho cô biết thôi.
Nhưng để lâu hãy nói, có lẽ tốt hơn là nói sớm.
Anh phải kiếm cớ gì để ở lại trên máy bay khi tạm dừng ở Shediac. Nhưng đừng viện cớ người không được khỏe, vì cớ ấy sẽ khiến cho Margaret ở lại trên máy bay với anh. Phải làm sao cho cô lên bờ.. Anh nhìn cô từ bên này khoang, qua lối đi ở giữa. Cô đang thắt dây an toàn ngay giữa bụng. Bỗng anh mường tượng thấy lại cảnh cô ngồi trên giường, cũng cái tư thế như vậy cặp vú trần lồ lộ, trong ánh sáng lờ mờ chiếu qua từ các cửa sổ. Anh nghĩ, có phải mình là đồ ngốc khi để mất cô để lấy một nắm hồng ngọc?
Nhưng không phải một nắm hồng ngọc, mà là bộ trang sức Delhi, đáng giá một trăm ngàn đô la, đủ để làm cho anh trở thành người anh thường mơ ước, đó là một người giàu nhàn nhă.
Tuy nhiên, trong óc anh vẫn lởn vởn cái ý mà anh muốn nói với cô:
Anh sẽ ăn trộm đồ nữ trang của mẹ em, anh hy vọng em không xem chuyện này là điều trở ngại cho tình yêu của ta chứ? Và thế nào cô cũng trả lời:
Ý kiến hay, bà già vô tích sự không đáng được hưởng những thứ ấy. Mà không. Chắc Margaret không đời nào chịu như thế. Cô tự xem mình là người cấp tiến thật đấy, cô hoan hô việc lấy của cải người giàu chia cho người nghèo thật đấy, nhưng tất cả chỉ là lý thuyết, nếu anh tước mất một số tài sản quí giá của gia đình cô, thế nào cô cũng rất xót xa đau đớn. Và thế nào cô cũng căm hờn anh.
Cô bắt gặp ánh mắt của anh, cô nhoẻn miệng cười.
Anh cười lại với cô, vẻ tội lỗi, rồi nhìn ra ngoài cửa sổ.
Chiếc thủy phi cơ hạ xuống trên cái vịnh có hình móng ngựa, bên vịnh, nằm rải rác vài ngôi làng. Xa hơn, đồng ruộng trải dài. Khi máy bay đến gần vịnh, Harry thấy một con đường sắt chạy ngoằn ngoèo giữa các nông trại đến tận con đê dài. Bên cạnh con đê, có nhiều tàu thuyền đủ cỡ và một chiếc thủy phi cơ nhỏ đang thả neo. Về phía đông con đê, bãi cát chạy dài mấy cây số, rải rác giữa các đụn cát, nhô lên vài ngôi nhà đồ sộ có lẽ đầy là những ngôi nhà nghỉ mát.
Harry nghĩ, có được một ngôi nhà như thế này thì tuyệt biết bao. Anh nhủ thầm:
được rồi, nếu đây là điều mình mơ ước mình sẽ có thôi; mình sẽ giàu!
Thủy phi cơ hạ xuống êm ái. Harly cảm thấy thư giãn, anh đã bắt đầu quen cảnh như thế này rồi.
– Mấy giờ rồi, Percy? - Anh hỏi.
– Mười một giờ địa phương. Chúng ta trễ một giơ.
– Chúng ta ở lại đây bao lâu?
– Một giờ.
Ở Shediac, người ta dùng phương pháp lên bờ mới mẻ hơn. Một chiếc tàu giống như tàu đánh cá chạy đến để lời chiếc thủy phi cơ đi. Rồi người ta buộc hai đầu máy bay bằng những sợi dây neo lớn để áp máy bay vào một bến tàu nổi, từ đây có cầu thang để lên đê.
Nhờ cách lên bờ này mà Harry giải quyết được vấn đề khó khăn của mình. Ở các chỗ tạm dừng trước đây tất cả hành khách đều xuống tàu thủy nhỏ, nên khách chỉ có một cơ hội độc nhất để lên bờ thôi. Còn bây giờ, anh có cớ để nói với Margaret, cô cứ lên trước rồi anh lên sau, vài phút nữa sẽ gặp cô.
Người tiếp viên mở cửa máy bay, hành khách bắt đầu mặc măng tô vào và đội mũ lên. Gia đình Oxenford áo quần tươm tất chuẩn bị đi xuống, kể cả ông Clive Membury, người không hề hé môi nói một tiếng suốt cả chuyến bay, ngoại trừ, Harry chợt nhớ, lần nói chuyện rất hăng với ông nam tước Gnhon.
Một lần nữa, anh tự hỏi không biết hai người nói chuyện gì với nhau. Nhưng rồi anh bỏ cái ý nghĩ ấy đi để tập trưng tư tưởng vào kế hoạch của mình. Anh nói nhỏ bên tai Margaret:
– Anh sẽ lên với em sau, - nói xong, anh đi đến phòng vệ sinh.
Anh chải tóc và rửa tay, chỉ làm cho có việc thôi, mắt nhìn vào khung gỗ gắn trên cửa sổ. Tấm kính đã bị vỡ vào đêm qua, có lẽ do bão gây ra. Anh nghe có tiếng chân người trên buồng máy bước xuống cầu thang và đi qua trước cửa phòng vệ sinh. Anh nhìn đồng hồ, định nán thêm vài phút nữa.
Chắc chắn . sẽ không có ai, hay sẽ có rất ít người ở lại trên máy bay. Ở Botwood, một số hành khách vì mất ngủ nên họ không lên bờ, nhưng bây giờ chắc mọi người đều muốn đi một vòng cho giãn gân cốt và hít khí trời trong sạch. Đương nhiên là trừ trường hợp của ông Ollis Field và tù nhần của ông ta.
Điều kỳ lạ là chính ông Membury cũng lên bờ, ông ta là người được xem như đi theo để canh giữ Frankie. Người đàn ông mặc áo ghi lê đỏ này lên bờ đã làm cho Harry ngạc nhiên.
Chắc toàn nhân viên lau chùi máy bay sắp đến rồi:
Anh cố lắng tai nghe, nhưng không nghe có tiếng động nào ở ngoài cánh cửa nữa. Anh mở cửa he hé, nhìn ra ngoài. Không có ai hết. Anh thận trọng bước ra.
Buồng bếp ở trước mặt anh trống trơn. Anh nhìn qua buồng số hai, cũng trống trơn, rồi nhìn vào phòng khách, một phụ nữ cầm cái chổi trên tay, lưng quay về phía anh. Anh vội vàng leo lên cầu thang.
Đến đầu cầu thang, anh dừng lại, nhìn khắp buồng máy để xem có ai không.
Không có ai hết. Anh bước tiếp lên buồng máy, bỗng anh thấy hai chân mặc quần đồng phục hiện ra trong tầm mắt của anh. Anh liền nhảy vào đứng núp sau chỗ ngoặt, ló một mắt ra nhìn. Chính là người phụ tá cơ khí trưởng, Mickey Fiun, người đã bắt gặp anh vào lần trước. Ông ta dừng lại trước tấm bảng có dụng cụ kiểm soát máy móc rồi bỏ di. Harry lại thụt mặt vào, lòng phân vân không biết người nhân viên cơ khí đi đầu. Ông ta đi xuống cầu thang phải không? Harry cố lắng tai nghe. Tiếng bước chân đi qua buồng máy, rồi anh không nghe gì nữa. Vào chuyến tạm dừng trước, Harry nhớ Mickey đứng trong buồng máy trước khi vào trong mũi máy bay, lo việc thả neo. Lần này chắc ông tạ cũng làm thế chứ gì? Anh phải liều thôi.
Đi vào phòng máy, Harry nhận ra anh đã đoán đúng không thấy bóng dáng của Mickey đâu hết, mà cánh cửa trập trước mũi máy bay đã mở ra:
Harry không chần chừ gì nữa, anh đi qua cánh cửa thông vào hầm chứa hành lý.
Không còn phân vân như lần trước, anh vào ngay khoang hầm bên trái.
Anh mừng vì vận may đã mỉm cười với anh. Nằm ngay giữa buồng là chiếc rương to tướng như một căn phòng bằng da có màu xanh và vàng, những chiếc đinh đồng kếch xù lóng lánh. Anh tin chắc đây là rương của bà Oxenford. Anh xem cái nhãn, không có tên, nhưng có ghi địa chỉ là Trang viên Oxenford, Berkshire.
– Đúng phóc rồi, - anh lẩm bẩm trong miệng.
Anh nhìn ổ khóa, không khó khăn gì, anh chỉ dùng lưỡi dao nhỏ là mở khóa ra được. Ngoài ra còn sáu cái nắp cài bằng đồng. Anh chỉ cần bật lên là được.
Cái rương được tạo ra để dùng làm tủ treo áo quần. Harry dựng đứng rương lên và mở ra. Rương gồm cả hai khoang rộng rãi. Một khoang, có thanh ngang để móc áo dài và áo măng tô, dưới đáy khoang có cái ngăn nhỏ dùng để giày dép. Khoang kia có sáu ngăn kéo.
Harry mở các ngăn kéo. Các vách ngăn đều làm bằng gỗ mỏng bọc da và lót nhung. Bà Oxenford cất vào đây nào là áo lót bằng xoa, áo săng đai bằng vải ca sơ mia, đồ lót có viền đăng ten và thắt lưng da cá sấu.
Bên khoang treo áo quần, ở trên đầu rương có cái thanh ngang dùng treo áo, rất dễ lấy quần áo ra. Harry đưa tay sờ vào các vách khoan từ trên xuống dưới để xem bên vách có ngăn đựng gì không. Rồi anh đưa tay sờ vào ngăn đựng giày dép. Không có gì ngoài giày dép.
Bực mình, nhưng anh không chịu bỏ cuộc.
Anh định lục xem tất cả hành lý của gia đình Oxenford, nhưng anh nghĩ nếu mình chuyển đi số nữ trang quí giá như thế này cùng với số hành lý ký gởi, thế nào mình cũng xếp chứng vào chỗ thật kín đáo, thu giấu kín đáo trong cái rương kếch xù như thế này, dễ dàng hơn thu giấu trong các va li bình thường.
Anh quyết định lục soát lại.
Một tay anh sờ vào mép trong của khoang tủ treo áo, một tay anh sờ vào bên ngoài, để xem độ dày của mỗi bên của rương, nếu độ dày có vẻ bất thường tức đấy là chỗ giấu của quí. Nhưng anh không thấy có dấu hiệu gì bất thường. Anh bèn lôi các ngăn kéo ra, hết ngăn này đến ngăn khác ...
Và anh tìm ra thứ anh muốn tìm.
Tim anh đập thình thịch.
Một phong bì lớn màu nâu và một bao da được buộc chặt bằng những dung vải nằm cứng dưới đáy rương.
Anh lắc đầu lẩm bẩm:
– Làm sao qua mặt mình được!
Lòng hồi hộp, anh bắt đầu tháo dây vải, lấy chiếc phong bì lớn ra xem trước.
Chiếc phong bì có vẻ như đựng một số giấy tờ gì đấy, nhưng Harry cũng mở ra xem. Anh thấy một cọc khoảng 50 tờ giấy dày có in chữ một mặt. Phải mất một lát anh mới nhận ra đây là phiếu trả tiền cho người nào sở hũu chúng, mỗi phiếu như vậy có trị giá một trăm ngàn đô la. Như vậy tính cả thảy là năm triệu đô la, hay là rnột triệu bảng Anh.
Harry đã biết chuyện xảy ra bên Anh như thế nào rồi. Chính quyền Anh ra lệnh khẩn cấp kiểm soát việc đổi bạc để ngăn cấm tiền bạc thất thoát ra khỏi nước. Oxenford đã buôn lậu một cách ngay thẳng.
Thì ra ông ta là tên đại bợm còn hơn cả anh nữa, Harry hả hê nghĩ.
Chưa bao giờ anh lấy của ai loại công trái như thế này. Liệu anh có xài những thứ này được không? Công trái trả cho trái chủ:
tờ báo cũng có ghi rõ ràng hàng chữ này. Nhưng chúng đều được đánh số, để người ta có thể nhận diện. Thế nào Oxenford cũng thông báo việc mất mát này. Mà chắc là lão chuyển lậu các thứ này ra khỏi nước Anh? Nhưng có lẽ lão có cách nói để che đậy cho hành vi này của lão.
Dùng thứ này quá nguy hiểm. Harry không có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Đang tìm cách để đổi tiền, có thể anh sẽ bị thộp cổ mất. Anh đành để lại chỗ cũ.
Anh lấy cái bao da màu hạt dẻ, da mềm mại như da ví tiền của đàn ông, nhưng bao lớn hơn nhiều. Bao có dây kéo kín lại. Anh kéo dây kéo ra.
Trên lớp nhung đen lót trong bao là bộ trang sức Delhi. Đồ nữ trang lóng lánh trong ánh sáng lờ mờ của khoang hầm chứa hành lý như kính ghép màu trong giáo đường. Màu đỏ hồng ngọc xen kẽ với màu ngũ sắc lóng lánh của kim cương. Những viên đá quí to tướng, đồng đều nhau và gọt đẽo rết tinh vi, mỗi viên đính trên đài hoa và cánh hoa bằng vàng. Harry bàng hoàng ngây ngất.
Anh trân trọng nâng chiếc vòng đeo cổ lên, để cho các viên đá quí chảy giữa mấy ngón tay như nước màu. Lạ thật, anh nghĩ, những vật nhìn vào trông có vẻ nóng mà khi chạm vào lại quá lạnh. Đây là chuỗi trang sức đẹp nhất có lẽ là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời nhất từ xưa đến nay.
Mà là vật sẽ thay đổi cuộc đời anh.
Nhìn một lát, anh để chiếc vòng cổ xuống và lấy các thứ khác lên xem.
Chiếc vòng đeo tay, cũng như vòng cổ được cấu tạo xen kẽ hồng ngọc và kim cương, nhưng nhỏ hơn. Cặp hoa tai rất mảnh mai:
từ một nụ hồng ngọc chảy xuống một chuỗi kim cương và hồng ngọc nhỏ, mỗi viên đá quí như thế đính trên một cánh hoa nhỏ bằng vàng.
Harry tưởng tượng Margaret đeo những thứ này lên người. Màu đỏ và màu vàng, sẽ làm nổi bật màu da trắng tái của cô, trông sẽ tuyệt vời biết bao. Mình thích thấy cô ta đeo các thứ nữ trang này lên người với bất cứ áo quần gì cũng được, - anh tự nhủ, người lâng lâng sung sướng trước viễn cảnh mơ mộng này.
Anh không biết anh đã ngồi bệt trên sàn ngắm nghía các tác phẩm tuyệt diệu này bao lâu trước khi anh nghe có tiếng chân người bước đến gần.
Ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong óc anh là có lẽ người đang đi đến chính là người trợ lý cơ khí trưởng; nhưng liền nhận ra bước chân người di không phải bước chân của ông ta, mà bước chân nghe thình thịch, vội vàng hống hách.
Bỗng anh co người lại vì lo sợ, ruột cồn cào, răng lập cập, tay tê cóng.
Bước chân đi nhanh đến, Harry vội vã để các ngăn kéo vào chỗ cũ, ném chiếc phong bì đựng công trái vào giữa áo quần, rồi đóng rương lại. Anh vừa nhét bộ trang sức Delhi vào túi thì cánh cửa khoang hành lý bật mở.
Anh vội nép người ra phía sau cái rương.
Im lặng một hồi lâu. Anh quá lo sợ anh không nhanh chân khi nép người sau cái rương và người đi đến ấy đã trông thấy anh. Anh nghe hơi thở có vẻ hổn hển như hơi thở của người to mập vội vã đi lên cầu thang. Rồi cửa buồng đóng lại.
Người ấy đi ra chưa? Harry lắng tai nghe. Anh không nghe tiếng thở nữa.
Anh từ từ đứng dậy, nhìn quanh.
Không có người nào hết.
Anh thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng chuyện gì đã xảy ra thế? Anh nghĩ bước chân thình thịch ấy và hơi thở hổn hển ấy chắc là của một cảnh sát. Hay có thể của một nhân viên quan thuế. Hay có thể đây chỉ là một nhân viên đi kiểm soát như thường lệ thôi.
Anh đến. gần cửa, mở ra he hé. Từ buồng máy phát ra tiếng nói chuyện nho nhỏ.
Anh ra khỏi buồng hành lý. Cửa ở buồng lái mở rộng, anh nghe hai người.
đàn ông nói chuyện.
– Thằng ấy không có trên máy bay.
– Chắc hắn ở trên này. Hắn không lên bờ.
Họ nói lơ lớ giọng Mỹ:
Nhưng Harry nhận ra giọng họ là giọng Canađa.
Nhưng họ nói đến ai?
– Có thể hắn đi lên sau mọi người. .
– Đi đâu mới đượ chứ? Hắn không có ở chỗ nào quanh đây hết.
Harry tự hỏi, Frankie Gordino thoát được rồl à?
– Vả lại hắn là ai?
Người ta cho biết hắn là đồng lõa của tên cướp có mặt trên máy bay này.
Thế là Gordino không trốn được; nhưng có tên nào trong nhóm hắn có mặt trên máy bay, bị phát hiện và đã trốn thoát. Kẻ hành khách nào đáng nể thế nhỉ?
– Tên đồng lõa này không phải là tội phạm chứ?
– Không, nhưng hắn đi với một hộ chiếu giả.
Harry ớn lạnh cả người. Chính anh cũng đi bằng hộ chiếu giả. Nhưng không phải người ta tìm anh chứ?
– Thôi, bây giờ ta làm gì? - Anh nghe họ nói tiếp.
– Ta đi báo cáo cho trung sĩ Morris biết.
Một lát sau. Harry bỗng nghĩ ra rằng có thể chính anh là người họ truy lùng.
Nếu cảnh sát đã biết, hay đã đoán, có kẻ lên máy bay để tìm cách thoát Gordino, đương nhiên họ sẽ xem xét rất kỹ danh sách hành khách, và họ sẽ phát hiện ra Harry Vandenpost đã báo cho cảnh sát ớ Luân Đôn biết ông ta mất hộ chiếu cách đây hai năm. Người ta chỉ việc gọi điện thoại đến nhà ông ta để hỏi, và họ sẽ biết ông ta không có mặt trên thủy phi cơ, mà đang ngồi ở nhà bếp ăn bánh xốp, đọc báo buổi sáng hay đang làm việc gì đấy. Khi biết Harry là một kẻ lừa bịp, thế nào cảnh sát cũng cho rằng chính anh là kẻ có mưu đồ cứu thoát Gordino.
Mà khoan, anh tự nhủ, khoan suy đoán dễ dàng như thế. Chắe phải có một lối giải thích khác.
Bỗng một giọng nói thứ ba cất lên, nói chen vào:
– Các bạn tìm ai thế - Giọng nói có vẻ như giọng của trợ lý cơ khí trưởng, Mickey Fiun.
– Tìm một kẻ đội tên Harry Vandenpost, nhưng thì ra hắn không phải tên ấy.
Thế là đúng rồi. Harry cảm thấy choáng váng mặt mày. Anh đã bị lột mặt nạ.
Hình ảnh ngôi nhà có sân quần vợt biến mất như người ta lấy đi tấm hình cũ để thay vào đấy tấm hình chụp ảnh Luân Đôn chìm trong cảnh tắt đèn tối tăm, cảnh tòa án, phòng giam và cuối cùng là trại lính. Vận may đã từ giã anh.
Mickey nói:
– Báo cho các anh bịết, tôi đã gặp hắn lởn vởn quanh đây trong lúc máy bay tạm dừng ở Botwood!
– Nhưng bây giờ thì không có nữa.
– Các anh có chắc không?
Im đi, Mickey, - Harry nhủ thầm.
– Chúng tôi đã tìm khắp nơi.
– Các anh có tìm những nơi làm việc của thợ máy chưa?
– Những chỗ ấy ở đâu?
– Trong hai cánh.
– Rồi, chúng tôi tìm trong hai cánh rồi.
– Nhưng các anh có bò ra tận đầu cánh không? Trong ấy có những chỗ để trốn, đứng ở đây không thấy đâu.
– Tốt hơn là ta nên vào đấy xem lại cho kỹ.
Harry nghĩ:
hai người cảnh sát này có vẻ hơi đần.
Nếu ông trung sĩ của họ có một chút lương tri, thế nào ông ta cũng ra lệnh lục tìm khắp máy bay một lần nữa. Và lần lục tìm này, thế nào họ cũng không quên nhìn ra phía sau cái rương kếch xù. Anh tìm đâu ra chỗ núp khác nữa.
Họ sẽ thực hiện một cuộc lục xét tỉ mỉ từ trước mũi tàu, các phòng vệ sinh, các cánh và phần hông ở sau đuôi. Làm sao anh có thể tìm được một chỗ núp khác chưa biết của phi hành đoàn? Anh kẹt rồi.
Thử trốn đi được không? Lén ra khỏi máy bay rồi theo bãi biển mà chạy trốn được không? Làm thế nguy hỉểm, nhưng còn hơn chịu đầu hàng. Nhưng cho dù trốn khỏi cái làng nhỏ bé này mà không để cho ai thấy, rồi anh sẽ đi đâu? Anh có thể xoay xở được trong thành phố, nhưng anh có cảm giác chỉ quanh quẩn trong một vùng giới hạn vài cây số thôi. Ra vùng quê, anh sẽ lạc lõng. Anh cần phải sống với nhiều người, đường sá đông đúc có nhiều nhà và nhiều cửa hàng buôn bán. Anh nghĩ nước Canada rộng mênh mông bát ngát cả rừng với rừng.~ Nếu đến được New York, thế nào anh cũng thoát được. Nhưng trong lúc chờ đợi, anh trốn ở đâu?
Anh nghe tiếng chân các người cảnh sát ra khỏi hai cánh máy bay. Để bảo đảm hơn, anh núp vào lại trong khoang hành lý ... .
Và phải suy tính giải pháp để thoát cơn nguy hiểm này. Cái rương của bà Oxenford.
Anh chui vào trong rương được không? Anh suy tính xem sao. Cái rương cao khoảng một mét rưỡi, rộng sáu mươi phân:
trống không, có thể chứa được hai người. Nhưng cái rương đựng nhiều thứ quá, nên anh phải lấy đồ ra cho rộng chỗ. Nhưng lấy ra để ở đâu? Anh không thể vứt bừa bãi ra đây được. Hay là tộng vào trong va li của anh, va li của anh còn trống một nửa?
Phải làm cho nhanh thôi.
Anh lôi hành lý trong rương ra, rồi lấy va li của anh, mở ra, tộng áo măng tô và áo dài của bà Oxenford vào. Anh phải ngồi trên nắp vali mới đóng va li được.
Bây giờ thì anh có thể vào trong rương được rồi. Anh nhận thấy ngồi bên trong có thể đóng nắp rương lại được. Khi ngồi trong rương thì làm sao thở cho được? Sẽ không ngồi lâu, có lẽ anh phải bị ngộp thở một chút, nhưng không chết đâu.
Cảnh sát có để ý mấy cái ngăn kéo ở khoang rương bên kia có nắp cài đã bật lên không? Có thể họ để ý thấy. Anh có thể ngồi trong rương để đẩy bật xuống các nắp đậy ở khoang bên kia được không? Việc này có vẻ khó đấy. Anh nghiên cứu việc khó khăn này một hồi. Nếu anh khoét những lỗ ở trong rương, anh có thể chuồi lưỡi dao qua cái lỗ hổng đó để đóng hoặc bật cái nắp cài các ngăn kéo lại. Đồng thời những lỗ hổng này làm cho anh được thông hơi một chút.
Anh lấy con dao ra. Cái rương làm bằng gỗ mỏng bọc da màu xanh đậm và màu hạt dẻ, có trang hoàng bằng những đóa hoa màu vàng. Như tất cả mọi con dao con khác, con dao của anh có mũi rất nhọn dùng để mở được các ổ khóa.
Anh đặt mũi dao vào một đóa hoa, thúc mạnh mũi dao. Mũi dao đâm vào lớp da không gặp khó khăn nhưng gặp lớp gỗ thì chùn lại. harry cố đẩy mũi lao tới; lớp gỗ dày khoảng nửa phân, cho nên anh phải mất độ một hay hai phút mới đâm thủng được.
Anh lôi con dao ra. Nhờ hình cái hoa anh mới thấy được chỗ anh vừa đâm vào.
Anh trườn người vào trong rương, nhẹ nhõm người khi nhận thấy anh có thể đẩy bật lên hoặc đóng xuống được các nắp cài của rương.
Có hai cái nắp cài ở trên và ba cái ở bên hông. Anh bắt đầu với hai cái ở phía trên vì hai cái này anh thấy, rõ nhất, Anh vừa làm xong hai cái nắp cài này thì nghe có tiếng chân bước đến.
Anh liền nhảy vào trong rương và đóng nắp rương lại. Lần này anh không dễ dầu gì đóng các nắp cài bên kia. Với hai chân co lại, anh rất khó xoay xở.
Nhưng rồi anh cũng làm được.
Mấy phút sau, anh thấy thế ngồi làm cho anh đau đớn không chịu nỗi. Không làm sao nhúc nhích, trở người cho đỡ đau được. Anh phải im lặng chịu đựng.
Hơi thở anh trở nên hổn hển. Anh nghe bên ngoài có tiếng chân nhè nhẹ bước trước cửa khoang hành lý, có lẽ vì nơi này không có lót thảm và tiếng động được lớp sàn bằng tôn truyền đến chỗ anh dễ dàng. Anh nghe tiếng chân, anh đoán ít ra cũng có ba người. Không nghe tiếng cửa mở, nhưng anh nghe có tiếng chân gần bên anh, anh đoán chắc đã có người vào khoang hành lý rồi.
Bỗng có tiếng nói cất lên gần bên anh:
– Tôi nghĩ thằng khốn này không sao thoát khỏi đây được.
Lạy Chúa, Harry lo lắng nhủ thầm, xin Chúa đừng để cho anh ta nhìn thấy các nắp cài bên kia cái rương đã bật lên.
Có tiếng va chạm, ở trên đầu rương. Harry cảm thấy đứng tim. Có lẽ người cảnh sát chỉ dựa người vào cái rương thôi.
Có tiếng người nói từ xa vọng lại. Anh ta nói tiếp:
– Không có. Hắn không có trên thủy phi cơ. Chúng tôi đã lục tìm khắp nơi rồi.
Có tiếng người khác trả lời cái gì đấy. Hai đầu gối của Harry đau nhừ.
Lạy trời, anh cầu nguyện, xin các ông đi chỗ khác mà bàn?
– Ồ thế nào rồi nó cũng bị bắt thôi. Nó không thể đi bộ hai trăm cây số đến tận biên giới mà không ai thấy nó!
Hai trăm cây số. Anh phải chạy bộ một tuần mới hết đoạn đường dài như thế này, thế nào người ta cũng nhận ra được anh.
Anh không nghe ai nói gì một lát, rồi anh nghe tiếng chân họ bước đi. Tiếng chân nhỏ dần rồi tắt hắn.
Anh lấy dao, đưa đầu nhọn qua lỗ khoét trong rương để đẩy bật các nắp cài lên.
Lần này còn khó hơn nữa. Hai đầu gối đau kinh khủng đau không chịu được đến nỗi anh không có chỗ dựa thì chắc anh:
đã nhào đầu rồi. Anh thấy lo sợ, bèn đưa dao lục tìm chỗ khoét như điên. Anh sợ bị nhất trong rương này. Mnh sẽ chết ngộp mất, anh nghĩ. Anh cố giữ bình tĩnh. Một lát, anh thọc được mũi dao vào lỗ khoét.
Anh đẩy mạnh lưỡi dao. Cái nắp cài nâng lên, rồi rơi xuống lại. Anh nghiến răng, làm lại lần nữa.
Lần này thì cái nắp cài bật lên được. Từ từ, khó nhọc, anh bật mở cái nắp cài khác. Cuối cùng anh mở hai cánh, cửa rương ra và đứng dậy. Hai đầu gối đau nhức đến nổi anh suýt nữa phải rên lên, nhưng anh giữ được yến lặng.
Anh sẽ làm gì?
Anh không thể rời khỏi máy bay ở đây được.Trước khi đến New york, có lẽ anh không nên làm điều gì hết, nhưng biết có chuyện gì sẽ xảy ra không?
Chắc anh phải ẩn trốn trên máy bay, rồi đợi đêm tối sẽ lẻn ra ngoài. Làm thế có thể trốn thoát được.
Vả lại, anh không còn sự lựa chọn nào khác. Rồi mọi người sẽ biết chuyện anh ăn trộm nữ trang của bà Oxenford. Điều quan trọng nhất 1à Margaret sẽ biết chuyện này. Anh sẽ không có mặt ở đây để phân trần cùng cô.
Càng nghĩ ra đến chuyện này bao nhiêu, anh càng biết cô sẽ ghê tởm anh bấy nhiêu. Anh biết việc ăn trộm bộ trang sức Delhi sẽ có nguy cơ làm hại đến tình yêu giữa Margaret với anh; nhưng anh nghĩ nếu khi cô biết mà có mặt anh bên cô, anh có thể phân trần, biện minh cho hành động của anh được. Bây giờ có thể còn lâu anh mới gặp được cô; và nếu không may mà anh bị bắt, có thể còn nhiều năm nữa mới gặp lại nhau.
Anh mường tượng những điều cô nghĩ về anh. Thế nào cô cũng cho rằng những điều anh hứa với cô chỉ là giả dối, chắc cô nghĩ rằng anh chỉ nghĩ đến đồ nữ trang mà thôi, chứ không nghĩ gì đến cô. Thế nào cô cũng rất đau khổ, rồi cô sẽ ghét anh, khinh bỉ anh.
Nghĩ thế, anh thấy đau đớn vô cùng.
Mãi cho đến giây phút này, anh vẫn chưa thấy hết tình cảm của Margaret dành cho anh. Mối tình cô dành cho anh là mối tình chân thật. Mãi cho đến bây giờ tất cả cái gì trong cuộc sống của anh cũng đều là những thứ giả dối:
giọng anh nói, thái độ biểu hiện ra ngoài, áo quần, lối sống, tất cả đều là sự trá hình.
Nhưng Margaret đã yêu một tên ăn trộm, yêu một thằng mồ côi vô sản, yêu chính anh chàng Harry đích thực.Đây là điều tuyệt vời chưa bao giờ xảy đến cho anh. Nếu anh từ bỏ điều này, đời anh sẽ mãi mãi như bây giờ thôi, mãi mãi anh sẽ sống trong sự bất chính, mưu mô. Hay là Margaret đã dẫn anh đến chỗ ước muốn những điều tốt đẹp hơn. Anh luôn luôn ước mơ có một ngôi nhà ở nông thôn có sân quần vợt, nhưng anh chỉ thích sống trong ngôi nhà này nếu có Margaret cùng sống với anh. Anh thở dài. Hết rồi, chú bé Harry. Có lẽ anh đang trưởng thành, thành người lớn rồi.
Anh mở cái rương của bà Oxenford, lấy cái túi da đựng bộ trang sức Delhi trong túi áo ra, mở túi da lấy bộ đồ nữ trang ra xem một lần nữa. Những viên hồng ngọc lóng lánh như ánh lửa hồng. Anh nghĩ:
Có lẽ không bao giờ mình thấy lại những vật như thế này nữa.
Anh bỏ những viên đá quí vào bao da. Rồi, anh miễn cưỡng để bao nữ trang lại vào rương của bà Oxenford.