Tay trái Đrô-dơ-đốp-xki vẫn cầm khẩu súng ngắn, còn tay phải vẫn đi găng, chốc chốc lại đưa lên cổ và sát vào mắt, anh nói gì đó nhát gừng, khó hiểu. Người chiến sĩ thông tin thứ hai cúi xuống định nâng Đrô-dơ-đốp-xki dậy, anh ta đứng ở sau lưng vụng về xốc nách anh. Khẩu tiểu liên nóng bỏng nằm ngay đó cạnh anh trinh sát bị cóng choàng chiếc áo ngụy trang mà xám trông như một nấm đất.
Đrô-dơ-đốp-xki vùng vằng cưỡng lại người chiến sĩ thông tin, anh bắt đầu lên tiếng một cách nóng nảy, với thói bướng bỉnh điên cuồng của người bị choáng:
-Băng cho tôi! Dôi-a đâu? Băng đi!... Tôi bị thương, để cô ấy băng cho tôi chứ1 Cậu đi đi-i!...
Cu-dơ-nét-xốp cởi khuy áo choàng ở ngực chẳng hiểu để làm gì và cũng máy móc như thế, anh bước về phía Đrô-dơ-đốp-xki nghiêng mình và nhìn thấy mảng da rách đẫm máu ở dưới tai anh ta, anh nói bằng đôi môi lạnh cứng:
-Đrô-dơ-đốp-xki! Anh có nghe thấy tôi nói không? Anh có đứng dậy được không? Chân còn nguyên vẹn cả chứ! Anh chỉ bị xước da thôi! Đứng dậy, đứng dậy, Đrô-dơ-đốp-xki!
-Dôi-a đâu? Dôi-a đâu hả Cu-dơ-nét-xốp? Đâu? Băng cho tôi!...
-Đứng dậy, Đrô-dơ-đốp-xki, đứng dậy!
Sau đó Cu-dơ-nét-xốp cởi áo choàng ra, trải trên tuyết. Cùng với Đrô-dơ-đốp-xki họ đặt Dôi-a co quắp vào trong áo choàng rồi cứ thế khiên cô đi. Nhưng anh không thể nào nhìn vào cô, người anh run bắn lên như cơn sốt rét. Đrô-dơ-đốp-xki đi ở phía trước, vẫn như mê man, lảo đảo một cách yếu ớt, đôi vai lúc nào cũng thẳng của anh ta còng xuống, tay chéo về phía sau để giữ mép áo choàng. Mảnh băng trắng lạ lùng làm cho cổ anh ngắ lại, băng thõng xuống cổ áo và Đrô-dơ-đốp-xki không quay cổ, không thể nhìn về phía sau được. Chốc chốc anh ta lại lắc lư như người say rượu và đôi lúc chân bị vấp nhưng chẳng thốt ra lời nào. Chỉ thỉnh thoảng lưng anh căng ra và từ họng anh bật ra chẳng rõ là tiếng rên lay tiếng ho xù xụ. Cái âm thanh nghèn nghẹn lạ lùng đó làm cho Cu-dơ-nét-xốp tan nát ruột gan. Khi họ đã vào tới khu vực mấy chiếc xe tăng Đức bị bắn cháy, nơi những loạt tiểu liên của địch không bay tới được, Đrô-dơ-đốp-xki mới thì thào cầu xin:
-Ta nghỉ một tí… tôi không đi nổi nữa. Mình xin cậu, Cu-dơ-nét-xốp…
Họ đặt Dôi-a xuống tuyết. Cu-dơ-nét-xốp vẫn không đủ sức nhìn cô, cổ anh như tắc nghẹn không thở được.Anh đứng dựa vai vào vỏ bọc thép méo mó của chiếc xe tăng Đức, chân anh khuỵu xuống, anh có ý muốn ngồi xuống tuyết, nhắm mắt lại, không động đậy, không nghĩ ngợi tới cái gì hết. Đối với anh, giờ đây thì đằng nào cũng thế thôi, tất cả đã mất giá, trong một giây tất cả đều trở nên vô nghĩa: cả anh trinh sát bị cóng, cả tên tù binh Đức, cả đêm khuya sau trận đánh, giá lạnh, hố bom trước cái khe-tất cả dường như là một sự bất công quái đản, vô nhân đạo cần phải có để chuyện đó xảy ra…
“Cô ấy bị thương vào bụng,-anh điên khùng giải thích cho mình, cố uổng công sắp xếp lại mọi việc một cách lô-gich xem chuyện đó đã có thể xảy ra như thế nào.-Thoạt đầu khi họ đi tới bãi đất thấp cô đã bắn bằng khẩu “Van-te” của mình. Thế rồi sau đó?... Nhưng sao lại chính cô ấy bị thương? Sao lại chính là cô ấy?”.
-Cu-dơ-nét-xốp…
Như trong cơn mơ, anh máy móc túm lấy mép áo choàng và bước đi, không dám nhìn vào đó, phía trước mắt mình, không dám nhìn xuống dưới chỗ cô nằm, từ chỗ đó phảng phất cái hoang vắng lặng lẽ, lạnh lẽo, chết chóc. Không một lời nói, không một tiếng rên, không một hơi thở. Nhưng không, hãy còn cái cảm giác sinh động, lừa dối, ấy là thân hình cô nằm trong chiếc áo choàng nặng trĩu trên tay và đó là tất cả những gì anh cảm thấy trong giây phút ấy khi cùng với Đrô-dơ-đốp-xki khiêng cô về trận địa pháo.
Khi họ đưa cô về tới trận địa pháo thì thấy khuôn mặt của Nết-trai-ép ngọ nguậy phía trên bờ công sự. Nét mặt thất sắc như có ý dò hỏi, Nết-trai-ép nhảy ra khỏi mặt bằng đặt pháo để đón họ, sải bước bên cạnh họ, sợ hãi nhìn Dôi-a rồi đưa cặp mắt bối rối chằm chằm nhìn Đrô-dơ-đốp-xki và Cu-dơ-nét-xốp dường như chờ đợi sự giải thích xem mọi việc đã xảy như thế nào, làm sao cô đến nông nỗi ấy. Nhưng cả Cu-dơ-nét-xốp lẫn Đrô-dơ-đốp-xki đều không giải thích cho anh điều gì hết.
Vẫn như trước đây, Cu-dơ-nét-xốp cố không nhìn Dôi-a. Anh không nhìn cô ngay cả khi mọi người đặt cô vào hốc đất, anh không nhớ rõ ai đã khuyên nên đặt cô vào đó để gió tuyết khỏi vùi lấp mặt cô. Anh đứng đó, để khẩu tiểu liên tụt xuống đất và nghe một giọng nói nào đó nhẹ bỗng, giống như giọng nói của Nết-trai-ép thì thào với anh: “Đồng chí cóng hết cả người rồi, đồng chí trung úy, tay chân đồng chí cứng đờ ra rồi”. Và mãi tới lúc đó anh mới chợt nhìn thấy bên bờ lũy cạnh hóc đất chiếc áo choàng của mình với những vết máu sẫm trên tà áo và chẳng hiểu sao anh nghĩ rằng có lẽ mình sẽ chẳng bao giờ mặc chiếc áo choàng thấm máu của cô, mang dấu vết cái chết của cô đó nữa.
-Các anh rút chiếc áo choàng của tôi ra làm gì?-Cu-dơ-nét-xốp thì thào bật lên.-Cứ để nó ở trong hốc đất…
-Anh run cả người trong chiếc áo bông kia kìa, đồng chí trung úy…-Nết-trai-ép cũng thì thào đáp lại bên cạnh anh.-Dôi-a làm sao thế? Cô ấy làm sao thế?
Cu-dơ-nét-xốp run bắn người lên, hàm răng anh va vào nhau lập cập, toàn thân anh tê dại và anh vẫn cứ muốn ngồi bệt xuống, nhắm mắt lại, không nghĩ tới cái gì hết-tưởng chừng như chỉ có như thế anh mới thấy dễ chịu được.
Anh vứt khẩu tiểu liên xuống chân mình, ngồi lên bờ lũy gần hốc đất-anh chẳng còn sức đi tới chỗ càng pháo-và vừa run rẩy anh vừa đưa găng tay bẩn thỉu lên cọ mặt, siết chặt và xoa cuống họng chẳng hiểu để làm gì.
“Cu-dơ-nét-sích…-Rõ ràng là anh nghe thấy tiếng nói khẽ khẽ.-Cố đuổi kịp chúng tôi nhé. Phải còn sống đấy, Cu-dơ-nét-sích ạ! Chỉ có điều là đừng rơi vào tay bọn Đức!”.
Anh rên lên trong chiếc bao tay và lần đầu tiên anh quyết định nhìn cô trong hốc đất.
Dôi-a nằm trong đó trên tấm vải bạt do Nết-trai-ép trải ra, đầu tấm vải bạt che kín đến tận ngực cô nên lúc này anh không nhìn thấy vết máu đã làm anh khiếp sợ. Đầu không đội mũ-chắc chiếc mũ đã lăn lóc ở chỗ nào đó trên bãi đất thấp,-cô nằm nghiêng, co quắp như trẻ con, tựa như nằm ngủ, lặng đi trong giấc mơ. Gió hất tung mớ tóc lên mặt cô, khuôn mặt trắng bệch như đá hoa, đã mất hết sinh khí, với cặp lông mày đặc biệt rõ nét, hơi nhíu lại vì một nỗi đau thoáng qua nào đó. Cả cặp lông mày cũng như lông mi đã cứng đơ của cô tưởng chừng như cũng khẽ nhúc nhích, động đậy, gió xua tuyết trên bờ lũy công sự xuống như rắc bột trắng lên chúng. Và Cu-dơ-nét-xốp quay ngoắt người lại ngay, nhắm nghiền mắt lại, lấy ngón tay kẹp chặt lấy cằm và môi khiến da anh nói đau dưới lần găng tay xù xì.
Anh sợ rằng lúc này mình không kiềm chế được, sẽ làm một điều gì đó điên cuồng trong lúc tuyệt vọng và trong tâm trạng cho rằng mình phạm lỗi không thể nào tưởng tượng nổi, y như thể cuộc đời đã chấm dứt và giờ đây chẳng còn có gì hết.
Những món tóc tơ nóng hổi ấy của cô đã chạm vào môi vào mắt anh khi cô ôm chặt lấy anh tìm sự che chở, nép sát vào anh trên hỏa điểm của Đa-vla-chi-an và lúc ấy anh đã ép chặt cô vào bánh xe khẩu pháo, do bản năng anh muốn tránh cho mảnh đạn khỏi bắn vào lưng cô, lúc ấy đôi môi lạnh giá, hơi thở ấm áp của cô phả vào cổ, vào má đẫm mồ hôi của anh… Chả lẽ trong những giây phút đó anh lại biết được những gì sẽ xảy ra nhiều giờ sau đó? Chả lẽ anh lại có thể biết được rằng cô sẽ bị thương trên bãi đất trống và sẽ rút khẩu “Van-te” ra khỏi chiếc túi cứu thương của mình.
Có người từ phía sau khoác chiếc áo choàng lên vai anh, còn anh vẫn ngồi trên bờ công sự như trước, không nhúc nhích, không đáp lại một lời nào đó hỏi, hình như lại là giọng của Nết-trai-ép.
-Đồng chí trung úy, đồng chí run bắn cả người kìa. Đồng chí phải đi… Tốt hơn hết là đồng chí đi vào hầm trú ẩn, chỗ những người bị thương. Ở đó có lò sưởi… Mọi người đã trở về, may quá. Đồng chí hãy nhìn xem… Đồng chí có nghe thấy tôi nói không, đồng chí trung úy? Đồng chí phải sưởi ấm mới được. Mọi người đã trở về, tôi nói rằng…
-Mọi người à?... Đã trở về à?-Cu-dơ-nét-xốp nghẹn ngào nói như bị vướng ở cuống họng, như thể anh muốn dằn mấy tiếng “mọi người đã trở về, may quá” à bất chợt anh nhìn thấy khuôn mặt xanh nhợt bối rối của Nết-trai-ép ở gần mình-Nết-trai-ép cắn chặt ria mép-anh thì thào gần như không rõ:
-Anh hãy che mặt cho Dôi-a… Gió tuyết mù mịt mà. Anh hãy che mặt ngay nhé.
Nết-trai-ép rụt rè bước vào hốc đất, kéo mép tấm vải bạt và thận trọng phủ lên người Dôi-a rồi bước tới bờ công sự.
Hình như làm thế dễ chịu hơn nên Cu-dơ-nét-xốp thử đứng dậy nhưng đôi chân không chịu nghe anh, anh lại bất lực ngồi lên thành công sự. Chiếc áo choàng do Nết-trai-ép khoác lên tuột khỏi vai, trễ xuống lưng anh.
Tất cả những gì nâng đỡ anh suốt một ngày một đêm ấy trong tình trạng căng thẳng quá sức, buộc anh làm cái điều không thể làm được, bỗng nhiên rã ra ở trong anh. Lúc này thậm chí anh không định dứng dậy mà chỉ sờ nắn và xoa cuống họng nghẹt lại như bị siết thòng lọng. Và giá như giờ đây xe tăng Đức bắt đầu tiến công hoặc bọn xạ thủ tiểu liên định tiến gần lại chỗ khẩu pháo chắc anh cũng không vượt được mình, không nhúc nhích khỏi chỗ để ra lệnh bắn…
“Tại sao mọi người đều im lặng và nhìn mình thế? Mọi người đang nghĩ gì? Họ có nhìn thấy mọi việc đã xảy ra không? Đrô-dơ-đốp-xki đâu? Anh ta ở liền bên cạnh cô ấy cơ mà…”.
Hai chiến sĩ thông tin khiêng anh trinh sát bị cóng đi ngang hốc đất băng qua gò cao, Cu-dơ-nét-xốp hiểu rằng họ khiêng anh ta vào hầm để thương binh, họ lặng lẽ đi, nghi hoặc nghiêng đầu về phía Dôi-a nằm dưới tấm áo choàng. Rồi một người nói: “Thế là cô ấy đi rồi”,-và họ dừng lại vẻ do dự tựa hồ như còn chờ đợi cô sẽ hất tấm vải bạt ra, mỉm cười, giơ tay đáp lại họ và nói bằng giọng âu yếm du dương quen thuộc với toàn đơn vị: “Các chú bé thân mến, sao các chú cứ nhìn tôi thế? Tôi còn sống mà…”. Nhưng phép lạ đã không xảy ra và họ cứ đứng đó, đưa mắt đờ đẫn, dò hỏi chằm chằm nhìn tấm vải bạt trong hốc đất, đổi chân, lúng túng họ khênh anh trinh sát đang rên không thành tiếng.
-Các anh khênh đi! Sao cứ đứng đực ra thế?-Mệnh lệnh bực bội của U-kha-nốp vang lên và sau một lát im lặng, anh nói không to lắm:-Nết-trai-ép sao cậu cũng đứng như phỗng thế? Khoác áo choàng cho trung úy. Hay là cậu Ru-bin, cậu hãy giúp một tay…
-Đồng chí trung úy, đồng chí mặc áo choàng vào,-tiếng Nết-trai-ép lại vang lên và người ta lại hất áo choàng từ phía sau lên vai anh.
-Anh nên đứng dậy, trung úy ạ,-tiếng Ru-bin rầu rĩ ngay trên đầu anh.-Ngồi trên đất anh sẽ tê dại hết cả người.
-Cứ để áo choàng đấ. Không cần, tôi đã bảo mà. Cứ để áo đấy. Các anh hãy để…
Tuy vậy anh vẫn đứng dậy, qua sự khẩn khoản của Nết-trai-ép và Ru-bin anh lờ mờ hiểu rằng đứng bên ngoài quan sát họ đã nhận thấy cái gì đó ở trong anh, họ đã nhận thấy có điều gì mới mẻ, đáng sợ, khác thường mà trước đây họ chưa thấy. Anh rùng mình, răng anh vẫn run lập cập như trước, anh cố làm động tác nuốt nhưng không tài nào bắt mình nuốt được cơn nghẹn làm ngột thở.
Xung quanh anh mọi vật đã rõ dần đường nét trong cảnh tranh tối tranh sáng loãng dần và vẻ im lìm trước bình minh đã trùm lên trận địa pháo, lên thảo nguyên và lên những chiếc xe tăng bị cháy. Tuyết bám vào quần áo làm cho U-kha-nốp và Ru-bin trắng xóa từ đầu đến chân nhưng mặt họ đen nhẻm vì khói súng, họ ngồi trên càng pháo, đặt những khẩu tiểu liên còn nóng hổi trên đùi, chừng như họ đặc những ngón tay không rút khỏi bao tay lên đó để sưởi và cả hai không rời mắt khỏi Cu-dơ-nét-xốp.
Tên tù binh Đức nằm nghiêng trên mặt bằng đặt pháo cách họ hai bước, tay bị trói giật cánh khuỷu bằng dây lưng, toàn thân cũng đẫm tuyết. Nó vươn đầu ra, than vãn giọng khàn khàn, hình như nó cầu xin gì đó nhưng không ai cởi trói cho nó. Không ai để ý nghe nó nói. Tựa như không có nó. Những âm thanh khàn khàn đó của tên Đức, nỗi sợ hãi của nó, những đau khổ của nó chẳng có ý nghĩa gì lúc này, chẳng có giá trị gì. Và chẳng hiểu sao Cu-dơ-nét-xốp thoáng ngạc nhiên không biết vì sao hắn còn sống, vì sao hắn vẫn còn nói giọng khàn khàn và vẫn còn vườn đầu được ở đây, bên cạnh hốc đất nơi Dôi-a nằm dưới tấm vải bạt. “Người ta đã giữ gìn hắn!-Anh nghĩ và bất ngờ nổi cơn điên khùng.-Giá mình biết thì mọi việc đã không như thế! Đrô-dơ-đốp-xki có trông thấy cô ấy bị thương không?...”.
-Đại đội trưởng!...-Cu-dơ-nét-xốp gọi rồi anh bước đi không vững, đi tới căn hầm.-Anh có nghe thấy không, đại đội trưởng?
Đrô-dơ-đốp-xki ngồi ở cuối hầm xoay lưng lại phía anh, không ngửng đầu lên; cuộn băng do anh chiến sĩ thông tin quấn vôi lúc ở bãi đất thấp trắng lạ lùng trên cổ anh ta, làm cho cổ to xù ra, che lấp đôi vai; xương quai xanh của anh ta cong lại và nhô ra nhòn nhọn dưới lần áo choàng, đôi cánh tay lủng lẳng không tự giác.
-Cậu muốn gì ở tôi?-Anh ta hỏi khẽ.
-Chỉ có thế này thôi… Anh đi cùng với Dôi-a phải không?
-Mình đã đi cùng với cô ấy.
-Anh có trông thấy cô ấy bị thương không?
-Bọn mình cùng bị một lúc.
-Thế khi cô ấy rút khẩu “Van-te” ra? Cô ấy đã bắn chứ, đại đội trưởng?
-“Van-te” à? Khẩu “Van-te” nào? Cậu hỏi gì thế?-Anh ta quay người lại, cặp mắt xanh ướt tròn xoe trên khuôn mặt trái xoan trắng trẻo.-Cậu có chuyện gì với cô ấy thế, Cu-dơ-nét-xốp?... Mình đoán ra rồi… Mình biết cậu muốn gì? Chỉ có điều cậu hy vọng vô ích, vô ích!...
Hàm dưới của Đrô-dơ-đốp-xki run bắn, giật nảy lên, anh ta bị choáng và đã thốt ra những lời nhát gừng đó trong trạng thái trầm uất nghen tuông điên cuồng mà lúc này Cu-dơ-nét-xốp đang tựa mình vào vách hầm, mắt nhắm lại, không hiểu nổi; anh không thể chịu được cái nhìn sững sờ, ốm yếu của Đrô-dơ-đốp-xki, dải băng lòng thòng trên cổ và những vết máu trên cổ áo anh ta. Một giây trước đây Cu-dơ-nét-xốp sẵn sàng thông cảm, tha thứ, quên đi nhiều điều xảy ra giữa họ, nhưng vì Đrô-dơ-đốp-xki bị thương cùng với cô, không thấy Dôi-a đã hy sinh như thế nào, vì cơn ghen này của anh ta-giờ đây không ai có quyền ghen như thế-nên Cu-dơ-nét-xốp sực tỉnh. Chờ một lát rồi anh nói giọng khản đặc:
-Tốt hơn hết là anh đừng trả lời, đại đội trưởng!-Rồi anh đi khỏi để không hỏi nữa, để dập tắt cơn giận chống lại anh ta ở trong lòng mình, để không nghe, không nhìn thấy anh ta, không tiếp tục chuyện trò.
-Tất cả là do cái thứ rắn độc này! Tất cả là do anh ta!... Do cái thứ rắn độc này mà cô ấy bị chết!
Bỗng nhiên Đrô-dơ-đốp-xki huých mạnh khuỷu tay gạt Cu-dơ-nét-xốp vào vách hầm, vùng ra khỏi hầm, miệng méo xệch lại như lên cơn điên, vọt tới chỗ tên tù binh Đức nằm dưới chân bờ công sự đang ì ạch rống lên trong cổ áo. Rồi có tiếng thét vang trên trận địa pháo:
-A-a, quân súc sinh!...
Vai anh ta giật nảy vẹo hẳn đi, lưng đu đưa bằng động tác máy móc, tay anh ta cố rút khẩu T.T ra khỏi bao và Cu-dơ-nét-xốp hiểu ý nghĩa của cử chỉ đó, vội lao đến chỗ anh ta.
-Dừng lại! Quay đằng sau!...-Anh vừa kịp túm lấy cổ tay Đrô-dơ-đốp-xki, dùng hết sức đẩy anh ta sang một bên. Đrô-dơ-đốp-xki đập lưng vào thành hầm, vội vã đứng thẳng dậy, khuôn mặt trắng nhợt dăn dúm.
-Xéo đi, Cu-dơ-nét-xốp! Xéo đi-i!...
Từ hai phía U-kha-nốp và Ru-bin lao tới Đrô-dơ-đốp-xki túm lấy khuỷu tay anh ta và dùng thân mình ép anh ta vào góc hầm, còn đầu anh ta hết toài sang phải lai sang trái, ve vẩy cuộn băng sổ tung rồi không kìm được những giọt nước mắt bất lực anh ta cứ luôn miệng kêu;
-Vì nó đấy!... Vì nó mà cô ấy chết!...
-Đại đội trưởng xông vào kẻ đã bị tước vũ khí à?-U-kha-nốp nhắc nhở, lay mạnh vai Đrô-dơ-đốp-xki như lay người say rượu,-Việc đó thằng ngốc nào cũng có thể làm được! Thôi, bình tĩnh lại đi, bình tĩnh lại, đại đội trưởng! Anh bị choáng hở? Thằng giặc Đức này thì có nghĩa lý quái gì ở đây? Tỉnh lại đi! Thằng giặc Đức này thì có nghĩa quái gì.
Đrô-dơ-đốp-xki chợt xẹp ngay, rũ người ra và mệt mỏi trườn ra khỏi cánh tay U-kha-nốp và Ru-bin, co giật thở dốc mấy cái rồi nói:
-Đúng, mình bị choáng. Đầu cứ ong ong. Nuốt cũng đau, nghẹt thở…-Rồi anh yếu ớt nói thêm, giọng rã rời:-RỒi sẽ qua thôi. Mình về đài quan sát…
-Băng của anh bị tuột đại đội trưởng ạ,-U-kha-nốp nói.-Ru-bin cậu hãy dẫn đại đội trưởng về đài quan sát và băng bó lại cẩn thận.
-Ta đi đi, đồng chí trung úy-Ru-bin mời và mắt nhìn xuống đất, đi theo sau Đrô-dơ-đốp-xki trong hào giao thông.
Tên Đức vặn vẹo người dưới chân bờ lũy, thều thào rền rĩ.
Còn Nết-trai-ép nét mặt thay đổi đến lạ lùng, không nhận ra được, tựa như nét mặt của người khác, anh ngồi trên lối ra vào hốc đất, nhìn chằm chằm vào chiếc đồng hồ nhỏ xíu mạ vàng mắc vào sợ dây chuyền ngoằn ngoèo mỏng manh, chiếc đồng hồ tròn xoe xinh xắn trên bao tay của anh rồi im lặng.
-Sao cậu im lặng đi thế?-U-kha-nốp nghiêm khắc hỏi.-Cậu xem giờ à? Để làm gì? Thời gian là cái gì đối với cậu?
-Đây là chiếc đồng hồ chiến lợi phẩm… ở trong cái túi sắc, thượng sĩ nhớ không?-Nết-trai-ép đap, cắn ria mép, nhếch miệng cười buồn bã, cay đắng.-Chả biết tặng cho ai. Biết làm gì với chiếc đồng hồ này? Chả là tôi định tặng Dôi-a… và tôi nghĩ thế này: mình thật là đứa vô vị. Sao mình lại cứ ngầm thêu dệt cho cô ấy đủ mọi chuyện, cứ coi cô ấy như mọi người đàn bà mà mình đã gặp. Nói dóc. Toàn là chuyện nói dóc cả, thượng sĩ ạ. Chả có một câu chuyện nào thật cả…
-Vứt cái đồng hồ đi, đủ rồi đấy! Vứt ra ngoài công sự kia kìa! Để cho tôi không phải trông thấy cái thứ chiến lợi phẩm ấy nữa!
Quay người khỏi Nết-trai-ép, tránh nhìn nụ cười lặng lẽ và cay đắng đó của anh ta, U-kha-nốp rút bao thuốc lá đã nhầu nát của tên Đức, chẳng hiểu để làm gì, anh hít hít bao thuốc, khinh bỉ nhìn nhãn hiệu vẽ một đàn lạc đà đang đi trên cát vàng nóng bỏng ngang qua các kim tự tháp Ai Cập và nói:
-Như làm bằng rơm ấy,-anh rút mấy điếu thuốc lên, chìa cho Cu-dơ-nét-xốp:-Này, hút đi…
Cu-dơ-nét-xốp lắc đầu từ chối.
-Chịu thôi. Mình không muốn hút. U-kha-nốp này, phải giải thằng Đức này về sư đoàn. Ta cử ai đi áp giải hắn nhỉ?
U-kha-nốp cúi gập hẳn người xuống dưới chân công sự, dùng tà áo bông phanh ra che chiếc bật lửa, châm thuốc hút rồi nheo mắt nhìn về phía bờ bên kia.
-Bọn Đức ở đó ngủ hay thức?-Sau khi rít hơi thuốc đầu tiên, anh trầm ngâm nói và lập tức nhổ nước bọt ngay.-Khiếp, quỷ quái thật, cái thứ cỏ gì ấy! Như thuốc độc ấy!
-Ta cử ai áp giải tên Đức đi, U-kha-nốp?-Cu-dơ-nét-xốp nhắc lại.-Ru-bin hay là Nết-trai-ép? Hay là các cậu thông tin này?
U-kha-nốp lại phình ngực ra rít thuốc thật mạnh rồi thởi khói qua lỗ mũi.
-Chả có vấn đề gì đặc biệt trung úy ạ. Phải giải tên Đức về sư đoàn. Chả làm thế nào khác được. Chúng mình săn sóc nó để làm gì nào? Anh ở lại trận địa pháo cùng với Nết-trai-ép và Ru-bin. Có thể cần phải bắn. Bản thân tôi sẽ liệu tìm cách giải hắn đi. Chỉ có điều thế này trung úy ạ…-U-kha-nốp rít lên mấy hơi, điếu thuốc cháy đến sát móng tay, anh giẫm đầu mẩu thuốc rồi chậm rãi, đau khổ chăm chú nhìn về phía hốc đất.-Thôi, mọi việc thế là xong, trung úy chắc anh khắc hiểu…
-Cậu hãy đem Ru-bin theo,-Cu-dơ-nét-xốp khuyên, giọng hơi trầm.-Cậu đi với cậu ta. Sang bên kia phải cẩn thận đấy kẻo vấp phải bọn Đức. Mình ghé vào hầm để thương binh.
-Được, tôi không thích đàn ông ôm hôn, ta sẽ không tạm biệt nhau, trung úy ạ!-U-kha-nốp vung tay hất khẩu tiểu liên, lên vai, đôi mắt cười cười.-Chúc may mắn nhé, trung úy! Tôi sẽ lấy Ru-bin đi theo.
Nụ cười trấn tĩnh của U-kha-nốp sau khi anh bày tỏ ý kiến cho rằng dẫu sao cũng giải thích “cái lưỡi” về sở chỉ huy sư đoàn, việc U-kha-nốp sẵn sàng giải tên Đức đi về bờ sông bên kia, trong tình hình như thế này, liều mình không biết lần thứ bao nhiêu trong suốt ngày đêm hôm đó, cơn căm thù muốn báo oán bùng lên trong Đrô-dơ-đốp-xki, sự chấn động của Nết-trai-ép khi ngây người ngắm nghía chiếc đồng hồ nữ nhỏ nhắn trên chiếc bao tay to của mình-tất cả những cái đó như đều thuộc về một cuộc đời xa lạ, không thực nhìn thấy trong cơn mê sảng lúc ốm đau còn cuộc đời thật với ông mặt trời bình thường. Và ánh sáng rõ ràng bình thản, với những âm thanh bình thường, thì đã lùi xa tít vào bóng đêm đen hôm đó, cái bóng đem không thể đo được bằng giờ giấc và anh muốn ngồi trên càng pháo hoặc kiệt lực nằm trên tuyết, nhắm mắt lại mà im lặng.
“Đúng rồi, mình phải đến chỗ anh em bị thương. Đa-vla-chi-an ở đó… Cậu ấy còn sống không nhỉ? Mình phải ghé tới chỗ những người bị thương. Ghé ngay bây giờ!...”-Cu-dơ-nét-xốp tự nhủ rồi anh nhấc khẩu tiểu liên tưởng chừng như nặng không thể tưởng tượng nổi khỏi mặt đất, tay thõng xuống chúc nòng súng xuống đất và bất giác nhìn vào hốc đất.
Cơn gió tuyết thổi làm nhăn nhúm tấm vải bạt phủ mặt Dôi-a, và Cu-dơ-nét-xốp lo ngại cơn gió bất ngờ rứt tấm vải bạt ra, phơi trần một cách tàn nhẫn vóc dáng Dôi-a không còn sinh khí, tội nghiệp, nằm co quắp ở trong đó, trong cái hốc đựng đạn lãnh lẽo đó. Kéo lê nòng súng tiểu liên trên đụn tuyết, anh run bắn người vì ớn lạnh, lưng còng xuống, lê bước trên những bậc trổ vào dốc bờ sông.
Trên ngưỡng cửa căn hầm ngầm lờ mờ dưới ánh sáng hai ngọn đèn dầu bốc khói, trái với không khí lạnh giá ở bên ngoài mùi chua loét ngột ngạt, có vị sắt, mùi mồ hôi, mùi những cuộn băng bẩn, mùi áo choàng được sưởi nóng đập vào mũi anh. Đó là mùi mồ hoi bốc ra từ sự bất lực, từ cơn đau của con người nhưng trong đó người ta vẫn còn cảm thấy sự sống và niềm hy vọng sống.
Toàn bộ căn hầm ngầm đều chật ních: những người bị thương nằm trên những chiếc sạp bằng đất nện, trên nền, trong các góc-người ta đã đưa tới đây tất cả những ai bị thương trong suốt ngày hom ấy, từ trận ném bom, cuộc tiến công đầu tiên của xe tăng địch hoặc bị thương ngay bên khẩu pháo.
Hơi nước từ cửa ra vào tuồn xuống phía dưới, làn không khí lạnh ùa vào căn hầm ngột ngạt, trong cảnh tranh tối tranh sáng những thân người ngọ nguậy dưới những tấm áo choàng, nghe rõ tiếng thở, tiếng rên, tiếng nói yếu ớt, kiệt sức do vật lộn lâu dài với cơn đau.
-Ai đến thế? Cô cứu thương à?... Lại đây cô, tôi lại bị ướt, vết thương cứ rỉ máu mãi… Phải buộc cái thắt lưng vào chân, chứ không tôi cứ như bơi trong vũng nước ấy.
-Dôi-a, Dôi-a này, ở tiểu đoàn có ai còn sống không? Tình hình ngoài đó như thế nào? Sao tiếng súng rộ lên rồi lặng đi thế?
Cu-dơ-nét-xốp đứng trong căn hầm ngột ngạt bởi tiếng người vang lên khắp tứ phía và tựa như anh bị đu đưa trên những làn sóng nóng bỏng: chưa một ai trong những người nằm đây hay biết gì hết. Một tiếng nói khẽ từ xa lan khắp căn hầm ngầm làm ngực anh khẽ nhói lên:
-Không phải Dôi-a các cậu ạ, trung úy đến đấy.
-Trung úy nào, ở chỗ bọn mình ấy à?
-Trung đội trưởng trung đội một. Có lẽ anh ấy bị thương. Đứng không vững. Hình như là người duy nhất còn sống sót hay sao ấy. Thế Dôi-a đâu nhỉ?
Cu-dơ-nét-xốp im lặng.
Trong hầm ngầm chỉ có hai người còn đi lại được: Xvi-a-tốp, chiến sĩ thông tin bị thương ở vai, đó chính là chú bé tóc trắng đã từng vụng về che giấu nỗi khiếp sợ đầu tiên của mình trong chiến đấu, khi Cu-dơ-nét-xốp nhảy vào hầm thông tin của anh ta trong lúc địch ném bom và Tri-bi-xốp với cánh tay băng bó treo lủng lẳng bằng một tấm băng bẩn đeo chéo.
Tri-bi-xốp hoạt động bằng cánh tay lành, bác bê hòm đạn để gần chiếc lò sưởi bị nung đỏ rừng rực, phía trên lò những chiếc cặp lồng đựng tuyết đang reo. Trông thấy Cu-dơ-nét-xốp khoác áo bông, đứng không vững ở gần phía cửa ra vào, mắt quầng thâm vì mỏi mệt, bác lập tức rụt đầu lại, mắt nhấp nháy chờ đợi bị đánh hoặc bị la ó, bác thì thào bào chữa lảm nhảm làm như thể Cu-dơ-nét-xốp biết hết mọi điều.
-Đồng chí trung úy… Tôi đã không chịu nổi, tôi không tự chủ được… Tôi có con, đồng chí trung úy ạ…
-Đa-vla-chi-an đâu?-Cu-dơ-nét-xốp khẽ hỏi, vứt khẩu tiểu liên vào vách hầm như thể trút một gánh nặng trĩu đè lên mình và giật cổ áo ra, một lần nữa anh lai đưa găng tay lạnh cóng lên xoa cổ họng.-Trung úy Đa-vla-chi-an đâu?
-Ở đây, đồng chí trung úy ạ, trên sạp ấy, xin đồng chí đi lại đây,-có tiếng thì thào mời mọc từ trong bóng tối lờ mờ của căn hầm-Anh ấy còn sống… cứ hỏi anh luôn.
Chiến sĩ thông tin Xvi-a-tốp băng bó cho một người bị thương ở trên nền hầm-cổ và vai anh ta quấn băng-chùi tay vào áo bông, mỉm cười với Cu-dơ-nét-xốp một cách trong sáng, vui vẻ như trẻ con, y như thể Cu-dơ-nét-xốp đem theo sự êm dịu vào hầm ngầm. Cách nói và cách nhìn của Xvi-a-tốp thể hiện niềm vui không che giấu của một con người biết rằng mình thoát chết.
-Đồng chí trung úy, trung đội trưởng trung đội hai nằm ở đây.
Cu-dơ-nét-xốp bước ngang qua những người bị thương, lại gần những tấm sạp và trong bóng tối anh đã nhận ra Đa-vla-chi-an qua ánh mắt hừng hực khác thường lộ ra sau những giải băng trắng cuốn trên đầu.
-Gô-ga, còn sống chứ?-Cu-dơ-nét-xốp lên tiếng.-Thế là mình đã đến được với cậu đây, Gô-ga. Mình không thể đến được sớm hơn…
Toàn thân Đa-vla-chi-an đều bọc trong màu trắng kỳ lạ của bệnh viện: cả cái đầu lẫn hông đầu quấn băng to xụ, chân phủ áo choàng, còn dưới chân anh là chiếc mũ lông, chiếc túi bằng vải bạt được phát lúc thành lập đơn vị, bao súng rỗng với chiếc dây lưng, chiếc cặp lồng đựng nước tuyết.
-Cô-li-a,-Đa-vla-chi-an thều thào như gió thoảng.-Cậu đã đến đấy à? Cậu không biết mình vui mừng biết chừng nào khi thấy cậu đến, Cô-li-a ạ. Mình đã nhờ Dôi-a nói với cậu. Thậm chí mình còn viết mấy chữ!
Đôi mắt Đa-vla-chi-an mở to, đen láy, khô khan, ánh lên trên khuôn mặt trẻ thơ giờ đây nhỏ hẳn đi vì băng quấn xung quanh, đã mất đi màu rám nắng, vẻ linh hoạt đầy sinh khí quen thuộc; đôi môi khô vều lên vì mất máu thốt ra những lời nói đó. Nhưng trong giọng nói khác lạ của anh không còn cái trong sáng, cảm động như một hồi ức, không còn cái vẻ học trò, thời bình, trước chiến tranh, đã từng làm cho Cu-dơ-nét-xốp ngạc nhiên sửng sốt. Và chẳng biết để làm gì, có lẽ trong tiềm thức Cu-dơ-nét-xốp mong muốn được nghe cái giọng học trò êm ái trước đây của bạn, anh hỏi.
-Cậu cảm thấy dễ chịu hơn chứ, Gô-ga?
-Ừ, mình thấy dễ chịu hơn,-Đa-vla-chi-an vội vã thì thào, đầu hơi quay lại.-Bây giờ mình sẽ sống, mình tin chắc như vậy… Hiện nay chỉ đau thôi, cậu biết không! Cơn mê sảng quái quỷ đã chấm dứt. Nhưng chuyện vớ vấn ấy mà… Tiếc là mình không thể ngồi dậy được vì cái mảnh đạn khốn kiếp ấy!... Mình không thể tha thứ cho mình, mình thương anh em trong đơn vị. Mọi việc bắt đầu từ trận ném bom… Ở trên ấy thế nào Cô-li-a? Cậu hãy kể tất cả đi…
-Ổn cả, Gô-ga ạ. Trận đánh đã kết thúc. Đêm rồi. Cậu đừng nghĩ đến chuyện đó nữa. Mọi việc đã kết thúc.
-Đã kết thúc rồi ư… Cậu hạ được mấy xe tăng? Cậu hãy kể xem mọi việc xẩy ra như thế nào?
-Mình chẳng biết. Mình không đếm. Xe tăng địch nhiều lắm. Chúng tiến công mấy lần. Chúng rút về chỗ cái khẽ rồi lại bắt đầu…
-Tổn thất lớn hả? Đúng không? Cậu hãy nói thật đi. Mình van cậu… Cậu hãy kể lại mọi chuyện đi! Cố nhiên nếu cậu có thể nói được.
-Đúng, có tổn thất.
-Tại sao cậu lại trả lời thế? Cậu không muốn nói à?
-Không, Gô-ga ạ. Để sau… Mình chịu thôi. Mình mệt.
Trong hầm trở nên im lặng; những tiếng rên bật ra một cách dè dặt. Anh em thương binh chăm chú lắng nghe cuộc trò chuyện khe khẽ giữa hai đồng chí trung úy. Những ai còn sức nhổm người lên một tí thì cố căng mình ra để nắm bắt cho được những tiếng nói còn đôi chút hy vọng làm êm dịu lòng người phát ra từ đồng chí trung úy chưa bị thương chút nào vừa đi tới. Con người này có cái may mắn vẫn nói bằng cái giọng bình thường, vẫn đi lại, cảm thấy thân thể mình còn nguyên vẹn đã làm nảy sinh trong anh em niềm hy vọng được giải thoát khỏi đau khổ; bởi vì như thế có nghĩa là đơn vị vẫn còn sống, ở phía trên đó vẫn còn người. Họ chăm chú lắng nghe hai vị chỉ huy trung đội nhưng không ai nói xen vào, làm đứt quãng câu chuyện chỉ có những người bị thương nặng, bất tỉnh là vẫn rên đều đều trong các góc hầm.
-Họ chờ đợi điều gì đó ở mình,-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ.-“Nhưng bản thân mình không biết một giờ nữa tình hình sẽ ra sao. Mình không biết khi nào có khả năng đưa tất cả bọn họ tới trạm quân y, mình không biết lúc này trạm quân y ở đâu”.
Còn Đa-vla-chi-an gần như điếc vì băng quấn quanh tai, có lẽ anh không cảm thấy không khí trong hầm trở nên trầm lắng một cách thận trọng; cặp mắt mở to yếu, lơ láo nhìn lên nóc hầm, nhìn vầng trán Cu-dơ-nét-xốp, tìm ánh mắt của anh và hỏi một cách ngượng ngùng xem anh nghĩ gì về mình: anh lên án, thương hại, thông cảm chăng? Rồi Đa-vla-chi-an bắt đầu nói một cách sôi nổi nhưng không rành mạch lắm:
-Cậu hiểu cho mình, Cô-li-a, lần thứ hai mình không gặp may… Mình là kẻ bất hạnh. Dạo ấy, ở Vô-rô-ne-giơ, mình đã mắc phải cái bệnh quái quỷ ấy còn bây giờ bị thương… Như thế là thế nào? Mình không gặp may, không gặp may! Ấy thế mà mình đã ước mơ được lao ra tiền tuyến, muốn hạ ít nhất là một chiếc xe tăng địch! Mình đã chẳng kịp làm được gì cả. Như cậu đấy, cậu không bị thương, cậu thực rất may mắn. Còn trung đội mình… bắt đầu từ trận ném bom… cậu có hiểu là vô nghĩa, vô nghĩa! Tại sao mình lại không gặp may? Tại sao mình lại xúi quẩy hở Cô-li-a?
Cu-dơ-nét-xốp im lặng. Qua cặp mắt ươn ướt, qua giọng nói của Đa-vla-chi-an, anh hiểu rằng cậu ta có vì sự bực tức của mình và anh lờ mờ cảm thấy rằng giữa họ có sự ngăn cách về tuổi tác. Họ vừa gắn bó với nhau, vừa khác biệt nhau vì những năm tháng dài vô tận… Đa-vla-chi-an đã ở lại đâu đó ở chỗ chân trời mềm mại, trong suốt, thú vị, đã ở lại trong cái dĩ vang trẻ con, thơ ngây trước đây-trong trường pháo binh. Không, cậu ta không được thấy cái chết của trắc thủ Ca-xư-mốp, cái chết của Xec-gu-nen-cốp lẫn sự hy sinh của anh em pháo thủ ở khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp ngay dưới xích xe tăng địch, cậu ta không được thấy cả tên tù binh Đức, anh chiến sĩ trinh sát trong hố bom cũng như Dôi-a nằm co quắp trong tuyết trên bãi đất thấp, có những vết máu lênh láng từ dưới sườn cô và khẩu “Van-te” mạ kền, nhỏ bé như một thứ đồ chơi nằm lăn lóc ở bên cạnh. Chỉ có một ngày một đêm thôi mà tưởng chừng như hai mươi năm vô tận đã ngăn cách họ và hạnh phúc của Đa-vla-chi-an lại là nỗi bất hạnh của Cu-dơ-nét-xốp bởi vì ký ức của anh đã không được giải thoát, nó giữ lại trong mình tất cả.
“Cậu ấy bảo: vô nghĩa ư? Vô nghĩa… Nhưng có thể là trong sự vô nghĩa của những gì đã xảy ra vẫn có ý nghĩa thì sao? Sự đời là như vậy đấy và Đa-vla-chi-an không biết tới điều đó. Không, không, không thể nào vô nghĩa được! Tại sao lúc ấy lại xảy ra những việc đó và để làm gì? Tại sao lúc ấy mình đã bắn và thấy ý nghĩa trong việc làm đó? Mình căm thù chúng, mình đã hạ, đã bắn cháy xe tăng địch và mình mong muốn cái ý nghĩa đó! Và khi bọn mình đến chỗ hố bom cũng thế. Đúng vậy, có ý nghĩa chứ, mình biết. Nhưng cái chết của Dôi-a là vô nghĩa, đó là sự vô nghĩa không thể có được! Tại sao lại như vậy? Vừa có ý nghĩa lại vừa vô nghĩa ư?... Đúng, sự đời là như vậy. Chẳng hiểu sao mình không thể nói điều đó với Đa-vla-chi-an được. Giá cậu ta trông thấy cô ấy nằm co quắp ở đó, trên bãi đất thấp, tay thu vào bụng!...”.
-Mình ghen tị với cậu đấy, Gô-ga ạ,-Cu-dơ-nét-xốp chật vật nói rồi đứng lên, miệng thoáng mỉm cười lặng lẽ, anh chẳng bao giờ mỉm cười như thế cả.-Có thể là cậu gặp may đấy… bởi chiến tranh chưa kết thúc kia mà, Gô-ga. Người ta sẽ điều trị cho cậu ở quân y rồi tất cả những chiếc xe tăng mà cậu mong ước…
Tại sao anh lại nói như vậy và an ủi Đa-vla-chi-an?
-Cậu bảo là mình gặp may à?-Đa-vla-chi-an la lên the thé như tiếng gà trống và ngọ nguậy mái đầu quấn băng.-Cậu nói như vậy để làm gì? Để làm gì hả? Thật là trớ trêu, trớ trêu đối với mình… Mình đã bắn được bốn lần!... Mình chẳng kịp làm được gì cả, mình không muốn sự may mắn kiểu đó! Cậu không hiểu mình, mình không muốn sự may mắn kiểu đó! Chẳng qua là cái số mình như thế!
-Mau chóng bình phục nhé, Gô-ga… Xin lỗi, mình phải về chỗ khẩu đội đây,-Cu-dơ-nét-xốp nói.-Mình sẽ còn ghé đến nữa. Mình hy vọng rằng tới sáng người ta sẽ chuyển tất cả đến trạm quân y. Chuyển tất cả mọi người!-Anh quả quyết nói thêm để đáp lại phần nào những ánh mắt buồn bã, sốt ruột của anh em thương binh từ các góc hầm hướng về anh, không làm gián đoạn câu chuyện của anh và sau khi nói xong anh dđ ra cửa hầm bởi vì anh không còn đủ lời để nói những câu khích lệ khác làm cho họ hy vọng.
-Cô-li-a,-Từ chỗ nằm Đa-vla-chi-an la lên, giọng cầu khẩn.-Mình mong đợi cậu. Rất mong đợi!... Cô-li-a, cậu hiểu cho nhé, có thể mong đợi đến phát điên lên đấy! Ít ra cũng mau chóng đưa bọn mình tới trạm quân y! Và Dôi-a, các cậu để Dôi-a đến chỗ bọn mình. Ở trận địa pháo đằng ấy có ai bị thương không?
-Mình sẽ ghé lại, Gô-ga ạ. Đúng thế, mình sẽ ghé lại… sau này.. bọn mình sẽ chuyển tất cả mọi người tới trạm quân y hễ có ô tô.
Xvi-a-tốp và Tri-bi-xốp đứng sát cạnh nhau gần cửa ra vào, chừng như một số phận giống nhau đã gắn chặt họ lại. Khuôn mặt trẻ trung không biết giấu giếm điều gì, tràn ngập niềm vui sướng của chiến sĩ thông tin Xvi-a-tốp, cái cổ ngẳng của anh ta vươn dài ra từ cổ áo bông, chẳng hiểu sao gợi nhớ tới Xec-gu-nen-cốp. Phải, mọi cái trong người Xvi-a-tốp đều toát ra niềm hy vọng không che giấu muốn được sống, đều nói lên rằng, lạy Chúa, anh ta chỉ bị thương nhẹ, vì vậy anh sẵn sàng vui lòng, xởi lởi chăm nom, săn sóc mọi người, băng bó cho họ và tận tâm hoàn thành bất kỳ mệnh lệnh gì của Cu-dơ-nét-xốp. Nhưng Cu-dơ-nét-xốp không phát ra mệnh lệnh nào cả, anh bước ra cửa hầm ngầm, dừng lại một lát trước cửa ra vào, như thể nhìn không rõ, anh đưa tay quờ quạng vách hầm, mò mẫm khẩu tiểu liên của mình rồi anh mở cánh cửa kêu cót két bước ra ngoài.
-Đồng chí trung úy…
Sau lưng anh lại có tiếng cửa cọt kẹt, tiếng bước chân của ai đó như tiếng chân chó đi trên tuyết.
-Gì thế? Bác đấy à, Tri-bi-xốp. Trong không khí trắng nhờ nhờ lúc rạng sáng, bóng dáng Tri-bi-xốp đi theo anh trông nhòe nhoẹt, không rõ. Ép cánh tay đeo băng trắng vào ngực, bác lảo đảo bước, khuôn mặt nhỏ lem luốc và cặp lông mày giật nảy lên như thể bác bị nỗi đau khổ hành hạ và không thể chịu đựng được, bác quyết định bộc lộ kín đáo nỗi đau khổ đó với Cu-dơ-nét-xốp ở chính chỗ này chứ không phải ở trong hầm.
-Gì thế hả bác Tri-bi-xốp? Bác muốn nói gì nào?
-Đồng chí trung úy… Vì Chúa, xin đồng chí hãy tha thứ cho tôi…-Tri-bi-xốp bắt đầu nói, giọng nghẹn ngào vì nước mắt… Tôi xấu hổ lắm… Tôi biết làm gì bây giờ? Đồng chí trung úy, nào tôi có muốn thế đâu. Chắc thượng sĩ đã nói lại tất cả cho đồng chí biết. Tôi đã sợ hãi, sợ hãi, lạy Chúa!...
Rồi bác túm lấy ống tay áo Cu-dơ-nét-xốp, ấp môi vào đó, khẽ giật nảy người lên.
-Bác sao thế? Bác thôi ngay đi!-Cu-dơ-nét-xốp nói và rút tay ra.-Bác hãy đi vào hầm ngầm và chăm sóc anh em thương binh. Đi đi, Tri-bi-xốp, đi đi…
-Tôi thật xấu hổ, xấu hổ. Tôi sẽ nhớ đồng chí suốt đời, đồng chí trung úy ạ. Hãy giết chết tôi đi, giết ngay tại chỗ cũng còn là nhẹ! Tôi đã không tự chủ được…
“Bác ấy làm sao thế nhỉ? Mong sao bác ấy đi nhanh nhanh lên cho!”.
-Bác về hầm ngầm đi. Đi đi, tôi đã bảo mà… bác sao thế?
Lại có tiếng bước chân, tiếng huýt lạo xạo ở liền bên cạnh. Cánh cửa cọt kẹt. Căn hầm ngầm yên tĩnh. Bờ sông yên tĩnh. Không một chỗ nào có tiếng súng. Gió tuyết nhảy nhót, xua những gợn trắng lăn tăn trên mặt sông đã đóng băng màu xanh nhợt nhạt với những lỗ hổng đen ngòm to tướng do bom đạn đào khoét, Cu-dơ-nét-xốp tưởng như anh nghe tiếng những mản băng nhọn sắc cọ sát vào nhau, vang lên tí tách như lúc ấy, lúc Dôi-a từ trong hầm của anh em pháo thủ gọi với theo anh và anh đã đưa tiễn cô trên bờ sông, không đi tới căn hầm ngầm.
Chao ôi, đêm tháng Chạp sao mà não ruột và hoang vắng giữa cảnh tĩnh mịch không một phát súng, trên dải bờ tuyết trắng không có bóng dáng một người lính, giữa cơn gió, tiếng băng tí tách, những cành liễu sần sùi, chọc thủng bóng tối trong bầu không khí bất động, xám xịt, chết lặng trước lúc rạng đông và anh cảm thấy khó thở trong cái giá lạnh kìm hãm vạn vật đó. Anh đứng đó, mắt nhắm lại, chúc tiểu liên xuống đất.
“Tại sao lúc đó cô ấy lại nói: “Anh hãy hôn tôi đi, như hôn em gái ấy. Anh có em gái chứ?”. Và mình đã trả lời như thế nào nhỉ? ”Tôi không có em gái!...”. Tại sao mình lại nói như vậy?.
Anh nghĩ như vậy và anh tưởng chừng như cô đang ở đâu đó cạnh đây, cô vẫn còn sống và đêm nay chẳng xảy ra chuyện gì cả, tất cả đều do anh tưởng tượng ra, cô sắp từ bóng tối nhô ra, chiếc dây lưng sĩ quan siết chặt hầu như đến gẫy eo lưng, vận áo choàng ngắn, cô ngước cặp mắt đen láy lên, sương giá trên lông mi lấp lánh, đôi môi và cặp lông mày lá liễu của cô khẽ rung lên vì nụ cười và cô khẽ thì thào: “Cu-dơ-nét-sích, anh và tôi nằm mê thấy tôi đã chết. Anh sẽ thương tôi chút ít chứ?”.
Nhưng xung quanh hoang vắng, im lìm chết lặng. Chân bị vấp, anh leo lên các bậc trổ trên dốc bờ sông, đi vào hào giao thông và đến cách chỗ khẩu pháo mấy mét anh bỗng chúi ngực xuống thành hào. Sau đó trong cơn tuyệt vọng ngây dại anh ép trán vào những chiếc bao tay sần sùi lạnh giá, có cái gì đó đăng đắng, nóng hổi dội lên trong họng anh, anh chau mày, nghiến răng lại. Lần đầu tiên trong đời anh đã khóc một cách đơn độc, một cái khóc tâm tình và tuyệt vọng. Và khi anh lau mặt, tuyết trên tay áo bông đã nóng rực lên vì nước mắt của anh.