Chính những lúc như thế này mới thấy tài trình diễn tuyệt vời của Harly Marks.
Trốn chạy khỏi tòa án, ra đi với một hộ chiếu ăn cắp, với lý lịch giả mạo, tự cho mình là người Mỹ, bây giờ rủi cho anh biết bao khi gặp phải cô gái đã biết mình là tay dạo chích, và cô ta đã gọi đúng tên thật của mình.
Tự nhiên anh lâm vào cảnh thật kinh hoàng.
Những hình ảnh khủng khiếp mà anh đã bỏ lại đằng sau, bỗng nhiên hiện ra trước mắt anh:
phiên tòa, nhà tù, kết quả là cuộc sống khốn khổ của một anh chàng lính trơn trong quân đội Anh. Nhưng đột nhiên anh nhớ lại mình thường gặp may, và anh nhoẻn miệng cười Cô gái hình như đang bàng hoàng sửng sốt. Anh cố moi óc để nhớ lại tên của cô ta.
Margaret. Tiểu thư Margaret Oxenford.
Trong khi anh đang cố nhớ tên cô và tìm cách nói cho khéo léo, thì cô vẫn đăm đăm nhìn anh với vẻ kinh ngạc tột độ, khiến cô không mở miệng nói năng gì được. Anh bèn nói:
– Tôi tên là Harly Vandenpost. Nhưn g tôi nhớ cô rất rõ. Cô là Margaret Oxenford phải không? Cô mạnh khỏe chứ?.
– Tôi rất khỏe, - cô ngơ ngác đáp. Cô còn luống cuống hơn cả anh nữa. Anh phải làm chủ tình hình mới được Anh đưa tay như để bắt tay cô và cô đưa tay ra bắt. Ngay lúc ấy anh mới nghĩ ra kế. Thay vì siết tay cô thì bỗng anh cúi người xuống rất thấp; khi đầu anh gần sát đầu của Margaret, anh nói thì thào:
– Đừng nhắc nhở gì đến chuyện xảy ra ở đồn cảnh sát hết, tôi sẽ cố đền bù cho cô.
Anh ta đứng thẳng lên, nhìn vào mặt cô. Cặp mắt màu lục đậm hiện ra vẻ ngổ ngáo, anh nghĩ, nhưng đẹp. Cô ngơ ngác một lát rồi vẻ mặt tươi tỉnh lại, cô toét miệng cười. Cô hiểu và lấy làm thích thú trước đề nghị của anh. Cô bằng lòng hợp tác với anh trong âm mưu này. Cô đáp:
– Đúng rồi, anh là Hany Vandẹnpost, trí nhớ của tôi bậy quá.
Harry mở cờ trong bụng. Anh lại nhủ thầm, đúng mình là người may mắn nhất trần gian.
Margaret làm ra vẻ còn hồ nghi, cô giả vờ nhướng mày, hỏi tiếp:
– Nhưng thực ra ... chúng ta đã gặp nhau ở đâu nhỉ?
Harry tìm ra chỗ gặp nhau rất nhanh, anh đáp:
– Có phải gặp ở buổi dạ vũ tại nhà Pippa Matchingham không?
– Không ... tôi không đến đầý.
Harry quả tình không biết tí gì về cuộc sống của Margaret hết. Có phải cô ở Luân Đôn suốt cả mùa lễ hội hay là ẩn mình ở thôn quê? Có phải cô đi săn, đi tập bắn, tham gia công tác từ thiện, về quê tranh đấu cho quyền phụ nữ, vẽ tranh cảnh đồng quê ở những vùng thuộc lãnh địa của bố cô ta. Anh bèn nêu ra một địa danh có tổ chức hội lễ mùa:
– Vậy thì chắc ở Aseot rồi?
– Phải, đúng ở đấy, - cô đáp.
Anh mĩm cười sưng sướng. Anh đã âm mưu với cô được rồi.
Cô lại nói:
– Nhưng tôi tin là anh không biết bố mẹ tôi. Mẹ này, con xin giới thiệu với mẹ, đây là ông Vandenpost, ở?
– Ở Peunsylvania, - Harry nhanh nhẩu đáp. Đáp xong anh lại lo sợ. Bang Peunsylvania ở đâu nhỉ? Anh chẳng biết tí gì về bang này hết.
– Xin giới thiệu với anh, đây là mẹ tôi, phu nhân Oxenford, đây là bố tôi, hầu tước. Và đây là em trai tôi, ngài Isley.
Đương nhiên Hany đã nghe đến tên tuổi họ rồi, đây là một gia đình có tiếng tăm. Anh bắt tay họ rất thân mật, tự nhiên đến nỗi cả nhà Oxedord đều nghĩ anh ta là người Mỹ.
Ngài Oxenford có dáng dấp như thường khi, một ông già hay càu nhàu và có lẽ rất no đủ. Ông ta mặc bộ đồ tuýt màu nâu, chiếc ghilê nút cài lỏng lẻo, tay cầm cái mũ phớt mềm màu hạt dẻ.
Harry nói với phu nhân Oxenford:
– Thưa bà, tôi rất hân hạnh được biết bà, tôi rất thích đồ trang sức cũ, tôi nghe nới bà có một số đồ nữ trang đẹp nhất thế giới – Ồ xin cám ơn anh. Tôi rất say mê đồ nữ trang.
Anh hoảng sợ khi nghe giọng Mỹ của bà. Anh biết được bà là nhờ anh đọc thường xuyên những tạp chí của giới thượng lưu. Anh cứ tưởng bà là người Anh. Nhưng bây giờ anh nhớ láng máng những chuyện tầm phào anh đã nghe được về dòng họ Oxenford. Giống như nhiều gia đình quí tộc có đất ruộng cò bay thẳng cánh khác, ông hầu tước cũng đứng trên bờ vực phá sản sau chiến tranh vì ngũ cốc trên thế giời rớt giá. Một số bán ruộng bán vườn để sang định cư ở Nice hay là Florence, ở các nơi này, dù họ đã bị sa sút, nhưng với gia sản còn lại, họ vẫn có thể duy trì được cuộc sống nhàn nhã. Nhưng ông Algeruon Oxenford có vợ là người thừa hưởng một nhà sàn hàng Mỹ, và nhờ có tiền bạc của vợ mà ông ta có thể tiếp tục duy trì được nếp sống của tổ tiên. Cho nên, Hany phải ra sức đóng vai người Mỹ cho thật hoàn hảo mới được, phải không mắc một sai lầm nào hết trong thời gian 30 giờ đi trên máy bay này.
Anh quyết làm cho bà ta hài lòng. Anh nghĩ bà ta là loại người rất thích được khen, nhất là những thanh niên lịch sự khen ngợi. Anh nhìn kỹ chiếc ghim cài trên ve áo, loại áo dùng mặc đi đường có màu vàng đậm. Chiếc ghim làm bằng bích ngọc, lam ngọc, hồng ngọc và kim cương tạo hình một con bướm đậu trên đóa hoa hồng dại. Đây là loại nữ trang rất đặc sắc. Anh biết đây là loại nữ trang của Pháp có từ khoảng năm 1880, nên anh hỏi bà:
– Có phải chiếc ghim này của Oscar Massin làm ra không?
– Anh nói đúng đấy.
– Đẹp tuyệt vời!
– Cám ơn anh.
– Trông bà đẹp thêm ra. Thật dễ hiểu việc lý do tại sao ông Oxenford đã lấy bà, nhưng việc khó hiểu là tại sao bà mê ông ta cho được. Có lẽ cách đây 20 năm ông ta có vẻ quyến rũ.?
– Có thể tôi cũng có quen biết gia đình Vandenpost ở Pllỉladelphie, - bà ta nói Lạy Chúa, anh nghĩ, mong bà đừng biết. ơn Chúa, bà ta có vẻ nói khan vậy thôi.
– Tôi thuộc gia đình Glencany ở Stamford bang Connecticut, - bà nói thêm.
– Thật ư? - Harry đáp, vẻ ngạc nhiên. Anh thường nghĩ đến Phlladelphie.
Anh vừa nói anh ở Philadelphie hay là Pennsylvanie nhỉ? Anh không nhớ nữa.
Có lẽ hai nơi này cùng một chỗ. Chắc hai nơi có liên hệ với nhau. Philađdphie, Peunsylvanie. Cũng như Stanlford với Conllecticut. Anh nhớ khi người ta hỏi người Mỹ ở đâu, họ thường trả lời hai cách:
Houston, Texas, San Francisco, Califomie.
– Tôi tên là Percy, - cậu bé giới thiệu.
– Tôi Hany, - Hany đáp, anh sung sướng đã được trở lại bình thường. Danh xưng của Perey là ngài Isley, cậu ta sẽ được gọi như thế cho đến khi bố cậu mất, và khi ấy cậu sẽ thành bầu tước Oxenford. Hầu hết tầng lớp quí tộc này đều hãnh diện về tước hiệu của mình một cách rất ngu ngốc. Có một lần Harry được giới thiệu một chú nhóc 3 tuổi còn thò lò mũi nước, chú ta được gọi là Nam tước Portrail. Thế nhưng, Percy có vẻ rất chịu chơi. Cậu ta có thái độ nhã nhặn như muốn nói với Harry rằng cậu không muốn người ta gọi tên cậu kèm theo tước vị.
Harry ngồi xuống, Margaret và anh ngồi cách nhau một lối đi hẹp, rất gần đến độ họ có thể nói chuyện với nhau mà không ai nghe được. Không khí trong máy bay yên lặng như trong giáo đường.
Anh cố thư giãn một chút. Chuyến đi có dấu hiệu khó khăn rồi đấy, Marglưet đã biết tông tích của anh rồi, cho nên tình hình có thể rất nguy hiểm. Mặc dù cô đã chấp nhận giấu diếm cho anh, nhưng biết đâu cô có thể thay đổi ý kiến và tình cờ để lộ ra một vài chi tiết thật về anh. Harry phải hết sức cẩn thận đừng để cho người ta nghi ngờ gì mới được. Anh có thể qua lọt văn phòng sở di trú Mỹ được, với điều kiện là họ đừng hỏi anh những câu hỏi quá hóc búa, nhưng nếu có chuyện gì xảy ra khiến cho các nhân viên sở này nghi ngờ, họ kiểm tra lý lịch của anh, thì thế nào họ cũng phát hiện ra anh ăn cắp hộ chiếu, và thế là chuyến đi của anh hỏng bét.
Người ta dẫn một người khách đến chỗ ngồi ngay phía trước mặt của Harry.
Người khách này cao to, đội mũ quả dưa, mặc bộ đồ màu xám dậm, bộ áo quần chắc trước đây đẹp lắm. Nhưng bây giờ thì đã lỗi thời rồi Harry nhìn ông ta cởi áo măng tô, ngồi xuống ghế, bỗng anh cảm thấy lo sợ. Ông ta mang đôi giày đen to tướng cũ kỹ, bít tất len dày, áo vét cài nút chéo và chiếc ghilê màu đỏ hơi tím. Chiếc cà vạt màu xanh nước biển có vẻ như đã thắt và để nguyên như thế từ năm nay.
Harry tự nhủ, nếu mình không biết giá vé trên chiếc lâu đài bay này, chắc mình cam đoan anh chàng này là cảnh sát.
Anh có thể đứng dậy và đi xuống khỏi dây còn kịp chán.
Chắc không ai chận bắt anh. Anh chỉ việc đi ra khỏi đây rồi biến mất.
Nhưng anh đã trả 90 bảng Anh rồi. Rồi có lẽ anh phải mất hàng tuần nữa mới tìm ra chuyến tàu vượt đại dương khác, và trong lúc chờ đợi, anh dám bị bắt lại lắm.
Một lần nữa, anh nghĩ đến chuyện trốn khỏi nước Anh, và một lần nữa anh bác bỏ ý nghĩ đi ra khỏi đây. Thời buổi chiến tranh rất khó, bọn gián điệp ngoại quốc rình rập khắp nơi; nhưng điều quan trọng hơn hết là cuộc sống của kẻ chạy trốn rất khốn khổ:
phải đi ăn ở những quán ăn tồi tàn, tránh cảnh sát, không bao giờ ngừng nghĩ.
Nếu người đàn ông ngồi trước mặt anh là cảnh sát, thì chắc ông ta không theo dõi anh:
vì nếu theo dõi bắt anh thì chắc ông ta đã không ngồi ở đây, đang chuẩn bị để đi với máy bay. Harry không biết ông ta đi làm cái gì, nhưng hiện tại trước mắt là anh đang lo nghĩ đến chuyện khó khăn của mình. Margaret là người rất nguy hiểm cho anh. Làm sao để khỏi bị lộ tẩy đây. Chuyện cô ta bằng lòng che giấu cho anh, có thể là chuyện cô đùa chơi trong chốc lát. Anh không dám tin cô ta giữ kín mãi. Nhưng nếu anh làm thân thêm với cô, thì có thể cô không tiết lộ. Nếu anh lấy được cảm tình của cô, thì có lẽ cô sẽ bao che cho anh, không phản bội anh.
Tìm hiểu thêm về Margaret Oxenford, hẳn không phải là chuyện vô vị. Anh liếc mắt nhìn cô. Cũng như mẹ cô có mái tóc màu hung, làn da màu trắng mịn màng như sữa điểm chút tàn nhang, đôi mắt lục đậm linh hoạt. Anh chưa biết vóc dáng cô ra sao, nhưng anh thấy mắt cá chân xinh xinh và hai bàn chân nhỏ.
Cô mặc cái măng tô nhẹ bằng lông lạc đà rất đơn giản ngoài chiếc váy màu đỏ gạch. mặc dù áo quần may ở một tiệm may sang, nhưng cô không may theo kiểu của mẹ cô:
có lẽ khi nào cô đến tuổi lớn hơn, chín chắn hơn cô mới mặc giống mẹ. Cô không đeo đồ nữ trang quý giá:
trên người chỉ có độc nhất chiếc vòng cổ bằng ngọc trai. Nét mặt đều đặn, sắc sảo, chiếc cằm quả quyết. Cô không phải là loại người làm cho anh quan tâm đến anh thường chọn những cô kém nhan sắc, vì những người như thế anh mới dễ tán tỉnh. Margaret đẹp quá không dễ gì tán được. Thế nhưng hình như cô có cảm tình với anh, và đây là điểm bước đầu thuận lợi Anh quyết chiếm cho được cảm tình của cô.
Nicky, người tiếp viên, đi vào căn buồng. Nhìn anh chàng nhỏ con, tròn trịa, có dáng vẻ con gái, tuổi chừng đôi mươi, Harry nghĩ thầm có lẽ anh ta đồng tính luyến ái. Số nhân viên phục vụ đều có vẻ ngoài như vậy hết, anh nhận thấy thế.
Nicky đưa cho anh tờ giấy đánh máy ghi danh sách số hành khách, và số phi hành đoàn trên chuyến bay hôm nay.
Harry chăm chú đọc tờ danh sách. Anh có nghe nói đến Nam tước Philippe Gabon, nhà tỷ phú chủ trương chủ nghĩa phục hưng Do thái. Tên tiếp theo là giáo sư Carl Hartman, anh cũng biết tiếng ông ta. Còn công chúa Lavinia Bazarov thì anh chưa biết, nhưng cái tên Nga như thế này cũng làm cho anh đoán cô ta chạy trốn Cộng sản, và sự có mặt của cô ta trên chiếc máy bay này, có lẽ đã cho người ta biết rằng cô đã đem ra khỏi được đất nước mình một số tài sản kếch xù. Còn cô Lulu Bdi thì đương nhiên là anh biết rồi, cô ta là diễn viên điện ảnh. Chỉ mới cách đây một tuần thôi, anh đã dẫn Rebecca Maugham Flint đi xem phim Un Espion à Paris, chiếu ở rạp Gaunlont de Shaftesbury Avenue, trong phim này, cô ta đóng vai một cô gái gan đạ, như những phim khác. Harr rất nôn nóng muốn được làm quen với cô ta.
Chỗ ngồi của Percy quay mặt ra phía sau, nên cậu có thể thấy những gì diễn ra ở trong buồng kế tiếp.
Cậu ta lên tiếng:
– Họ đóng cửa rồi.
Harry bắt đầu cảm thấy căng thắng trở lại.
Đây là lần đầu tiên, anh ý thức được sự chuyển động nhồi lên nhồi xuống nhẹ nhàng của máy bay trên mặt nước.
Có tiếng nổ phát ra như tiếng đại bác từ một chiến trường xa vọng lại. Harry nhìn qua ô cửa sổ bên hông tàu, lòng lo lắng. Bỗng tiếng nổ tăng thêm và một chong chóng quay. Người ta cho nổ động cơ. Anh nghe tiếng máy thứ ba nổ rồi máy thứ tư. Tiếng ồn được hệ thống cách âm làm giảm bớt, người ta nhận thấy nhưng động cơ có mã lực mạnh rung lên và Harry cảm thấy lòng lo sợ tăng thêm.
Trên cầu phao, một thủy thủ tháo dây buộc chiếc thủy phi cơ ra. Harry có cảm giác ngốc nghếch là số phận của mình đã đến đường cùng khi anh thấy những sợi dây nối anh với mặt đất đã bất nhẫn rơi hết xuống nước Anh thấy bối rối vì lo sợ, và anh sợ người ta đoán được suy nghĩ của mình, cho nên anh lấy tờ báo, mở ra và ngồi gọn lỏn vào ghế hành, tréo hai chân với nhau.
Margaret chạm vào đầu gối anh. Cô khỏi cần nói to người ta mới nghe được, hệ thống làm giảm âm rất tuyệt diệu. Cô nói nhỏ với anh.
– Tôi cũng sợ.
Harry chết điếng cả người. Anh tưởng mình làm ra vẻ bình tĩnh đã thành công.
Máy bay bắt đầu di chuyển. Anh đã siết tay vào thành ghế ngồi mạnh quá, rồi anh buộc lòng phải thả ra. Cô đã thấy anh sợ. Chắc là cô thấy mặt anh trắng bệch, và anh có vẻ giả vờ đọc báo thôi.
Cô ngồi hai đầu gối khép lại sát vào nhau, hai bàn tay bấu chặt hai đùi, cô có vẻ vừa lo sợ lại vừa kích thích, như thể cô sắp trượt trên những ngọn núi phủ đầy tuyết. Hai má ửng đỏ, mắt mở to, miệng hé mở với vẻ gợi tình. Một lần nữa, Hany phân vân không biết cơ thể cô ta dưới lớp áo măng tô kia như thế nào.
Anh nhìn những người khác. Người trước mặt anh bình tĩnh buộc dây an toàn. Bố mẹ của Marganàt nhìn qua cửa sổ. Phu nhân Oxenford có vẻ liềm tỉnh nhưng ngài Onfordt thì cứ đằng hắng trong cổ mãi, dấu hiệu cho thầy ông ta đang căng thẳng. Cậu bé Percy hết sức nôn nao đến độ không có gì trên đời này có thể làm cho cậu ngồi yên được, nhưng cậu có vẻ không sợ sệt gì hết.
Harry chăm chăm nhìn tờ báo, nhưng anh không đọc được chữ nào, cho nên anh để tờ báo xuống và nhìn qua cửa sổ. Chiếc máy bay đồ sộ uy nghi tiến đi trong vũng neo tàu của cảng Southampton, để lại đằng sau những chiếc tàu thủy Bắp hàng dài dọc theo bến cảng. Chiếc thủy phi cơ đã chạy một đoạn dài và trên mặt biển vẫn còn nhiều chiếc tàu thủy với trọng tải nhỏ. Harry nghĩ thầm:
máy bay chưa thể cất cánh được.
Khi họ tiến tới, biển chuyển động mạnh hơn đến giữa cửa sông, máy bay chậm lại và đổi hướng. Máy bay lắc lư trong gió, Harry nhận thấy máy bay hướng mặt về phía gió để cất cánh. Rồi tưởng như nó đợi lúc thuận tiện, nó ngần ngừ, hơi lắc lư như con quái vật hếch cái mũi khổng lồ lên đánh hơi. Sự căng thẳng không giảm sút chút nào hết:
Harry phải ráng hết sức mới không vùng đứng dậy khỏi chỗ ngồi, hét lên yêu cầu người ta để cho anh xuống khỏi tàu bay.
Bỗng thình lình máy bay đột nhiên rít lên nghe thật khủng khiếp như một cơn bão lớn đang ào ào ùa đến, bốn động cơ đua nhau quay hết tốc lực. Harry thốt lên một tiếng kinh ngạc, nhưng tiếng ồn đã át hẳn tiếng la của anh. Máy bay có vẻ như đang thu hết sức lực trên mặt nước, như thể nó sắp chìm xuống, nhưng chỉ một lát sau, nó phóng mạnh tới trước.
Nó chạy rất nhanh, như chiếc tàu tuần tra, nhưng không có chiếc tàu thủy nào có kích cỡ như thế này mà có vận tốc nhanh như thế được. Bọt nước văng tung tóe lên các cửa sổ ở hai bên hông thu. Tốc độ 80, 90, 120 cây số giờ:
chiếc Clipper chạy lướt trên ngọn sóng. Harry muốn nhắm mắt lại, nhưng anh không dám. Anh hoảng hốt nghĩ thầm, mình chết mất.
Máy bay lại rung động mạnh như chiếc xe hơi chạy trên con đường gồ ghề.
Tại sao như thế này? Harry lo sợ máy bay đang gặp cái gì trục trặc ghê gớm, chắc nó sắp vỡ tan tành từng mảnh. Nhưng anh lại nghĩ, chắc máy bay bắt đầu vươn lên và sự rung chuyển này là do nó nhảy nhấp nhô trên đầu ngọn sóng như chiếc xuồng máy vậy. Như thế có sao không?
Bỗng sức cản của nước giảm bớt. Nhìn qua cửa sổ, Harry thấy mặt nước của cửa sông nằm nghiêng, anh biết mũi máy bay đã ngóc lên trời, mặc dù anh không cảm thấy có sự thay đổi nào hết. Anh cảm thấy buồn nôn, cố nuốt nước bọt vào bụng.
Sự rung động thay đổi. Thay vì nhảy nhót trên những vết bánh xe, bây giờ họ như nhảy từ ngọn sóng này sang ngọn sóng khác, như hòn sỏi nhảy thia lịa trên mặt nước. Các động cơ gầm rú, chong chóng quay tít trong không khí. Harry tự nhủ, có lẽ máy bay không thể bay lên được; chiếc máy bay khổng lồ như thế này có lẽ không thể nào bay lên được; có lẽ nó chỉ có thể nhảy từ đỉnh ngọn sóng này sang đỉnh ngọn sóng kia như một con cá heo thôi. Rồi bỗng nhiên, anh cảm thấy máy bay bốc lên khỏi mặt nước, thoát ra khỏi sự níu giữ của nước.
Qua cửa sổ, bọt nước không làm mờ mặt kính nữa, anh thấy mặt nước xa dần.
Lạy Chúa lòng lành, chúng tôi bay rồi, anh tự nhủ. Chiếc tàu dài khổng lồ này đang bay trên không. Bây giờ anh đã ở trên không, nỗi sợ sệt nhường chỗ cho sự ngây ngất tột cùng, như thể anh là người chịu trách nhiệm về việc cất cánh bay lên không này. Anh muốn cất tiếng reo thán phục. Nhìn quanh, anh thấy những người khác đang nhoẻn miệng cười nhẹ nhõm. Đồng thời, anh nhận ra người anh toát đẫm mồ hôi. Anh lấy khăn tay lén lau mặt, rồi vội vã nhét cái khăn ướt mồ hôi vào túi.
Máy bay tiếp tục lên cao. Harry thấy bờ biển phía Nam của nước Anh biến mất dưới chiếe cầu phao nhỏ dưới cánh máy bay, rồi anh thấy trước mặt hiện ra đảo Wight. Một lát sau, máy bay không lên cao nữa và tiếng rầm rú của động cơ dịu xuống, chỉ còn nghe tiếng rì rầm mà thôi.
Nicky lại xuất hiện, vẫn lịch sự không chê được áo vét trắng và cà vạt đen.
Bây giờ anh không cần cất cao giọng để nói, vì máy bay đang bay với tốc độ đường trường. Anh ta hỏi:
– Ông Vandenpost, ông có uống cốc tai không?
Harry nhủ thầm, mình đang cần thứ này đây. Anh bèn đáp:
– Cho tôi một ly whisky đôi. - Rồi anh bỗng nhớ mình đang đóng vai người Mỹ, anh liền lấy giọng Mỹ thật chuẩn nói thêm:
– Cho nhiều nước đá vào.
Nicky hỏi gia đình Oxenford dùng gì, rồi biến mất ở cửa trước.
Harry bồn chồn gõ mấy ngón tay lên thành ghế bành. Thảm lót sàn máy bay, tiếng rì rầm qua hệ thống hãm thanh, chỗ ngồi êm ái và màu sắc hài hòa làm cho anh có cảm giác đang ở trong một phòng giam sang trọng, dễ chịu nhưng tù túng. Một lát sau, anh tháo dây an toàn và đứng lên.
Anh đi theo hướng của người tiếp viên vừa đi, qua cánh cửa anh ta vừa đi vào. Phía bên trái là phòng chứa thực phẩm, một căn bếp nhỏ, đồ dùng toàn bằng kim khí mạ kền, anh tiếp viên đang pha đồ uống ở đấy Phía bên phải là cánh cửa vào phòng vệ sinh nam. Bên cạnh phòng vệ sinh có chiếc cầu thang hình xoắn ốc có lẽ là nơi dẫn lên phòng lái. Xa hơn, có một buồng hành khách nữa, trang hoàng theo màu sắc khác và có nhiều thành viên trong phi hành đoàn mặc đồng phục đang ngồi. Harry tự hỏi không biết họ làm gì ở đấy, nhưng bỗng anh nhớ ra chuyến bay kéo dài 30 giờ, những nhân viên trong đoàn khi thay phiên phải có chỗ để nghỉ ngơi.
Anh quay lui, đi qua nhà bếp, qua buồng anh ngồi, rồi qua buồng tiếp đó, buồng hồi nãy họ mới lên tàu, buồng này lớn hơn một chút. Xa hơn về phía đuôi tàu, có ba buồng cho hành khách nữa, trang hoàng màu sắc khác nhau, thảm lót sàn màu xanh lam, tường màu lục nhạt hay thảm màu xám nhạt với tường màu be. Giữa các buồng đều có bậc cấp nối nhau, vì thân tàu cong cong và sàn tàu càng về phía đuôi càng chổng lên. Đi qua các buồng, anh hờ hững gật đầu chào những người khách khác, như phong thái của một thanh niên Mỹ giàu có và tự tin.
Trong buồng thứ tư, một bên có hai ghế nệm dài nhỏ, một bên là buồng vệ sinh nữ. Bên cạnh cửa buồng vệ sinh, có một cái thang áp sát vào vách dẫn lên một cánh cửa sập ở trên trần. Lối đi ở giữa, chạy dài cả con tàu, tận cùng bằng một cánh cửa. Đây chắc là cánh cửa của căn buồng nổi tiếng dành cho những cặp vợ chồng trẻ mới cưới, căn phòng đã gây nhiều lời bình luận trên báo chí.
Harry nắm tay nắm vặn thử cánh cửa khóa kỹ.
Quay lại, anh rảo bước theo lối đi qua các buồng, đưa mắt nhìn hành khách ngồi trong đó.
Người đàn ông ăn mặc lịch sự, áo quần cắt may theo kiểu Pháp, chắc là ông Nam tước Gabon. Ngồi bên cạnh ông ta là một người có vẻ bị dao động mạnh, đi giày chân trần không mang vớ. Thật kỳ dị. Có lẽ đây là giáo sư Hartman. Ông ta mặc bộ đồ cũ rích trông thật dị hợm, và có vẻ đói khát.
Harry nhận ra Lulu Bell, nhưng anh rất ngạc nhiên khi thấy cô ta như người đã đến tuổi 40. Anh cứ tưởng cô ta còn trẻ như các nhân vật cô đóng trong phim, nghĩa là khoảng 19 tuổi. Cô ta mang đồ nữ trang hiện đại, rất sang, không chê vào đâu được:
đôi hoa tai có hình chữ nhật, vòng đeo tay to tướng và ghim cài áo bằng đá thạch anh, có lẽ mun ở nhà hàng Boucheron.
Anh gặp lại cái bà tóc vàng mà anh đã để ý trong phòng khách của khách sạn South Westeru. Bà ta không còn đội mũ nữa. Cặp mắt xanh và da trong sáng. Bà vừa cười vừa nghe người đàn ông nói chuyện rõ ràng bà ta yêu ông này rồi, mặc dù ông ta không đẹp trai. Nhưng Harry nhớ ra là phụ nữ thường yêu đàn ông làm cho họ vui cười.
Còn cái bà có nước da nhăn nheo mang chiếc mề đay kim cương do Fabergé làm, có lẽ là công chúa Lavinia. Bà ta tỏ vẻ ghê tởm như một bà Công tước bị lạc vào chuồng heo.
Buồng lớn nhất nơi họ lên tàu hồi nãy còn trống trải, nhưng bây giờ Harry thấy phòng này đã biến thành phòng khách. Trong phòng đã có bốn hay năm người đang ngồi, có cả cái ông to con ngồi trước mặt Harry.
Mấy người đàn ông đang chơi bài, bỗng anh nghĩ nếu có một tay đánh bạc chuyên nghiệp, chắc thế nào anh ta cũng kiếm được bộn tiền trong thời gian đi máy bay như thế này.
Anh về lại chỗ ngồi, người phục vụ mang whisky đến cho anh. Harry gợi chuyện:
– Máy bay còn trống đến một nửa.
– Không đâu, chúng tôi đã hết chỗ rồi. – Nicky lắc đầu, đáp Harry nhìn quanh.
– Trong buồng này còn trống đến bốn chỗ kia mà, và trong các buồng khác cũng thế.
– Thực ra thì buồng này có đến 10 chỗ ngồi khi bay ban ngày. Nhưng khi ngủ thì chỉ có sáu chỗ. Sau khi ăn tối xong, ông sẽ thấy chứng tôi chuẩn bị giường ngủ như thế nào. Trong lúc chờ đợi, quí vị cứ hưởng cảnh rộng rãi cho thoải mái.
Harry uống whisky từng hớp .nhỏ. Anh tiếp viên rất lễ phép và năng nổ, nhưng không khúm núm như những người phục vụ trong các khách sạn ở Luân Đôn. Harry phân vân không biết người Mỹ đều xử thế như vậy hết hay sao. Anh mong sao như thế. Vì cứ mỗi lần vào các nơi vui chơi của xã hội thượng lưu ở Luôn Đôn là anh thấy hơi nản, tại. đây giới phục vụ thường xun xoê khúm núm khi anh đưa ngón tay lên gọi họ.
Anh thấy đã đến lúc thắt chặt thêm tình thân ái với Margaret Oxenford, cô ta vừa nhấm nháp sâm banh vừa lật xem một tờ tạp chí. Anh tán tỉnh hàng chục cô gái trạc tuổi cô ta cũng vào những lúc như thế này. Anh liền xổ cái giọng điệu tán tỉnh cố hữu của anh ra:
– Cô ở Luân Đôn phải không?.
– Chúng tôi có ngôi nhà ở Quảng trường Eaton, nhưng chúng tôi thường về nông thôn nghỉ ngơi, - cô đáp. - Đất đai của chúng tôi nằm ở vùng Berkshire.
Bố tôi còn có một ngôi nhà đi săn ở Tô Cách Lan nữa. - Cô nói bằng một giọng dửng dưng như thể câu hỏi của anh là một gánh nặng, cô muốn trả lời cho xong để dẹp bỏ gánh nặng ấy đi.
– Cô đi săn đuổi thú chứ gì? - Harry hỏi. Đây là lối đặt câu hỏi xưa cũ. Hầu hết những người giàu có đều đi săn đuổi thú và họ thích nói đến chuyện này.
– Không hẳn, - cô đáp. - Chúng tôi bắn nhiều hơn.
– Cô mà bắn à? - Anh ngạc nhiên hỏi. Săn bắn không được các bà thích như săn đuổi.
– Khi người ta cho phép.
– Tôi đoán chắc có nhiều người hâm mộ cô lắm.
Cô quay qua anh, hỏi nhỏ.
– Tại sao anh hỏi tôi những câu ngốc nghếch như thế?
Harry bối rối, không biết trả lời sao. Anh đã hỏi hàng chục cô gái khác những câu hỏi như thế này mà chẳng ai phản ứng như thế hết. Anh hỏi:
– Cô thấy những câu hỏi như thế ngốc nghếch à?
– Vì anh sẽ châm biếm khi biết tôi ở đâu và tôi có đi săn không.
– Nhưng người trong xã hội thượng lưu thường nói với nhau như thế mà.
– Anh không phải là người trong xã hội thượng lưu, - cô trả lời một cách thẳng thừng.
– Đúng rồi! - Anh thốt lên bằng cái giọng tự nhiên của mình. - Cô nói năng rất thẳng thắn!
Cô cười nói:
– Thế hay hơn.
– Tôi bối rối quá không giả giọng được.
– Tốt. Tôi chịu đựng được giọng Mỹ của anh, nếu anh hứa với tôi là đừng nói chuyện mưa nắng bâng quơ với tôi nữa.
– Cám ơn người đẹp, - anh đáp, lấy lại phong thái của Harry Vandenpost.
Không phải dễ dàng tán tỉnh cô gái, anh nghĩ. Đây là một cô gái có ý chí.
Nhưng như thế càng làm cho cô hấp dẫn hơn.
Cô nói tiếp:
– Anh đóng vai này giỏi đấy. Nếu không biết anh, thì không đời nào tôi đoán ra đấy là giọng anh giả. Tôi nghĩ đây là phần chính trong Mođus Operanđi của anh.
Harry thường bực mình khi nghe ai nói tiếng La tinh. Anh lầu bầu đáp:
– Có lẽ thế - nhưng anh chẳng hiểu cô muốn nói cái gì hết. Anh phải thay đổi đề tài nói chuyện mới được. Anh phân vân không biết làm sao gây được cảm tình với cô Rõ ràng là anh không thể tán tỉnh cô như cách anh đã tán tỉnh nhiều cô gái khác. Có lẽ cô ta là loại gái có tài thông linh học, có tà thuật, có thuật chiêu hồn.
– Cô có tin vào ma quỷ không? - Anh hỏi.
Câu hỏi làm cho anh nhận câu trả lời còn gay gắt hơn:
– Anh cho tôi là ai thế? Và tại sao anh đổi đề tài?
Với bất cứ một cô gái nào khác, thế nào anh cũng biến chuyện này thành một trò đùa, nhưng không biết sao, Margaret lại gây cho anh một ấn tượng mạnh như thế này. Anh đáp:
– Vì tôi không biết tiếng La tinh.
– Anh nói cái quái gì thế?
– Tôi không hiểu những từ như Mođus anđy.
Bỗng cô có vẻ ngạc nhiên, tức tối, rồi mặt cô tươi tỉnh trở lại, cô lập lại thành ngử Mođus Operanđi.
– Tôi không được học hành nhiều, nên không hiểu những chữ như thế, - anh nói.
Câu nói của anh đã tác động đến cô một cách thật bất ngờ. Cô đỏ mặt ra vẻ xấu hổ, rồi ấp úng nói:
– Tôi rất buồn. Tôi nói năng có vẻ cục cằn thô lỗ.
Anh kinh ngạc khi thấy thái độ thay đổi của cô.
Các cô gái thường thích phô trương kiến thức học vấn của mình. Trải lại Margaret không như thế, anh sung sướng thấy cô có tư cách hơn phần Đông các cô đồng giai cấp. Anh nhìn cô cười, rồi nói:
– Không sao, bỏ đi.
Rồi cô nói thêm khiến cho anh càng ngạc nhiên hơn nữa:
– Tôi biết nói ra anh sẽ ngạc nhiên, nhưng trên thực tế là tôi không được học hành gì hết.
– Con nhà giàu mà không được học hành à? - Anh hỏi, vẻ nghi ngờ, không tin lời cô nói.
Cô gật đầu.
– Chúng tôi không đi học ở trường.
Harry bàng hoàng. ở Luân Đôn, một người thợ biết tự trọng, cũng cảm thấy xấu hổ nếu họ không cho con cái đến trường; họ sẽ bị mọi người nhìn với ánh mắt khinh khi như bị cảnh sát đến soát nhà hay bị nhân viên tòa án đến trực xuất ra khỏi nhà. Và khi đứa bé không có giày để đi học thì mẹ chúng rất mất mặt.
– Nhưng trẻ con phải đến trường, đấy là luật mà!
– Harry cãi lại.
Chúng tôi học với những bà gia sư ngu ngốc.
– Vì thế mà tôi không thể vào đại học được. Tôi chẳng có văn bằng gì hết - Cô có vẻ buồn. - Tôi nghĩ nếu được vào đại học, chắc tôi sung sướng lắm.
– Thật khó tin cho nổi. Tôi cứ nghĩ là những người giàu, có thể làm bất cứ gì họ muốn.
– Với bố tôi thì không thế.
– Còn cậu bé thì sao? - Harry hỏi vừa hết cằm chỉ Percy.
– Ồ, nó thì đương nhiên được đi học, nó học ở Eton, - cô đáp, giọng hằn học.
– Đối với con trai thì khác.
Harry ngẫm nghĩ, rồi anh thận trọng hỏi cô:
– Như thế có nghĩa là cô không bằng lòng bố cô về một số vấn đề ... như chính trị chẳng hạn?
– Đúng thế, - cô đáp, giọng tức tối. - Tôi theo chủ nghĩa xã hội.
Harry nghĩ, có lẽ đây là chìa khóa cho anh dùng để mở cánh cửa đến gần cô hơn. Anh tuyên bố.
– Tôi là đảng viên đảng Cộng sản. - Quả đúng thế Anh gia nhập đảng năm 16 tuổi và chỉ ba tuần sau là anh từ bỏ đảng. Anh đợi phản ứng của cô trước khi quyết định sẽ nói gì tiếp Cô liền nóng nảy hỏi:
.
Tại sao anh từ bỏ đảng.
Sự thực là vì những buổi hội họp chính trị làm cho Harry hết sức ngột ngạt, nhưng có lẽ anh không nên nói ra cho cô biết điều này thì hay hơn. Nên anh chỉ đáp:
– Thật khó nói lắm.
Nói thế, nhưng anh đoán rằng chuyện này không dễ gì giấu cô được. Quả vậy, cô khăng khăng nói tiếp:
– Hẳn là anh phải biết lý do tại sao anh từ bỏ đảng chứ?
– Tôi nghĩ là vì đảng có vẻ giáo điều quá.
Cô cười khi anh nói thế.
– Tôi hiểu anh muốn nói gì rồi.
– Ngoài ra, tôi nhận thấy họ chủ trương xóa bỏ giàu nghèo, trả lại cho thợ thuyền sự giàu có mà họ đã làm ra.
– Tại sao anh lại hơn họ?
– Này nhé, tôi lấy tiền bạc ở khu giàu có Mayfair, mang về cho khu lao động Battersea.
– Anh muốn nói anh chỉ ăn trộm của những người giàu thôi?
Ăn trộm của người nghèo thì có gì? Họ làm gì có tiền bạc mà ăn trộm?
Nghe nói, cô lại cười.
– Nhưng anh không cho biết những thứ anh có một cách phi pháp, như Robin Rừng Rú chứ?
Anh suy nghĩ để xem phải nói gì với cô. Nếu anh cứ nói đại rằng anh ăn trộm của người giàu để cho người nghèo thì liệu cô có tin không. Nếu cô không tin thì cô cũng có thể ngây ngô - nhưng, anh tin chắc cô không ngây ngô về điểm này. Anh nhún vai, đáp:
– Tôi không phải là người đi làm công tác từ thiện. Nhưng sự thực là thỉnh thoảng tôi cớ giúp đỡ nhiều người.
– Thế thì tuyệt quá rồi, - cô nói. Mắt cô long lanh, sáng ngời, trông cô thật đẹp. - Tôi tin trong xã hội có những người như anh, nhưng tôi hoàn toàn ngạc nhiên khi được gặp anh và nói chuyện với anh.
Đừng quá tin, cô em ơi, Harry nhủ thầm. Anh hết sức. đề phòng những phụ nữ tỏ ra quá có cảm tình với anh, vì khi họ khám phá anh chỉ là kẻ tầm thường, họ sẽ hết sức đau đớn. Cho nên anh trả lời với vẻ bối rối thật sự – Tôi không có gì đặc biệt hết. Tôi chỉ là người xuất thân từ một thế giới mà cô chưa bao giờ thấy thôi.
Cô nhìn anh, ánh mắt có vẻ như nói với anh rằng cô vẫn xem anh là một người đặc biệt.
Như thế là đủ rồi, anh nghĩ. Đã đến lúc thay đổi đề tài – Cô làm cho tôi bối rối, - anh nói, cảm thấy hổ thẹn.
– Xin lỗi anh, - cô vội vàng trả lời. Cô suy nghĩ một lát rồi hỏi anh:
– Tại sao anh sang Mỹ?
– Để chạy trốn cô Bebecca Maugham Fhnt.
Cô phá ra cười – Không, nói nghiêm túc đi.
Anh nghĩ, khi cô đã quyết bắt cho được cái gì, cô sẽ giống như một con chó săn:
cô không thả con mồi, vì thế cô rất nguy hiểm. Anh đành trả lời:
– Tô phải đi để khỏi vào tù.
– Sang bên ấy anh sẽ làm gì?
– Tôi định. sẽ xin gia nhập vào ngành không quân Canađa. Tôi thích học lái máy bay.
– Thế thì hay biết mấy!
– Còn cô. Tại sao cô đi Mỹ?
– Chúng tôi chạy trốn, - cô đáp với giọng đau khổ.
– Cô muốn nói gì thế?
– Nói cho anh hay, bố tôi là người theo phát xít.
Harry gật đầu.
– Tôi có đọc bài viết về ông trên báo.
– Thế đấy ông xem bọn Quốc xã là tuyệt vời, cho nên ông không muốn chiến đấu chống lại chúng. Vả lại, nếu ông còn ở tại nước Anh, ông sẽ bị chính quyền bỏ tù.
– Vậy là gia đình cô sẽ sang sống ở Mỹ – Gia đình mẹ tôi gốc ở Counecticut.
Gia đình cô sẽ ở lại bên ấy bao lâu?
– Ít ra cha mẹ tôi cũng ở đấy cho đến hết chiến tranh. Có lẽ họ không trở về nữa.
– Nhưng cô, cô không muốn qua bên ấy phải không?
– Đương nhiên là không, - cô hăng hái đáp. – Tôi muốn ở lại để chiến đấu.
Chủ nghĩa phát xít là chủ nghĩa rất khủng khiếp. Cuộc chiến tranh này rất quan trọng và tôi muốn đóng góp công sức của mình vào. - Cô nói đến chiến tranh ở Tây Ban Nha, nhưng Harry chỉ nghe mang máng thôi. Một ý nghĩ rất kỳ lạ vừa nảy ra trong óc anh, ý nghĩ hết sức hấp dẫn đến nỗi tim anh đập thình thịch, và anh phải gắng hết sức mới giữ cho được vẻ mặt bình thường.
Khi chạy trốn chiến tranh, không đời nào người ta để của cải quí giá lại ở nhà.
Ý nghĩ chỉ đơn giản như thế. Người nông dân khi chạy trốn quân xâm lược, họ lùa theo trâu bò súc vật.
Những người dân Do thái chạy trốn bọn quốc xã, họ mang theo vàng bạc, khâu trong lai áo măng tô. Sau năm 1917, những nhà. quí tộc Nga như Công chúa Lavinia này đã trốn chạy sang châu Âu, họ ôm khư khư vào lòng những quả trứng vàng và đá quí của Fabergé.
Ngài Oxenford chắc đã tính đến chuyện không bao giờ trở về nữa. Ngoài ra, chính phủ đã ra sắc lệnh kiểm soát việc đổi ngoại tệ, để cấm những người Anh giàu có chuyển hết tiền bạc ra nước ngoài. Gia đình Oxenford biết họ sẽ không bao giờ lấy lại được những gì họ để lại tại quê nhà Chắc chắn là họ mang theo ,của cải quí giá.
Mang theo cả gia sản trong hành lý thì có phần nguy hiểm, dĩ nhiên. Nhưng làm thế nào để bớt nguy hiểm hơn Gởi qua đường bưu điện à? Gởi theo đường bưu cục đặc biệt à? Để ở nhà cho chính quyền căm ghét họ tìm cách trưng thu à, hay để cho đội quân xâm lăng cướp bóc, hay thậm chí cho ủy ban cách mạng “giải phóng” sau khi chiến tranh chấm dứt không. Gia đình Oxenford chắc chắn đã mang theo nữ trang. Nhất là họ phải mang theo bộ đồ trang sức Delhi ... Nghĩ đến chuyện này, anh thấy nghèn nghẹn khó thở.
Bộ trang sức Delhi là bộ nữ trang danh tiếng nhất của phu nhân Exenford.
Nó gồm cả các thứ bằng hồng ngọc và kim cương gắn trên vàng, một chiếc vòng cổ, đôi hoa tai và một cái vòng đeo tay rất hài hòa nhau. Hồng ngọc lấy từ Miến Điện, loại ngọc rết hiếm và hết sức khổng lồ. Chúng được Tướng Robert Clive mang vào Anh từ thế kỷ 18, ông tướng này có bí danh là Clive Ấn Độ, và số ngọc này đã được những người thợ kim hoàn của Hoàng gia chế tác thành đồ trang sức.
Người ta nói bộ trang sức Delhi này có giá đến một phần tư triệu bảng Anh, một số tiền quá nhiều, một người cả đời tiêu không hết.
Và chắc chắn số tiền ấy hiện đang ở trên máy bay.
Không có tay đạo chích chuyên nghiệp nào lại dám ra tay trên tàu thủy hay trên máy bay, vì số nghi can sẽ hết sức dễ tìm. Hơn nữa, Harry đang đội lốt một người Mỹ, đi với hộ chiếu giả, chạy trốn tòa án và đang ngồi trước mặt một cảnh sát. Họa điên mới đi lấy bộ trang sức này. Chỉ nghĩ đến chuyện này thôi, anh đã run cả người rồi.
Thế nhưng biết bao giờ mới có lại được một trường hợp như thế này. Bỗng nhiên anh cần có những thứ nữ trang ấy như người chết đuối cần không khí.
Dĩ nhiên anh không thể bán bộ trang súc ấy với số tiền 250 ngàn bảng Anh.
Nhưng anh có thể kiếm được số tiền bằng một phần mười số này, nghĩa là quãng hơn 100 ngàn đô la.
Với số tiền như thế này thôi, đủ cho anh dư sức sống bình an cho đến ngày cuối đời.
Nghĩ đến chuyện có nhiều tiền khiến anh chảy nước miếng. Harry đã thấy bộ nữ trang này trên ảnh rồi. Những viên đá quí trên chiếc vòng cổ hết sức hài hòa; những viên kim cương làm nổi bật những viên hồng ngọc như nước mắt trên má của hài nhi; còn những viên đá quí nhỏ hơn, ở đôi hoa tai và ở chiếc vòng đeo tay, có tỷ lệ rất tương xứng, đẹp mắt. Tất cả các thứ này đeo trên người đẹp thì không có gì đẹp hơn. Harry nghĩ chắc sẽ không có dịp nào anh được ở gần kiệt tác này nữa. Không bao giờ có dịp nữa.
Anh phải xoáy bộ trang sức này mới được.
Nguy hiểm thì nhiều - nhưng anh thường gặp may.
– Tôi nghĩ anh không nghe tôi nói thì phải, - Margaret nói.
Harry bỗng nhận ra anh không chú ý nghe cô nói gì hết. Anh cười, đáp:
– Xin cô thứ lỗi. Một câu nói của cô đã làm cho tôi mơ mộng.
– Tôi biết, - cô đáp. - Cứ nhìn vẻ mặt của anh, tôi biết anh mơ đến người anh yêu.