Người làng Bồng Trung tỉnh Thanh Hoá, đỗ Tiến sĩ đời Tự Đức, làm đến Đốc học rồi cáo quan về.
Lúc ông còn ở nhà dạy học có câu đối:
Cố bất như: sơn nhi bích, truyền nhi trì, vân thủy tiêu dao trần cảnh ngoại. Duy kỳ hữu: dữu khả phong, đình khả nguyệt, cúc tùng tự tại cố châu trung. - Không gì bền bằng: lấy núi làm vách, lấy suối làm ao, mây nước nhởn nhơ ngoài cõi thế. - Chỉ riêng vui có: cửa sổ gió mát, ngoài sân trăng soi, cúc tùng thong thả chốn cố châu. Sau có một dạo, ông chán mùi tục luỵ, vào ẩn chốn thâm sơn, làm bài thơ tự thuật cho khắc vào sườn non.
Thắng cảnh trùng du chu nhất thiên. Phong quang hồi thủ tứ vô biên. Mai thê hạc tử, viên thành thú. Nguyệt tỷ phong di, khế túc duyên. Ngũ sắc văn thành, vân động khẩu. Cửu thành nhạc tấu, điểu sơn điên. Sơn hà phong cảnh, kim như tạc. Ưng biểu thi chương, thạch thượng truyền. Bản dịch của Nhân phủ:
Cảnh cũ qua chơi một chiếc thuyền. Phong quang ngảnh lại tứ vô biên. Vợ mai con hạc quen thành thú. Chị gió dì trăng vốn túc duyên. Năm sắc vân nên, bay cửa động. Chín thành nhạc tấu vẳng non tiên. Núi sông phong cảnh còn như trước. Tạm mấy vần thơ khắc đá truyền. Sau năm Ất Dậu ( 1885 ), đứng đầu đảng Cần Vương ở Thanh Hóa, cùng Đinh công Tráng thành lập chiến khu ở Ba Đình. Ba Đình thất thủ ( 1887 ) chạy ra Bắc, đến năm 1889 lại trở về Thanh Hoá lãnh đạo cuộc kháng chiến ở huyện Nông Cống được hơn một năm thì bị bắt. Bị xử tử ngày 3 – 9 – 1892, tại Thanh Hóa.