Thuở còn nhóc, tôi là thằng chúa hay hỏi. Mẹ tôi gắt, hỏi gì hỏi lắm thế! Cha tôi bảo, có ham hỏi nó mới chóng khôn. Tuy vậy, không không giai đáp cho tôi được bao nhiêu. Ông làm thợ mộc, xách xưa đục đi suốt. Người săn sàng trả lời hết những câu hỏi của tôi, bằng cử chỉ dịu dàng ôn tồn và bằng lời lẽ trong sáng dễ hiểu là anh Thống hơn tôi bảy tuổi. Anh không có họ với tôi, chỉ là hàng xóm. Nhà tôi ở ven đê, ngoài bờ đê là con sông La nước trong như mắt mèo, đứng trên bờ có thể nhìn thấy cát chảy dưới đáy. Nhà anh ở cuối xóm. Chỗ ấy hiu hắt, chỉ nghe tiếng bìm bịp kêu ngoài các đầm, đìa. Không hiểu sao anh Thống rất mến tôi. Có thể vì anh không có em trai. Sau anh là hai đứa con gái. Cái Thiết nhỉnh hơn tôi, còn cái thắm lại bé hơn, tôi vẫn còn trêu nó là thò lò mũi xanh. Về mùa hè, chiều nào anh Thống cũng dắt hai đứa em gái ra sông tắm. Và rủ tôi cùng đi. Mẹ tôi rất tin anh Thống nên gửi tôi cho anh. Anh Thống đã ra vẻ người lớn, bận quần đùi tắm,còn ba chúng tôi tồng ngồng ào xuống nước, khoát nước vào mặt nhau đến ngộp thở. Rồi chơi trò thả quả bời lời. Ba chúng tôi đứng thành ba góc ngoảnh mặt vào nhau, nước chấm ngực. Anh Thống cầm quả bời lời ném đánh bủm xuống nước trước mặt chúng tôi, ai nhặt được quả sẽ thắng cuộc. Thế là xảy ra một cuộc vẫy vùng, cuộn nướ cố sao cho quả bời lời nổi lên về phía mình. Vừa vẫy vùng vừa hò hét. Tôi là đứa láu cá, thấy vẫy vùng hò hét tốn sức mà chỉ tổ hoa mắt. Chỉ dại một lần, lần sau tôi đứng im, mở to mắt ra mà nhìn, cứ mặc cho hai chị em chúng nó bới nước tứ tung. Quả bời lời vừa mới nổi lên, chúng nó đã chồm lên nhau làm quả bời lời lại chìm vào vùng nước đục vừa quậy lên. Quả thật, đứng im mà nhìn tuyệt nhất, tôi thắng cuộc nhiều lần. Lần thì quả bời lời nổi lên sau lưng cái Thắm mà nó vẫn huơ huơ đôi tay về phía trước, lần thì nổi cạnh nách cái Thiết, có lần nổi ngay trước mặt tôi. Tôi chỉ lặng lặng nhón quả lên là xong. Anh Thống khen tôi khôn và sẽ có thưởng. Quà thưởng của anh Thống rất thú. Anh bận cả quần ướt trèo lên cây bàng trên sông, mò ra tận đầu cành hái quả chín. Từ trên cao anh gọi tên tôi:
- Đào này!
Vẫn trần như nhộng, tôi đưa tay ra đón. Dẫu tôi không bắt được, quả bàng rơi cuống cỏ, chị em cái Thiết, cái Thắm cũng không dám hôi. Chúng nó chờ đến lượt anh Thống gọi trúng tên. Dĩ nhiên là tôi được phần nhiều, nhưng tôi không ăn tham, cùng chia cho chúng nó.
Tắm táp xong, chúng tôi còn ngồi lại ở bờ đê hóng mát. ở đấy, cỏ sạch và mịn, còn gió thì quá thể là hào phóng. Trong khung cảnh tuyệt diệu ấy, tôi thường ôm lấy vai anh Thống đặt ra những câu hỏi và nghe anh trả lời. Thí dụ, hôm thấy cầu vồng, tôi bèn hỏi, sao cầu vồng không bắc ừ chân trời bên này sang bên kia, lại cụt lủn được một đoạn như thế? Sao cầu vồng lại có nhiều mầu? v.v... Cái Thiết cau mặt gọi tôi là thằng "hỏi lục vấn, cấn lỗ đít". Anh Thống mắng nó không được nói bậy, và tẩn mẩn giải thích hết mọi lẽ. Tôi tròn mắt ra thán phục, coi anh Thống là một kho vô tận cua sự hiểu biết. Chả điều gì anh không giải thích được. Còn hơn cả cha tôi. Nhiều câu hỏi của tôi, cha chỉ nói: "Lớn lên rồi con sẽ biết". Anh Thống không chờ tôi lớn lên, anh trả lời ngay tắp lự. Một buổi chiều se se vào thu, đang ngồi trên vệ cỏ, chợt nghe trong lùm tre tiếng chim bồ chao cứ loạn xạ lên, dễ có đến hàng chục con chim cùng kêu lên như cắn nhau, nhức cả tai. Tôi hỏi, anh Thống đáp:
- Chúng nó chửi nhau đấy! Thật không tốt!
- Tại sao chúng nó lại chửi nhau?
Anh ôn tồn giải thích:
- Người ta bảo "lao nhao như bồ chao vỡ tổ". Có đôi vợ chồng bồ chao làm tổ đẻ trứng ở trong lùm tre, chuẩn bị ấp, bỗng nhiên trứng bị mất sạch hoặc bị vỡ. Chúng nó nghi ngờ lẫn nhau, rồi cãi vã nhau chửi nhau loạn xạ.
- Anh Thống ơi, vậy chim cũng biết nói ư?
- Không những chim, loài gì cũng biết nói - Anh với một cành củi khô bên đường, dùng hai tay bẻ cái rắc và bảo - Đấy cành củi nó kêu đau, kêu anh chơi ác đấy!
Tôi toét miệng cười:
- Cây tre có biết nói không?
- Em nhắm mắt lắng tai nghe xem nó đang nói gì?
Tôi vâng lời anh và chợt reo lên khi nghe tiếng tre đu đưa kẽo kẹt.
Anh tủm tỉm cười cải chính:
- Đúng ra là cây tre đang reo lên rằng, ôi mát mẻ qua, trời đất ạ!
Anh Thống giỏi quá, nói đúng quá. Quả là gió mát hết chê. Gió vuốt ve trên cánh tay trần, luồn vào ngực, thổi phồng tấm áo vải thôi tôi đang mặc. Bộ tóc bết nước của chị em cái Thiết cái Thắm đã se khô từ lúc nào, đang bay lả lơi có lúc phủ kín mặt khiến chúng phải hất đầu lên cho khỏi rặm mắt. Vâng, gió thì mát nhưng tôi vẫn còn tò mò, vẫn còn nửa tin nửa ngờ. Bèn hỏi tiếp, nào con trâu có biết nói không, rồi dòng sông, rồi con thuyền, rồi chiếc diều của ông Sầm? ồ, chiếc diều của ông Sầm đích thị là biết nói, sáo kêu vo vo đến là vui tai. Điều thú vị là dưới con mắt của anh Thống, vật thể gì cũng biết nói và chỉ mình anh là người nghe thông thạo những lời nói tuyệt diệu ấy. Tôi ngồi ngẩn mặt, tuy thán phục lắm, nhưng vẫn chưa muốn chịu hẳn, cố nghĩ xem có cái gì chắc chắn là không biết nói sẽ buộc anh phải cứng họng. Chợt tôi đắc chí "a" lên:
- Thế đất có biết nói không?
Dường như câu hỏi này làm anh khó nghĩ. Anh bứt một cọng cỏ gà đưa lên miệng mum mum. Rồi thanh thản đáp:
- Có chứ! Em áp tai xuống đất nghe xem!
Cố nhiên là tôi toài xuống vệ cỏ ngay. Cả cái Thiết cái Thắm cũng làm theo, nhưng chúng nhổm lên tức thì, hoặc vì chẳng tin đất biết nói, hoặc vì bị lá cỏ cù vào tai vào má. Anh Thống cũng từ từ áp tai xuống, đưa mắt khích lệ tôi, ý hỏi có nghe thấy gì không?
Tôi căng óc, cố nghe và chợt nhận ra có tiếng gì gõ vào màng nhĩ. Tôi reo lên khoái trá:
- Em nghe đất nó kêu lộp cộp, lộp cộp!
Anh Thống nhổm người, nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Thực ra, đất nó bảo, ngựa cụ Chánh Tòng sắp về!
Lại còn thế nữa ư? Trời đã ngã vào hoàng hôn. Gió ở trên đê có mùi khói bếp thổi cơm chiều. Bây giờ thì tôi nghe tiếng lộp cộp hoàn toàn không chối cãi được... Và lạ chưa, đúng là tôi đã nhận ra từ xa, từ chỗ quán mụ Bền, con ngựa bạh chở cụ Chánh Tòng, gõ nước kiệu đi tới. Kia rồi, cụ ngồi oai vệ trên mình ngựa, khăn xếp, áo the giày hạ nghiêm chỉnh, bộ râu quai nón vừa rậm vừa dài của cụ bị gió đánh tỏe ra nom rất ngộ. Chúng tôi theo anh Thống lên tiếng chào. Cụ gật đầu, giật dây cương thúc con bạch làm nó nghênh nghênh cổ, bờm dập dình theo nước kiệu nhặt hơn. Rồi bóng cụ mờ dần vào hoàng hôn. Kệ cụ, tôi thầm nghĩ. Quả thật, tôi chẳng quan tâm gì đến vẻ oai vệ của cụ Chánh nếu không có tiếng lộp cộp gõ móng của chú ngựa bạch. Cái chính là tôi phục lăn anh Thống, thánh thật, anh nghe được cả tiếng đất máh bảo cụ Chánh Tòng sắp về. Sao anh Thống lại tài giỏi vậy! Sau này lúc đã trưởng thành, tôi mới hiểu cái tài giỏi của anh Thống là ở trí tưởng tượng tuyệt vời và còn ở tấm lòng của anh đối với thiên nhiên và con người. Còn bấy giờ, mới là chú nhóc lên sáu tuổi tôi coi anh Thống như thể đấng thiêng liêng, chỗ dựa tin cậy tuyệt đối. Và cái ấn tượng đất cũng biết nói tôi trân trọng mãi như cơn khát vỡ òa trong nhận thứ non nớt của tôi, như sự khám phá ra một thiên đường mới lạ.
ấn tượng đó càng khó quên khi tôi về nhà, liền vội vã tìm cách ứng dụng ngay. Trời nhá nhem tối, đom đóm đã lập lòe ngoài bờ ao. Tôi nằm bép xuống sân, áp tai vào đất, tập trung lắng nghe xem đất có mách bảo gì không. Chợt tôi nghe rõ mồn một bước chân uỳnh uỵch tất bật từ ngoài đường xóm rẽ vào ngõ nhà mình. Vẫn không rời tai khỏi đất, tôi gào lên: "Mẹ ơi! Mẹ ơi! Cha đã về! Đúng cha đã về!. Đang ghế dở nồi cơm, mẹ tôi chạy ra thấy tôi làm cái trò lạ lẫm, bèn xách cổ dậy và thuận đôi đũa cả đang cầm trong tay phết cho mấy quắn vào đít. Mẹ tôi rền rĩ rằng sao tôi ngu dại làm vậy, vừa đi tắm sông về lại trằn đất bột, thử hỏi tôi có đáng phải róc xương ra không. Thấy đúng cha tôi về đến sân, hòm cưa đục đeo tòng teng và chiếc rìu vác vai, vui vẻ đứng lại cười cười, mẹ tôi càng được thể mách tội tôi. Bị mấy quắn nhưng tôi không khóc. Tôi cãi rằng không phải tôi ngu dại nghịch đất. Tôi phải nằm áp tai vào đất mới nghe đúng bước chân cha đã về. Cha tôi và mẹ tôi nhìn nhau chia sẻ sự khó hiểu, rồi trân trân nhìn tôi như nhìn một con giống lạ. Dường như cha mẹ tôi thoáng chút lo sợ, phải chăng thằng bé bị ma ám hay có dấu hiệu của bệnh tâm thần? Một lúc sau, cha tôi rửa ráy chân tay xong lôi điếu cày ra rít một hơi rồi ôn tồn bảo tôi:
- Ai bày cho con làm như thế?
Tôi đáp một cách hãnh diện, cứng cỏi:
- Anh Thống! Anh ấy bảo đất cũng có tiếng nói.
Cha tôi không nói gì, vẻ trầm ngâm. Có thể cha tôi tuy chưa hiểu ra những điều có vẻ bí hiểm, những vẫn cảm thấy an tâm. Anh Thống dưới con mắt của cha tôi là một chú học trò thông minh, ngoan nết. Một tấm gương cholớp đànn em chúng tôi. Những điều gì anh Thống đã nói, chắc là có căn cứ. Nhà anh Thống xưa kia giàu có, nhưng bố anh lúc sinh thời đã cờ bạc phá tán hết, bây giờ chỉ còn vài sào ruộng và một khoảnh vườn. Mẹ anh, chúng tôi thường gọi là bác Dư tần tảo, nuôi con bằng hoa lợi ruộng vườn còn lại và gánh hàng xáo.
Mười ba tuổi học lớp Nhất trường huyện, anh Thống về nhà xay lúa giúp mẹ, nổi tròn bắp tay. Và anh thường học bài lúc giã gạo. Mùa hè năm ấy, cả làng tôi xon xao một tin vui. Kỳ thi "pờ ri me" toàn tỉnh, anh Thống đỗ đầu, được quan tuần phủ mời dự tiệc. Ra thi quốc học Vinh, anh cũng đỗ thủ khoa. Bởi con nhà nghèo, để có thể theo học, nhà nước đã cấp cho anh học bổng, thời đó gọi là "buốc".
- Đẻ được đứa con như thế cũng bõ công!
Mẹ tôi ao ước. Còn cha tôi nhìn tôi bằng bặp mắt nghiêm khắc:
- Mày coi anh Thống đó mà học!
Đấy là lời khích lệ, cũng là mệnh lệnh của cha. Tôi vâng. Bấy giờ tôi đã vào lớp đồng ấu của thầy giáo Quán. Tôi đã có nhiều bạn, những thằng Minh, thằng Trường, thằng Khuyến, thằng Long và bọn con gái như cái Oanh, cái Xuyến, cái Thiết. Tôi học vào loại sang dạ, thường xếp nhất nhì. Còn cái Thiết lớn tồng ngồng mà dốt ơi là dốt, thường bị thầy xách tai hoặc ghè thước lim vào đầu.
Mỗi lần bị đòn, ở trường về, nó thường thui thủi đi một mình. Tôi thấy thương thương, chùng chình đợi nó. Cái Thiết bảo:
- Giá anh Thống tao ở nhà...
Tôi ừ. Có anh Thống ở nhà kèm cặp, chắc nó không đến nỗi lẹt đẹt. Cơ mà anh Thống phải ra Vinh học, ở nhà sao được? Cả làng tôi chỉ bốn năm anh được vào trường quốc học Vinh, nhưng cũng chưa ai học giỏi nổi tiếng như anh Thống. Tôi cũng nhớ anh lắm. Vài tháng anh mới ghé về nhà vào một ngày chủ nhật. Nghe nói anh phải dạy kèm con ngnười ta để người ta nuôi cơm. Học bổng anh dành mua sách vở và may sắm quần áo. Mỗi lần về, anh đều cho tôi quà. Thường là mấy viên kẹo cau. Cố nhiên kẹo cau cũng thích, nhưng thích hơn là được ríu rít bên anh. Những điều cần hỏi, tôi tíh lại, đợi dịp anh về để tuôn ra. Anh rất khoái cái nết ham hỏi ủa tôi và lấy tôi ra làm gương để khuyến khích sự động não của cái Thiết và cái Thắm. Đúng là anh Thống về nhà như chuồn chuồn đớp nước. Chiều chủ nhật anh đã xuống đò ra Vình. Để chúng tôi lại háo hức đợi chờ anh về vào dịp khác. Nói là chúng tôi, bởi không chỉ riêng tôi mà những đứa khác như thằng Minh, thằng Trường cũng rất quý mến anh. Còn thằng Khuyến con Lý Đóa, thằng Long con Bát Tuyên tuy thích anh Thống đấy nhưng không quấn quýt bên anh. Con cái hào mục có máu mặt trong làng tỏ vẻ quy phục con nhà bạch đinh là điều chưa thuận, ít nhất là trong cách nghĩ và sự răn đe của chamẹ chúng. Cũng chẳng sao. Chẳng vì thế mà tình cảm giữa tôi và anh thống lại sa sút, phai nhạt đi.
Không hiểu ai đã nghĩ ra cách cho học sinh nghỉ ba tháng hè.
thật là tuyệt cú mèo. Thả diều, tắm sống, bắt tổ chim đã là những thú vui. Mà chẳng vui nào bằng anh Thống xách va li về và anh tổ chức dạy hè cho hầu hết đám học sinh lau nhau trong xóm. Cha tôi khoái ra mặt. Ông mời anh Thống ngồi ở nhà tôi. Nhà khá rộng, thoáng mát. Khoản bàn ghế cho hai chục đứa trẻ ngồi học, ông lo tất. Anh Thống cũng dạy cả ba lớp: lớp năm, lớp tư, lớp ba y như trường tư thục thầy giáo Quán. Đặc biệt bọn lớp ba, bọn vừa thi đỗ yếu lược, cần phải dùi mài để thi vào lớp nhì trường huyện, anh quan tâm hơn. Đã là thầy giáo, dù ít tuổi, cha tôi cũng bắt chúng ttôi thưa thầy hẳn hoi. Nhưng anh Thống bảo anh chưa phải thầy giáo, anh chỉ kèm cặp giúp các em trong mấy tháng hè. Cứ anh mà gọi. Khác hẳn thầy giáo Quán lúc nào cũng lầm lỳ nghiêm khắc, anh Thống xởi lởi vui vẻ trong tình anh em. Anh dạy rất dễ hiểu. Vừa dạy chữ, vừa dạy hát, kể chuyện, tổ chức trò chơi, tổ chức cắm trại ở chùa Am... Đất quê tôi về mùa hè, gió Lào thật khủng khiếp. Sờ tấm chiếu rải giường cũng nóng tay. Gần tắt mặt trời, cả xóm đổ ra tắm sống. Anh Thống coi việc tắm sông như chương trình thể thao. Anh chia từng nhóm để trông coi nhau. Đứa biết bơi tập cho những đứa chưa biết bơi. Rồi tổ chức trò chơi dưới nước, kéo co, ném bóng cao su. Dạy cho chúng tôi cách bắt tôm ở đám rễ cừa ăn xuống nước, cách mò hến ở chỗ nước nông đến đầu gối. Mùa hè đầu tiên, tôi đã bơi thạo. Sang mùa hè thứ hai, tôi đã thành một thứ rái cá. Anh Thống không cho phép, chứ tôi cùng thằng Minh thằng Trường dám bơi vượt sông như bỡn. Năm chúng tôi đã học lớp ba anh Thống mở thêm tiết mục hướng dẫn cách nhảy bổ nhảo xuống sông. Những cành cừa đổ nghiêng ra mặt nướ đượ cột thêm một tấm ván làm bàn nhảy tuyệt vời. Mỗi cú nhún chân nhảy chúc đầu xuống nước, làm cành lá lao xao. buổi đầu chưa thành thạo, chúng tôi còn nhảy đánh bẹp xuống, bụng rát kinh khủng, nước bắn tung tóe. Chẳng mấy chốc, noi theo động tác của anh Thống, chúng tôi lao xuống nước trong một tiếng bủm gọn và sắc lẻm, để vài giây sau đã nhô đầu lên ngoài xa, phun nước phì phì và sải cánh bơi vội vàng vào bờ, nằm dài ra trên bãi cát. Có lần đang nằm dài ra như vậy, anh Thống hỏi tôi:
- Đào ơi! Em có nhớ hồi nào anh bảo đất cũng có tiếng nói không?
- Vầng, em nhớ!
- Vậy lần này em thử nhắm mắt, áp tai xuống nghe xem!
Chẳng riêng tôi mà cả thằng Minh, thằng Trường cũng đều hí hửng vâng theo. Nào có khó khăn gì mà không nhận ra tiếng chân anh Thống nhảy thình thịch mấy cái liền. Thằng Trường láu táu kêu lên:
- Anh nhảy thình thịch cho nước ở lỗ tai ra!
Sự tinh ý mách bảo tôi rằng anh Thống muốn được diễn đạt cách khác. Tôi thưa:
- Đất bảo: Học, học, học!
Anh Thống lao đến ôm choàng lấy tôi: "Em giỏi lắm", và anh giải thích cho tất cả chúng tôi tin rằng, đất bảo thế thật, ở đời cái gì cũng phải học. Có chịu khó học mới thành tài. Lẽ nào tôi không hiểu cách giải thích của anh, nhưng bọn thằng Minh, thằng Trườn vẫn còn ngỡ ngàng, ngồi nghệt mặt ra lát sau chúng mới toét miệng cười. Và khoe rằng chúng học không đến nỗi tồi. Quả thật, chỉ sau mấy tháng hè được anh Thống kèm cặp, chúng tôi học tấn tới hẳn lên. Cái Thiết không nói làm gì, nó vốn tối dạ, nên dù có nhích lên một chút, thì yếu lược vẫn trượt vỏ chuối. Bác Dư không cho nó học nữa, con gái học thế là đủ, nhiều chữ vào để mà viết thư tình! Bá Dư nói vậy, nhưng vẫn chăm chút cho cái Thắm học. Đám học trò anh Thống dạy kèm đều đỗ yếu lược vào loại ưu, lại đỗ tất vào lớp nhì trường huyện. Xếp bảng hàng tháng, tôi chưa lúc nào ngồi dưới thứ 3, còn những đứa khác tuy xếp hạng thấp hơn tí chút, nhưng đều không làm mất thanh danh học sinh làng Triều chúng tôi. Cái từ "học sinh làng Triều" là câu nói cửa miệng của anh Thống. Làng tôi chưa phải làng khoa bảng nổi tiếng, ngày xưa có vài cụ đỗ cử nhân, tú tài, thời tân học đã có người đỗ tú tài tây, vài người đỗ "đíp-lôm". Họ có quan tâm tới cái làng Triều hay không, tôi không biết. Riêng anh Thống, anh luôn luôn tạo cho chúng tôi niềm tự hào về học sinh làng Triều, có lẽ bắt đầu từ chính anh. Chứ gì nữa, trong tổng tôi, đã có làng nào có học sinh đỗ đầu "pờ ri me" toàn tỉnh, lại là thủ khoa ở trường Quốc học Vinh?
Kỷ niệm tuổi thơ tôi gắn liền với con sông La, với tên tuổi một người anh, người thầy, đó chính là anh Thống. Kỷ niệm tuổi thơ sẽ êm đềm biết chừng nào, nếu không có một chuyện buồn xảy ra. Dạo mùa xuân năm ấy, chúng tôi mong ngóng hoài vẫn không thấy anh Thống về. Cũng có đứa đoán già đoán non kiểu khác, riêng tôi cứ chắc mẩm rằng, anh đang học đệ tứ niên, chỉ còn mấy tháng nữa là thi "đíp lôm" anh không muốn phí phạm thời gian đấy thôi. Một buổi tinh mơ, những nười đi buôn làng tôi ngược đò chợ Vinh lên, xôn xao một tin động trời rằng anh Thống bị bệnh hủi, đang được cách ly ở Nhà thương. Làm sao lại nhiễm cái bệnh gớm ghiếc ấy nhỉ? Làng mình xưa nay có ai bị hủi đâu?
Bác Dư gái lập cập ra Vinh và khi trở về khóc như mưa như gió. Rằng bác ăn ở hiền lành phúc đức mà trời hại bác. Thằng con vàng con ngọc của bác bị người ta đem đi cách ly ở một hòn đảo nào trong Quy Nhơn. Người ta bảo bác cứ yên tâm, một vài năm chữa lành bệnh, con trai bác lại về. Nhưng bác yen tâm làm sao được khi anh Thống nhiễm cái bệnh nan y đầu bảng vào thời đó. Dân làng tôi trong những lời xì xầm bàn tán đều phản phất vẻ buồn và lo. Buồn vì một anh học sinh giỏi nổi tiếng như thế bỗng mắc bệnh hiểm nghèo, bỗng trở nên hụt hẫng trước một tương lai sán lạn tưởng như đã cầm chắc trong tay. Còn nỗi lo lại cứ xoáy vào cái cội nguồn nào ủ bệnh, khiến làng tôi từ xưa đến nay chưa có tỳ vết gì, bỗng hóa ra làng có người hủi. đã có mầm ủ bệnh là dễ lây lan.
Cha tôi ngồi tặc lưỡi như thạch sùng. Ông tiếc cho một tài năng đang hứa hẹn. Cha tôi vì ông bà nghèo nên không được học đến nơi đến chốn. Ông luôn mặc cảm và cay cú. Quyết cho con học hành đỗ đạt để trả thù thiên hạ, để ngẩng mặt lên với đời. Ông thường bảo tôi: Rồi mà xem, đám Lý Đóa, Chánh Tòng lại chẳng cúi sấp mặt xuống trước thằng Thống. Nó sẽ đỗ đạt cao làm rạng rỡ cho làng Triều. Hy vọng của cha tôi, là anh Thống sẽ luôn luôn là tấm gương cho tôi soi. Giờ thì cha tôi buồn là phải. Còn buồn hơn cả dân làng và cha tôi, là đám lau nhau chúng tôi. Bấy giờ, chúng tôi đã học sắp xong lớp nhì đệ nhất, qua hè là lên lớp nhì đệ nhị, cũng đã mười tuổi cả rồi. Coi như chúng tôi mất anh Thống, mất cả những kỳ học hè thú vị và bổ ích. Riêng tôi còn như mất cả cuốn tự điển sống để tra cứu. Buồn, chúng tôi chỉ than thở với nhau. Chủ nhật, chúng tôi kéo nhau tới nhà bác Dư, ngồi ngắm tấm ảnh anh chụp chung với bạn bè học quốc học Vinh treo trên vách. Trong ảnh, anh Thống bận áo dài đen, khuôn mặt chữ điền, tóc rẽ đường ngồi, vầng trán rộng, đôi mắt sáng, miệng tươi cười. Dường như anh đang vỗ về chúng tôi "Các em đừng buồn! Cố học cho giỏi vào! Rồi anh sẽ về". Chúng tôi cũng muốn an ủi bác Dư nhưng không biết nói gì, chỉ nghe bác kể lể và khóc sùi sụt. Làm chúng tôi đều mủi lòng, ứa nước mắt theo.
Thời gian trôi đi như dòng sông La êm đềm chảy cạnh làng tôi, vắng anh Thống lâu dần thành thói quen, nỗi buồn của chúng tôi cũng khuây khuây. Chúng tôi vẫn vui chơi, giúp cha mẹ việc đồng và vẫn học hành tiến bộ. Chúng tôi ít đến nhà bác Dư. Dường như vô hình chung đã có một khoảng cách giữa dân làng và gia đình bác. Nhà có hủi dễ gợi cho người ta cảm giác xa lánh. Quê tôi có tục mời nhau uống nước mới. Thoạt đầu, nấu nồi nước chè xanh lên, bác Dư cũng cho con đi mời. Người ta chùng chình, đến lác đác. Người nể quá uống một hụm gọi là, có người đến nhưng xin kiếu, kêu chóng mặt. Bác Dư biết ý, khôngmời nữa, mà bác cũng không đi uống nước mới nhà khá, mặ dù ai cũng tỏ ra tế nhị, mất gì một lời mời. Đến nhà bác Dư thường là họ hàng ruột thịt, nhất là ông Đồng và ông Đoài đều là em con chú bác Dư trai. Họ vẫn đến chăm chút giúp đỡ bác Dư gái trong công việc đồng áng và bảo ban dạy dỗ con cái. Cái Thiết từ ngày thôi học, giúp mẹ làm hàng xáo. Khác với chị, cái Thắm lại học giỏi. Năm tôi vào lớp nhất trường huyện, nó cũng đỗ vào lớp nhì đệ nhất, sau tôi hai lớp. Con bé cũng xinh, mũm mĩm. Đi học trường huyện, chúng tôi đi cùng đường, tôi ra đến ngõ, thườn gặp nó. Thế là bọn quỷ nhà giời ở làng tôi, nhất là thằng Khuyến, thằng Long đầu têu việc ghép đôi chúng tôi lại. Không hiểu sao, cha tôi lại đặt tên tôi là Đào, rõ tên con gái. Để chúng nó rất thuận mồm khi gào to: "Đào, Thắm... Thắm, Đào...". Làm cả hai đều ngượng. Cái Thắm không dám đến nhà tôi mượn sách, hỏi bài, thường đến nhà cái Oanh, mặc dù phải xuống xóm dưới khá xa. Đi học gặp nhau đầu dố đê, tôi thường phóng lên trước hoặc nấn ná lại phía sau. Đi sóng đôi để mà rát mặt với bọn thằng Khuyến, thằng Long. may sao, một năm học trôi qua rất nhanh. Mấy đứa chúng tôi - đám học hè của anh Thống ngày trước đều đỗ "pờ-ri-me", tức là tiểu học. Thi vào Quốc học Vinh, chỉ tôi và thằng Minh đỗ, còn chúng nó trượt, đều xin học tư thục. Tất nhiên, tôi không đỗ thủ khoa như anh Thống, song được như vậy cũng mát mặt cho cha mẹ tôi và dân làng Triều chúng tôi. Cha mẹ tôi phải gồng sức mình lên để lo cho tôi trọ học trong thời buổi khá tốn kém. Tôi lại học sách anh Thống, xin dạy kèm trẻ con cho một ông chủ cửa hàng thuốc Bắc để được nuôi cơm đỡ gánh nặng cho cha mẹ. Học trò tôi kèm chỉ là một chú bé học lớp ba, hay khịt mũi và quần áo lúc nào cũng ám mùi thục. Dạy kèm cũng nhàn nhã, tôi còn khối thì giờ tự học. Vào học đệ nhất niên, tôi đã tìm được dấu vết anh Thống, mặc dù anh Thống đã đi biệt bốn năm rồi. Giáo sư Quỳnh dạy toán, một giáo sư dạy lâu năm ở trường thường nhắc tên những "cái đầu toán" do ông nhận xét. Họ gồm có 5 người, được ông ton là ngũ hổ. Đầu bảng là Lương Phan Thống, rồi đến Nguyễn Cảnh Hoàng, Đinh Nho Thương, Hà Học Thiệp, cuối cùng là Cao Xuân Lý hiện đang học ddeej tứ. Chẳng tiết toán nào, ông không nhắ đến tên những cái "đầu toán" đáng kính ấy. Không giấu được niềm tự hào, tôi và cả thằng Minh nữa thường khoe, Lương Phan Thống vừa là anh vừa là thầy của tụi tôi. Tất nhiên, chẳng vì thế mà bạn bè nể tôi hơn. Bọn chúng chỉ thực sự nể khi tôi trở thành một "cái đầu toán", do chính giáo sư Quỳnh cất nhắc. Điều đó dường như còn một quãng cách phải ráng sức mà rút ngắn. Hết niên học, xách va ly về quê, tôi không mở lớp dạy hè như anh Thống năm xưa, mà cùng tụi thằng Minh, thằng Trường lên làng trên, tìm được ông thầy vừa đỗ tú tài bán phần để thụ giáo. Về hè là về với con sông La quê tôi. Chúng tôi sửa sang lại cầu nhảy. Khi nhạt mặt trời, là kéo nhau ra sông. "Pơ-lông-gê" (1)
(1) Plonger: Tiếng Pháp nghĩa là nhảy bổ nhào xuống lặn.
chán, chúng tôi bơi vượt qua bên kia sông nằm dài ra trên bãi cát. Chờ lúc chuông nhà thờ An Phú đổ hồi, chúng tôi mới bơi trở lại bến làng Triều, nơi đặc kín người đi tắm, đi gánh nước, đi ngâm gạo làm miến. Giờ đây, Thắm đã đến tuổi biết kéo quần lên che ngực lúc xuống sông, và đỏ mặt lên khi đám học sinh trung học ào ào bơi qua em và buông lời chòng ghẹo. ở tuổi dậy thì, Thắm xinh hẳn ra. Những lúc vắng vẻ, tôi có nói chuyện với em. Tôi kể cho em nghe việc học hành ngoài trường quốc học, về vợ chồng ông chủ cửa hàng thuốc Bắc và thằng con hay khịt mũi. Đặc biệt tôi kể về anh Thống, về cái "đầu toán" đáng kính mà tên tuổi còn lưu truyền ở trường và nỗi xót xa của các giáo sư khi anh Thống nhiễm bệnh nan y. Em hỏi tôi:
- ở trường Quốc học Vinh có con gaíi không anh?
- Có chứ, có đứa như con Kiều Vinh học cực giỏi, nhất là môn Pháp văn, nó nói hay như đầm. Còn con Phan Thị Thìn là một cây toán đáng nể.
- Mấy chị chắc là xinh lắm?
Tôi tủm tỉm:
- Cũng thường thường thôi, không bằng Thắm.
- ứ ự! - Em đỏ mặt lên, hỏi sang chuyện khác - Chắc là em không thi nổi quốc học, anh Đào nhỉ?
- Không, anh biết Thắm học nhất nhì lớp, thế nào cũng đỗ. Với cái tên Lương Phan Hồng Thắm, là em ruột Lương Phan Thống, bọn chúng nó đã sợ xanh mắt!
Thắm giương đôi mắt thỏ nhìn tôi, đôi mắt lấp lánh ước mơ. Vậy mà Thắm không thực hiện được ước mơ. Vào học lớp nhất ở trường huyện, đám nữ sinh vốn dố kỵ với Thắm, lại biết anh Thắm bị bệnh hủi, nên không đứa nào chịu ngồi cạnh Thắm. Trong đám nữ sinh có con Bạch Yến là con gái quan tri huyện, nó mách với cha và quan huyện lệnh cho hiệu trưởng bắt Thắm phải khám bệnh. Ông y sĩ trưởng coi nhà thương huyện, qua cặp kính cận nhìn Thắm từ đầu đến chân, rồi bắt em cởi bỏ áo quần. Em tái mặt, chụp lấy cặp sách và nón, ù té chạy. Vừa chạy về nhà vừa khóc. Em bỏ học luôn, sắm gánh hàng xén đi chợ. Mùa hè năm tôi học xong đệ nhị niên, về quê, tôi gặp em ở chợ. Trông em tươi mởn, đon đả và duyên dáng, đúng cách cô hàng xén chợ. Tôi tiếc cho em bỏ học, còn em có vẻ tự bằng lòng:
- Em biết, những cô tú, mợ Phán, chị Thừa chả đến phận em. Em sợ trèo cao ngã đau!
Hỏi em về tin tức anh Thống, em bảo là biệt vô âm tín. Không thấy anh thư từ gì cả, chẳng biết mất hay còn?
Mùa xuân năm 1945, lúc sắp học hết đệ tam niên, một đêm tôi giật mình vì súng nổ dữ dội, nhất là về mạn Tràng Thi. Ông chủ cửa hàng thuốc Bắc bảo tôi. Tây và Nhật nện nhau. Sáng hôm sau, tới trường đã thấy lính nhật súng ống ngổn ngang, ngựa nghẽo cột đầy gốc cây ở sân trường. Học sinh đều sững lại trước ngọn lê sáng quắc của tên lính canh, mắt gườm gườm, tay xua xua ra hiệu cho chúng tôi cuốn xéo. Nhà trường đóng cửa. Ngẩn ngơ vài hôm nhìn Tây bị lính Nhật trói bắt đi chúng tôi rủ nhau xách va ly về quê.
Tưởng về quê tá túc mươi bữa nửa tháng, rồi lại ra Vinh, tiếp tục tới trường, nào ngờ cửa trườn quốc học đóng chặt. Và ái làng Triều trong những biến động lớn lao cũng níu giữ chân tôi lại. Thoạt đầu là một nạn đói khủng khiếp. Con sông La trong xanh là vậy mà chúng tôi không còn hứng thú bơi lặn như xưa. Trên mặt nước là xác người chết đói, xác người bị lính Nhật giết trôi lềnh phềnh dưới bầu trời ảm đạm đầy tiếng quạ kêu. Tiếp đến là làn sóng ngầm cuồn cuộn dữ dội tận đáy lòng dân làng đã bùng lên.
Dòng sông La rợp bóng cờ đỏ sao vàng dẫn đầu đoàn người gậy gộc giáo mác trong tay, kéo dài hàng ba bốn cây số đi giành chính quyền huyện. Vào tuổi chúng tôi, khi đã hiểu rõ cội nguồn của nô lệ và đói khát, máu trong người như được đun sôi. Chợt nghĩ rằng, học hành cũng cần, nhưng chưa cấp thiết bằng làm được việc gì đó có ích cho cách mạng, cho sự đổi đời của đất nước. Giữa những ngày bânj rộn sôi nổi, tự nguyện "ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng" ấy, đột nhiên được tin anh Thống đã lành bệnh trở về, có giấy của ủy ban cách mạng Quy Nhơn hẳn hoi. Tôi chạy đến nhà bác Dư. Đúng là anh Thống đã về. Ôi mừng xiết bao! Vậy là anh xa nhà đã hơn 6 năm nay trở về nguyên vẹn. Nom anh to cao hơn và đen nhẻm. Bàn tay tôi đang nắm chặt bàn tay anh đây, bàn tay trơn tru bình thường chẳng có dấu vết gì đáng ngại. Nhìn kỹ, nét mặt anh có cái gì dại dại, hình như gồ ghề ra, trong màu đen có pha màu tím. Anh vỗ vỗ vào lưng tôi:
- Đang học dở đệ tam à? Trông Đào đã ra vẻ người lớn.
Đúng thế, tôi đã cao 1m62 chỉ còn mỏng người thôi. Lâu ngày mới gặp nhau, thôi thì đủ thứ chuyện trên đời. Anh kể chuyện chữa bệnh, chuyện về biển và đảo, về phong tục miền Nam. Tôi thú vị nhất là khi biết anh đã gặp và trò chuyện với nhà thơ Hàn Mặc Tử. Tôi đang mê thơ. Biết anh đã gặp nhà thơ mà thèm. Tôi còn bái phục anh ở điểm nay: sáu năm liền điều trị bệnh tật, anh đã tự học tiếng Anh thông thạo đến mức có thể dịch được thơ và tiểu thuyết. Tíu tít với anh chỉ được một lúc, nhà anh đông khách. Họ hàng làng xóm đến chúc mừng anh, chia sẻ niềm vui với gia đình bác Dư. Mùi chè xanh thơm lừng. Đã sáu năm, hôm nay nhà bác Dư mới trở lại phhong tục mời nước chè xanh. Hai cô em gái anh, Thiết và Thắm đều đã đến tuổi cho trai làng ngấp nghé. Trong niềm vui hơn hớn ủa hai cô, còn ngầm ý một chút cong cớn. Nào, bây giờ có ai xa lánh nhà có hủi nữa không?
Anh Thống mau chóng hòa nhập vào không khí sôi động của đám trai trẻ chúng tôi trong những ngày chính quyền cách mạng còn non trẻ. Dường như trong đầu anh luôn luôn lấy cưữ học làm đầu, anh tỏ vẻ xót xa trước việc trẻ em trong làng, trong xã bỏ học hết. ủy ban xã cử anh làm ủy viên văn hóa giáo dục. Anh bèn tổ chức lại các trường học, mỗi làng một trường. Rồi xóm nào cũng có lớp bình dân học vụ hoặc học trưa hoặc học tối. Đám học trò cũ của anh ngày xưa đều vui vẻ nhận làm thày giáo. Anh giao cho tôi và cái Oanh tổ chức đội văn nghệ, thằng Long thằng Trường đội bóng đá, thắng Minh và thắng Khuyển chuẩn bị đội bơi thuyền để đến kỷ niệm quốc khánh đầu tiên mà bấy giờ dân làng còn gọi là ăn Tết độc lập, bơi thi với An Phú bên kia sông. Anh Thống là nhà tổ chức có tài và gương mẫu. Anh trực tiếp dạy một lớp Bình dân học vụ, coi như lớp thí điểm. Mẹ tôi cũng đi học. Tối nào cũng xách đèn hoa kỳ và sách bút tới lớp. Chả mấy chốc mẹ tôi đã biết đọc biết viết. Mẹ tôi khen anh Thống dạy dễ hiểu, ai cũng thích. Không khí quê tôi vào những ngày chính quyền vào tay việt Minh nghĩa là vào tay những người cộng sản trước đây bị tây cầm tù và những người có chữ nghĩa hẳn hoi đã khác xa cái thời Chánh Tòng, Lý Đóa. Có cảm giác như những ngày hội nối liền ngày hội. Cùng với anh Thống, hai cô em gái anh cũng tham gia hoạt động thanh thiếu niên. Thiết còn vào hội phụ nữ cứu quốc, còn Thắm ở đội văn nghệ với tôi, em có giọng hát khá tốt. Của đáng tội, Thiết chỉ vào loại ưa nhìn không xinh bằng Thắm. Được cái cả hai chị em lúc nào má cũng hây hây, cười nói rổn rảng và đôi mắt rực lửa.
Vậy mà buồn thay niềm vui của hai cô gái dậy thì không được lâu. Anh Thống đổ ốm. Lớp học bình dân của mẹ tôi, thắm đến dạy thay. Nghe nói anh sốt cao, chúng tôi rủ nhau định tới thăm, nhưng Thắm bảo anh không muốn tiếp ai. Tôi cứ liều đến. Thắm ngăn tôi từ ngoài sân. Em nói, mắt nhìn xuống đất:
- Có lẽ bệnh anh Thống tái phát anh ạ!
Em thở dài, nước mắt lặng lẽ bò xuôi má. Tôi chào em ra về, lòng buồn thiu. Bây giờ làm cách nào để giúp anh chữa bệnh đây? Ôi, sao trời đất lại sinh ra cái bệnh kỳ quái? Số phận nào đã đày đọa thân anh, một con người đáng kính như thế? Những câu hỏi cứ xoáy tròn trong đầu tôi, không có lối ra. Ước gì tôi được trở về thời thơ dại ngồi ôm vai anh trên bờ đê, để nghe anh. Đối với anh, chẳng câu hỏi nào anh chịu bó tay không giải đáp được.
Cha tôi bảo:
- Đã tái phát là chết. Nhưng tội cái là còn lâu.
Hôm sau, người ta thấy hai ông chú, ông Đồng và ông Đoài đến chặt tre dựng một túp lều cuối vườn, nơi nghe rõ tiếng ếch đồng và bìm bịp kêu. Đấy là ý nguyện của anh Thống, anh muốn sống cách ly với gia đình. Túp lều đóng cửa im ỉm, chỉ ngày vài lần, bác Dư gái vào ra săn sóc. Ngôi nhà bác cũng vậy, lại văng người đến. Con đường từ ngõ vào sân, dần dà cỏ gấu xanh um. Hai cô em gái của anh vẫn chợ búa, vẫn tham gia đoàn thể, dẫu nét mặt trở nên kém vui, điệu nói điệu cười đều phảng phất một chút mặc cảm y như đang đi giữa sương mù.
Anh Thống nằm cách ly một góc, nhưng mọi tổ chức do anh sắp xếp vẫn chạy đều. Sau anh, có các anh các chị khác. Thương anh lắm, chúng tôi không biết làm gì. Chạy thày chạy thuốc đối với thứ bệnh hiểm nghèo này đâu phải dễ! Giá như thời bây giờ, thì đâu đến nỗi. Thời bây giờ, người ta coi bệnh hủi cũng dễ chữa như bệnh sốt rét. Còn thời ấy, nó đứng đầu bảng tứ chứng nan y: "Phong, lao, cổ, lại" các thầy thuốc bắc nam ở quê tôi mới nghe xưng bệnh đã lắ đầu quầy quậy. Với lại, đào đâu ra tiền mà chữa bệnh?
Chúng tôi đã đến tuổi thanh niên mà góp nhau chút ít để mua quà biếu anh, cũng phải xin cha mẹ. Còn một cách để an ủi anh là chúng tôi viết thư tới. Thăm hỏi động viên đã đành. Chúng tôi còn kể cho anh mọi tin tức hoạt động trong làng, trong xã. Rồi chép lại những bài báo, những mẩu tin quan trọng xảy ra trên đất nước. Tất cả, chúng tôi đều gửi qua Thắm. Em như cầu liên lạc giữa anh và chúng tôi. Thực ra, Thắm cũng không được phép xáp mặt anh, cả Thiết nữa. Vậy mà Thắm vẫn mang đến cho chúng tôi lời cám ơn của anh mỗi lần nhận được thư và tin tức.
Vào thời đó, phương tiện thông tin còn quá thô sơ. Cả xã không có rađiô. Báo đến chậm chạp. Ngày nào, xã cũng cho người lên huyện chép tin. Nhưng đấy là một thời kỳ đât nướ đang như dầu sôi lửa bỏng, đang đứng trước muôn vàn thử thách. Đúng là thù trong, giặc ngoài. Quốc dân Đảng, Đại Việt gây rối ở chính trường Hà Nội. Pháp càng ngày càng đánh lấn ra. Mặt trận Nha Trang vỡ... Tàn quân Pháp theo đường 9 đánh xuống, Pháp từ Đà Nẵng đánh chiếm Lăng Cô. Rồi mặt trận Huế vỡ. Địch thừa cơ đánh ra tận Quảng Bình, sát nách quê tôi. Hậu phương yên bình là thế, nay trở nên sôi sục. Thực hiện tiêu thổ kháng chiến, thành phố Vinh, thị xã Hà Tĩnh chỉ trong vài hôm biến thành đống gạch đổ nát. Cầu Yên Xuân, cầu Thọ Tường bị đánh gục xuống lòng sông. Đường quốc lộ thành hố, thành ụ. Rồi giặc Pháp gây hấn Hải Phòng, Hà Nội. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ vang lên trong tiếng súng nổ rền khắp cả nước. Lớp trai trẻ chúng tôi, cảm thấy máu trong người như sôi lên. Cũng đã mon men vào tuổi mười tám rồi, không thể ở nhà với đội du kích xã nữa, chúng tôi nhất quyêt ra trận. Cùng trang lứa với tôi, thằng Trường to cao nhất đã vào tiếp phòng quân mấy tháng trước. Còn tôi, thằng Minh, thằng Long, thằng Khuyến đều trúng tuyển vào vệ quốc quân. Những cuộc tiễn đưa người đầu quân ra trận, thời ấy thật đầm ấm vui vẻ. Chỉ có lời chúc tụng và tiếng cười vui. Tuyệt nhiên không có tiếng khóc, tiếng than thở ngậm ngùi. Nếu có chút bịn rịn là chỉ mấy anh có vợ con. Riêng tôi chưa hề vướng bận gì. Cha mẹ tôi mới hơn bốn mươi, sau tôi còn ba em nữa, một gái hai trai. Chuẩn bị ra đi, lòng tôi hoàn toàn thanh thản. Chỉ thương anh Thống. Rất muốn đến chào từ biệt anh và tất nhiên là cả Thắm nữa. Giữa tôi và Thắm chưa thể gọi là tình yêu. Đấy là một chút cảm mến, một chút xao xuyến bâng khuâng. Đang lưỡng lự, chợt Thắm tìm đến. Vẻ đẹp của em vẫn thế, vẫn buồn buồn. Dương như quanh hình hài em lởn vởn lớp sương mù không tan.
- Anh Đào đi thật à?
- Chẳng lẽ anh lại đùa! Sáng mai anh lên đường!
Tần ngần một lát, em như dỗi:
- Con trai các anh đều thế1 Ra đi dăm bữa nửa tháng là quên ngay làng Triều.
- Với ai anh không biết! Với anh thì không! Anh không bao giờ quên quê hương. Cũng sẽ không quên Thắm!
Em lườm tôi:
- Chỉ nói dóc.
- Thề đấy!
- Thề cá trê chui ống.
Em phá ra cười. Nụ cười vẫn buồn, tạnh rất nhanh. Em nói tiếp:
- Anh Đào ạ! Anh Thống em muốn nói chuyện với anh! Tối anh đến nhé! Em chờ!
Hình như câu nói đó làm Thắm ngượng. Em đỏ mặt, vội chào tôi, cầm nón đi ngay. Để tôi đứng lại với cái thềm đầy nắng chiều và nỗi hồi hộp.
Trời tối được một lúc, tôi nói dối mẹ là qua nhà thằng Minh một tẹo. Vào ngõ nhà bác Dư đi đến góc sân nơi có cây ngâu, tôi chợt nhận ra mùi thơm thoang thoảng. Thì ra Thắm đã đợi tôi ở đấy. Chả biết mùi thơm từ hoa ngâu ay từ da thịt em tỏa ra. Tôi lặng lẽ theo em trong tiếng cối giã gạo thình thịch từ trong nhà. Chúng tôi vòng phía sau bếp, đi băng qua vườn không hiểu đang trồng à hay đậu. "Để em dắt anh" Thắm bảo khẽ và bạo dạn nắm tay tôi mò mẫm trên lối mòn rất nhỏ giữa hai luống rau. Bàn tay nhỏ nhắn ấm nóng của em đã truyền sang tôi một cảm giác kỳ lạ, cảm thấy tim mình đập nhanh hơn. Cuối vườn là túp lều tối thui, đom đóm lập lòe sau bờ tre và giun khoang kêu ri rỉ đâu đó. Dường như anh Thống đã theo dõi chúng tôi qua kẽ vách, nên khi hai đứa vừa dừng lại đã nghe tiếng anh Thống cất lên:
- Đào đấy phải không?
Thắm nhanh nhẩu:
- Vâng, anh Đào đến.
Hướng vào bức vách kín mít, tôi nói:
- Em chào anh Thống. Ngày mai em đi bộ đội. Chúc anh ở lại chóng bình phục!
Có tiêng cười ngắn sau bức vách. Rồi anh Thống nói:
- Chúc em lên đường mạnh giỏi! Đào có nhớ câu chuyện về tiếng đất ngày xưa anh nói nữa không?
- Dạ thưa anh, có ạ!
Giọng anh trở nên nghiêm trang:
- Đúng đấy Đào ạ! Lâu nay anh vẫn nghe tiếng đất. Đúng là đất Tổ quốc đang rên xiết dưới gót giày xâm lược của giặc Pháp. Đất kêu cứu, đang lên tiếng kêu gọi trai tráng lên đường cứu nước. Em ra đi lúc này là phải lắm. Anh tiếc mình không đủ sức cầm súng... Em hãy dũng cảm chiến đấu cho đáng mặt con trai làng Triều. Trong mọi nỗ lực của em, hãy coi như giúp thêm phần cho anh nữa. Em nhớ nói lại ý của anh với các bạn: Minh, Long, Khuyến coi đó là lời dặn dò và lời chúc của anh. Thôi, em về đi! Anh chẳng có gì làm kỷ niệm, chỉ tặng em câu chuyện tiếng đất để em chẳng bao giờ nên quên.
- Vâng, thưa anh, em sẽ nhớ lời anh...
Tôi đứng lặng, thực sự xúc động. Giá như anh khỏe mạnh, lành lặn, tôi sẽ nhào tới ôm chầm lấy anh, nắm tay anh để tỏ lòng tôn kính của mình. Nhưng trước mắt tôi vẫn là túp lều đóng kín chìm trong bóng đêm. Bấy giờ, tôi đã sắp thành vệ quốc quân, cũng có học hành tử tế, tôi thừa hiểu rằng đất vốn im lặng. Chẳng qua, anh Thống muốn nhân cách hóa đất tạo thành hình tượng để khích lệ động viên tôi. Nhưng lạ thay, cái giọng nói nghiêm trang và cũng hết sức thành thực của anh đã làm tôi cảm động đến ứa nước mắt. Tôi cứ đứng chôn chân xuống đất như trời trồng. Cho đến lúc, anh Thống lại giục:
- Thôi Đào về đi, về đi! Thắm tiễn Đào về hộ anh nhé!
Bàn tay nhỏ nhắn và nóng ấm của em đã khẽ khàng nắm tay tôi kéo đi. Tôi vội quay lại chào anh lần nữa, giọng lí nhí và run rẩy.
Đến ngang cây ngâu, chúng tôi dừng lại, Thắm nhét vào tay tôi một vật gì mềm, tôi nhận ra ngay là chiếc mùi xoa bằng lụa tơ tằm có rua viền chỉ mầu:
- Thắm chúc anh đi chân cứng đá mềm! Nhớ ửi thư về cho chúng em.
Tôi cám ơn, nắm tay em, bàn tay nhỏ nhắn và nóng ấm, bần thần mất một lúc rồi mới buông.
Thế là tôi đi.
Cuộc đời bộ đội là vậy, chả ai tính toán sắp xếp trước được. chính tôi cũng không ngờ, từ giã quê hương lần ấy mãi đến bảy năm sau tôi mới trở về. Bảy năm không tin tức gia đình bạn bè. Bởi vì, sau khi học xong lớp quân chính, tôi được chọn vào bộ phận tùy tùng hộ tống một đoàn cán bộ Trung ương vào tận Nam Bộ. Rồi lăn lộn chiến đấu hết Cần Thơ, Cà Mau sang bên Rạch Giá, sống với rừng tràm, rừng đước, bơi xuồng nhoay nhoáy, làm đồ nhậu chuột, rắn, rùa, khá thành thạo, giọng nói cũng đã pha đôi chút, tôi đã thực sự trở thành "Hai Đào", cái tên gọi thân quen của cô bác miền Nam và cả của anh em đơn vị. Hai lần bị thương tại trận, một lần bị nhẹ vào phần mềm trên cánh tay vừa đủ để làm nũng với các má các em, như cách nói của mấy ha đơn vị, lần sau bị nặng vào chân, nhiễm trùng suýt bị cưa cụt, may mà thoát, chỉ phải tập đi mất cả tháng. Ngày chúng tôi reo hò mừng đình chiến trận đất Phụng Hiệp, tôi đã là đại đội trưởng chủ công của một tiểu đoàn nổi tiếng miền Tây Nam Bộ.
Tàu chở quân tập kết đổ lên bãi biển Sầm Sơn, chúng tôi đóng quân trên đất Thanh Hóa. Chỉnh đốn đơn vị xong, tôi được sư đoàn cho nghỉ phép một tháng thăm nhà.
Tôi trở về nhà cứ y như từ trên trời rơi xuống. Thôi thì khỏi kể lại niềm vui của gia đình, họ hàng làng xóm. Mẹ tôi chỉ khóc ròng, nhà cứ đông nghịt người đến chúc mừng. Ai cũng tưởng tôi chết rồi. Trai làng đi bộ đội đều có thư từ gửi về. Riêng tôi thì không. Được biết, cùng trang lứa học hành, còn sống sót sau chiến tranh với tôi là thằng Minh, hiện đang giữ chức tiểu đoàn phó sư đoàn Quân tiên phong. Thằng Trường, thằng Long, thằng Khuyến lần lượt hy sinh qua các chiến dịch phía Bắc, đã được xã tổ chứ truy điệu trongj thể. Mỗi lần dự truy điệu về, mẹ tôi mất ăn mất ngủ hàng tuần liền, nhớ con lo cho con mà khóc. Giờ đây, mẹ tôi khóc vì sung sướng. Tôi đã trở về nguyên vẹn. Dẫu có vài vết thương vẫn coi như nguyên vẹn. Các em tôi đã lớn. Cô em gái, ngày tôi đi, tóc lút cút ngang gáy, giờ đã về nhà chồng. HHai thằng nhóc nay cao lớn tồng ngồng, đứa học lớp tám, đứa lớp sáu. ha tôi còn vững tay cưa đục. Thế là mừng. Trong niềm vui sum họp, mẹ tôi chỉ gicụ tôi lấy vợ. Dương như đã túm được tôi là mẹ tôi cột chặt, phải lấy vợ đã rồi đi đâu hẵng đi. Mẹ tôi kể tên bao nhiêu cô gái trong làng, nhưng cái tên lạ hoắc, hoặc có nhớ ra cũng chỉ nhớ láng máng bóng dáng những con bé còn đánh quần xà lỏn vật nhau với đám con trai chưa biết ngượng. Không nghe mẹ nhắc đến Thắm. Tôi hỏi, thì chính em gái tôi đáp:
- Chị thắm có ý chờ anh, em biết. Nhưng lâu quá không thấy anh về, đã nhận trầu nhà người ta, một ông giáo xã khác. Ra giêng mới cưới.
Thôi thế cũng là mừng cho Thắm. Giữa em và tôi đã có gì ràng buộc đâu. Chiếc khăn em tặng ngày ưa tôi cất giữ mãi trong ba lô. Năm kia địch càn vào cứ, mất cả ba lô mới không tài nào giữ được vật kỷ niệm. Dù sao, em cũng đã dành cho tôi tình cảm đặc biệt. Nếu chiến tranh kết thúc sớm hơn, biêt đâu...
- Anh Thống thế nào rồi? Câu hỏi của tôi làm cả nhà tỏ vẻ ngơ ngác.
Rồi cha tôi à lên, như sực nhớ:
- Anh Thống à? Nó chết lâu rồi. Dễ có khi chỉ sau ngày anh đi dăm tháng, thằng ấy gan, nó tự chết.
Tôi giật mìh:
- Anh ấy tự sát à?
- Còn hơn cả tự sát, tự chôn sống.
Những ngày ở chiến trường, mỗi lần nhớ về quê là nhớ đến anh Thống. Tôi cũng đoán chắc rằng anh sẽ không sống nổi. Nhưng nghe nói anh tự chôn sống thì một hai ngày sau, tôi mới hiểu ra.
Vào những ngày đám trai trẻ chúng tôi lên đường ra trận hết, thiếu nguồn thông tin, anh sống hoàn toàn bị cô lâpj với xã hội bên ngoài. Bệnh càng ngày càng phát triển, chẳng có cách gì cứu chữa. Anh tự thấy mình đã không đóng góp được gì, lại trở thành gánh nặng cho mẹ và các em, cho cả làng xóm nữa. Phải làm sao đây? Vốn không chịu bó tay trước một câu hỏi nào, dù hắc búa đến mấy. Anh đã tìm ra câu trả lời tốt nhất, đúng nhất là phải tự kết thúc. Sẽ tự kết thúc một cách bình tĩnh. Anh cho mời mẹ và hai người chú là ông Đồng và ông Đoài đến trình bày ý định với họ, tìm cách thuyết phục họ. Thương con thương cháu đứt ruột, không ai nỡ làm thế, vậy mà cuối cùng phải chiều anh. Chẳng còn cách nào khác. Phải để tâm linh anh thanh thản! Phải vợi bớt gánh nặng cho mẹ già và người thân! Phải cứu lấy tương lai hai cô em gái đã đến tuổi cập kê! Phải trả lại vùng không gian trong sạch và lành mạnh cho làng xóm!
Chọn ngày lành giờ tốt, anh Thống bảo mẹ soạn mâm cơm cúng cha và ông bà tổ tiên. Sau khi tắm rửa sạch sẽ bằng nước lá chanh lá bưởi, anh Thống bận bộ quần áo đẹp nhất mới nhất đến trước bàn thờ chắp tay khấn lễ. Trong lúc đó, hai ông chú ra cửa hàng đồ sũ ngoài bến sông, mua về một áo quan bằng gỗ vàng tâm. Lễ xong, tàn tuần hương, anh mời các chú xơi rượu. Anh không ngồi cùng mâm với các chú, trở về túp lều, ăn riêng. Xong đâu đấy, anh hào mẹ và các em, dặn dò mấy câu y như anh lên đường đi điều trị, cấm mọi người đi theo.
Lặng lẽ đi ra khỏi nhà có ba người. Anh Thống đi trước trên đầu vấn một vành khăn trắng tự để tang cho mình, tay cầm nắm hương tỏa khói thơm nức. Phía sau, là hai ông chú khiêng chiếc áo quan chứa lớp vôi bột và cuộc xẻng. Anh Thống vừa đi vừa nhìn trời đất và quang cảnh xóm làng. Hôm ấy nắng chiều rực rỡ làm sáng xanh cánh đồng lúa đang thì con gái. Họ dừng lại ở bãi tha ma, quê tôi gọi là Trảng Dứa. ở đấy đồng không mông quạnh, xa làng xa xóm, chỉ mấy lùm dứa dại, vài cây sòi lá vàng hươm và thế giới cõi âm. Anh Thống chọn chỗ đào huyệt. Trong lúc hai ông chú hì hục đào, anh ngồi xếp bằng trên cỏ, lôi chai rượu từ trong túi áo ra. Anh ngửa cổ tu từng hụm. Anh vốn không biết uống rượu, nhưng hôm đó anh tu hết cả chai nửa lít. Rượu bốc trong người, anh càng hăng nói chuyện với các chú. Toàn chuyênj đời thường, chuyện thời tiết, chuyện lúa má, khoai đỗ, chuyện so sánh đất quê mình với các vùng đất khá. Hoàn toàn không mang dáng vẻ lời trăng trối, nhắn lại, dặn dò. Cũng lạ, uống vậy, mà anh vẫn tỉnh queo. Khi huyệt vừa đủ độ sâu, anh bảo các chú dòng áo quan xuống. Nhìn trời đất lần nữa, anh tụt xuống huyệt, lựa thế nằm dài vào lòng áo quan, trên lớp vôi bột. Bấy giờ anh mới nói những lời cuối cùng: Rằng anh rất yêu cuộc sống, rất muốn sống để cống hiến, nhưng bệnh tình hiểm nghèo, anh phải tự kết thúc. Đấy cũng là một cách biểu thị tình yêu với cuộc sống, với mẹ và hai em, với họ hàng làng xóm. Cuối cùng là lời chào và một câu như lệnh: "Đậy nắp! lấp!". Hai ông chú phải nghiến răng lại, vừa làm vừa sụt sịt, nước mắt đầm đìa. Về sau ông Đoài, người chứng kiến duy nhất còn sống kể với tôi: "Thằng ấy gan cóc tía. Nó nằm im thin hít. Chỉ lúc đất đã khỏa một lớp trên ván thiên, mới nghe một tiếng quẫy, chắc là cái vật mình cuối cùng trước lúc tắt thở".
Giúp đứa cháu xấu số tự mai táng xong, hai ông chú về nhà, phóng hỏa đốt túp lều và làm lễ phát tang. Khi tiếng khóc trong nhà dậy lên, họ hàng làng xóm kéo đến thì mọi việc tang lễ đã xong. Câu chuyện về cái chết của anh Thống được dân làng đồn đại, cũng có người vẽ rắn thêm chân, trở thành huyền thoại. Trong thâm tâm, mọi người đều cảm phục anh, coi cái chết của anh như sự tuẫn tiết của vị anh hùng. Riêng tôi, còn hơn thế nữa, còn coi anh là vị thánh.
Câu chuyện về cái chết của anh Thống, tôi hép lại là dựa theo lời kể của ông Đoài và gia đình bác Dư. Ông Đồng đã mất. Hôm tôi đến thăm bác Dư, gặp cả nhà. Bác Dư gái ngoài sáu mươi, nom đã hom hem. Thiết đã trở thành "ả chắt", có đứa con trai lên ba và đang mang bầu. Thiết có vẻ bằng lòng với cuộc sống nông dân của mình, còn tự hào có chồng đang là xã đội trưởng. Thắm vẫn gánh hàng xén ra chợ như xưa, em chững chạc hơn, hãy còn xinh gái. Gặp tôi, em tái mặt và rơm rớm nước mắt. Dường như em ân hận là đã nhận lời người khác. Thắp hương lên bàn thờ anh Thống xong, tôi thưa với bác Dư rằng, muốn ra đồng viếng mộ anh. Tát nhiên bác Dư bảo Thắm dẫn tôi đi, cả hai chúng tôi cũng muốn vậy.
Ngôi mộ của anh nom đơn sơ, cỏ và cây dại mọc xanh um. Trong lúc Thắm vơ dọn cây cỏ cho mát mẻ ngôi mộ, tôi mượn chiếc nón của Thắm che gió đề bật lửa thắp hương. Cắm hương xong, tôi quỳ xuống lạy anh bốn lạy, đúng lễ nghĩa học trò đối với thầy. Tôi thưa với vong linh anh rằng, suốt bảy năm qua lúc nào tôi cũng nhớ những lời dặn dò của anh trước lúc ra đi. Tôi đã chiến đấu hết mình, được tặng hai huân chương chiến công và nhiều giấy khen. Đã được kết nạp vào Đảng tại trận lúc còn phụ trách trung đội phó nay tôi là đại đội trưởng chủ công. Trong mọi nỗ lực vượt qua gian khổ ác liệt hoàn thành nhiệm vụ chiếm đấu, tôi đều nghĩ rằng có phần đóng góp của anh. Đấy là một sức mạnh tiềm ẩn.Nay tôi trở về, thì anh đã thành người thiên cổ từ lâu. Được biết về sự tuẫn tiết của anh, tôi tự thấy những chiến công của mình trở nên nhỏ bé, chưa thấm vào đâu. Vì sao, hỡi vong linh anh Thống? Có đấng thần linh nào giúp sức để anh có thể tự kết thúc mình một cách bình tĩnh dũng cảm làm vâỵ? Xin bái phục anh! Đúng là anh mới xứng đáng người anh hùng. Mong anh sống khôn chết thiêng phù hộ độ trì cho những người thân, lớp đàn em chúng tôi sống cho nên người, cho đáng sống. Khấn xong, tôi lại vái. Chợt linh cảm thấy biết đâu qua lớp đất dày, anh Thống có thể nói lại với tôi điều gì chăng? tôi nằm xuống ôm lấy ngôi mộ, áp tai lên lớp cỏ mềm. Cử chỉ đó dường như làm Thắm phân vân. Em nói rất nhẹ, như dỗ dành:
- Thôi, anh Đào ơi! Anh dậy đi!
Tôi vẫn nằm im. Lát sau tôi mới đứng dậy:
- Anh lắng nghe tiếng đất! Thắm có nhớ ngày xưa anh Thống bảo đất cũng có tiếng nói không?
- Em nhớ! Vậy vừa rồi đất có bảo gì không?
- Có chứ! Đất bảo rằng, cuộc đời là một chuỗi dài những câu hỏi cần giải đáp. Điều quan trọng là phải giải đáp đúng. Khi đã tin vào lời giải đáp hoàn toàn chính xác, con người sẽ ự do và đầy đủ sức mạnh.
Thắm nhìn tôi, đôi mắt chớp chớp, vẻ ngạc nhiên nửa tin, nửa ngờ:
- Anh nói thật đấy chứ?
- Sao lại không thật?
Thắm im lặng cúi đầu vẻ nhẫn nhục. Rồi lại ngẩng đầu nhìn tôi, muốn hỏi nhưng không biết hỏi gì. Thực ra tôi muốn Thắm và cả chính mình nữa, tin vào điều tôi vừa tưởng tượng, coi như lời khuyên bảo trong cuộc sống. Đất vốn im lặng. Đất chỉ biết nói khi con người muốn thế.
Đấy là di sản quý báu mà anh Thống để lại cho tôi.
Trên đường về, cả hai đứa chúng tôi trở nên trầm ngâm. Tôi đi trước, em đi sau cách nhau mươi bước chân. Cứ y như đôi vợ chồng trẻ đang có điều gì dỗi nhau. Lúc đi, chúng tôi chuyện trò tíu tít. Chuyện ở chiến trường, chuyện ở quê nhà, chuyện về cuộc đời mấy đứa bạn. Trong trò chuyện chúng tôi đều ý tứ tế nhị, không khơi gợi điều gì liên quan đến tình cảm giữa hai đứa. Đấy là những điều khó nói và không tiện nói. Do vậy, chúng tôi đều thanh thản, giọng nói điệu cười hoàn toàn tự nhiên. Còn lú này có thể do chính những lời khuyên bảo của đất do tôi vừa tưởng tượng ra, đang buộc cả hai chúng tôi suy ngẫm về mình. Nói cho đúng hơn là về mối quan hệ tình cảm giữa hai chúng tôi. Tôi đoán chắc rằng, nếu tôi lấn tới, tỏ tình với em, em sẽ đủ can đảm đi giả lễ chạm ngõ cho cái nhà ông giáo nào đấy. Nhưng liệu có nên xử sự vậy không? Thời bấy giờ xử sự như vậy cũng dễ tai tiếng. Hơn nữa, mẹ tôi có vẻ không mặn mà với Thắm. Không hiểu vì lý do gì. Cái chính là tôi tự thẩm tra lại mình. Trong trái tim tôi, Thắm mới chỉ là đứa em để mến chứ chưa làm tôi say đắm mất ăn mất ngủ. Thế thì thôi, đừng làm xáo trộn cuộc sống của Thắm lên nữa, và hãy để trái tim chàn trai hai lăm tuổi tự do rung động. Tìm được lời giải đáp như vậy, tôi thấy lòng mình nhẹ nhõm. Tôi đi chậm lại chờ em. Để gợi lại không khí vui vẻ, tôi bắt đầu kể cho em nghe một chuyện tếu của lính ở chiến trường. Và thế là chuyện trò giữa chúng tôi lại rộn rã hồn nhiên như lúc đi. Về đến đầu xóm, trời ngả hoàng hôn. Chúng tôi chia tay nơi lối rẽ vào ngõ nhà em.
Buông tay tôi ra, chợt em hỏi, giọng vừa đùa vừa có ý thăm dò:
- Kỳ này anh về phép phải cưới vợ đi chứ?
- Đã có ai đâu mà cưới?
- Để em làm mối cho!
- Thế thì còn gì bằng! Nhưng Thắm chớ làm mối vào đám đã có người chạm ngõ, sẽ xảy ra chiến tranh cho mà xem!
- ứ ự anh! Thôi em về đây!
Nhìn theo bóng em đang lẫn vào hoàng hôn, tôi nói vọng theo:
- Anh nói thật đấy! Anh không thích chiến tranh, chỉ muốn sống hòa bình thôi.
11 - 1993