Cu-dơ-nét-xốp đứng dậy, vươn thẳng tấm lưng, ê ẩm vì lao động và anh lập tức nhớ tới cặp lồng nước. Anh không muốn uống nữa tuy miện vẫn khô như trước. Anh bị cóng lạnh nhiều vì gió thổi lồng lộng trên bờ sông cao. Giá lạnh xuyên thấu quần áo lót ẩm ướt, chiếc áo va rơi mặc trên người và anh thoáng rùng mình. “Mình mệt mỏi đến thế sao? Hay là mình đã bị cóng. Có lẽ phải làm tí Vốt ca cho ấm người!”-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ và anh bước đi trên những mô đất đông cứng tạo lạo xạo về phía bờ sông, nơi có những bậc lên xuống trổ vào bờ dốc.
Xe nhà bếp đậu ngay trên mặt băng trên sông, món đậu nghiền tỏa hương thơm ngào ngạt; dưới cái nồi mở vung, hơi bốc mù mịt, ngọn lửa vẫn khẽ bập bùng cháy đỏ. Tiếng gáo va vào cặp lồng loảng xoảng. Anh em pháo thủ túm tụm xung quanh bếp, hòa thành một đám đen thẫm, vây quanh người cấp dưỡng đang múc thức ăn. Có tiếng của những người lính không hài lòng nhưng đã ấm bụng và phấn chấn lên nhờ chút rượu Vốt ca, trò chuyện với nhau.
-Lại cái món đậu nghiền, chán ngắt! Họ không nghĩ ra được món gì khác cả!
-Nào múc đi, múc đi, hay lại tơ tưởng đến bà xã? Anh em này, vì sao mà mọi tay cấp dưỡng đều bủn xỉn thế nhỉ?
-Chết nghẹn vì đậu! Cậu có biết nếu ngốn nhiều đậu quá thì sẽ xảy ra chuyện gì không?
-Thuộc ngành sản xuất có độc hại phải được uống sữa chứ!
-Ba hoa vừa vừa chứ, đồ lưỡi không xương… Lại còn khôn ngoan tưởng tượng ra cả sữa nữa.-anh cấp dưỡng hằn học trả lời tứ phía.-Vì sao các anh trách móc nào? Đối với các anh, tôi là con bò sữa chăng?
Cu-dơ-nét-xốp hít thở không khí lạnh giá trong lành của dòng sông đóng băng cùng với mùi xúp đậu bén lửa và anh cảm thấy buồn nôn. Anh quay người tránh xa xe nhà bếp, trong bóng tối dưới chân bờ dốc, anh vấp phải cuốc xẻng để ngổn ngang. Một khe sáng hẹp thẳng đứng chợt lóe lên trước mắt anh, từ chỗ có ánh sáng vọng ra tiếng cười nói. Anh đưa tay sờ soạng, gạt tấm vải bạt ra và nước vào căn hầm đầy mùi đất sét ẩm và lại thấy cả mùi thức ăn nữa.
Trong căn hầm đào sâu ngập đầu người, ngọn đèn làm bằng vỏ đạn đại bác đặt trên đáy thùng tỏa ra ánh sáng trắng bập bùng. Những cái cặp lồng đựng xúp bốc khói đặt bên cạnh những ca rượu trên tấm vải bạt trải rộng. Trung úy Đa-vla-chi-an và hạ sĩ Nết-trai-ép nằm quay đầu về phía đèn. Đầu gối thu vào dưới tấm áo choàng ngắn, Dôi-a ngồi hơi nghiêng, gặm miếng lương khô, thận trọng xem quyển an bom nhỏ nào đó đóng bằng thứ da mềm màu đen, có chiếc khuy bấm tròn vàng chóe như kiểu an bom-ví đựng tiền.
-Cu-dơ-nét-xốp!… Thế là rốt cuộc cậu đã tới…-Đa-vla-chi-an kêu to, mặt đỏ lên sau khi ăn uống. Mặt anh như gầy hơn sau công việc mệt mỏi lúc ban đêm còn chiếc mũi nhọn và cặp mắt anh lóng lánh như mắt chuột nhìn lửa.-Cậu mất hút ở đâu thế hả? Ngồi với bọn mình đi! Cặp lồng của cậu đây. Bác Tri-bi-xốp tận tâm của cậu mang tới đấy!
-Cám ơn.-Cu-dơ-nét-xốp đáp và sau khi sửa lại cổ áo choàng, ghé nằm cạnh Đa-vla-chi-an vừa nhích ra nhường chỗ. Từ bóng tối ở ngoài trời bước vào, anh thấy nhức mắt khi nhìn vào ngọn đèn thấp bằng dầu xăng.-Có cái ca nào bỏ không không?
-Lấy ca cả ai chả được,-Nết-trai-ép nói và nhát cặp mắt nâu về phía Dôi-a.-Mọi người đều khỏe mạnh cả.
-Ca của mình đây, Cu-dơ-nét-xốp,-Đa-vla-chi-an mời và cũng nhìn về phí Dôi-a, những ngón tay nhỏ nhắn, lấm đất cầm cái ca đầy rượu chia cho bạn.-Cậu biết không, lúc này mình chẳng thích uống gì cả, chắc là rượu bị pha, có mùi quái quỷ gì ấy. Thậm chí hình như có cả mùi dầu hỏa.
-Đúng thế,-Nết-trai-ép nói, nụ cười khẩy rung rung dưới làn ria mép.-món hỗn hợp. Rượu pha với nước hoa. Chỉ giành cho con gái thôi.
Cố giữ cho tay khỏi run. Cu-dơ-nét-xốp đưa cái ca lên miệng, ngửi thấy mùi rượu nhưng anh cố gượng, nghĩ rằng tí nữa cơn ớn lạnh sẽ qua, rượu Vốt ca sẽ làm cho cơ thể nóng lên, nhẹ nhõm, anh nói một cách gượng gạo.
-Nào thì uống… Cầu cho bọn Đức xâm lược chết quách đi!
Anh cố gượng uống thứ nước cháy bỏng có pha mùi gỉ sắt và ho sặc sụa. Anh căm ghét rượu Vốt ca, không tài nào làm quen được với khẩu phần rượu hàng ngày ở ngoài mặt trận.
-Thứ nước kinh khủng thật!-Đa-vla-chi-an kêu lên.-Không thể uống nổi. Khác nào tự sát! Tôi đã bảo mà…
-Nhắm món xúp đậu đi, đồng chí trung úy.-Nết-trai-ép nhếch mép cười, đậy nắp cặp lồng lại.-Rồi khắc quen. Sẽ không thấy rát họng.
-Có lẽ thế,-Cu-dơ-nét-xốp đáp hầu như rất khẽ nhưng anh không đụng tới cặp lồng thức ăn, với lấy mẩu lương khô làm bằng bột mì đen trên tấm vải bạt và tựa lưng vào vách hầm, bắt đầu nhai.
Dôi-a không ngửng đầu lên, nói:
-Anh Nết-trai-ép này, anh lấy quyển an bom này ở đâu thế? Anh giữ nó làm gì? Một quyển an bom kỳ lạ…
“Tại sao cô ấy lại ở đây chứ không đi với Đrô-dơ-đốp-xki nhỉ?-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ, tựa hồ như anh nghe thấy tiếng Dôi-a từ xa, cảm thấy bụng ấm dần lên.-Mình chả hiểu những chuyện này”.
-Dôi-e-sca, hình như cô không tin tôi dẫu cô rất khó chịu vì không tin. Chắc cô nghĩ tôi là tay công tử bột ngoài vỉa hè. Một tay ba hoa láo toét,-Nết-trai-ép nói bằng giọng vui vẻ đáng tin cậy.-Cô hãy cho phép tôi trình bày chi tiết. Lúc đang thành lập trung đoàn tôi đã đổi một bó thuốc lá cho một anh ở mặt trận về lấy quyển an bom này. Anh ta bảo anh ta đã lấy được ở một con mẹ Đức bị giết gần Vô-rô-ne-giơ trong chiếc xe tham mưu. Kể ra cũng thú vị thật. Tôi thích nên giữ lại. Không phải là con mụ Đức mà là người đàn bà to như cái bồ sứt cạp. Cô giở tiếp mà xem.
-Kỳ lạ,-cô nói, trầm ngâm giở quyển an bom.-Rất kỳ lạ…
-Kỳ lạ cái gì, Dôi-e-sca?-Nết-trai-ép chống khuỷu tay nhích lại gần Dôi-a.-Rất thú vị.
-Người đàn bà Đức đẹp thật! Khuôn mặt, vóc dáng… Cái ảnh này, lúc mụ ta vận bộ đồ tắm. Mụ ta có cấp bậc gì không?-Dôi-a nhìn tấm ảnh và hỏi.-Anh nhìn xem, mụ ấy mặc quân phục trông kiêu căng làm sao. Căng ra như thể mặc mỗi chiếc áo con vậy.
-Lính SS đấy,-Nết-trai-ép quả quyết.-Có tư thế gớm, ngực ưỡn thẳng! Bộ ngực ghê chưa, Dôi-e-sca!
-Anh thích hở?
-Không thích lắm. Nhưng chẳng sao. Một mẫu người.
Trung úy Đa-vla-chi-an có những vết tàn nhang nổi bật trên má nghển cổ, nghếch đôi mắt màu mận chín nhìn vào an bom. Cu-dơ-nét-xốp tựa lưng vào vách hầm, từ trong bóng tối nhìn Dôi-a, khuôn mặt nghiêng xuống dưới ánh sáng ngọn đèn dầu và ký ức của anh căng thẳng một cách kỳ lạ cố sức tìm trên hàng mi dài của cô, trong đôi mắt nhìn xuống của cô, trong quyển an bom đóng bằng da mềm đó một cái gì quen thuộc đã qua, không nắm bắt được, tựa hồ như anh đã có lúc nào đó trông thấy rõ, Dôi-a, trong cảnh tĩnh mịch ấm áp vô chừng, vào lúc tuyết rơi buổi chiều ngoài cửa sổ, trong căn nhà được sưởi nóng thuận tiện để nghỉ đêm, cạnh cái bàn phủ khăn sạch sẽ trắng tinh để đón ngày lễ, quyển an bom của gia đình mở rộng trên khăn giải bàn và ngọn đèn bàn soi sáng những khuôn mặt nào đó thân thương, còn ở đằng sau, ở ngoài vòng ánh sáng là khoảng tranh tối tranh sáng mịn như nhung của căn phòng, là sàn nhà bốc lên mùi xà phòng cọ rửa, giá gương cũ với chiếc khung chữ nhật sẫm màu phản chiếu cái giường mạ kền và giá gương cổ kính đó là những vật đặt trong một căn hộ ở Mát-xcơ-va, trên phố Pi-at-nit-xcai-a, anh chỉ có thể được nhìn thấy mẹ và em gái anh một cách gần gũi như thế, thân thuộc như thế, thanh bình như thế chưa chưa bao giờ anh có thể nhìn thấy trong căn phòng này, khuôn mặt nghiêng xuống của Dôi-a ngồi bên bàn cạnh mẹ anh và em gái anh, cạnh giá gương hào nhoáng, cổ kính và khôi hài đã ố vàng vì thời gian, niềm kiêu hãnh duy nhất của mẹ là kỷ niệm về bố anh: ông đã mua giá gương này trong ngày cưới, hình như của một anh giàu nào đó phất lên trong thời kỳ chính sách kinh tế mới và ông cực kỳ hài lòng về món quà tặng cồng kềnh của mình…