Trên khu quảng trường một rạp xiếc đã căng lên, và cách chúng tôi chỉ chừng mười thước, trong đám trẻ nhỏ đang vui thích chạy lăng xăng giữa những chiếc xe chở hàng có mui và mấy cái chuồng thú đã được dỡ xuống, giữa những diễn viên tung hứng vẻ mặt điềm nhiên, mấy anh chàng diễn trò nuốt lửa khó đăm đăm và các diễn viên nhào lộn uốn dẻo, chúng tôi đã nhìn thấy con bé người quen cũ của mình. Nó nhìn em không rời mắt, mắt nó sáng lên, còn đôi chân màu đồng thau của nó thì kẹp chặt, cứ như thể đang ôm ấp yêu đương, vào đôi mạn sườn đen bóng của con ngựa đang bồn chồn giậm móng. Đúng lúc đó, một cô gái Amazon cao lớn, rõ ràng là người của gánh xiếc, ngực phẳng lì một cách bất thường, tay nắm cây roi cưỡi ngựa đang phi thẳng về phía quán chúng tôi, cắt qua cái vệt vô hình nối những cặp mắt của đám phụ nữ trẻ xoáy vào nhau những cái nhìn chằm chặp, bỗng khựng lại, sau khi cảm nhận một cách cơ học, những luồng năng lượng xung đột và kích động, xoắn bện lấy nhau của chúng. Cô ta đưa mắt nhìn xung quanh và phát khùng khi trông thấy cả lũ chó xén lông đang run rẩy vì bị kích thích, đột nhiên nhất loạt phởn chí kêu ăng ẳng, còn con đười ươi non xích vào chấn song thì hung hãn, loay hoay tìm cách chui ra khỏi chuồng, hai con báo mắt vàng đang âu yếm vờn nhau thì khe khẽ gầm gừ, phụ lòng mong đợi của mấy diễn viên dạy thú trông xanh xao đang ráo riết giật sợi dây tròng cổ, nhưng chủ yếu, cứ như thể vâng theo hiệu lệnh của một cây đũa thần, là nụ cười mang ý nghĩa duy nhất và tàn khốc đối với tình yêu trong khoảnh khắc đã đánh mất những ảo tưởng của cô gái Amazon trên gương mặt nữ kỵ sĩ trẻ, còn cái ảo ảnh của người mà cô bé con từng hàng giờ đặt trên lưng con ngựa chân thon, dễ kích động dẫn đi vòng quanh, bỗng chốc được vật chất hóa và hiển hiện rành rành trước tất cả bàn dân thiên hạ. Đau đớn, choáng váng, cô gái Amazon lao tới, giật phắt đĩa cá rán trên tay em quăng mạnh, làm món nước xốt vàng óng tung tóe cả vào chiếc áo phông màu đỏ chói bó sát người của tôi, cô ta ném, hệt như ngày xưa Apollo đã ném chiếc đĩa khủng khiếp của mình, vào đầu kẻ bội bạc, dồn hết vào đó nỗi hờn giận tích tụ suốt mấy năm qua và toàn bộ sức mạnh của cơn mê đắm bị khinh khi, hờ hững. Và trong cảnh tượng bắt đầu nhốn nháo, sau khi gạt tay người nào đó đang cúi mình xuống cô diễn viên xiếc thú đã gục ngã sóng soài, em ôm lấy cái đầu con bé trên tay rồi hôn đôi môi hé mở của nó, sau đó - vào vết thương sủi bọt trên thái dương, và đôi môi em trở nên ướt đẫm và đỏ chói, còn dọc theo đôi cánh tay trắng mịn, những ngón tay lùa trong mớ tóc đen xoăn của con bé vẫn không thôi mỉm cười, một dòng máu trộn lẫn món cá bốc mùi dầu ô liu tuôn chảy lặng lẽ. Một tháng sau em còn nhớ đến cô diễn viên xiếc bất hạnh đó không? Em đã nghĩ đến ai, khi ngồi hút điếu thuốc thanh mảnh trên ban công có những tay vịn xoắn ốc mà ngoài cánh cửa mở ra từ phòng ngủ chỉ thông với cái cửa sổ xếp khép kín tối om của căn bếp, khi em đăm chiêu dõi theo dưới ánh đèn chập chờn đùng đục chiếc áo trắng như con bướm nhỏ của cậu bé yêu quý thấp thoáng trên chiếc xe đạp mờ ảo trong bóng tối, khi đâu đó rất gần cạnh em vẳng đến tiếng cười lanh lảnh của đàn bà, còn xa xa tiếng những người chở thuyền vui vẻ át đi, khi những nhà thờ và lâu đài trang hoàng sang trọng với những mặt tiền khảm đá cẩm thạch hoa uể oải hút hơi đêm man mát, khi gợn sóng nhấp nhô, bơi trên mặt nước của cái đầm tĩnh lặng cùng bốn trăm con kênh là đường cong nhẹ nhõm của những cây cầu soi bóng, và mơ màng co sát bên nhau những con phố cổ cong cong nhỏ hẹp chen chúc các dãy ngang những ngôi nhà thấp lợp ngói đỏ? Khổ thay cho tôi, nếu bất công làm mếch lòng em, nhưng tôi nghĩ rằng khi đó em đã chẳng còn nhớ đến chuyện gì tồi tệ hết.
Và vào một buổi sáng xanh lơ lộng lẫy, tỏa quanh mình vẻ đẹp của tình yêu mới tinh khôi, em đã rộn rã khua gót trên những bậc đá gần đám thuyền bè lắc lư và những dây phơi áo quần chăng ngang qua phố, chưa kịp chia tay với cậu bé hãy còn đỏ bừng mặt vì hạnh phúc bất chợt, em đã cười vang rải thức ăn cho lũ chim câu của Thánh Mark 7, khách qua đường bất giác chậm bước ngoảnh nhìn ngỡ ngàng, thán phục, bởi trong đời họ chưa hề và không chắc hy vọng sẽ thấy trong tương lai một đôi trẻ xinh đẹp nhường kia, trông như thể mới tức khắc từ những đám mây trên trời sa xuống mặt đất. Đàn bồ câu rộn ràng bay lên, lượn vòng trên quảng trường, và như cười nhạo định luật vạn vật hấp dẫn, cũng đã sẵn sàng bay bổng lên cao những con sư tử có cánh và các bức tượng thiên thần tạc bằng đá, và thật nhiều ánh sáng, thật nhiều những đôi cánh bao quanh hai người, khiến người ta cảm tưởng đang chờ lệnh để bay lên trời một đôi trẻ rực rỡ hào quang, bốn con ngựa màu đồng thau bồn chồn gõ móng đang tận tụy và si mê ngước nhìn cả hai từ phía cổng chính ngôi nhà thờ có năm quả chuông nổi tiếng khắp thế giới. Bốn con ngựa to lớn đó đã được đưa đến đây vào năm 1204 từ Constantinopol, là nơi mà từ đó đã du nhập đến thành phố huyền thoại này cả tục sùng bái chim bồ câu nổi tiếng không kém những chuyện kỳ lạ khác của nó.
Nhưng tôi vẫn đang hình dung một cách sống động cái tiếng cười thật vui vẻ, chấn động tự thẳm sâu con người em, khi dưới những ánh nhìn thán phục của khách qua đường, em tung hàng vốc vụn bánh cho lũ chim của tình yêu béo mẫm gù gù rầm rĩ. Chắc là em còn nhớ rõ những quả trứng xanh lơ mà cách đây hoàn toàn chưa lâu cậu bé si tình đã mang cho em với vẻ ranh mãnh ngờ nghệch, và em nảy ra ý định mời cậu đến chỗ chúng ta dùng bữa, đã chú ý để thực đơn gồm toàn những món kích thích dục tình. Còn có cái gì mà trí nhớ đáng kinh ngạc và trí tưởng tượng mạnh mẽ luôn tìm kiếm những trò vui của em không mách bảo! Trên bàn bày la liệt các món, nào đỗ quả, nào hành trắng nõn muối chua, nào cải bắp dại brassica erica, nào đậu ván, và cả trứng, cả mật ong, cả quả thông lọng, cả thịt trai, cua và ốc, cả món pa tê gan ngỗng, cả nước ép cây cẩm quỳ, cả món rễ cây tươi rói của nhiều loại phong lan trôi nổi trong nước sữa dê được gọi tên một cách mỹ miều là satyrion, và cả món ớt bột trộn hạt tầm ma, cả món lõi cành lựu, cả rễ cây khoa anh thảo dại, cả rượu vang lâu năm pha bột cây gai tường pyrethron, - tất tật những gì mà những dân Hy Lạp sành sỏi khoản này cho rằng có thể thổi bùng lửa dục và tăng cường khả năng hưởng hoan lạc ái tình. Ngoài ra, còn có cả thứ thức uống ái tình vô địch của người Trung Hoa là rượu vang ngâm ngọc hoàn của con cáo, món mật ngỗng trị chứng liệt dương, món mỡ cừu đun nóng có mùi rất khó ngửi vì có pha mấy giọt độc dược cantaridin chiết từ bạch huyết người và cơ quan sinh dục của con bọ ban miêu màu xanh ánh vàng lytta vesicatoria và quả tinh hoàn bên phải của con cừu nằm trang nghiêm cô độc, nhô hẳn trên mặt bàn trong chiếc chén bằng bạc. Hình như cậu bé là dân gốc vùng Hạ Italy, nơi mà nếu theo nhận xét những người Sibaris được nhắc đến trong ngạn ngữ, là những kẻ hết sức hãnh diện bởi nghệ thuật ăn nhiều uống nhiều. Hoặc là vì như vậy, hoặc là để không làm mếch lòng bà chủ nhà, cậu đã nếm gần như tất cả các món được thết đãi. Dưới tác dụng của rượu vang đã uống, cậu bé bình thường vốn trông rất mơ mộng và ẻo lả, trở nên hồng hào và linh hoạt hẳn. Và càng thêm rõ cậu xinh đẹp đến nhường nào. Mái tóc cắt ngắn màu tàn tro của cậu mềm mại, dày như đám rêu rừng. Đôi mắt xanh của cậu gợi liên tưởng đến những tia ánh sáng mặt trời xuyên xuống lòng sâu thẳm của đại dương. Đôi môi đầy đặn của cậu mọng và mềm như thịt quả nhiệt đới. Đôi má căng tròn ánh lên màu lửa lựu phủ lớp lông tơ thiếu nữ không màu. Còn tấm thân mềm mại bao bọc bởi làn da săn chắc, êm mượt và trắng như sữa của cậu đẹp không kém thân thể của chính Adonis. Về sau em vừa cười vừa kể cho tôi nghe, rằng cậu bé của chúng tôi đeo trên cổ chiếc bùa phallic (tượng dương vật) rất đẹp để tránh "con mắt độc", rằng về tất cả mọi chuyện, mặc dù còn non, cậu thiếu niên tỏ ra là là một người tình cực kỳ đam mê và không biết mệt, rằng cậu ta hoàn toàn có thể lặp lại chiến công thứ mười ba của Hecquyn. Giá em biết lúc đó tôi đã khó khăn thế nào để có được cái nụ cười đáp lại ấy!
Nhưng chẳng bao lâu sau chúng tôi đã rời thành phố đó. Còn sang một ngày khác, sau cuộc ra đi của chúng tôi, cậu bé đâm ra tiều tụy cũng lên đường xuống miền Nam và trở thành người săn bắt hải miên, nhưng cả công việc ấy cũng không đủ để làm yếu đi cái sức lực đòi hỏi được giải thoát mà cậu đã bị chuốc cho ở cái bữa ăn cùng với em hôm đó, và cậu lại bị thôi thúc phải lên đường.
*
Khi trời chập choạng, chui ra khỏi chiếc xe ô tô xin đi nhờ dọc đường của một bà góa mau miệng, nói nhiều, cậu khoan khoái vươn vai cuốc bộ về phía những ngôi nhà sáng ánh đèn của một khu dân cư ở phía trước mặt, và như có sự trùng hợp kỳ lạ, chính là nơi vào năm 1452 đã ra đời cái kẻ ghen tị kinh khủng với Dedal là con người khéo léo và có tài tưởng tượng tên gọi Leonardo 8. Người này, như thể bởi ảo giác, luôn bị ý nghĩ về những chiếc cánh ám ảnh, và có một lần, vào một buổi sáng trong trẻo, đã hy vọng tiến hành một chuyến bay từ đỉnh Thiên Nga “để làm đầy chật thế giới bởi sự sửng sốt và những tiếng đồn toàn viết về bản thân mình”. Nhưng kỷ lục của Dedal không bị đánh đổ, và đỉnh Thiên Nga đã không là điểm tựa thân thiện cho con người khoác cánh muốn bay vào bầu trời, và không phải về cái kẻ gàn dở đó của chúng ta, cũng không phải về bất cứ ai về sau này đã bay 33 giờ không nghỉ từ New York đến Paris, mà các đại diện hoan hỉ của “thế giới sửng sốt” đã rắc 1800 tấn những vòng giấy bay chấp chới ngoạn mục theo ngọn gió. Leonardo do hạn chế bởi tuổi tác già nua, đã sáng tạo nên một sinh vật quái đản mọc cánh mà những kẻ đương thời lãng mạn của ông ta tưởng là con rồng bé nhỏ, và không phải vì thế mà kém kinh khủng, nhưng đó cũng hoàn toàn không phải một con thằn lằn con quái dị, mà thực ra là một món đồ thủ công ngộ nghĩnh.
Cậu bé, môi trễ xuống vẻ ngô nghê, ngắm mãi mấy bức tranh cổ xưa trong viện bảo tàng Leonardo, rồi đột nhiên, trong giây lát mê muội vì một nỗi đau khổ khó hiểu, giật nảy người bởi đàn bồ câu đang bay thẳng về phía mình. Nhưng ảo giác tan biến, định thần lại, cậu thiếu niên nặng nhọc thở hắt ra, lại nhìn vào bóng đêm và bước ra đường.
Cậu hy vọng sẽ được thanh thản ở đó, nơi cậu đã hạnh phúc thời thơ ấu, nhưng ở thành phố quê hương nằm trải dốc trên những ngọn đồi miền duyên hải, bên chân núi Vesuvius, nơi nhân thể nói thêm là Dedal ngày xưa đã tặng đôi cánh của mình cho Apollo và đã xây dựng một ngôi đền thờ phụng Chúa mái dát vàng, cậu bỗng cảm thấy buồn, và yếu mệt hơn trước rất nhiều. Tuy vậy cậu bé vẫn ở lại, làm một gã chèo thuyền không đặc biệt hăng hái, còn các buổi chiều tối, khi ngôi sao Lucifer trên bầu trời mới lóe, cậu bắt đầu lê la khắp quán xá, ở đó, vờ vĩnh làm ra vẻ ngượng nghịu nhưng hoan hỉ chịu những lời ve vãn của đám thủy thủ buồn nhớ quê hương trong chuyến viễn du, và không ép mình phải đợi nài nỉ lâu, cuồng nhiệt trong điệu nhảy Kordak khiến cái duyên dáng thanh tân nơi cậu lồ lộ với các khán giả một vẻ vô cùng mê đắm, cho đến một lần sau buổi chơi bạc cậu đã thua cuộc phải cược chính mình với thời hạn 10 tháng tròn, có thể là không chủ tâm, - cho một thủy thủ người Nga say rượu tóc đỏ.
Thậm chí vào những phút cay đắng nhất của mình tôi cũng đâm ra vui vẻ, khi hình dung ra cảnh vào buổi sáng ngày hôm sau, cái gã số đỏ thắng cuộc chẳng nhớ quái gì, đang hãy còn cồn cào kinh khủng vì trận rượu khó nhọc mở mắt, khan khan rền rĩ, bỗng run rẩy vì kinh hãi, nhìn thấy nằm trên bộ ngực phủ lông vàng óng của mình một cậu bé Italy vẻ xinh đẹp sa đọa đang mỉm cười ngọt ngào trong mơ. Gã thủy thủ, kẻ thường xuyên thắng trong các trò chơi và những cuộc tranh cãi với điều kiện được chàng Adonis hư hỏng khích lệ, cổ vũ, sẵn sàng nguyền rủa cái vận may không tưởng tượng được của mình và nói chung sẽ khước từ trò cờ bạc chỉ vì gã nhớ quá rõ phản ứng của cô vợ với cái món chiến lợi phẩm ngu ngốc lần trước của mình. Đó là lần đội tàu phấn khởi ăn mừng trở về cảng nhà, kẻ thua bạc là trưởng đoàn thủy thủ, một tên kẻ cướp nói năng thô tục, suýt không kìm được nước mắt thất vọng đã đặt lên chiếu bạc thứ quý giá nhất của mình là con mèo con khoang đen trắng mà gã rất yêu chiều. Anh chàng số đỏ của chúng ta, gian giảo liếc nhìn đôi mắt đảo lác xệch giận dữ của trưởng đoàn thủy thủ đáng thương, trái tim thắt lại ngọt ngào nhớ đến cô vợ trẻ hay uể oải duỗi mình và những lời gây rung động êm ái nơi gã về chuyện cô muốn nuôi một con mèo con dịu dàng để quên nỗi buồn nhớ chồng trong những đêm dài gã đi biển vắng nhà, gã cười thầm trong bụng, chẳng mảy may nghi ngờ sẽ thắng con thú con để chơi. Gã quả thực đã thắng cuộc, nhưng buổi sáng hôm sau đã bắt đầu không phải bằng những dịu dàng âu yếm như trông đợi, mà toàn là tiếng gào thét hờn dỗi, tức giận của vợ. Đến khi anh chàng thủy thủ đã hoàn toàn quẫn trí nhìn lại con mèo con mà cô vợ điên tiết đã dí cho vào mặt, gã thực sự sửng sốt và thán phục thốt ra mấy câu chửi rủa, tức khắc mường tượng cái nhìn kỳ quặc, không tập trung của tay trưởng đoàn thủy thủ và cuối cùng đã ngẫm ra nguyên do của cái sự quyến luyến dịu dàng đến vậy của gã kia với con vật cưng nhỏ bé của mình. Gã nhận ra rằng con mèo con, cũng như chính tay trưởng đoàn thủy thủ, bị lác xệch lác xẹo. Ai mà nghĩ được có thể có cái gì như vậy chứ? Và ai có thể nghĩ được rằng trong cái thời buổi văn minh của chúng ta, trên đất châu Âu văn hóa của chúng ta, vẫn có chuyện được bạc cả một con người, nếu may mắn? Tuy nhiên, nếu nói là may thì anh chàng thủy thủ có lẽ không chắc đồng ý, bởi vì, nếu như lần trước gã dẹp được cái vụ khó chịu, với vẻ hối lỗi ôm ngay con thú con từ tay cô vợ la hét đã kiệt sức, và cũng với vẻ hối lỗi mang trả ngay nó cho tay trưởng đoàn thủy thủ đã lại uống say bét vì đau lòng, thì câu chuyện bây giờ đe dọa có những hậu quả còn trầm trọng không biết đến đâu.
Anh chàng thủy thủ, bị giày vò bởi những linh cảm tồi tệ, thêm trầm ngâm suy tư, biển cả trong lòng anh ta cũng bất an, tăm tối và hoảng sợ. Nó đe dọa nhấn chìm, những ngọn sóng tuyệt vọng buốt giá gai góc ập đến, quất vào anh chàng đáng thương cái rét kinh khủng, và tay chân anh chàng lên cơn co giật, còn thấp thoáng xa xăm hiện rõ ràng vẻ khinh miệt của bạn bè, cuộc ly hôn, bị đuổi cổ khỏi đội tàu, toà án và bản án theo điều luật hình sự vẫn còn chưa bãi bỏ ở đất nước của anh chàng.
Thế là, bất chấp tất cả những mánh khoé của chàng Adonis thông thạo chuyện tình ái, bất chấp vẻ ngoan chịu và ít đòi hỏi, bất chấp cả những ánh nhìn mời gọi và nụ cười xốn xang dục tình khó kìm nén của chàng, bất chấp chàng vẫn hát khẽ dịu dàng như rót mật vào tai người yêu dấu của mình trong những đêm trời sao bài ca Te voglio bene assai hay Lazarella, bất kể hết thảy những gì khiến bất kỳ một con người kém phần sa đọa hơn bởi những thiên kiến có thể trở nên hạnh phúc, anh chàng thủy thủ rình thời cơ nín thở chuồn luôn khỏi người tình đang ẻo lả ôm quàng vào mình, còn cậu bé bị anh chàng bỏ rơi sau đó ngẩn ngơ lang thang khắp khu cảng, hàng chục lần trong ngày đi qua các phố Via Nuova Marina, Via c. Colombo và Via Ammiraglio F. Acton ở giữa nhà thờ Santa Maria del Carmine và pháo đài Castel Nuovo, bằng ánh mắt buồn bã tiễn đưa những con tàu rời bến, những con người vội vã đi ngang, hoặc đầu óc trống rỗng, hàng giờ liền đứng trước mặt tiền nhà hát opera San Carlo và không rõ cậu buồn nhớ đến ai hơn - đến thánh nữ đảo Cyprus hiền hậu của mình hay người đẹp thủy thủ tóc xoăn vàng óng. Cậu thấy được cái gì nơi anh bạn đầu bù rối đó - đối với tôi đến nay vẫn là câu đố không có lời giải!
Đúng, ai nấy đều chờ mong cuộc tình như trong mơ tưởng. Cả chàng thủ thư nhỏ bé lưng gù cũng chờ mong nó. Nguyên là người Đức, chàng ta cũng bồn chồn nôn nóng chẳng kém tác giả nổi tiếng của cuốn khảo luận về ngôn ngữ các loài hoa, khi chờ đợi để được nhận một đóa hoa báo xuân đáp lại lời thú nhận bằng bông anh đào của mình, hoặc ít ra cũng là một bông lan nhật quang, đã lúng túng không ít và đâm ra thất vọng sau lúc nhận từ tay em và lén giũ nhẹ dưới gầm bàn cuốn sách trả trước thời hạn về loài lưỡng thê và không phát hiện thấy cái gì trong đó. Sau đó anh ta ba lần liền, lật từng trang sách, nhưng thay cho bông hoa báo hiệu tình yêu được chia sẻ hay phải chịu đau khổ vĩnh viễn, lại tìm thấy chỉ một cọng cỏ khô kết nút. Lau những giọt mồ hôi túa ra đẫm trán, chống chọi lại cơn rét run căng thẳng, anh ta dằn vặt lục vấn bản thân - đó phải chăng là thông điệp mong đợi? Và nếu đúng vậy thì nó có nghĩa gì, - là lời gọi vĩnh viễn hãy trói buộc mình bằng những sợi dây tình ái hay trò bỡn cợt tấm thân què quặt nom như thể cái nút xoắn của anh ta? Sau khi đã đủ vỡ cả đầu nhưng vẫn chẳng đi đến được cái gì cụ thể, anh chàng trả lời em một cách dè dặt và thận trọng. Nhưng lần này anh ta đã nhìn thẳng vào mắt em bằng cái nhìn pha lẫn kính cẩn với ý thức về phẩm giá của bản thân và bằng vẻ mặt rốt cuộc đã trở nên cứng cỏi, chìa cho em bông cúc trắng, ý nói: “Tình bạn chân thành của cô làm dịu nỗi đau bất hạnh của tôi”. Và đó thực là một cách giải quyết khôn ngoan, bởi vì đó có thể có nghĩa là lời mỉa mai cay đắng, cũng như một lời cảm tạ dịu dàng.
Nhưng buổi chiều em vào thư viện trước giờ đóng cửa không lâu, và cuộc chuyện trò rõ ràng đã diễn ra giữa hai người vào cái ngày hôm đó đã làm biến đổi anh gù đáng thương đến không thể hiểu nổi. AMOR TUSSIQUE NON CELANTUR, - như người Latin thường nói, - tức là tình yêu và bệnh ho không giấu được! Ngày hôm sau cả thành phố đã nhận thấy mắt chàng thủ thư long lanh niềm hoan lạc, còn bước chân nhẹ nhõm và bồng bột như gã thiếu niên. Và chẳng cần giấu giếm ai, mà trái lại, khoan khoái tận hưởng ánh nhìn sửng sốt của những đồng bào qua đường dán vào mình, anh ta lao bổ đến em ngay giữa phố và đặt vào những ngón tay cứng đơ không phản kháng của em một bông hoa bìm bìm, còn sau khi nhận thấy nét mặt em băn khoăn ngơ ngác, anh chàng bị hạnh phúc làm cho mờ mắt đó, với vẻ vui sướng, đã giải thích bằng giọng nói quá vang và quá hoan hỉ ai nấy đều nghe rõ về ý nghĩa của quà tặng: “Không có con mắt nào trên đời nhìn tinh và sâu như tình yêu tỉnh táo nhìn thấy tấm lòng chân thành ở dưới bề ngoài”, và chỉ bối rối quá muộn lúc em gật đầu và thoáng bực bội thả rơi bông hoa vào túi, dửng dưng bước tiếp.
Nhưng tôi nghĩ rằng anh chàng bé nhỏ đã nhầm cơ bản. Em không chỉ không tức giận gì anh ta, mà còn hoàn toàn không hiểu vì cớ gì căn phòng của chúng tôi lại đầy chật quá nhiều tất cả những món quà tình cảm theo kiểu Đức này. Và khi đi qua bên cạnh chàng thủ thư đang đầy đau khổ, em ném vào anh ta cái nhìn lơ đãng và lịch sự gật đầu, chưa chắc đã đoán ra có nỗi đau khổ không chịu nổi nào đang xé nát trái tim dịu dàng của anh ta ra từng mảnh, và nhíu đôi mày cong xinh đẹp của mình chỉ bởi không làm sao có thể nhớ ra cái đài kỷ niệm mà em đến thăm chiều qua gọi là gì: Augustinerkirge, Steanskirge hay Jesuitenkirge...
Chàng thủ thư chẳng nên phó thác tình yêu của mình cho những bông hoa, bởi chúng là biểu tượng cho sắc đẹp và niềm vui cuộc sống, cũng như thói đỏng đảnh bất thường và cái hữu hạn ngắn ngủi của cuộc đời! “Này đây một bông hoa đồng - ngọn gió sẽ thổi qua nó, và sẽ chẳng còn nó, và chỗ của nó sẽ không nhận nó nữa”. Và nữa: “Trái tim ta, như bông hoa nở ra và chóng héo úa... Cứ lụi chết rồi luôn trở lại trổ bông! Ôi, những bông hoa rung rinh, rơi rụng, và rắc cánh... ”. Ôi, những bông hoa! Ngôn ngữ của các ngươi thật khó hiểu: hoa trắng là trinh nguyên nhưng cũng là cái chết; hoa đỏ là dục tình nhưng cũng là máu tuôn...
Máu tuôn... Tình yêu của em thường kéo dài không lâu, và nhẹ nhõm hơn cho những ai chia tay với em trước khi nó kết thúc. Có thực là nhẹ nhõm hơn không nhỉ? Tôi không biết... Nhưng theo tôi, tình yêu từ tâm đã làm nhẹ nỗi khổ ải cuộc đời của em đã dành cho cô kỵ sĩ bé bỏng là ít đau đớn hơn cả. Không phải vì em yêu con bé hơn tất cả, mà đơn giản vì hoàn cảnh đã là như vậy. Và hoàn cảnh đó nằm ở chỗ con bé nhờ có em đã biết cách thoát khỏi cái hiện thực ngột ngạt của nó để đi vào thế giới hư ảo tuyệt đẹp, nơi chẳng có gì thay đổi và vĩnh viễn hoa nở.
Khi sau vài năm tôi có dịp gặp lại, trên thái dương nâu rám của cô kỵ sĩ bé chẳng thay đổi chút nào trắng lên mờ mờ vết sẹo gợi nhớ về ngày hội Hyacinthia, hồi nó đã trông thấy em lần cuối cùng, còn bên cạnh vết sẹo, dưới làn da mỏng khe khẽ phập phồng mạch máu màu xanh dịu. Con bé phát ốm từ lâu và âm thầm giấu tất cả mọi người, một cách chậm chạp nhưng liên tục, nó đã mất sức và kiệt quệ đi, nhưng hình như điều đó tuyệt nhiên không làm nó lo âu. Nó hạnh phúc, và như thể được bao bọc thoát mọi nỗi buồn sau bức tường chắn của trọn vẹn hạnh phúc hiển nhiên với riêng một mình nó. Chỉ con ngựa chân thon xinh đẹp là không bị con bé tỏ ra hờ hững, có thể chỉ bởi vì nó gợi nhớ rõ ràng đến em. Nhưng vào một trong những đêm tăm tối và mưa gió, những người zigan đã mang con ngựa đi, và mặc dù người xung quanh thận trọng giấu con bé chuyện này, cô kỵ sĩ nhỏ hình như chẳng hiểu bằng cách nào cũng biết cả. Và khi cô bạn gái Amazon của nó hớn hở một cách khinh suất khơi mào câu chuyện về những trò ma mãnh của con ngựa và các khó khăn trong việc chuẩn bị tiết mục mới, trong giây lát con bé ngước đôi mắt trách cứ đầy đau đớn nhìn cô ta rồi lặng im quay ra cửa sổ. Nhưng sau một phút nó đã quên cả cô bạn gái lẫn con ngựa, lặng lẽ mỉm cười với những ý nghĩ của bản thân và hoàn toàn đắm mình vào suy tư. Chẳng còn gì có ý nghĩa hơn là vào lúc thức dậy buổi sáng, con bé tin chắc mình vẫn còn sống, chỉ khi hài lòng cảm thấy cái nỗi đau tình yêu phiền muộn nhất và vẫn còn ngọt ngào đã trở thành một phần của bản thân mình ở trong ngực, và cảm thấy cái xung động bất tận, đều đều như tiếng tích tắc đồng hồ của vết sẹo trên thái dương.
Ông bác sĩ già chữa chạy cho cô bé diễn viên khi đó chẳng hiểu sao lại bảo tôi rằng ông ta đã hiểu nguyên nhân thực sự của cơn đau nơi con bé chỉ vào lúc cuối cùng khi cơn đau này đã dứt hẳn. Buổi tối hôm đó ông đã nhìn vào cặp mắt sẫm có cái ánh ráo hoảnh của cô bệnh nhân ít lời kỳ lạ, và tay ông bất giác run rẩy. Con bé mệt nhọc mỉm cười với ông, nhưng làn da môi mỏng của nó nứt ra, ứa máu. Và trong khoảnh khắc con bé trông thấy trong gương cái người đã hiện diện trong phòng một phút trước mà ông bác sĩ già cũng cảm thấy. Rồi con bé buông mình xuống gối, mãn nguyện mỉm cười với cái hình ảnh đã biến mất của mình, và đó chính là nụ cười phiêu lãng trên khuôn mặt con bé vào ngày thứ hai của lễ hội Hyacinthia dạo nào. Những ô cửa sổ ngôi nhà đối diện phản chiếu ánh hoàng hôn bùng cháy rực, và trong phòng trở nên lạnh hơn. Ông bác sĩ thở dài thả cánh tay bất động của cô kỵ sĩ nhỏ, cánh tay rơi trên mép chăn, chầm chậm trượt xuống, nguội lạnh và buông thõng cạnh giường. Trên bầu trời đã mờ mờ xuất hiện sao Hesperus. Ông già bật đứng dậy và giận dữ rảo quanh căn phòng từ bức tường nọ sang bức tường kia, rồi lại gần cái đài đang khe khẽ hát bài Te voglio bene assai vặn mạnh nút âm lượng. Đúng phút đó qua ô thông gió cánh cửa sổ được băng giá tô điểm của ngôi nhà nhỏ khuất đâu đó trong miền núi Alps đã bay tới và lượn vòng quanh căn phòng trong giai điệu bài hát Ta rất yêu em êm dịu xứ Naples một con chim sẻ núi hoảng hốt...
Nếu suy ngẫm thì có thể cắt nghĩa những dấu hiệu mà số phận đem lại một cách rất khác nhau... Chẳng hạn như ông bác sĩ đã chào đời với mớ tóc dày, trắng và mềm mại như lông thiên nga hay sương mai trên dòng sông vào một đêm Giáng Sinh tuyết rơi cuối thế kỷ. Đứa trẻ khác thường đã quen với mình và thế giới, bà mẹ mới sinh con yếu ớt nhìn những bông tuyết rơi chậm ngoài cửa sổ, lặng lẽ khóc vì tin rằng mình sẽ không bao giờ có cháu chắt, hai bà già trong phòng bên lo lắng thầm thì, và một bà nói rằng đứa trẻ ngời ngời ra đời trong đêm Giáng Sinh là Thánh Agnes hằng mong đợi, còn bà kia than vãn rằng mái tóc bạc của đứa hài nhi hứa hẹn những tai họa kinh khủng sẽ giáng xuống dân chúng vào thế kỷ sau. Nhưng có thể mái tóc bạc này đã tiết lộ chỉ về nỗi khổ của tình thương bất lực đã sinh ra cùng với một đứa trẻ nhìn chung hoàn toàn hạnh phúc...
________________
7 Môn đồ của Thánh Peter, tác giả Phúc Âm II trong Tân Ước.
8 Leonardo da Vinci (1542 - 1519): danh họa Italy.