Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Hồi Ký, Tuỳ Bút >> Hồi ký Đỗ Mậu

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 28361 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Hồi ký Đỗ Mậu
Hoành Linh

Chương 18

Ngày 2 tháng 11 năm 1963, vào khoảng 7 giờ sáng, đài phát thanh Sài gòn loan tin dinh Gia Long đã bị lực lượng Cách mạng chiếm, hai anh em ông Diệm - Nhu tự tử. Số người bị thương vì lạc đạn là 145 người và 20 người chết cả quân lẫn dân. Tiếng súng êm dần, nhân dân Đô thành tiếp tục đổ trào ra đường phố để hoan hô quân đội, mua quà bánh tặng các chiến sĩ, nói chuyện vui đùa với quân nhân trong niềm hoan lạc chung. Nhiều đoàn thanh niên sinh viên đến đập phá trụ sở Việt Tấn xã và trụ sở chín tờ báo đã ủng hộ chế độ cũ. Hai mươi sáu trụ sở cá nhân và các đoàn thể tay sai chế độ cũ cũng bị chung số phận. Tượng Hai bà Trưng vì giống bà Nhu và con gái nên đã bị sinh viên kéo sập xuống, chặt đầu và lôi đi diễu hành trên đường phố. Buổi trưa có tin hai anh em ông Diệm bị giết chứ không phải tự tử.

Cũng trong ngày hôm đó, Hội đồng quân nhân cách mạng ra tuyên cáo số 1 gồm năm điểm:

- Quân đội đã làm cách mạng lật đổ một chế độ độc tài thể theo ý nguyện của toàn dân.

- Cuộc cách mạng được toàn thể mọi tầng lớp nhân dân tham gia.

- Sẽ thành lập gấp một chính phủ lâm thời để điều hành quốc gia.

- Một Hội đồng nhân sĩ sẽ được thành lập để cố vấn cho chính phủ trong giai đoạn chuyển đổi.

Khi các định chế dân chủ được thực hiện, Hội đồng quân nhân cách mạng sẽ trao quyền cho quốc dân.

Trong tuyên cáo số 2, Hội đồng quân nhân cách mạng cho biết chủ trương của Hội đồng là không độc tài nhưng áp dụng một số hình thức dân chủ trong tinh thần kỷ luật, đoàn kết toàn dân. Các đảng phái được tự do hoạt động, tôn trọng quyền tự do ngôn luận của báo chí, trả tự do cho những chính trị phạm không Cộng sản, tự do tín ngưỡng, các tôn giáo được đối xử bình đẳng, Việt nam vẫn đứng trong thế giới tự do và duy trì giao hảo với lân bang và các nước bạn, tôn trọng các hiệp ước đã ký kết, tôn trọng ngoại sản và tính mạng ngoại kiều.

Ngày 3 tháng 11, một quyết nghị khác lại ra đời, cho biết tạm ngừng Hiến pháp 26-10-1956, giải tán Quốc hội của chế độ cũ. Hội đồng quân nhân cách mạng ra mắt báo chí và quốc dân với thành phần:

- Chủ tịch: Trung tướng Dương Văn Minh.

- Đệ nhất Phó chủ tịch: Trung tướng Trần Văn Đôn.

- Đệ nhị Phó chủ tịch: Trung tướng Tôn Thất Đính.

- Tổng thư ký kiêm Uỷ viên ngoại giao: Trung tướng Lê Văn Kim.

- Uỷ viên chính trị: Thiếu tướng Đỗ Mậu.

- Uỷ viên quân sự: Trung tướng Trần Thiện Khiêm.

- Uỷ viên kinh tế: Trung tướng Trần Văn Minh.

- Uỷ viên an ninh: Trung tướng Phạm Xuân Chiểu.

Các Uỷ viên khác: Các Trung tướng Lê Văn Nghiêm, Mai Hữu Xuân - Các thiếu tướng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có.

Cũng trong ngày hôm đó, Đại sứ Ngô Đình Luyện ở London, em ruột của Tổng thống Diệm, từ chức. Ngày 4-11, Hiến ước tạm thời số 1 được ban hành để xác định rằng Việt nam vẫn theo thể chế Cộng hoà, quyền Lập pháp và Hành pháp thuộc Hội đồng quân nhân cách mạng, quyền hạn Quốc trưởng thuộc Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng, quyền Hành pháp uỷ cho chính phủ lâm thời do Hội đồng chỉ định và các luật lệ hiện hành vẫn tạm duy trì để bảo đảm an ninh và trật tự công cộng.

Và chỉ bốn ngày sau khi lật đổ Ngô Đình Diệm, Hội đồng quân nhân cách mạng chỉ định ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Thủ tướng để thành lập chính phủ lâm thời vào ngày 5-11. Ba ngày sau, nội các ra mắt đồng bào với chủ trương "cách mạng ôn hoà". Trong số 15 Tổng Bộ trưởng của tân nội các, ta thấy có 6 nhân vật của chế độ cũ và 5 sĩ quan cao cấp. Riêng ông Thơ, tuy là cựu Phó tổng thống nhưng lại là bạn thân của tướng Minh (đã từng lôi kéo ông Minh giúp Thủ tướng Diệm chống Pháp và Bình xuyên vào những năm 1954 - 1955) và mấy thắng trước cuộc cách mạng đã liên lạc thường xuyên với ông Minh trong việc vận động đảo chính.

Cũng trong ngày 5-11 này, trong khi ba người con của ông Nhu ở Đà Lạt được Hội đồng quân nhân cách mạng khoan hồng đưa đi Âu Châu để được đoàn tụ với bà Nhu thì tại Sài gòn hàng vạn dân chúng tham dự lễ an táng thiếu tá Bùi Quang Ngãi đã bỏ mình trong cuộc tấn chiếm dinh Gia Long.

Các quốc gia trên thế giới (mà nước đầu tiên là Mã Lai á) bắt đầu công nhận và thiết lập ngoại giao với tân chế độ (cho đến ngày 3-11 có tất cả 21 quốc gia chính thức công nhận VNCH, kể cả Hon Kỳ và Toà thánh Vatican).

Ngày 6-11, nguyên cố vấn chỉ đạo miền Trung Ngô Đình Cẩn bị bắt và giải từ Huế vào Sài gòn. Lệnh giới nghiêm được bãi bỏ và sắc lệnh thành lập Hội đồng nhân sĩ ra đời.

Ngày 7-11, Lực lượng đặc biệt do nguyên đại tá Lê Quang Trung chỉ huy trở về qui thuận.

Ngày 8-11, những chính khách và quân nhân bị lưu đày tại Côn Đảo dưới chế độ Diệm được trả tự do và đưa về Sài gòn. Hàng vạn người tưng bửng đón tiếp trọng thể tại bến Bạch Đằng. Các tướng Nguyễn Văn Vỹ và Dương Văn Đức cũng từ Pháp trở về Việt nam. Các chính khách lưu vong tại Cao Miên, Lào đều lục tục trở về.

Ngày 12-11, Uỷ ban lãnh đạo Sinh viên Liên khoa đòi thanh trừng hàng ngũ chức bị coi là mật vụ của chế độ cũ. Cùng ngày này, chính phủ bãi bỏ Phủ tổng uỷ Dinh điền và Nông vụ để thay bằng Phủ Tân sinh Nông thôn.

Ngày 15-11, các trường Cao đẳng và Đại học bị đóng cửa dưới chế độ Diệm được mở lại. Ngày 16-11, tân chính phủ thể theo ý nguyện của toàn dân, thành lập một Uỷ ban điều tra tội ác các phần tử của chế độ đã dựa vào thế lực hay địa vị để bắt giam trái phép, tra tấn, hãm hiếp, sát nhân, và một Uỷ ban Điều tra tài sản thủ đắc phi pháp cũng được thành hình.

Ngày 18-11, Toà đại sứ Phillippines giao trả lại cho chính phủ VNCH cựu Bộ trưởng Ngô Trọng Hiếu đã lánh nạn sau ngày 1-11-63. Đại tướng Lê Văn Tỵ được cử làm Cố vấn quân sự cho chính phủ và đại tá Nguyễn Chánh Thi, trung tá Vương Văn Đông, thiếu tá Phạm Văn Liễu cùng một số sĩ quan sau ba năm lánh nạn ra ngoại quốc trở về nước. Đường Ngô Đình Khôi Sài gòn được đổi thành đường Cách mạng 1-11. Ngày 19, 20 và 22 tháng 11, học sinh Nông lâm súc, học sinh trung học Huế và nhiều tỉnh khác biểu tình đòi các giáo sư đã làm mật vụ cho chế độ cũ phải từ chức.

Ngày 12-12, một vị du tăng khất sĩ tại Bình Định tự thiêu cúng đường Tam Bảo, mừng Phật giáo thoát nạn.

Ngày 14 tháng 12, Thành Cộng hoà tại trung tâm thành phố, một căn cứ cũ của quân xâm lăng Pháp và của Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống thời ông Diệm, được giao cho Bộ Giáo dục về thiết lập một khu Đại học (mà sau này là Đại học Văn khoa và Dược khoa). Đây là một trong những quyết định sáng tạo của chính quyền nhằm bôi xoá những hình thức biểu tượng độc tài và bạo trị của chế độ cũ. Nhất là trên mảnh đất đó từ nay sẽ là những giảng đường trao truyền tinh thần và kiến thức đại học cho thế hệ Việt nam tương lai.

Ngày 16 tháng 12, chính phủ tịch thu tài sản của ông Ngô Đình Diệm, gia đình ông ta và thuộc hạ 21 người cùng với các đoàn thể ủng hộ chế độ cũ như Cần lao nhân vị, Phong trào Cách mạng quốc gia, Phong trào Liên đới Phụ nữ, Thanh niên cộng hoà, Hội Việt nam Cao đẳng Giáo dục.

Ngày 18 tháng 12, bãi bỏ luật 12/62 Bảo vệ Luân lý của bà Nhu, cho mở lại các tiệm khiêu vũ nhưng cấm điệu vũ đồi phong bại tục và cấm các thanh niên dưới 18 tuổi vào các tiệm khiêu vũ. Hơn nữa, các tiệm khiêu vũ đóng thuế xa xỉ đặc biệt thật nặng, 200 đồng cho mỗi khách và mỗi lần vào tiệm.

Cũng ngày này, Đại sứ Trần Chánh Thành được cử sang Nam Vang tiếp xúc với Sihanouk để tỏ lòng thiện chí giao hảo của chính phủ Việt nam.

Ngày 23 tháng 12, Thiếu tướng Cao Đài Lê Văn Tất và một đại đội binh sĩ Cao Đài từ Cao Miên về nước hợp tác với tân chế độ.

Ngày 25 tháng 12 một sắc luật ra đời cho phép những người đã bị kết án chống đối chế độ cũ có thể xin tái thẩm để bạch hoá hồ sơ.

Ngày 26 tháng 12 thành lập SONADEZI, công ty quốc doanh có mục đích tạo lập và khuếch trương các khu kỹ nghệ để phát triển kinh tế và thu dụng nhân công.

Ngày 29 tháng 12, một phái đoàn thiện chí Cao Miên tới Sài gòn, Bộ Ngoại giao VNCH tuyên bố sắn sàng thương thuyết về mọi vấn đề Miên - Việt.

Ngày 30 tháng 12, sinh viên Kiến Trúc phản đối sắc luật tháng 5/1963 của chế độ Diệm về thể lệ hành nghề quá ngặt. Cung ngày này bãi bỏ lệ chào cờ trước khi chiếu bóng, diễn tuồng vì lễ này (được đặt ra từ khi ông Diệm làm Tổng thống) bắt buộc khi chào cờ thì phải chào luôn cả chân dung ông Diệm giữa lá quốc kỳ. Ngày 31-12, Đại hội Thống Nhất Phật giáo khai mạc tại chùa Xá Lợi hợp nhất Nam - Bắc - Tông để soạn thảo một Hiến chương chung.

Ngày 2-1-64, khai mạc Hội đồng nhân sĩ tại Hội trường Diên Hồng: Hội đồng gồm 60 người, gồm đa số các nhân vật tên tuổi được quốc dân và sinh viên trọng vọng và đã từng trực tiếp hay gián tiếp chống đối nhà Ngô.

Ngày 4-1, một Uỷ ban được thiết lập để điều chỉnh tình trạng những công chức đã bị chế độ cũ trừng phạt oan hay thăng thưởng quá đáng.

Ngày 5-1, có một số đổi thay trong thành phần chính phủ: Trung tướng Tôn Thất Đính giữ chức Tổng trưởng Nội vụ, Thiếu tướng Đỗ Mậu Uỷ viên chính trị kiêm Tổng trưởng Thông tin, Trung tướng Trần Văn Đôn Tổng trưởng Quốc phòng kiêm tư lệnh Quân đội, Trung tướng Lê Văn Kim Tổng thư ký kiêm Tổng tham mưu trưởng, Trung tướng Trần Thiện Khiêm Tư lệnh Quân đoàn III và Thiếu tướng Nguyễn Văn Quang Giám đốc Nha An ninh quân đội.

Cùng ngày này, lễ truy điệu văn hào kiêm cách mạng gia Nhất Linh Nguyễn Tường Tam được cử hành vô cùng trọng thể tại vườn Tao Đàn với sự tham dự của rất đông sinh viên và dân chúng.

Ngày 10-1, Sihanouk đề nghị Miên và Việt cùng từ bỏ mọi yêu sách về đất đai và chấm dứt mọi tranh chấp chủ quyền về các hải đảo (dưới chế độ Diệm, Sihanouk đòi phải sửa biên giới Miên - Việt và đòi một số đảo của Việt nam tại vịnh Thái Lan).

Ngày 12-1, Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất bầu Thượng Toạ Thích Tâm Châu giữ chức Viện trưởng Viện Hoá Đạo.

Ngày 13-1, sinh viên học sinh biểu tình lớn chống chính sách trung lập nhân dịp Baudevan, Giám đốc Trung tâm Văn hoá Pháp qua thăm Sài gòn.

Ngày 15-1, khánh thành đợt I hệ thống thuỷ điện Đa Nhim.

Ngày 16-1, Hội đồng nhân sĩ họp bàn về việt soạn thảo Tân hiến pháp.

Ngày 17-1, thanh niên sinh viên biểu tình chống Pháp và chống trung lập tại chợ Bến Thành và trước Trung tâm Văn hoá Pháp. Cùng ngày này, khoảng gần 1.000 du đãng do chế độ Diệm để lại được chia ra làm nhiều hạng: hạng nhẹ nhất được đi huấn luyện quân sự tại Quang Trung, hạng thứ hai được đem đi cải huấn tại trại Cải Huấn Thủ Đức, và hạng thứ ba thuộc loại nguy hiểm được đưa an trí tại Côn Sơn.

Ngày 23-l, Hội đồng nhân sĩ yêu cầu chính phủ đoạn giao với Pháp. Ngày 27 thành lập Điện lực cuộc tại Việt nam với nhiệm vụ kiến tạo và khai thác cơ sở sản xuất, phân phối và sử dụng điện năng.

Ngày 18-1, chính phủ ra thông cáo xác nhận chống trung lập, phản đối chính phủ Pháp đã thừa nhận Trung Cộng và quyết định có biện pháp đối phó. Bộ Kinh tế cấm nhập cảng hàng hoá Pháp, không cấp giấy phép nhập cảng cho Pháp kiều hoặc người Việt có Pháp tịch. Cũng trong ngày này Bộ Y tế ban hành Nghĩa vụ Luận cho giới y sĩ.

Ngày 29-1, sinh viên Sài gòn ra quyết nghị yêu cầu chính phủ phải quốc hữu hoá tài sản của Pháp ở Việt nam. Đồng thời một số nhân vật chính trị bị kết án sau vụ Bình Xuyên 1955 như các ông Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Hữu Thuần, Nguyễn Văn Hiếu được ân xá (Nhà báo tên tuổi Trần Văn Ân, học giả Hồ Hữu Tường và nhân sĩ Công giáo miền Nam, ông Trình Khánh Vàng, mấy tháng sau mới được ân xá).

Nhìn chung thì sau ba tháng cầm quyền, Hội đồng quân nhân cách mạng và chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ đang cố gắng để vãn hồi trật tự xã hội, cố gắng phát triển kinh tế và đặc biệt cố gắng xây dựng tình đoàn kết quốc gia. Ngoài ra cuộc Cách mạng 1-11-63 đã đem lại cho Việt nam cộng hoà hai thắng lợi nổi bật vô cùng tốt đẹp. Việc thứ nhất là Sihanouk tuyên bố từ bỏ tranh chấp biên giới và việc thứ hai là sự trở về với cộng đồng quốc gia của khối Cao Đài. Sihanouk từ bỏ vì coi chế độ Diệm là kẻ thù không đội trời chung nên đã tiếp tay làm lợi cho Cộng sản, còn 11 hệ phái Cao Đài cũng vì bị anh em ông Diệm triệt phá mà hoạt động cho Việt cộng (xem “Vietcong" của giáo sư Douglas Pi ke và đã được trình bày trong vụ Việt cộng tấn công sư đoàn 21 cuối năm 1960) nay đều chủ trương hoà hiếu với tân chế độ thì quả thật là một diễm phúc cho phe quốc gia chống cộng. Không nói thì ai cũng biết hai biến cố này sẽ làm cho Việt cộng mất đi những đồng minh vô cùng đắc dụng và làm nhẹ gánh chiến tranh hết sức may mắn cho Việt nam cộng hoà. Tiếc thay cuộc chỉnh lý của nhóm tướng Khánh sau đó, ba năm xáo trộn tiếp theo và chế độ Nguyễn Văn Thiệu, một chế độ Diệm không Diệm ra đời đã đẩy Sihanouk và Cao Đài trở về vị trí bất lợi cho Việt nam cộng hoà như dưới thời Ngô Đình Diệm làm hại cho phe quốc gia sau này.

Riêng đối với Hội đồng quân nhân cách mạng và chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ lúc bấy giờ, vì chủ trương "Cách mạng ôn hoà", vì khoan dung quá đáng cho thành phần Cần lao, thành phần chế độ cũ nên đã phạm phải những lỗi lầm vô cùng trầm trọng.

Lỗi lầm thứ nhất là tướng Dương Văn Minh đã cử ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Thủ tướng, một Thủ tướng có quá trình là một cựu Đốc phủ sứ, cựu Bí thư của Toàn quyền Decoux, từng cộng tác chặt chẽ với người Pháp và cựa Phó tổng thống của chế độ Ngô Đình Diệm. Mặc dù ông Thơ có công hoạt động với tướng Minh thời tiền cách mạng nhưng thành tích thân Pháp suốt cuộc đời của ông và đặc biệt là việc ông kêu gọi tướng Ba Cụt về hàng để bị anh em ông Diệm lừa và chặt đầu đã gáy căm phẫn cho các tôn giáo, đảng phái. Đã thế trong chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ lại có đến sáu vị Bộ trưởng thuộc chế độ Diệm, dù trong đó cũng có người có khả năng và liêm chính như Bộ trưởng Trần Lê Quang chẳng hạn, nhưng với một nội các gồm quá nhiều người thuộc chế độ cũ thì trước mắt quốc dân và quốc tế Tân chế độ gọi là Cách mạng chỉ là một chế độ Ngô Đình Diệm tái sinh.

Lỗi lầm thứ hai là việc thành lập Hội đồng nhân sĩ (conmmité Sages). Thành lập Hội đồng nhân sĩ là một sáng kiến chính trị tuy không mới mẻ gì nhưng lại rất thích hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Họ đã không mời những "hiền tài" của đất nước mà lại mời một số nhân vật chỉ là cộng sự viên cũ của họ. Tệ hại hơn, họ lại mời một số cựu "Cần lao" mà tiêu biểu là Trần Trung Dung, cháu rể nhà Ngô.

Lỗi lầm thứ ba là Hội đồng quân nhân cách mạng đã không gấp rút thay thế các giám đốc cơ quan trung ương hoặc các cấp bộ địa phương mà vẫn giữ lại số nhân viên và chức quyền cũ, trong đó đa số là thành phần Cần lao công giáo. Như ông Lê Nguyên Long trong bài "Bất đắc dĩ khơi lại đống tro tàn" đã phân tích một cách đúng đắn rằng nhóm Cần lao công giáo này, bắt nguồn từ một ý thức muốn trả thù cho chủ cũ, đã có những thái độ và hành động không những gây công phẫn cho nhân dân mà còn phá hoại đất nước qua khẩu hiệu nếu không có “Cụ” của chúng tao thì bọn bây chẳng làm gì nên thân. Cũng vì chính sách ôn hoà, giữ lại các cấp bộ quân đội và chính quyền cũ mà sau khi Cách mạng thành công Cao Văn Viên vẫn được chỉ huy Sư đoàn Dù để ba tháng sau ông ta tham dự vào cuộc chỉnh lý của tướng Khánh và do đó mà thiếu tá Nhung bị sát hại ngay giờ phút đầu tiên của cuộc chỉnh lý. Cũng vì những lỗi lầm trên mà đảng phái và tôn giáo bất mãn. Sự bất mãn trên đã biểu lộ qua các cuộc biểu tình của sinh viên, qua luận điệu chỉ trích nặng nề giới Cần lao của báo chí, qua tuyên ngôn của các đảng phái. Ngoài ra việc các tướng Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim cho tướng Nguyễn Văn Vỹ hồi hương một cách mau chóng và có ý muốn trọng dụng nhóm Vương Văn Đông đã làm cho các tướng Dương Văn Đức, đại tá Nguyễn Chánh Thi bất mãn vì họ cho rằng tướng Vỹ và trung tá Đông là người của Pháp, là bạn thân của Nguyễn Văn Hinh và có liên hệ với Trần Đình Lan, một thứ con Tây đang làm gián điệp cho Pháp.

Chính thái độ “thiếu cách mạng” của Hội đồng quân nhân cách mạng đã là nguyên nhân chính yếu cho nhóm Nguyễn Khánh, Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm, những tướng tá Cần lao cũ và nhóm Đại Việt của ông Nguyễn Tôn Hoàn lấy lý do để làm cuộc chỉnh lý một cuộc chỉnh lý mà Khánh tuyên bố là vì Hội đồng quân nhân cách mạng tạo ra tình hình suy sụp và chủ trương "thân Pháp và trung lập".

Ngày 30-1-1964, từ sáng sớm, người ta thấy một số đơn vị quân đội canh gác trên nhiều góc đường, có nơi có cả chiến xa. Một số tướng tá họp tại Bộ Tổng tham mưu gồm Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Chánh Thi, Dương Ngọc Lắm, Cao Văn Viên, Trần Thanh Bền, Albert Cao... để ra quyết nghị chấm dứt Hội đồng quân nhân cách mạng. Các tướng Đôn, Kim, Đính, Vỹ bị bắt an trí tại Đà Lạt, tướng Mai Hữu Xuân bị bắt an trí ở Huế. Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ cũng bị bắt và bị tướng Đức làm nhục nhưng được trả tự do ngay.

Ngày 31 tháng 1, tướng Khánh họp báo tuyên bố: "Từ ba tháng nay, tình hình suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực, về phần cách mạng, một số tướng lĩnh chạy theo thực dân, Cộng sản (?) nên một lần nữa quân đội lại phải can thiệp”. Tướng Khánh giải thích: “Không có đảo chính, chỉ có chỉnh lý để chính quyền theo đúng đường lối cách mạng”. Ông ta cũng tuyên bố được Hội đồng quân nhân cử làm Chủ tịch kiêm Tổng tư lệnh quân đội. Hội đồng quân nhân cách mạng được đổi tên thành "Hội đồng quân đội Cách mạng”. Những tướng tá chủ trương cuộc chỉnh lý này gồm nhiều thành phần, tiêu biểu nhiều xu hướng, nhưng chủ lực ngoài tướng Khánh và một số sĩ quan cấp tá thuộc đảng Đại Việt của bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và ông Hà Thúc Ký còn một số tướng tá thuộc chế độ Diệm.

Ngày 1-2, chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ bị giải tán, tướng Khánh tiếp Ngoại giao đoàn và ban hành sắc luật đặt “chủ nghĩa Cộng sản và chính sách trung lập" ra ngoài vòng pháp luật. Cũng ngày này chủ tịch Đại diện Sinh viên từ chức, một Hội đồng gồm 15 chủ tịch các phân khoa được cử lên thay. Trong lúc đó chính phủ Hoa kỳ cũng tuyên bố chống giải pháp Trung lập tại Việt nam, và hôm sau Tổng thống Johnson gởi thư xác định với Trung tướng Nguyễn Khánh là Mỹ vẫn tiếp tục giúp đỡ Việt nam.

Ngày 5-2, bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn về nước. Cùng ngày này, Hội đồng các Giám mục ra tuyên ngôn kêu gọi đoàn kết. Ngày 7-2, Hội đồng quân đội Cách mạng quyết định cử tướng Dương Văn Minh giữ quyền hành Quốc trưởng và cử tướng Khánh thành lập chính phủ.

Ngày 8-2, chính phủ Nguyễn Khánh ra đời với thành phần nội các dưới đây:

Thủ tướng: Trung tướng Nguyễn Khánh.

- Phó Thủ tướng đặc trách Bình Định: BS Nguyễn Tôn Hoàn (Đại Việt miền Nam).

- Phó Thủ tướng đặc trách Kinh tế Tài chánh: Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh.

- Phó Thủ tướng đặc trách Văn hoá Xã hội: Thiếu tướng Đỗ Mậu.

- Quốc vụ khanh: Bác sĩ Lê Văn Hoạch (cựu Thủ tướng Cao Đài).

- Tổng trưởng Ngoại giao: Bác sĩ Phan Huy Quát (Đại Việt miền Bắc).

- Tổng trưởng Nội vụ: Kỹ sư Hà Thúc Ký (Đại Việt miền Trung).

- Tổng trưởng Công chánh: Kỹ sư Kiều lộ Trần Ngọc Oánh (Công giáo).

- Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục: Tiến sĩ Bùi Tường Huân (Phật giáo).

- Tổng trưởng Quốc phòng: Trung tướng Trần Thiện Khiêm.

T- ổng trưởng Cải tiến Nông thôn: Kỹ sư Nguyễn Công Hầu (Hoà Hảo).

- Tổng trưởng Y tế: bác sĩ Vương Quang Trung (đội lập).

- Tổng trưởng Lao động: ông Đàm Sĩ Hiến (nguyên cố vấn các nghiệp đoàn công nhân lao động).

- Tổng trưởng Thông tin: Ông Phạm Thái, một chiến sĩ VNQDĐ.

- Tổng trưởng Tài Chánh: Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh.

- Tổng trưởng Kinh tế: Tiến sĩ Âu Tường Thanh (trí thức cấp tiến).

- Tổng trưởng Tư pháp: Luật gia Nguyễn Văn Mầu (Công giáo).

- Tổng trưởng Xã hội: Tiến sĩ Trần Quang Thiện (Phật giáo).

- Bộ trưởng Phủ Thủ tướng: Luật sư Nghiêm Xuân Hồng (Duy Dân).

Nhìn thành phần nhân sự trên đây mà đại đa số là những chuyên viên hoặc những người có quá trình đấu tranh khả tín ta thấy chính phủ Nguyễn Khánh quả đã tập hợp được một “ê kíp" có khả năng điều hành quốc gia cũng như có tính cách tiêu biểu cho sự đoàn kết dân tộc. Một điểm cần chú ý là dù đã 3 tháng trôi qua nhưng hình ảnh của những "người hùng Cách mạng" và đặc biệt của tướng Dương Văn Minh, vẫn là những hình ảnh hùng tráng mà quần chúng giữ rất nhiều cảm tình, thế mà cuộc chỉnh lý của tướng Nguyễn Khánh cũng không gặp một phản ứng bất lợi nào cả. Lẽ dĩ nhiên là ngoại trừ khối Công giáo Cần lao đang mong chờ và đóng góp cho mọi xáo trộn để họ có thể hể hả với mối căm thù về việc quân đội đã lật đổ ông Diệm, những thành phần còn lại của nhân dân đều ớ một mặt nào đó, đồng ý với sự thay đổi chính phủ này vì những lý do sau đây:

Trước hết vì Khánh đi đúng tâm lý quần chúng, nhất là đối với giới sinh viên, đảng phái, tôn giáo, Hội đồng nhân sĩ, và các lực lượng chống Cộng khác khi Khánh đưa ra chiêu bài chống Trung lập, chống Pháp. Đối với các đảng phái và tôn giáo thì chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ gồm nhiều nhân vật của chế độ cũ trong khi chính phủ Nguyễn Khánh lại tập họp được nhiều nhân vật tiêu biểu đại diện cho các tôn giáo và đảng phái.

Điều thứ ba là mặc dù Hội đồng quân nhân cách mạng cũ bị giải tán nhưng nhiều nhân vật cốt cán trong việc lật đổ chế độ Diệm như tướng Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Đỗ Mậu... vẫn hiện diện trong chính phủ mới. Sự hiện diện của ba vị tướng nói trên, dù nhiều khi chỉ có tính cách tượng trưng, vẫn thoả mãn được Phật giáo, sinh viên, và đại đa số quần chúng chống đối chế độ Diệm. Còn đối với Công giáo, tuy mang nặng mối thâm thù với các tướng lĩnh đã lật đổ chế độ Diệm nhưng cuộc chỉnh lý của Khánh đã làm cho họ thoả mãn rất nhiều vì họ cho rằng cái hào quang của cuộc cách mạng 1-11 63 đã bị sứt mẻ, cái huyền thoại "người hùng" của Dương Văn Minh đã bị đổ vỡ... Vả lại, Cao Văn Viên, Albert Cao, Đặng Văn Quang, Dương Ngọc Lẩm, Ngô Du... những phần tử trung thành với ông Diệm, vẫn được trọng dụng và việc thiếu tá Nguyễn Văn Nhung (người hạ sát ông Diệm) bị giết tại trại Nhảy dù của Cao Văn Viên cũng đã là yếu tố làm thoả mãn khối Công giáo trên.

Đối với Mỹ, vốn có nhiều cảm tình với tướng Khánh từ lâu, vốn cho Khánh là vị tướng thông minh, có khả năng quân sự, lại thấy chính phủ của Khánh tiêu biểu cho sự "đoàn kết quốc gia" nên chính giới Mỹ đã bày tỏ nhiều hy vọng.

Những yếu tố vừa nói trên đã củng cố địa vị cho Khánh và làm cho chính tình miền Nam trong mấy tháng đầu dưới chính phủ Khánh không gặp những xáo trộn trầm trọng nào.

Ngày 8-4, Bộ trưởng Quốc phòng Mac Namara và tướng Taylor sang Việt nam quan sát tình hình. Đến Huế, Cần Thơ và các nơi khác, hai ông được đón tiếp bằng những cuộc mít tinh rầm rộ. Hứng thú, Mac Namara hô khẩu hiệu “Việt nam muôn năm” bằng tiếng Việt Mỹ tuyên bố ủng hộ chính phủ Khánh và gia tăng viện trợ cho VHCH. Hoa kỳ giúp tăng quân số VNCH thêm 50.000 người. Tăng trên 7.500 cán bộ xây dựng nông thôn, tăng cường lực lượng Hải, không quân với nhiều dụng cụ, vũ khí, tàu bè tân tiến. Tổng số tiền viện trợ cho riêng quân sự và chương trình Bình Định lên đến 50 triệu đô la.

Tuy nhiên không như Dương Văn Minh và Nguyễn Ngọc Thơ chỉ muốn làm cách mạng ôn hoà, nuốn tỏ thái độ đoàn kết với Cần lao công giáo, các tướng Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Đức, đại tá Nguyễn Chánh Thi, các sĩ quan Đại Việt, thình phần chính phủ gồm đa số những nhân vật từng chống đối chế độ Diệm, lại muốn nuôi dưỡng tinh thần cách mạng 1-11-63 và tỏ thái độ cứng rắn với tàn dư của đảng Cần lao theo đòi hỏi của sinh viên, đảng phái, Cao Đài, Hoà Hảo, Phật giáo. Do đó Khánh cho mở những cuộc triển lãm trưng bày tội ác nhà Ngô, ra lệnh truy lùng những nhân vật quan trọng của chế độ cũ như cựu Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần chẳng hạn, vẫn giam giữ Ngô Trọng Hiếu, vẫn đưa Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông ra toà với bản án xử tử, và Đặng Sĩ, Dương Hiếu:.. với bản án khổ sai. Chính phủ Nguyễn Khánh cũng bãi bỏ dụ số 10 bất công và mang hành sắc luật công nhận Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống Nhất, hiến chương Đạo Cao Đài, để các tôn giáo này được bình đẳng với Thiên chúa giáo. Với hơn nửa năm thuận lợi cho chính phủ Nguyễn Khánh, giữa một tình hình chính trị tương đối êm dịu, báo chí đã ví von Nguyễn Khánh với Nasser.

Tuy nhiên, tình hình thuận lợi đó vẫn chưa đủ để chính phủ Nguyễn Khánh bình thường hoá sinh hoạt quốc gia và củng cố chế độ. Vì ở dưới cái bề mặt bình lặng đó là những đợt sóng ngầm bắt đầu chuyển động, những đợt sóng ngầm xuất phát từ phản ứng quá khích của một số tôn giáo, từ ý thức bè phái quá nặng nề, từ những phá hoại của Việt cộng và từ những ấu trĩ chính trị của một số giai tầng lãnh đạo mà từ mười năm qua đã bị tiêu hao hết ý thức cách mạng.

Tại Huế, nhóm Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần, Lê Tuyên... (cha đẻ của Hội đồng nhân dân cứu quốc sau này) cho xuất bản tờ báo Lập trường làm cơ quan đấu tranh mà chiến thuật đầu tiên là đả kích nặng nề chính phủ Nguyễn Khánh với những luận điệu khích động và khuynh đảo. Còn tại Sài gòn thì ông Hà Thúc Ký, Bộ trưởng Nội vụ lại âm mưu đảo chính lật đổ tướng Khánh. Vào đầu tháng tư, sau một buổi họp của Hội đồng nội các, Thủ tướng Nguyễn Khánh bèn họp riêng với ba vị Thủ tướng và cho biết trường hợp của ông Hà Thúc Ký. Khánh đặc biệt nói thẳng với Phó Thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn rằng: "Ông Hà Thúc Ký đã nhận lời mời của tôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ và đã có nhiều việc làm tai tiếng về việc tiền bạc, thế mà ông lại âm mưu với một số sĩ quan định lật đổ tôi. Nếu tôi không nể anh và đảng Đại Việt thì tôi đã bắt giam anh Hà Thúc Ký rồi". Những bí mật được tiết lộ dần dần sau đó biết đảng Đại Việt chủ trương đưa ông Nguyễn Tôn Hoàn từ Pháp về là để sẽ làm Thủ tướng, nhưng tướng Khánh đã lợi dụng cơ hội đó để phối hợp cùng tiến hành cuộc chỉnh lý và giành luôn chức Thủ tướng. Ông Ký bất mãn vì cho rằng những nhân vật tên tuổi như ông, như bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, từng lãnh đạo một đảng cách mạng có thành tích chống cộng, chống Pháp, chống Diệm mà lại phải phục vụ dưới quyền một kẻ võ biền như Nguyễn Khánh. Tuy nhiên, trong lúc ông Ký chủ trương chống Khánh thì nhóm bác sĩ Hoàn và ông Nguyễn Ngọc Huy lại thấy rằng Đại Việt chưa đủ thực lực để cho phối trường nên cần phải tạm thời hợp tác với tướng Khánh, nắm lấy chính quyền qua một cuộc bầu cử cho danh chánh ngôn thuận hơn.

Vì quan niệm và chủ trương dị biệt, từ đó ông Hà Thúc Ký tách rời khỏi đảng do ông Hoàn lãnh đạo, thành lập đảng mới lấy tên là Đại Việt cách mạng mà chủ lực là khối đảng viên Trị Thiên và Phú Yên, hợp tác với nhóm Tứ ân Nguyễn Long Châu (bị chế độ Diệm bắt giam, được Bộ trưởng Nội vụ Hà Thúc Ký trả tự do) và nhóm Cần lao công giáo. Còn nhóm các ông Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Ngọc Huy cải tổ đảng và đổi tên là Tân Đại Việt.

Tướng Lâm Văn Phát được cử làm Bộ trưởng Nội vụ thay ông Hà Thúc Ký trong lúc người đồng chí và bạn nối khố của ông Ký là Đoàn Thái, vì bất đồng chính kiến và vì những mâu thuẫn trong vụ tiền bạc giữa ông ta và ông Ký nên vẫn ở lại hợp tác với tân bộ trưởng, lên án ông Ký là quá khích, không thức thời, tham nhũng, mặc dù chính ông Thái từ ngày vào làm Đổng lý Bộ nội vụ đã mua được một số xe đò và tạo mãi được một số nhà cửa tại Sài gòn.

Vụ "Đại Việt” nói trên là vụ báo "Lập Trường" ở miền Trung gây lúng túng cho chính phủ, gây hoang mang cho quần chúng do đó mà các thế lực sinh viên, quân đội, Phật giáo, Công giáo bắt đầu phát động những áp lực chính trị cho quyền lợi và chủ trương của mình. Về phía Phật giáo, những rạn nứt ngấm ngầm giữa Thượng Toạ Tâm Châu với các tăng sĩ miền Trung và miền Nam bắt đầu lộ ra đến nỗi ngày 15-5-1964, hai thượng toạ Tâm Châu và Trí Quang phải cùng ra thông bạch: "Không hề có sự rạn nứt giữa các nhà lãnh đạo Phật giáo, nhất là giữa hai anh em chúng tôi". Nhưng thông bạch của hai Thượng toạ đã không trấn an nỗi Phật tử mà còn xác định thêm những mâu thuẫn trong hàng tăng chúng vì nguyên nhân chính của sự mâu thuẫn là Thượng toạ Tâm Châu thì ôn hoà, muốn thoả hiệp với các chính phủ trong lúc khuynh hướng của Thượng toạ Trí Quang thì chống lại sự phục hồi của khối Công giáo Cần lao.

Vê phía Công giáo tuy đã thoả mãn với cuộc chỉnh lý nhưng vẫn căm thù Phật giáo mà họ cho là nguyên nhân của cuộc lật đổ chế độ Diệm. Đã thế những vụ án tử hình Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông, những bản án khổ sai dành cho một số cán bộ Cần lao, cuộc triển lãm tội ác nhà Ngô, những lời đả kích nặng nề chế độ Diệm đăng đầy trên các báo cũng như những khẩu hiệu "Bài trừ Cần lao" của sinh viên cũng làm cho khối Công giáo đang mang đầy mặc cảm phạm tội trở nên xúc động, căm tức hơn. Một số họ đạo tại Huế đã có những cuộc biểu tình "đả đảo cách mạng” đến nỗi toà Tổng giám mục Sài gòn đã phải ra thông báo minh định lập trường chung của Giáo hội Công giáo.

Ngày 28-5-1964, Toà Tổng giám mục tại Sài gòn qua thái độ ôn hoà của giám mục Nguyễn Văn Bình đã ra thông cáo: "Không ra lệnh tổ chức biểu tình mà cũng không chấp nhận một cuộc biểu tình nào, giáo dân cần tránh biểu tình nhân ngày Phật đản”. Nhưng rồi có lẽ vì bị áp lực của khối Công giáo di cư nên ngày hôm sau giám mục Nguyễn Văn Bình lại phải ra thông báo thứ hai: "Chỉ khuyên tránh biểu tình trong ngày Phật đản mà thôi, còn thì giáo dân được tự do phát biểu quan niệm chính trị của mình theo thể thức nào cho hợp lý nhất".

Đối với những phần tử Công giáo quá khích, thông cáo thứ hai của Toà Tổng giám mục không những đã được diễn kịch như một sự khuyến khích mà còn là một hiệu lệnh. Ngày 7 tháng 6 năm 1964, 29 họ đạo Hố Nai và cùng phụ cận Sài gòn cùng hàng vạn dân Đô thành đã biểu tình tại công trường Lam Sơn với các biểu ngữ như "Lột mặt nạ bọn lợi dụng cách mạng để đàn áp Công giáo". "Mị dân là phản bội dân chủ". "ủng hộ cuộc tranh đấu của Công giáo miền Trung”. Và ngày 15-6-64, tại Huế, hàng ngàn giáo dân xuống đường biểu tình vội cùng một lập luận như cuộc biểu tình của giáo dân tại Sài gòn. Hai cuộc biểu tình đầu tiên do Công giáo tổ chức đó đã tạo tiền lệ cho những cuộc biểu tình, xuống đường sau này của Sinh viên và Phật giáo. Còn về phía sinh viên thì cho đến giữa năm 1964, chỉ mới có những đám biểu tình nhỏ đòi hỏi những quyền lợi liên hệ đến vấn đề giáo dục hơn là chính trị và cơ cấu tổ chức của các định chế lãnh đạo của sinh viên chỉ mới trong giai đoạn phôi thai nên chưa vận động được những cuộc biểu dương rầm rộ nào.

Tuy nhìn thấy những mầm mống rối loạn đó nhưng Khánh đã không đánh giá đúng mức tầm quan trọng của viễn tượng công phá của nó sau này nên vẫn không e ngại tình hình xáo trộn. Ngược lại, Khảnh chỉ lo xây dựng vị thế của mình bằng cách vô hiệu hoá uy tín của các tướng Đôn, Xuân, Kim, Đính, Vỹ trong cuộc xét xử tại Đà Lạt, và bằng cách thăng thưởng cho một số đại tá và giao cho họ những địa vị nòng cốt trong cả ba ngành thuỷ, lục, không quân để mua chuộc cảm tình.

Đại tá Trần Thanh Bền, một cộng sự viên thân tín của Khánh được bổ nhiệm chức tổng giám đốc cảnh sát Công an ngay sau khi chỉnh lý, còn chức đô trưởng Sài gòn thì do tướng Dương Ngọc Lắm (em rể của cựu dân biểu Đỗ Cao Minh của nhà Ngô), vốn là bạn thân của Khánh và có công trong cuộc chỉnh lý nắm giữ. Khánh giải tán Hội đồng nhân sĩ do Dương Văn Minh thành lập để triệt hạ tiếng nói chính thức của giới đối lập hợp pháp. Để nắm báo chí vốn được tự do ngôn luận từ sau cách mạng 1-11, Khánh cho thành lập Hội đồng Báo chí để lập Quy chế báo chí, mà trong đó có điều lệ các chủ báo phải tốt nghiệp từ các trường báo chí hoặc đã hành nghề báo chí từ 7 năm, phải ký quỹ về kê khai số vốn và nguyên lai. Ngày 1-7-64, Khánh cho thành lập đoàn Tuyên uý Phật giáo trong quân đội mà suốt chín năm dưới chế độ Diệm chưa bao giờ tổ chức này được thiết lập dù Công giáo và Tin lành đã có cơ quan Tuyên uý từ lâu.

Ngày 20-7-1964, để đánh dấu 10 năm chia cắt đất nước, một cuộc biểu tình vĩ đại chưa từng thấy tại Thủ đô Sài gòn đã được tổ chức trọng thể tại công trường Lam Sơn để kỷ niệm ngày Quốc Hận. Đêm ngày 20 tháng 7 sinh viên Sài gòn thắp đuốc diễu hành trên nhiều đường lớn rồi tổ chức đêm không ngủ tại trường Đại học Văn khoa để hội thảo về tình hình đất nước và để suy luận về ngày đất nước bị chia.

Sáng 21-7, hơn 100 sinh viên biểu tình trước Toà đại sứ quán Pháp, đốt xe và đập phá, gây một số thiệt hại khiến chính phủ Pháp gởi kháng thư và đòi bồi thường.

Những hoạt động biểu dương đó của sinh viên dù một phần nào đó có do các đảng phái và Tôn giáo điều động thì ngược lại đã làm cho người Mỹ thoả mãn. Đại diện cho chính phủ Mỹ tại Sài gòn là Đại sứ Taylor và đại tướng Westmoreland đã tỏ ra phấn khởi thấy tình hình của quân dân miền Nam đã được phục hồi sau những hoang mang dao động của biến cố Phật giáo. Nắm vững được quân đội, được người Mỹ hết lòng ủng hộ, lại được cảm tình của Cao Đài, Hoà Hảo, Phật giáo, Khánh âm mưu thực hiện mộng "Mưu bá đồ vương”, tham vọng trở thành một Hồ Quý Ly của thế kỷ 20.

Thật vậy, để chuẩn bị cho một tâm lý quần chúng thuận lợi, ngày 26-7-1964 Khánh ký sắc lệnh định ngày 4 và 11 tháng 10 năm 1964 tổ chức cuộc bầu cử các Hội đồng Nhân dân địa phương, những hội đồng mà chế độ Diệm đã bãi bỏ từ năm 1954 làm cho nhân dân rất bất mãn. Còn tại đô thị, nơi có thể có các cuộc biểu tình chống đối, Khánh lợi dụng việc Việt cộng có thể gia công các hoạt động, ban hành tình trạng khẩn trương tại Sài gòn - Gia định.

Ngày 7-8-1964, Khánh cho tái lập chế độ kiểm duyệt báo chí.

Ngày 11-8-64, Khánh thăng Khiêm, đang là bộ trưởng quốc phòng, lên cấp Đại tướng; thăng Thiếu tướng Cao Văn Viên, Tôn Thất Xứng, Chung Tấn Cang, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi, Phạm Văn Đổng, Bùi Hữu Nhân, Cao Hảo Hớn, Ngô Du và thăng chuẩn tướng cho các đại tá Nguyễn Đức Thắng, Đặng Văn Quang, Vĩnh Lộc, Lê Nguyên Khang, Hoàng Xuân Lãm. Đối với Phật giáo, Khánh hứa sẽ thẳng tay trừng trị những kẻ còn chủ trương kỳ thị Phật giáo khi phái đoàn Thượng toạ Thiện Minh đến gặp Khánh để trình bày hồ sơ về vụ đàn áp Phật giáo ở các địa phương (bắt bớ ở Đồng Xuyên, đốt nhà ở Tuy Phước, sát hại Phật tử ở An Thạnh...) do nhiều nhóm Cần lao miền Trung chủ động và được chuẩn tướng Ngô Du (một công giáo Cần lao) chỉ huy vùng Nam Ngãi yểm trợ.

Tin vào những yếu tố, những biến cố mà Khánh cho là thuận lợi đó, ngày 16-8-64, Khánh triệu tập một cuộc họp các tướng lĩnh ở Vũng Tàu để ban hành một hiến chương mới và để bầu Trung tướng Nguyễn Khánh làm chủ tịch nước Việt nam Cộng hoà. Theo hiến chương này, Chủ tịch còn là quốc trưởng và tập trung quyền hạn đặc biệt, sẽ có một Quốc hội lâm thời gồm 100 đại biểu dân sự, 50 đại biểu quân nhân, còn Hội đồng quân đội cách mạng (mà Khánh là chủ tịch) vẫn là cơ quan chỉ đạo tối cao của quốc gia. Nhưng để tiếp nối truyền thống chống độc tài và trung ương tập quyền mà thái độ đã từng biểu hiện qua ngày 1-11-63 mới cách đó 9 tháng, ngày 19 và 20 tháng 8, sinh viên Sài gòn tập họp đông đảo tại trụ sở đường Duy Tân để hội thảo về lập trường và thái độ đối với Hiến chương Vũng Tàu. Ngày 22, sinh viên xuống đường ạt và kéo tới phủ Thủ tướng đưa kiến nghị phản đối Hiến chương, đòi thành lập chính phủ mới, đòi tướng lĩnh trở về nhiệm vụ quân sự, đòi diệt trừ Cần lao và Thực Cộng ẩn nấp trong chính quyền.

Ngày 23, sinh viên học sinh biểu tình qua trường J.J. Rousseau (sau này được đổi tên là Trung học Lê Quý Đôn) kêu gọi học sinh trường Pháp này tham dự cuộc tranh đấu, rồi tới Bộ thông tin chất vấn Tổng trưởng, đòi bãi bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí và đập phá một số đồ đạo.

Cùng ngày này, chừng vài trăm người (mà người ta nghi là một nhóm giáo dân quá khích do tướng Dương Ngọc Lắm và đại tá Trần Thanh Bền tổ chức) đi xe buýt tới trụ sở sinh viên đường Duy Tân với gậy gộc, dao búa, đập phả đốt cháy nhiều đồ đạc của trụ sở sinh viên.

Ngày 25-8-64, sinh viên, học sinh và hàng chục ngàn đồng bào tập họp trước chợ Bến Thành để tưởng niệm nữ sinh Quách Thị Trang rồi kéo tới Phủ Chủ tịch ở đường Thống Nhất và Nguyễn Khánh đã phải ra gặp đoàn biểu tình và cũng hô "đả đảo độc tài", và hứa sẽ xét lại gấp vấn đề. Cùng ngày này và trước tình hình đó Hội đồng quân đội cách mạng phải họp khẩn cấp tại Bộ Tổng tham mưu để thảo luận.

Ngày 26, nhiều tin phá chùa và phá nhà thờ được đồn đại khắp Sài gòn. Phật tử đổ xô đến canh gác Viện Hoá Đạo và tượng Quách Thị Trang, còn các khu Công giáo cũng sôi động chuẩn bị dao, búa, gậy gộc.

Trong lúc đó thì tại Đà Nẵng, một đoàn biểu tình của Phật giáo khi kéo qua trước một trại quân Mỹ và khi nghe tiếng súng của lính Mỹ bắn chỉ thiên đã hốt hoảng chạy tràn vào xóm Thanh Bồ gần đó, lực lượng tự vệ Công giáo tưởng bị tấn công nên đối phó lại và sinh ra ẩu đả. Hai bên chết 11 người và bị thương 42 người.

Cùng ngày, Hội đồng quân đội cách mạng họp liên tục từ hôm qua, ra tuyên bố "thu hồi Hiến chương Vũng Tàu" sẽ bầu nguyên thủ quốc gia và uỷ nguyên thủ thực hiện các cơ cấu dân chủ. Quân đội sẽ trở về cương vị quân sự và uỷ chính phủ hiện thời tạm điều khiển quốc gia.

Ngày 27-8-64, Hội đồng quân đội cách mạng bầu Tam Đầu Chế gồm ba tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm làm Uỷ ban lãnh đạo quốc gia, và giao cho chính phủ Nguyễn Khánh tiếp tục nhiệm vụ với công tác khẩn cấp triệu tập một quốc dân Đại hội trong vòng hai tháng. Trong lúc những tướng lĩnh hội họp thì chừng hai ngàn giáo dân nhiều ngả kéo tới trước Bộ Tổng tham mưu với gậy, dao, búa đòi hỏi gặp Hội đồng quân đội cách mạng.

Họ trưng biểu ngữ "ủng hộ Hội đồng quân đội cách mạng, chống Cộng sản và chống Trung lập, chống vụ phá hoại đài phát thanh và Bộ Thông tin, chống âm mưu chia rẽ và chống Dương Văn Minh”. Quân cảnh ngăn cản nhưng đám người cứ xông lên phá cửa chính nên bị đơn vị phòng vệ Bộ Tổng tham mưu bắn chết bốn người và một binh sĩ bị chém bị thương. Cho đến khi tướng Khánh sai Tướng Huỳnh Văn Cao (người Công giáo) ra phủ dụ, đoàn biểu tình mới chịu giải tán.

Vào khoảng 2 giờ chiều, một đoàn biểu tình Công giáo khác kéo tới đài phát thanh đòi truyền đi một bản tuyên ngôn, rồi kéo qua đường Phan Đình Phùng khiêu khích học sinh trường trung học Nguyễn Trường Tộ (thân Phật giáo) để chống trả lại đám biểu tình. Cuộc ẩu đả gây cho 13 người bị thương, có hai học sinh bị đâm chết. Linh mục Hồ Văn Vui và Thượng Toạ Thích Tuệ Đăng phải tới hoà giải mới tới 7 giờ tối mọi người mới chịu giải tán.

Tối hôm đó, cả Đô thành trở nên căng thẳng. Các khu Công giáo ở đường Trương Minh Giảng, Phú Nhuận báo động và được thanh niên Công giáo đứng gác ở các đầu đường, còn tại Viện Hoá Đạo và chợ Bến Thành cũng nhan nhản thanh niên và Phật tử đứng canh.

Toà Tổng Giám mục và Viện Hoá Đạo bèn thông cáo chung khuyến cáo tín đồ hai bên phải bình tĩnh và tránh mọi kích động. Báo giới và toà Đô Chính cũng kêu gọi dân chúng giữ hoà khí và trật tự.

Ngày 28-8-1964, những cuộc xáo trộn rối ren giữa Đô thành vẫn tiếp tục, ngoài Phật tử và giáo dân xô xát nhau, nhiều nhóm du đãng cũng lợi dụng sự hỗn loạn để cướp bóc. Đêm 28, các cuộc đụng độ vẫn tiếp diễn đến nỗi lính nhảy dù phải nổ súng làm cho hai người chết và 48 người bị thương.

Cùng ngày 28, Thủ tướng Nguyễn Khánh họp báo đả kích các ông Nguyễn Tôn Hoàn và Hà Thúc Ký đã âm mưu đảo chính, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh được thừa uỷ nhiệm Thủ tướng để điều khiển chính phủ. Tình trạng giới nghiêm được ban hành. Ngày 30-8, Bộ Tổng Tư lệnh ra thông báo "Quân đội quyết chống các vụ biểu tình và phá hoại, và sẽ cương quyết nổ súng nếu cần".

Ngày 1-9, Phó Thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn từ chức. Thượng toạ Thích Tâm Châu ra thông bạch "những việc xảy ra ngày 28 chứng tỏ Phật giáo vẫn bị đe doạ, chính quyền dứt khoát với nhóm người thuộc chế độ cũ... Nếu ngày 27 tháng 10 mà nguyện vọng của Phật giáo chưa đạt thì sẽ bãi thị bãi khoá...". Ngày 7-9, Trung tướng Dương Văn Minh được bầu làm chủ tịch Ban lãnh đạo lâm thời quốc gia và quân lực

Ngày 8-9, một Thượng Hội đồng Quốc gia được thành lập gồm 16 nhân sĩ tên tuổi là các ông: Phan Khắc Sửu, Lê Văn Thu, Nguyễn Văn Huyền, Trần Đình Nam, Trần Văn Văn, Trần Văn Quế, Nguyễn Văn Lực, Nguyễn Xuân Chữ, Hồ Văn Nhựt, Mai Thọ Truyền, Ngô Gia Hy, Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lương Trọng Tường, Nguyễn Đình Luyện, Hồ Đắc Thắng.

Ngày 9-9, Linh mục Hoàng Quỳnh, Chủ tịch Uỷ ban Tranh đấu của khối Công giáo gởi thư ngỏ cho Thủ tướng Nguyễn Khánh trách chính phủ không quan tâm đến các vụ đàn áp Công giáo trong những ngày vừa qua và yêu cầu điều tra vô tư, giải quyết các vụ ở Đà Nẵng, Quy Nhơn, và vãn hồi an ninh, nếu không Công giáo sẽ tự vệ và không chịu trách nhiệm về các hậu quả có thể xảy ra.

Cùng ngày này, các ông Bùi Tường Huân, Trần Quang Thuận và các tướng lĩnh trong chính phủ Nguyễn Khánh đưa đơn từ chức. Tướng Dương Ngọc Lãm (Đô trưởng Sài gòn - Chợ Lớn) được ông Trần Văn Hương thay thế, và đại tá Nguyễn Quang Sanh thay thế Trần Văn Bền (Tổng giám đốc Công an). Các tướng Xuân, Đôn, Kim, Đính, Vỹ được trả tự do trở về Sài gòn.

Tình hình tưởng đã ổn định nhờ sự dàn xếp của các cấp lãnh đạo Phật giáo và Thiên chúa giáo, nhờ sự việc tướng lĩnh trở về quân đội, nhờ sự hiện diện của Thượng Hội đồng quốc gia gồm nhiều nhân vật tên tuổi, nhờ sự trở lại chức vị "lãnh đạo quốc gia lâm thời” của tướng Dương Văn Minh. Không ngờ ngày 13-9 Trung tướng Dương Văn Đức và thiếu tướng Lâm Văn Phát (Công giáo) lại kéo quân về Sài gòn - Gia định chiếm đóng một số địa điểm, đả kích tướng Nguyễn Khánh và nhân danh Hội đồng quân dân Cứu Quốc tuyên bố tái lập trật tự đã bị phá hoại cùng uy quyền quốc gia đã bị miệt thị. Có tin đồn vụ này do lực lượng đảng Đại Việt và vài nhóm Công giáo phát động. Tướng Khánh đang ở Đà Lạt vội lên đài phát thanh lên án hai tướng Đức và Phát, trong lúc nhiều tướng khác nhóm họp tại Bộ tư lệnh không quân tìm phương thức đối phó.

Ngày 14-9-64, các tướng lĩnh tiếp tục họp tại Bộ tư lệnh không quân và lệnh cho tướng Đức phải rút quân về các vị trí cũ, nếu không sẽ cho phi cơ đến tấn công. Tướng Đức nhượng bộ rút quân nên đã không xảy ra vụ xô xát nào. Trong lúc đó thì sinh viên lại hội thảo và xuống đường biểu tình đả đảo dư đảng Cần lao đã mưu toan đảo chính.

Ngày 16, Thủ tướng Khánh trở về Sài gòn ra lệnh điều tra vụ đảo chính hụt, một số tướng tá liên quan đến biến cố 13-9 bị cách chức trong đó có Trung tướng Dương Văn Đức, Thiếu tướng Dương Ngọc Lãm, đại tá Huỳnh Văn Ran và trung tá Dương Hiếu Nghĩa. Ngày 21 hàng ngàn thanh niên do Hội đồng nhân dân cứu quốc tại Huế xách động đánh chiếm đài phát thanh và nhiều cơ sở ở tại Huế và Quy Nhơn đồng thời lùng bắt Cần lao. Ở Phan Thiết cũng hàng ngàn thanh niên phát động phong trào tranh đấu diệt trừ Cần lao và nhiều cuộc xô xát xảy ra.

Ngày 27-9-64, ông Phan Khắc Sửu được bầu làm Chủ tịch Thượng Hội đồng quốc gia.

Tỉnh Thừa Thiên cùng nhiều tỉnh khác ở Trung phần lập "Hội đồng nhân dân cứu quốc” để thanh toán Cần lao.

Hội đồng chỉ đạo sinh viên học sinh quyết nghị và thông báo "Chống đảng phái chính trị xen lẫn vào học đường và chống mọi sự lôi cuốn sinh viên làm chính Ngày 28-9, nhiều cuộc biểu tình bạo động tiếp tục xảy ra ở Quy Nhơn. Tổng Hội sinh viên nhóm họp phản đối các vụ gây rối của Hội đồng nhân dân cứu quốc ở Trung phần, yêu cầu các giới đoàn kết, yêu cầu trừng trị dư đảng Cần lao.

Ngày 2-10, các Hội đồng nhân dân cứu quốc vẫn hoạt động quá khích và định hướng đại hội ở Huế để ấn định chính sách chung.

Ngày 5-10, Hội đồng chỉ đạo sinh viên họp tại rạp Thống Nhất đả kích và lên án các Hội đồng nhân dân cứu quốc tại miền Trung.

Ngày 8-10, sáu sinh viên từ Huế và họp báo tuyên bố ủng hộ Hội đồng nhân dân cứu quốc.

Ngày 22-10, Thủ tướng Nguyễn Khánh tuyên bố tại Pleiku "Quân đội là cha quốc gia".

Ngày 24-10, Thượng Hội đồng quốc gia tuyển nhiệm chủ tịch Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng và bầu bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ làm Quyền chủ tịch Thượng Hội đồng, Tướng Trần Thiện Khiêm được cử làm đại sứ Việt nam tại Hoa kỳ.

Ngày 26-10, ban lãnh đạo quốc gia quân lực (do tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch) chính thức chuyển giao quyền hành cho tân Quốc trưởng Phan Khắc Sửu.

Ngày 30-10, giáo sư Trần Văn Hương được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu bổ nhiệm làm thủ tướng. Ngày 4-11, chính phủ Trần Văn Hương ra mắt với một thành phần nội các hoàn toàn dân sự. Trung tướng Nguyễn Khánh được cử làm Tổng tư lệnh quân đội. Tổng hội sinh viên nhóm họp, tỏ ý dè dặt về thành phần nội các nhưng mong rằng chính phủ có chính sách cách mạng thật sự.

Ngày 5-11, bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ từ chức Quyền chủ tịch Thượng hội đồng vì không đồng ý về sự thành lập chính phủ Trần Văn Hương.

Ngày 6-11, sinh viên Sài gòn lại nhóm họp đả kích thành phần nội các và đòi xét lại toàn diện vấn đề và chỉnh đốn Thượng Hội đồng vì lý do có nhiều phần tử gây chia rẽ. (Có ý cho rằng chính phủ của "người Nam Kỳ").

Ngày 7-11, có nhiều tin đồn sinh viên và phật tử sẽ xuống đường phản đối chính phủ, cùng ngày này, trung tướng Dương Văn Minh được cử ra nước ngoài làm đặc phái viên của Quốc trưởng tại ngoại quốc. Ngày 9-11, Bộ Thông tin tuyên bố "Chính phủ không cải tổ, không từ chức".

Ngày 11-11, sinh viên Sài gòn tiếp tục hội thảo sôi nổi, tuyên bố không thể chờ đợi, phải hành động mạnh, không chịu một chính phủ chuyên viên già nua lại bị nhóm Tinh thần giật dây".

Ngày 13-11, Thủ tướng Trần Văn Hương trả lời mọi thắc mắc của Thượng Hội đồng và tuyên bố "Phải tái lập uy quyền quốc gia, tách rời chính trị khỏi Tôn giáo, đưa Tôn giáo ra khỏi chính trị”.

Ngày 16-11, sinh viên yết kiến Quốc trưởng Phan Khắc Sửu yêu cầu giải tán chính phủ Trần Văn Hương. Cùng ngày, Thượng Hội đồng quyết định lập một Uỷ ban điều tra về thành phần chính phủ.

Ngày 18-11, luật sư Lê Văn Thu được bầu làm Chủ tịch Thượng Hội đồng Quốc gia.

Ngày 20-11, văn phòng Thủ tướng cho biết 148 nhà trí thức, ký giả ủng hộ Chính phủ và Thủ tướng. Ngày 22-11, biểu tình lớn ở nhiều nơi với nhiều biểu ngữ đả kích Chính phủ Trần Văn Hương.

Ngày 23-11, vài nhật báo đăng những kiến nghị của một số đoàn thể gởi về ủng hộ chính phủ Trần Văn Hương.

Ngày 24-11, Thượng toạ Thích Tâm Châu gởi thư lên Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thượng Hội đồng yêu cầu có thái độ dứt khoát với cuộc khủng hoảng hiện tại Nhiều trường học bãi khoá. Cùng ngày này, hai tướng Dương Văn Minh và Nguyễn Khánh được thăng Đại tướng.

Ngày 25-1 1, học sinh trường Hồng Lạc Trần Quốc Toản bãi khoá phản đối biện pháp bắt bớ những người biểu tình. Cảnh sát tới bị ném đá, nhảy dù phải can thiệp. Buổi chiều nhiều đám người khác lại gia nhập lực lượng học sinh ném đá vào cảnh sát, quân đội lại phải can thiệp cho đến 9 giờ đêm mới giải tán: 85 người bị thương, 238 người bị bắt, cùng ngày này, các trường học lại bị đóng cửa cho đến khi có lệnh mới.

Ngày 27-11, Chính phủ ban hành lệnh thiết quân luật tại Sài gòn trong một tháng. Viện Hoá Đạo tuyên bố tạm thời đóng cửa ngưng hoạt động.

Ngày 28-11, Thủ tướng Trần Văn Hương tuyên bố " không lùi bước phải dùng mọi cách tái lập trật tự". Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ họp báo tuyên bố: "... cùng với nhiều đảng phái để thành!ập một Hội đồng dân tộc Cách mạng để cứu vãn tình thế".

Ngày 4-12, các tướng lĩnh họp tại Đà Lạt tuyên bố ủng hộ, một chánh phủ dân sự lành mạnh yêu nước không bị một áp lực nào, đồng thời bị thiết lập một hội đồng quân lực.

Ngày 8-12, Thủ tướng Trần Văn Hương phản đối sự chỉ định một Uỷ ban của Thượng Hội đồng để xét lại thành phần chính phủ.

Ngày 13-12, có tin Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết, các Thượng Toạ Trí Quang và Tâm Châu tuyệt thực 24 giờ.

Ngày 17-11, một số tướng lĩnh trẻ yết kiến Quốc trưởng và trình bày về việc cho một số tướng già về hưu. Ngày 18-11, "Hội đồng quân lực” được thành lập do một huấn lệnh của Tổng tư lệnh Nguyễn Khánh với mục đích “giúp đỡ Tổng tư lệnh với tư cách cố vấn và xoá bỏ mọi bất công để thực hiện một chính sách sử dụng nhân sự công bằng trong quân đội”. (Thành lập Hội đồng Quân lực, Khánh âm mưu sử dụng nó như một cơ quan tối cao đại diện quân đội về mặt chính trị).

Cùng ngày này, Bộ giáo dục ra một thông cáo đại ý cảnh cáo trường nào được mở cửa lại mà vẫn lộn xộn sẽ bị đóng hẳn. Đã có hơn 60 trường nộp đơn xin mở cửa lại.

Ngày 20-11, Hội đồng Quân lực ra thông cáo “không tín nhiệm Thượng Hội đồng quốc gia vì đã gây chia rẽ, đã mua chuộc một số tướng lĩnh, có óc bè phái", rồi tuyên bố giải tán Thượng Hội đồng. Sáu hội viên của Thượng Hội đồng, Tướng Đỗ Mậu và 14 chính khách, giáo sư, sinh viên bị bắt lên Kontum, Pleiku để quản thúc.

Cùng ngày này, tướng Khánh ra nhật lệnh tuyên bố: "Quân lực không thực hiện chính sách ngoại bang nào cả. Thà thanh bạch trong độc lập còn hơn là giàu sang mà tủi nhục trong nô lệ ngoại bang". Lưu ý rằng trong thời gian này, Hoa kỳ và đặc biệt đại sứ Taylor đã tỏ thái độ chống đối việc tướng Khánh và quân đội xen lẫn vào chính trị. Cả Hoa kỳ lẫn Anh và khối Công giáo tại Việt nam đều công khai ủng hộ Thủ tướng Trần Văn Hương.

Ngày 25-11, Đại tướng Khánh tuyên bố với báo New York Herald Tribune: "Tướng Taylor đã có những hành động không thể tưởng tượng được, ông muốn dùng áp lực đối với giới hữu trách Việt nam. Nếu ông không khéo xử thế thì Việt nam sẽ mất. Mỹ nên tính việc lớn với những ai có thực lực ở xứ này. Ông Taylor không thể buộc dân Việt nam phải chịu đựng những nhà lãnh đạo mà dán Việt nam không muốn". (Lời tuyên bố của tướng Khánh hàm ý chỉ có Hội đồng quân lực mới có thực lực, do đó chỉ có Khánh là xứng đáng là người lãnh đạo quốc gia).

Ngày 18-1-1965, sau nhiều âm mưa hậu trường và nhiều thoả hiệp chia ghế, chính phủ Trần Văn Hương tuy chưa bị lật đổ nhưng phải cải tổ lại với sự tham gia của bốn tướng là Nguyễn Văn Thiệu (Đệ nhị Phó thủ tướng), Trán Văn Minh (Minh nhỏ) Tổng trưởng Quân lực Linh Quang Viên (Tổng trưởng tâm lý chiến), Nguyễn Cao Kỳ (Tổng trưởng thanh niên thể thao). Tuy nhiên, từ ngày chính phủ Hương cải tổ thì khối Phật giáo lại hoạt động mãnh liệt hơn. Ngày 20, các thượng toạ Trí Quang, Tâm Châu, Pháp Trí, Thiện Hoa, Hộ Giác bắt đầu tuyệt thực trong lúc tăng ni Phật tử tiếp tục biểu tình. Ngày 22 họ kéo đến trước toà đại sứ Mỹ với biểu ngữ “Hãy để cho dân tộc Việt nam tự quyết”. Ngày 23, Thủ tướng Trần Văn Hương hiệu triệu quốc dân kêu gọi mọi người lãnh trước nhiệm với tình thế, tránh các vụ xách động rồi lên án "lũ lưu manh cạo đầu rồi mặc sắc phục tăng ni...” và gọi những hoạt động đấu tranh của Phật giáo là "những trò khỉ". Cùng ngày có những cuộc tụ tập trước Viện Hoá Đạo và một giáo sư khi thấy con gái mình trong đám biểu tình đã yêu cầu một đại tá đánh cho ba roi. Quân đội nhân dịp đó đánh luôn 69 cô khác, mỗi cô ba roi đuổi về.

Đêm 23 tại Huế, một đoàn biểu tình kéo tới phòng Thông tin Hoa kỳ ném đá và đốt cháy thư viện Mỹ với 5.000 cuốn sách. Phó lãnh sự Mỹ tới chữa cháy bị ném đá. Sinh viên đại học Huế đặt chướng ngại vật chặn các lối vào lớp học. Tại Nha Trang, 300 tăng ni tuyệt thực. Các cuộc biểu tình xáo trộn do Phật giáo, Hội đồng nhân dân cứu quốc và sinh viên gây ra vẫn tiếp diễn cho đến ngày 27 tháng giêng năm 1965 mới tạm thời lắng dịu.

Ngày 27-1- 1965, Hội đồng Quân lực tuyên cáo "Quân đội đã trả quyền từ ngày 27 tháng 10 cho phía dân sự nhưng tình thế mỗi ngày mỗi rối ren. Sau ba ngày thảo luận, Hội đồng Quân lực quyết định uỷ nhiệm tướng Nguyễn Khánh giải quyết cuộc khủng hoảng, triệu tập ngay một Hội đồng quân dân gồm 20 đại diện các tôn giáo, nhân sĩ, và quân lực.

Ngày 28-1, theo quyết định của Hội đồng Quân lực Quốc trưởng Phan Khắc Sửu được lưu nhiệm, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh được cử làm quyền Thủ tướng. (Hình như Thủ tướng Trần Văn Hương đã bị các tướng lĩnh đem đi cô lập ở Vũng Tàu).

Cùng ngày này, Thượng toạ Trí Quang họp báo cáo cho biết chỉ muốn đừng dung thứ những phần tử xấu thuộc chế độ cũ và đừng coi Phật giáo là Cộng sản. Phật giáo cũng không chống Mỹ nhưng Việt nam cũng không thể bị hiểu lầm (là tay sai của Mỹ).

Ngày 11-2-1965, Đức Giáo Hoàng Paul VI, vị Giáo Hoàng nổi tiếng thân Nga Xô và thân Hà Nội kêu gọi ngưng chiến ở Việt nam.

Ngày 14 tháng 2, Đại sứ Taylor tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn "Nhân dân Việt nam đã chán ngán vì bị tấn công mãi mà không được trả đũa. Không còn có thể coi Bắc Việt là sào huyệt an toàn nữa". Từ đó Mỹ bắt đầu ném bom Bắc Việt và soạn sửa đem quân vào miền Nam.

Ngày 16-2-1965, thừa uỷ nhiệm Hội đồng Quân lực, Đại tướng Nguyễn Khánh Tổng tư lệnh Quân đội VNCH ký quyết định tuyển nhiệm ông Phan Khắc Sửu là Quốc trưởng và bổ nhiệm ông Phan Huy Quát là Thủ tướng thành lập chính phủ mới. Trong nội các mới này, Công giáo có Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và bác sĩ Nguyễn Tăng Nguyên, Phật giáo có giáo sư Trần Quang Thuận và kỹ sư Ngô Trọng Anh.

Ngày 17-2, Hội đồng quân lực ra quyết định thiết lập Hội đồng Quốc gia Lập Pháp gồm 20 người đại diện đủ thành phần tôn giáo và sáu tướng tá. Chủ tịch bội đồng là tướng Phạm Xuân Chiểu.

Ngày 19-2-65, đại tá Phạm Ngọc Thảo (Công giáo) kéo một lực lượng bộ binh và chiến xa về Sài gòn chiếm đóng trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh và bến Bạch Đằng.

Theo tin đài phát thanh buổi chiều thì một số đoàn thể thuộc lực lượng bảo vệ dân tộc (Công giáo) nổi dậy chống tướng Nguyễn Khánh để thành lập một chánh quyền dân sự..

Các tướng lĩnh họp ở phi trường Tân Sơn Nhất, tướng Kỳ bay trên thủ đô quan sát tình hình và ra lệnh cho quân nổi dậy phải rút nếu không sẽ bị ném bom. Trong lúc đó thì đài phát thanh Ba Xuyên truyền lệnh của Đại tướng Khánh cho các binh sĩ bi lôi cuốn vào cuộc nổi dậy hãy trở về đơn vị. Tại Huế, lực lượng sinh viên học sinh lên án lực lượng bảo vệ dân tộc và những "phần tử Cần lao" trong cuộc nổi dậy của Phạm Ngọc Thảo.

Ngày 20 trên đài phát thanh Nha Trang, Thượng toạ Tâm Châu kêu gọi phật tử ủng hộ "Hội đồng quân lực Tướng Nguyễn Chánh Thi từ Huế vào Sài gòn đảm nhiệm chức Tư lệnh giải phóng thủ đô, ra lệnh cho đại tá Thảo và 13 sĩ quan khác phải trình diện trong 24 giờ, nhưng Thảo và một số sĩ quan cùng những nhân vật Công giáo đều đã trốn. Cùng ngày này, Hội đồng quân lực nhóm họp và quyết định thay thế đại tướng Nguyễn Khánh bằng tướng Trần Văn Minh trong chức vụ Tổng tư lệnh quân đội vì cho rằng Khánh âm mưu tạo ra xáo trộn để trở lại nắm chính quyền.

Ngày 21, tướng Nguyễn Chánh Thi ra thông báo nhấn mạnh đến ước vọng cách mạng của quân lực VNCH là dân chủ, công bằng và hoà bình. Hai tướng Kỳ và Thi bắt đầu kết hợp với nhau để chống Khánh. Ngày 22-2-65, tướng Khánh được bổ nhiệm chức đại sứ lưu động và trung tá Phạm Văn Liễu (bạn thân của các tướng Thiệu, Thi và Kỳ) được giừ chức vụ Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia.

Ngày 25-2-65, tướng Nguyễn Khánh được tặng đệ nhất hạng Kim Khánh rồi mang theo nắm đất rời khỏi Việt nam với lời hứa hẹn một ngày nào đó sẽ trở lại quê hương. Quân lực Việt nam cho đến ngày hôm đó có bốn vị đại tướng, một ông chết và ba ông ra đi, dù ra đi với chức đại sứ, mà sự thật đã bị nhóm tướng trẻ đuổi ra khỏi Việt nam. Việc tướng Khánh ra đi đã đặt quân lực VNCH hoàn toàn nằm trong tay nhóm tướng trẻ Young Turk sau khi các "tướng già" còn lại như Trần Văn Minh, Phạm Xuân Chiểu, Linh Quang Viên, Phạm Văn Đống... là chỉ để cho các tướng trẻ điều động đặt đâu ngồi đó, việc quốc gia đại sự, việc lãnh đạo chiến tranh này hoàn toàn nằm trong tay các tướng trẻ, đặc biệt là hai tướng Thiệu và Kỳ.

Ngày 27-2, giữa Sài gòn, một số người nhân danh "Phong trào bảo vệ hoà bình" (thân Cộng) rải truyền đơn kiến nghị tuyên truyền về vấn đề hoà bình tại Việt nam. (Thượng toạ Thích Quang Liên có chân trong phong trào này).

Ngày 3-3-65, Hội đồng quân lực công bố thành phần Uỷ ban Thường vụ: Tổng thư ký, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu; Uy viên Ngoại giao, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ; Uỷ viên Chính trị, Thiếu tướng Linh Quang Viên; Uỷ viên An ninh, Thiếu tướng Phạm Văn Đống; Phụ tá Tổng thư ký, Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao. Cùng ngày này, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ công bố một bức tâm thư gởi đồng bào và chiến hữu, phân tích hiện tình đất nước, nhắc lại nỗi thống khổ và thất vọng của dân tộc suốt thời kỳ Pháp thuộc và suốt mười năm dưới chế độ Ngô Đình Diệm. Bức thư cho biết quân lực sẽ chủ trương thực hiện cuộc cách mạng toàn diện trên mọi lãnh vực.

Ngày 8-3-65, 1.500 thuỷ quân lục chiến Mỹ đầu tiên tới Đà Nẵng. Cũng cần nhắc lại rằng dưới chế độ Diệm, tổng số quân Mỹ tại Việt nam là 17.000 người, 14 tháng sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, quân số Mỹ tại Việt nam là 23.000 người.

Ngày 23-3-65, Hội đồng quốc gia Lập pháp ra tuyên ngôn tán thành việc Mỹ gởi thuỷ quân lục chiến sang tham chiến tại Việt nam. Nếu "dưới chế độ Diệm, khi Tổng thống Kennedy quyết định gởi 12.000 lính Mỹ tới Nam Việt nam chắc chắn đã tạo được ảnh hưởng tốt đối với tinh thần người dân và người lính miền Nam, không phải theo nghĩa hoàn toàn trông mong người Mỹ đánh giặc hộ mà là theo nghĩa nhìn thấy dấu vết cụ thể sự quyết tâm của Mỹ trong lời cam kết giúp Nam Việt nam", thì năm 1965, khi Mỹ bắt đầu gởi Thuỷ quân lục chiến vào Nam Việt nam và ném bom Bắc Việt, người quốc gia chống cộng chẳng những trông thấy quyết tâm của Mỹ trong việc giúp miền Nam mà còn nuôi rất nhiều niềm tin rằng Bắc Việt sẽ bị sụp đổ để đưa lại chiến thắng cuối cùng cho VNCH. Vì thế cả chính phủ Việt nam, cả Hội đồng quốc gia lập pháp, và quân đội VNCH đã hoan hỷ chào mừng quyết tâm của Tổng thống Johnson trong việc leo thang chiến tranh.

Cùng ngày 23, Hội đông chính phủ quyết định chia 160 triệu bạc tịch thu được của họ Ngô cho đồng bào, học sinh và gia đình binh sĩ nghèo, ngoài ra còn bán đấu giá các bất động sản và xí nghiệp cùng trái. khoán tịch thu của nhà Ngô.

Ngày 11-3-65, Viện Hoá Đạo ra thông cáo: “Phong trào tranh thủ hoà bình" của Thượng toạ Quảng Liên không liên quan gì đến Phật giáo cả... phong trào do Thượng toạ thành lập với tư cách cá nhân. Bộ nội vụ công bố danh dách 358 người đã kiến nghị của "Uỷ ban vận động hoà bình" trong đó có 24 sinh viên, 7? học sinh, 78 lao động, 67 người buôn bán, 22 công chức, 20 giáo viên, 11 ký giả, 5 kỹ sư, 5 bác sĩ, dược sĩ, 3 luật sư Cùng ngày này, Hà Minh Trí, cán bộ Cao Đài, người ám sát hụt Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1957 được thả tự do. (Hà Minh Trí bị giam lâu ngày mà không chịu khai toàn bộ tổ chức ám sát của Cao Đài). Ngày 17-3-65, Thượng toạ Quảng Liên từ chức Chủ tịch phong trào bảo vệ hoà bình.

Ngày 2-4-65, ni cô Thích Huệ Thiện tẩm xăng vào người toan tự thiêu tại chùa Từ Vân Gia định vì thấy những sự đau khổ do chiến tranh gây ra nhưng các Phật tử đã kịp thời cứu được.

Ngày 8-4, tại Vỏ Xu, Bình Tuy, Việt cộng lại bắt đi Đại Đức Thích Bảo Huệ và một số phật tử.

Ngày 12-4, lễ giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức vô cùng trọng thể tại sân vận động Cộng hoà, rất đông nhân sĩ, trí thức, đảng phái, sinh viên tham dự. Ngày 20-4, Sa di Thích Gia Thanh tự thiêu sau Viện Hoá Đạo vì thấy cảnh tang tóc và chiến tranh. Ngày 4-5, Hội đồng chính phủ Phan Huy Quát quyết định chấm dứt chương trình phát thanh của phái bộ Văn hoá Pháp tại Việt nam vì đại diện Pháp tại SEATO đã có thái độ bất thân thiện với Việt nam, đồng thời trục xuất thông tin viên Ageorges của Pháp tấn xã.

Ngày 5-5, Hội đồng quân lực tuyên bố tự giải tán để các tướng lĩnh trở về địa vị quân sự thuần tuý. Ngày 21-5, Phủ thủ tướng thông cáo rằng cơ quan an ninh đã bắt được 17 quân nhân và 12 dân sự âm mưu đảo chính ngày hôm qua. Những quân nhân trên đây cũng đã từng liên can đến vụ biểu dương lực lượng của Phạm Ngọc Thảo ngày 19-2. Một sĩ quan trong nhóm bị bắt tử thương. (Nhóm này thuộc ảnh hưởng Công giáo).

Ngày 25-5, Thủ tướng phan Huy Quát cải tổ chính phủ. Giữa buổi trình diễn, quốc trưởng Phan Khắc Sửu cho biết không thể ký bổ nhiệm các ông Nguyễn Văn Thoàn và Nguyễn Trung Trinh vì lẽ các ông Nguyễn Hoà Hiệp và Nguyễn Văn Vinh không từ chức.

Cũng ngày này, Thượng toạ Thích Quảng Liên, nguyên Chủ tịch phong trào báo vệ hoà bình, sau cuộc du hành tại Nhật về tới Tân Sơn Nhất được Bộ nội vụ yêu cầu đừng về nước vì có thể bị lợi dụng nên ông phải đáp phi cơ đi thẳng đến Thái Lan và ở luôn tại đó.

Ngày 26-5, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát bày tỏ những bất đồng quan điểm về quyền hạn thay thế bộ trưởng.

Ngày 27-5, một phái đoàn đại diện lực lượng đại đoàn kết Công giáo do Linh mục Hoàng Quỳnh hướng dẫn đã yết kiến Quốc trưởng cùng Hội đồng quốc gia lập pháp, đưa kiến nghị không tín nhiệm Thủ tướng Phan Huy Quát và yêu cầu chỉ định Thủ tướng khác. Lý do viện dẫn: chính phủ Quát gây chia rẽ, không chống cộng hữu hiệu và thân Pháp.

Ngày 1-6-65, trong lúc cuộc khủng hoảng về việc cải tổ nội các chưa giải quyết thì linh mục Hồ Văn Vui hướng dẫn 60 đại diện của Mặt trận Công giáo Việt nam đến yết kiến Quốc trưởng cùng Hội đồng quốc gia lập pháp đưa kiến nghị tương tự như kiến nghị của Linh mục Hoàng Quỳnh yêu cầu giải tán chính phủ Phan Huy Quát.

Từ ngày 2-6-65, một số linh mục, chính khách thuộc các tôn giáo và đảng phái gởi kiến nghị lên quốc trưởng bất tín nhiệm Thủ tướng Phan Huy Quát. Ngày 3-6, Thủ tướng Phan Huy Quát họp cùng một số tướng lĩnh để thảo luận về việc khủng hoảng nội các và sau đó cùng các tướng lĩnh sang yết kiến Quốc trưởng Phan Khắc Sửu. Trong lúc đó một số nhân vật khác lại nhân danh các đoàn thể (11 đoàn thể ) gởi kiến nghị lên Quốc trưởng và Hội đồng quốc gia lập pháp chống chia rẽ và tín nhiệm Thủ tướng Phan Huy Quát. Theo tin UPI thì chính phủ Hoa kỳ vẫn tín nhiệm chính phủ Phan Huy Quát.

Ngày 4-6, nhiều truyền đơn chống chính phủ Quát được tung ra trên nhiều ngả đường.

Đêm mồng 5-6, vài trăm người (Công giáo) chống đối chính phủ Quát tụ họp trên đường Trương Minh Giảng, Trương Minh Ký, Gia định. Họ đốt một xe hơi, hành hung 5 và gây thương tích cho hai cảnh sát viên.

Ngày 7-6, 200 cụ già thuộc các đoàn thể công giáo tới dinh Gia Long yết kiến Quốc trưởng cùng Chủ tịch Hội đồng quốc gia lập pháp, yêu cầu giải quyết gấp cuộc khủng hoảng rồi ngồi lại trong Dinh từ 16 đến 22 giờ mới chịu ra về.

Ngày 8-6, hơn 100 thanh niên, sinh viên, học sinh thuộc các đoàn thể thanh niên Đại đoàn kết và sinh viên học sinh Tự dân (Công giáo) tới dinh Gia Long yêu cầu giải quyết cuộc khủng hoảng và cũng ở lại đó từ 10 giờ đến 16 giờ mới về. Trong lúc đó, lực lượng Đại đoàn kết (Công giáo) tổ chức họp báo tại Gia định xác nhận lập trường chống đối chính phủ Phan Huy Quát của khối Công giáo.

Ngày 9-6, Thủ tướng Phan Huy Quát họp báo giải thích về cuộc khủng hoảng. Ông thuật lại các nỗ lực hoà giải của ông mà vẫn không thành, trình bày chi tiết về mưa âm đảo chính đêm 20-6-65 (của phe Công giáo) và âm mưu lập chính phủ liên hiệp trung lập của phe "Hoà bình", đồng thời ông cũng trả lời các luận điệu chỉ trích rồi kết luận rằng ông yêu cầu quân đội đứng ra lãnh vai trò trung gian để giữ thế quân bình cho đến khi có một chính quyền dân cử.

Ngày 10-6, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ kêu gọi chiến sĩ không quân giữ bình tĩnh sau vụ hiểu lầm ở Tân Mai (thanh niên Công giáo đi biểu tình rồi xô xát với binh sĩ không quân tại Biên Hoà).

Ngày 11-6, các tướng lĩnh nhóm họp tại Sài gòn để xét thư cửa Thủ tướng Quát yêu cầu quân đội làm trung gian điều giải về vụ khủng hoảng nội các. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố: cuộc khủng hoảng không do lỗi chính phủ mà do sự thiếu sót của hiến chương ngày 16-8-65.

Cùng ngày này, Quốc trưởng, Thủ tướng và Hội đồng quốc gia lập pháp đều ra tuyên cáo xác định rằng những cơ cấu và thể chế quốc gia hiện tại không còn phù hợp với tình thế nữa nên giao trả cho quân đội trách nhiệm và quyền lãnh đạo quốc gia và Hội đồng quân lực chấp nhận đơn từ chức của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát.

Ngày 14-6-65, Hội đồng quân lực thành lập Uỷ ban lãnh đạo quốc gia do Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Chủ tịch (Quốc trưởng). Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ giữ chức vụ Chủ tịch Uỷ ban hành pháp trung ương (Thủ tướng) và Trung tướng Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tổng thư ký.

Cùng ngày này, Ni cô Quảng Liên Diệu Tịnh, 22 tuổi, tự thiêu để cúng dường Tam Bảo tại chùa Linh Sơn, tỉnh Ninh Thuận.

Ngày 16-6, Toà án quân sự Mặt trận tại Nha Trang tuyên phạt tù từ 2 đến 16 năm khổ sai 18 người đã tham gia Hội đồng nhân dân cứu quốc miền Trung và liên quan đến các vụ khủng bố, hành hung hồi tháng 9-64 tại tỉnh Bình Định.

Ngày 19-6, một ước pháp mới được ra đời gồm 7 thiên 25 điều thiết lập đại hội đồng quân lực VNCH, Uỷ ban lãnh đạo quốc gia, Hội đồng kinh tế và xã hội Thượng hội đồng thẩm phán. Các tướng Thiệu, Kỳ, Chiểu được xác nhận là thành viên của Uỷ ban lãnh đạo quốc gia, còn Hội đồng quốc gia lập pháp cũ giải tán. Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ ra đời với nhiều nhân vật dân sự tên tuổi như bác sĩ Trần Văn Đỗ (Tổng Uỷ viên ngoại giao), luật sư Lữ Văn Vi (Tổng Uỷ viên tư pháp), giáo sư Trần Ngọc Ninh (Tổng Uỷ viên giáo dục), thẩm phán Trần Minh Tiết (Bộ trưởng Nội vụ)...

Từ sau khi tướng Nguyễn Khánh và các tướng lĩnh đưa ra hiến chương Vũng Tàu vào tháng Tám năm 1964 tạo nên bao nhiêu xáo trộn, vì ý nguyện của toàn dân, của các tôn giáo, đảng phái, sinh viên và cả Hoa kỳ là muốn miền Nam có một chính phủ dân sự bền vững để quân đội trở về với nhiệm vụ quân sự thuần tuý. Tiếc thay hai chính phủ dân sự Trần Văn Hương và Phan Huy Quát đã ra đời trong một tình trạng khó khăn với những cuộc xáo trộn, tranh chấp, biểu tình do quân đội, sinh viên, Phật giáo, công giáo gây ra để rồi cuối cùng quân đội trở lại cầm quyền. Sự bất đồng ý kiến giữa Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát về việc thay đổi hai vị Bộ trưởng đã có thể giải quyết dễ dàng nếu khối Công giáo không cố tình trầm trọng hoá vấn đề mà mục tiêu thật sự đã lật đổ chính phủ Quát vì họ cho rằng chính phủ này thân Phật giáo.

Như vậy từ sau khi chính phủ Quát và Quốc trưởng Phan Khắc Sửu rút lui, chính quyền miền Nam lại trở về tay các tướng lĩnh. Câu tuyên bố quân đội là cha quốc gia của tướng Nguyễn Khánh tuy trắng trợn nhưng thật là thấm thía. Tôn giáo, đảng phái, chính khách, trí thức, sinh viên... cuối cùng chỉ như những hình nộm quay cuồng quanh ngọn lửa nồng của chiếc đèn kéo quân mà thôi.

***

Những gì tôi vừa trình bày trên đây có thể xem như là giai đoạn một của ba năm xáo trộn, giai đoạn kể từ khi nhóm tướng Nguyễn Khánh làm cuộc chỉnh lý (30-l-65) cho đến ngày Uỷ ban lãnh đạo quốc gia ra đời (6-65).

Từ cách mạng 1-11-63 cho đến ngày mai hai tướng Thiệu - Kỳ lên cầm quyền trong khoảng thời gian gần 20 tháng, miền Nam Việt nam đã phải trải qua 6 chính phủ: Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương, Nguyễn Xuân Oánh (chính phủ nhiệm 5 ngày), Phan Huy Quát và Nguyễn Cao Kỳ.

Tôi muốn kể chi tiết và những biến động theo thứ tự thời gian với ước mong những nhà viết sử tương lai nhìn rõ thực trạng đất nước để phân tách công tội của những thành phần đã tạo nên xáo trộn mà chính yếu trong đó là: Phật giáo, công giáo, tướng tá, sinh viên, và đảng Đại Việt của các ông Nguyễn Tôn Hoàn và Hà Thúc Ký.

Tuy tất cả thành phần trên đều gây ra xáo trộn nhưng thật ra thì sinh viên, quân đội và đảng Đại Việt đều bị chi phối, bị lợi dụng bởi hai tôn giáo là Công giáo và Phật giáo trong chủ trương tranh chấp của họ. Sinh viên dựa vào công trạng chống chế độ Diệm năm 1963 nay gặp phải tình hình hỗn loạn nên muốn chứng tỏ thế hệ trẻ phải được tham dự vào việc nước. Nhưng vì chỉ là một lực lượng ô hợp nên sinh viên đã trở thành công cụ cho các tôn giáo và đảng phái lợi dụng mà thôi. Hành động nổi bật nhất của sinh viên là vụ chống đối “hiến chương Vũng Tàu" và buộc tướng Khánh phải từ chức, nhưng sau biến cố đó rồi thì sinh viên cũng không giúp ổn định được tình hình mà chỉ lên đường, xuống đường làm bung xung múa rối, trong lúc nội bộ lại phân hoá.

Các tướng tá thì bản chất vốn đã võ biền, lại thấy đảo chính và chỉnh lý quá dễ dàng vì chỉ dựa vào võ lực vào tình hình chiến tranh mà quân đội đang là lực lượng chống cộng chính yếu nên đã hành xử một cách hỗn loạn để nắm quyền hành và giành địa vị. Sự bất lực của các tôn giáo, đảng phái và thành phần trí thức lại đã thúc giục thêm tham vọng của các tướng tá.

Đảng Đại Việt mang tham vọng nắm chính quyền, cái tham vọng chính đáng và cần thiết của mọi đảng chính trị, nhưng thực lực còn quá yếu, lại còn phân hoá nội bộ cho nên không thể là địch thủ của các tôn giáo và quân đội trong cuộc tranh chấp quyền lực chính trị nên cuối cùng đành phải bị tan biến trong cơn lốc của một chính trường rối rắm hỗn loạn.

Vê phần lực lượng Công giáo, với bản chất hiếu động và quá trình gắn bó với mọi quyền lực, lại bị mất quyền lợi do cuộc lật đổ chế độ Diệm gây ra, bị toàn dân lên án là "Cần lao", là "tay sai của chế độ Diệm” nên căm thù Phật giáo và nhóm tướng lĩnh trong Hội đồng quân nhân cách mạng cũ do đó họ cần phải tích cực biểu dương sức mạnh bằng những cuộc biểu tình quá khích để phục hồi danh dự và để trả mối hận thù cho chủ cũ.

Chỉ đáng tiếc và đáng trách cho Phật giáo Việt nam cũng đã là nguyên nhân tạo ra tình trạng hỗn loạn mà trước hết tôi muốn nêu lên một vài bí ẩn trong giai đoạn xáo trộn này.

Bí ẩn thứ nhất là vụ chống đối Thủ tướng Trần Văn Hương vào tháng 10 năm 1964. Vụ biểu tình chống đối Thủ tướng Trần Văn Hương là hoàn toàn do Phật tử của Thượng toạ Tâm Châu mà lúc này tuy Thượng toạ Tâm Châu và các Thượng toạ Trí Quang, Thiện Hoa chưa công khai mâu thuẫn nhưng đã có những rạn nứt âm thầm trong nội bộ mà Thủ tướng Trần Văn Hương không được biết.

Nguyên khi thành lập chính phủ, cụ Hương có mời riêng Thượng toạ Tâm Châu đến họp bàn về thành phần chính phủ tại nhà một thương gia tên là Nguyễn Hữu ở Gia định. Hai bên đã bất đồng ý kiến vì Thượng toạ Tâm Châu cho rằng một số nhân vật được Thủ tướng Hương mời không xứng đáng làm bộ trưởng (sau này báo chí có chỉ trích thành phần chính phủ Hương, để trả lời cụ Hương đã tuyên bố: đi chợ không có tôm tươi cá tươi thì phải mua tôm ươn cá ươn vậy). Nghe nói Thượng toạ đòi cho Phật giáo bốn bộ mà cụ Hương chỉ bằng lòng dành cho người của Thượng toạ hai bộ mà thôi.

Thấy Thượng toạ bất mãn, một nhóm phật tử Bắc di cư cầm đầu bởi hai chuyên viên xách động Sài gòn là Khanh (người Bắc) và Nguyễn Đức Mão (người Vinh) tổ chức biểu tình để chống Thủ tướng Hương. Khanh nguyên là cộng sự viên của Hà Đức Minh, Uỷ viên Trung ương đảng Cần lao, còn Mão người thấp, mặt đen và rỗ (biệt hiệu là Hùm Xám, thời Nguyễn Văn Thiệu, Mão làm chủ nhiệm nhật báo Tranh đấu một thời gian và thường phải trốn tránh vì bị công an lùng bắt vì chống Thiệu). Cuộc biểu tình chống Thủ tướng Hương xuất phát từ Viện Hoá Đạo ở đường Trần Quốc Toàn, nhưng vì cụ Hương không biết rõ nội tình của Phật giáo, không biết xuất xứ các cuộc biểu tình nên cụ đã có lời tuyên bố khiếm nhã đối với Phật giáo như: bọn trọc đầu, làm trò khỉ. Lời tuyên bố "vơ đũa cả nắm” đó đã làm cho toàn khối Phật giáo bất mãn, cụ Hương còn tuyên bố thêm: "Tôi không thể để cho tụi con nít làm loạn. Chính trị và học đường cần phải tách rời, cũng như chính trị và tôn giáo không thể đi đôi với nhau được Tôi không thể để cho những tên học trò ỉa bậy, đái bậy”. Vì lời tuyên bố đó mà Thượng toạ Thiện Minh (dù đã có những lời bất đồng ý kiến với Thượng toạ Tâm Châu) đã phải trả lời: Nếu cụ muốn cho các em học sinh không ỉa bậy, đái bậy thì ít nhất cụ phải làm cầu tiêu cho chúng trước đã. Và cũng từ đó khối phật tử thuộc Thượng toạ Trí Quang, Thiện Minh nhập cuộc trong cuộc đấu tranh chống Thủ tướng Trần Văn Hương.

Trong giai đoạn này có hai điểm đáng lưu ý là tuy chính phủ Trần Văn Hương là một chính phủ dân sự nhưng vai trò và quyền lực của các tướng lĩnh trong chính sách quốc gia vẫn giữ ưu thế. Ngoài ra, những mầm mống mâu thuẫn về sách lược giữa hai khối Phật giáo (Tâm Châu và Trí Quang) đã bắt đầu thành hình: khuynh hướng Thượng toạ Tâm Châu nhằm đấu tranh hoà hoãn trong chiều hướng có thể hợp tác với chính quyền, còn khuynh hướng của hai Thượng toạ Trí Quang, Thiện Minh thì quyết đấu tranh triệt để thực hiện một cuộc cách mạng toàn diện, đặc biệt là phải triệt hạ nhóm Cần lao.

Khối Công giáo, phần thì tiếc Thủ tướng Hương (người đã nặng lời đả kích Phật giáo) phải rút lui, phần thì nghi ngờ Thủ tướng Phan Huy Quát được Phật giáo ủng hộ, đã lợi dụng tình trạng tranh chấp giữa Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát để liên tiếp tổ chức nhiều cuộc biểu tình, bám sát dinh quốc trưởng và vận động một số chính khách đối lập với Thủ tướng Quát ra tuyên ngôn, kiến nghị quyết định lật đổ Thủ tướng Quát cho được. Cuộc biểu tình lực lượng của Phạm Ngọc Thảo và lực lượng bảo vệ dân tộc (Công giáo) ngày 19-2-1965 cùng âm mưu đảo chính đêm 20-5-65 do đại tá Bùi Dinh và một số nhân vật Công giáo cầm đầu, đều có mục đích lật đổ Thủ tướng Quát để khối Công giáo có thể nắm ưu thế chính trị mà lên cầm quyền.

Nhân vật quan trọng trong âm mưu lật đổ Thủ tướng Quát là linh mục Hoàng Quỳnh, vốn là vị chỉ huy đội dân vệ Phát Diệm trước khi đất nước chia đôi (1954). Vào thời chiến tranh Pháp - Việt, người Công giáo miền Bắc thường có áp lực đối với chế độ Bảo Đại để tranh giành quyền lợi như Jean Lacouture đã mô tả trong "Le Vietnam En tre Duex Paix" mà tôi đã đề cập đến trong một chương trước đây. Nhưng khi ông Nguyễn Hữu Trí, một lãnh tụ Đại Việt miền Bắc làm Thủ hiến Bắc Việt, và ông Phan Huy Quát, một đồng chí của ông Trí làm bộ trưởng quốc phòng, thì hai nhân vật này thường đối phó cứng rắn và không thoả mãn hết những đòi hỏi của giáo phận Bùi Chu Phát Diệm. Từ những ân oán quá khứ đó, nay lợi dụng cơ hội rối loạn thuận tiện, Linh mục Hoàng Quỳnh bèn tìm mọi phương cách triệt hại cho được Thủ tướng Phan Huy Quát.

Giai đoạn này đánh dấu sự trỗi dậy của lực lượng Công giáo dưới hình thức các cuộc đấu tranh chính trị. Trong quá khứ những ưa thế của khối này trên mặt xã hội, kinh tế, tài chánh... thật ra chỉ là kết quả tất nhiên của ưu thế chính trị với một gia đình Công giáo toàn quyền lãnh đạo quốc gia; cho nên khi trở lại chính trường miền Nam trong một khung cảnh mới, họ cũng đánh vào mặt trận quan yếu nhất là mặt trận chính trị, nhất là mặt trận đó đã được nhân cách hoá bằng vị Thủ tướng Phan Huy Quát mà họ cho là có khuynh hướng thân Phật giáo. Bí ẩn thứ hai là thái độ của Thượng toạ Trí Quang trước cuộc chỉnh lý của nhóm tướng Nguyễn Khánh.

Sau khi chiến thắng chế độ Diệm, sinh lực của Phật giáo chưa được phục hồi cho nên các cấp lãnh đạo chưa có sách lược chính trị nào ngoài việc lo củng cố nội bộ, lo việc thống nhất Giáo hội, thiết lập các cơ cấu lãnh đạo như Viện Tăng Thống, Viện Hoá Đạo, và gấp rút nhất là việc xây dựng hiến chương, qui chế cho Giáo hội, vì thế dù chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ gồm phần đông là tay chân cũ của chế độ Diệm, Thượng toạ Trí Quang đổi mới sau một năm trời đất nước rối ren (1963), tướng Dương Văn Minh và Hội đồng quân nhân cách mạng còn gặp rất nhiều khó khăn, nhiều vấn đề cần phải đối phó.

Nhưng sau khi tướng Khánh chỉnh lý, thấy đảng Đại Việt và người Mỹ âm mưu đưa ông Nguyễn Tôn Hoàn là một nhân vật Công giáo từ Pháp về nắm chức Thủ tướng và thấy uy thế Công giáo đang được phục hồi mà thể hiện trắng trợn đầu tiên là việc giết thiếu tá Nhung, thì một mặt ông bí mật yểm trợ cho tướng Khánh giành lấy chức Thủ tướng, một mặt để cho báo Lập Trường và Hội đồng Nhân dân cứu quốc ra đời làm phương tiện đối phó với tình thế mới. Thật ra thì ông Nguyễn Ngọc Huy, những phật tử thuần thành mới là người lãnh đạo đảng Đại Việt. Đảng Đại Việt lại cũng đã cùng với Phật giáo trong cuộc đấu tranh chống Diệm năm 1963. Nhưng thái độ quá khích và kỳ thị của hội đồng nhân dân cứu quốc, cộng thêm lập trường chống ông Nguyễn Tôn Hoàn của Thượng toạ Trí Quang đã tạo ra xích mích và đối lập giữa Phật giáo và Đại Việt. Và cũng vì chống việc trỗi dậy của Cần lao công giáo mà thể hiện là nhiều tướng lĩnh chế độ cũ nắm những địa vị then chốt chung quanh tướng Khánh, nên Hội đồng Nhân dân cứu quốc và sinh viên Huế mới truất phế Linh mục Cao Văn Luận viện trưởng Viện Đại học dù chỉ trước đó độ một tháng họ đã đón rước linh mục trọng thể vì linh mục đã từng đứng về phe Phật giáo và sinh viên trong biến cố Phật giáo chống lại hai ông Thục - Diệm.

Có thể nói một cách chắc chắn rằng chủ trương chống đối Công giáo Cần lao phục hồi là chủ trương chung của tất cả tôn giáo, đảng phái và sinh viên, báo chí, chứ không riêng gì của Thượng toạ Trí Quang, của sinh viên Huế, hay của "Hội đồng nhân dân cứu quốc”. Tiếc thay những sai lầm lãnh đạo của cấp lãnh đạo Phật giáo và thái độ quá khích, manh động của Hội đồng Nhân dân cứu quốc và sinh viên Huế đã làm cho Phật giáo thất bại trong giai đoạn xáo trộn thứ nhứt, giai đoạn từ khi Khánh chỉnh lý cho đến khi Thiệu - Kỳ thành lập Uỷ ban lãnh đạo quốc gia.

Trước hết là vì Thượng toạ Trí Quang không nắm vững việc lãnh đạo nhóm đấu tranh để cho họ trở thành một lực lượng ô hợp, thiếu lãnh đạo nhất là lãnh đạo để đấu tranh cách mạng. Hai và vì danh từ "cứu quốc" làm cho những người quốc gia liên tưởng đến những đoàn thể "cứu quốc" của Cộng sản, từ đó người ta nghi ngờ “Hội đồng nhân dân cứu quốc là khí cụ nguỵ trang của cộng sản.

Những khẩu hiệu "Chống Mỹ" do Hội đồng và tờ Lập trường nêu lên lại càng làm cho người quốc gia lo sợ nhất là trong tình trạng chiến tranh Quốc - Cộng đang mỗi ngày một gia tăng.

Cuộc xuống đường của khối Phật giáo Tâm Châu tại Sài gòn chống lại Thủ tướng Trần Văn Hương, một nhân vật được đa số trí thức, đảng phái, nhất là người Nam Kỳ coi như thế là kẻ sĩ tạo thêm nỗi bất mãn cho nhân dân.

Những rối rắm xáo trộn do Công giáo, Phật giáo, Sinh viên gây ra tại thủ đô cũng như các cuộc đảo chính, chỉnh lý, biểu dương lực lượng của quân đội làm cho nhân dân vô cùng chán nản, cho nên hành động có tính cách phá rối của Hội đồng nhân dân cứu quốc tại Huế và miền Trung chỉ làm nhân dân thêm bất bình chán ghét mà thôi.

Tinh thần "độc tôn cách mạng” của Hội đồng nhân dân cứu quốc và hành động kỳ thị đối với hai đảng Đại Việt và Việt Quốc ở miền Trung càng đốt thêm ngọn lửa chia rẽ giữa Phật giáo và các đoàn thể trên, đóng góp thêm vào sự sứt mẻ uy tín của Phật giáo. Cũng vì thiếu lãnh đạo, lại hoạt động có tính cách phá rối cho nên nhiều phần tử của Hội đồng nhân dân cứu quốc ở Qui Nhơn, Phan Thiết bị chính quyền đưa ra toà mà lực lượng đấu tranh không dám can thiệp, phản ứng. Thảm bại hơn nữa là việc ông chủ tịch Hội đồng nhân dân cứu quốc, bác sĩ Lê Khắc Quyết bị tướng lĩnh bắt lên Pleiku an trí (20-12-1964) trong ba tháng trời càng làm mất thể giá của Hội đồng do ông ta lãnh đạo

Dù sao thì giai đoạn xáo trộn trên đây là điều không tránh khỏi cho bất kỳ một quốc gia nào sau khi một chế độ độc tài, bằng cách này hay cách khác bị chấm dứt. Các chế độ độc tài, một khi không còn nữa là để lại một khoảng trống chính trị của miền Nam Việt nam sau khi chế độ Diệm bị lật đổ càng tác hại to lớn hơn vì suốt chín năm nhà Ngô cai trị tất cả tôn giáo, đảng phái bị tiêu diệt hay bị vô hiệu hoá. Xáo trộn càng trầm trọng hơn nữa khi nhà Ngô và công giáo suốt chín năm trời giành lấy độc quyền chống cộng mà lại bất lực để cho Việt cộng nắm lấy ưu thế tại miền Nam. Đã đành là váy, nhưng sự thất bại của Thượng toạ Trí Quang và Phật giáo qua gần hai năm xáo trộn trên đây không phải là điều không đáng phê phán.

Thượng toạ Trí Quang là một tăng sĩ, mà như một nhân viên toà đại sứ Mỹ tại Sài gòn trình bày cho đại sứ Lodge là một người Việt nam trước khi là một nhà sư như các ký giả Mỹ đã biết, là một "lãnh tụ Phật giáo chống cộng theo đường hướng của Phật giáo”. Nhưng các lực lượng do ông điều động - Hội đồng nhân dân cứu quốc và sinh viên Huế, "những kẻ bụng đầy chủ nghĩa nhưng lại thiếu ý thức chính trị, chủ quan và vọng động, xuẩn động” - đã làm cho ông thất bại. Vì vậy khác với cuộc đấu tranh hào hùng năm 1963, chính nghĩa đấu tranh chống lại sự phục hồi uy thế Công giáo Cần lao của ông trong năm 1964-1965 đã bị hiểu lầm, bị xuyên tạc và đưa đến sự thất bại trong năm 1966.

***

Khi các tướng Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên... chỉnh lý cuối tháng giêng năm 1964 thì tôi đang là Uỷ viên chính trị của Hội đồng quân nhân cách mạng cũ và đang giữ chức bộ trưởng bộ thông tin của chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ. Độ một tuần lễ trước cuộc chỉnh lý, Khánh từ Quân đoàn II về Sài gòn ghé lại thăm tôi tại nhà riêng với thái độ rất thân mật, nhưng tuyệt nhiên không đề cập đến chính trị. Việc Khánh đến thăm tôi là một hành động rất lạ vì trước kia tuy Khánh và tôi có gặp gỡ, giao thiệp vì công vụ, nhưng trong suốt thời gian dưới chế độ Diệm, Khánh chỉ đến nhà tôi có một lần nhân bứa tiệc tôi thết đãi một số bộ trưởng, thân hữu, và ông chủ tịch Quốc hội Phạm Văn Nhu vốn là thầy học cũ của tôi và quen thân với nhạc gia tôi lúc ông làm huấn đạo tại phủ tôi. Sau này, khi Khánh chỉnh lý tôi mới hiểu hành động xã giao đó là để lôi kéo, mua chuộc tôi về phía Khánh và Khánh tưởng lầm tôi là một nhân sĩ quan trọng của Phật giáo, cho tôi là người có ý thức chính trị hơn phần đông các tướng lĩnh khác, người có uy tín vì đã gác tình riêng để tham gia Cách mạng 1-11-1963.

Sau khi chỉnh lý vài hôm, Khánh yêu cầu tôi giữ chức Phó Thủ tướng đặc trách văn hoá xã hội, phối hợp các bộ Giáo dục, Y tế, Xã hội và Lao động. Tôi thành thật cảm ơn Khánh nhưng nhất định từ chối vì tự nghĩ là người có học hành ít ỏi, lại không có bằng cấp cao trong một cái xã hội còn nặng tinh thần khoa bảng. Khánh tha thiết nói:

"Anh tưởng tôi không biết trình độ văn hoá của anh hay sao? Trước khi nói chuyện với anh tôi đã nghĩ kỹ. Trong giai đoạn khó khăn phức tạp này, phải có một vị tướng lĩnh mới có thể ổn định được kỷ luật học đường. Vì nếu cứ để học sinh, sinh viên gây xáo trộn quân nhân làm loạn trường thi, đánh đập giám khảo, thì làm sao nền văn hoá giáo dục nước nhà có thể phát huy tốt đẹp được? Lại nữa mà đây mới là điều quan trọng là hơn ai hết, anh biết rõ sách lược xâm nhập cán bộ cộng sản vào các cơ quan chính quyền, do đó nhiệm vụ chính yếu của anh là nhiệm vụ hướng dẫn chính trị, phần chuyên món thì bộ nào đã có thành phần trí thức và chuyên viên của bộ đó. Trách nhiệm trước tiên của anh là chặn đứng nội tuyến của Việt cộng, triệt tiêu các phần tử thân Pháp, thân Trung lập, thân Cộng len lỏi vào các bộ nhất là hai bộ Giáo dục và Lao động, nơi mà Việt cộng dễ dàng lũng đoạn hàng ngũ quốc gia, phá hoại đường lối chống cộng của chúng ta. Huống chi trí thức miền Nam đa số là "trí thức phòng trà" nặng đầu óc phe phái, ganh tị lẫn nhau, họ không thể đối phó với tình hình rối rắm. Lúc này chúng ta cần một vị tướng cứng rắn hơn là một khoa bảng nhu nhược. Mong anh nghĩ kỹ".

Thật là khó xử cho tôi khi phải cầm đầu ngành văn hoá giáo dục nước nhà, phải điều động các nhà khoa bảng trí thức. Thời Đệ I Cộng hoà, tôi đã gặp một lần khó xử khi ông Diệm cử tôi giữ chức Tổng giám đốc hai ngành Công binh tạo tác và Công binh chiến đấu hợp nhất, mặc dầu ông có hứa sẽ biệt phái cho tôi một nhóm kỹ sư kiến trúc sư làm cố vấn, nhưng tôi đã yêu cầu bộ trưởng Bộ quốc phòng Trần Trung Dung và ông Đổng Lý Nguyễn Đình Thuần can thiệp để tôi khỏi phải giữ cái địa vị mà tôi không chuyên môn. Nhưng thực trạng xã hội lúc này buộc tôi phải suy nghĩ rất nhiều, lời mỉa mai trí thức miền Nam toàn là tri thức phòng trà của Khánh tuy có tính chất miệt thị quá đáng nhưng cũng không xa sự thật bao nhiêu. Một số trí thức tâm huyết hiếm hoi đã phải chịu thất bại hay đầu hàng tình thế, còn đa số trí thức thì hay sợ hãi và chỉ biết tính toán lợi hại, dùng cấp bằng của mình là giá áo túi cơm! Thật vậy, sau khi mất nước sống lưu vong nơi xứ người mà trí thức quốc gia vẫn còn bị phê phán nặng nề đủ thấy thái độ nhút nhát của giới trí thức miền Nam thời chưa mất nước. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã phê bình "trí thức quốc gia không đủ sức hiểu ý nghĩa của chính trị, không chịu tìm hiểu thực tế. Họ tự hào với một mớ kiến thức mà không có tư cách của kẻ sĩ nên luôn luôn đứng ngoài và "đứng trên" các tổ chức chính trị, và do đó họ không có hậu thuẫn quần chúng. Còn những trí thức chạy theo đảng Cần lao thời Đệ I Cộng hoà hay sau này chạy theo đảng Dân Chủ Đệ II Cộng hoà thì chỉ vì quyền lợi trước mắt".

Ngoài giáo sư Nguyễn Ngọc Huy còn có nhiều người như học giả Hoàng Văn Chí (trên báo Dân Quyền) hoặc như trí thức Đào Sĩ Phu lên án trí thức quốc gia gắt gao hơn: Trong mọi biến chuyển xã hội, văn hoá, chính trị, kinh tế, phần trách nhiệm tối hậu vẫn do trí thức gánh vác trong mọi dân tộc. Nhưng một số đông trí thức không chịu thi hành nhiệm vụ cao cả của họ, không chịu lãnh phần trách nhiệm lịch sử của họ, không chịu nỗ lực làm công việc giáo dân, truyền lại những gì đã được học hỏi và quan sát. Một số đông trí thức đã im lặng sống qua ngày hay chỉ lo tìm tư lợi hay theo hùa với giới cầm quyền để chấm mút ít nhiều.

Là một kẻ ít học không xuất thân từ con đường khoa bảng mà lại cầm đầu ngành văn hoá giáo dục, tôi biết sẽ nhận lấy những búa rìu dư luận đương thời. Nhưng trước cuộc chiến tranh mất còn với một kẻ thù tối nguy hiểm, trước cuộc khủng hoảng nhân tâm của quốc gia, trước tình trạng sinh lực bị hao mòn của dân tộc đã không có một Nguyễn Trãi dâng Tâm Công Sách giúp kẻ áo vải đất Lam Sơn đánh đuổi quân xâm lăng, đã không có một La Sơn Phu Tử giúp nhà vua ít học Quang Trung một chính sách tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, thì ít nhất tôi cũng có thể làm võ tướng Hoàng Cái đời Tam Quốc nhà Hán, dẹp qua một bên bọn hủ nho Giang Đông bụng chứa đầy chữ nghĩa mà chỉ biết tranh luận suông bàn xuôi nói ngược, khua môi múa mép khi đại quân Tào Tháo đang đe doạ cõi bờ.

Sau khi nhận chức điều khiển văn hoá giáo dục, tôi cần phải kiểm điểm lại gia tài và định giá lại những sinh hoạt văn hoá do chế độ cũ để lại. Chế độ cũ đã từng có những đại hội văn hoá và giáo dục, có đại hội văn nghệ chống đối văn nghệ miền Bắc, có hai năm phát giải thưởng văn chương, có hội Khổng học, có đồ án thiết lập Trung tâm văn hoá trên khu đất cạnh dinh Gia Long... Về giáo dục, nhờ viện trợ Mỹ, nhất là nhờ thiện chí của giáo sư Buttinger, chế độ Diệm đã xây cất Học Viện quốc gia hành chính, trung tâm kỹ thuật Phú Thọ, Trường đại học chính trị kinh doanh tại Đà Lạt, và Viện đại học Huế...

Nhìn bề ngoài thì nền văn hoá giáo dục dưới chế độ Diệm cũng có vẻ “trăm hoa đua nở”, nhưng nó chỉ nở một loại hoa và một loại hương khó ngửi chẳng hạn như Đại học Văn khoa không được tự do phân khoa còn dùng toàn tiếng Pháp mặc dù cấp trung học đã được việt hoá. Việc cho sinh viên du học nước ngoài đầy dẫy những bất công... Đã thế các giáo sư lại bị theo dõi, tài liệu giáo khoa thì bị kiểm soát gắt gao. Tư tưởng đã bị kìm kẹp thì làm sao văn hoá giáo dục có thể phát huy, ý thức được khai phóng và kiến thức được phong phú. Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ dạy ở các trường Jean Jacques Rousseau và Marie Curie giảng giả sự thật về cuộc xâm lăng Việt nam của Pháp là do các cố đạo Thiên Chúa giáo mở lối đưa đường, liền bị bắt, bị giam vào khám Chí Hoà.

Do đó, sau khi hội ý sâu sắc với các cộng sự viên, tôi chủ trương phải xây dựng một nền văn hoá giáo dục có nội dung nhân bản và dân tộc, phải khởi đi từ nền móng của nền vãn hoá gốc rễ dân tộc, lấy con người là bản vị, để từ đó nghiên cứu nội dung văn hoá hiện đại mà tổng hợp thành hướng đi cho văn hoá Việt nam. Muốn như vậy, phải có sự đóng góp trí tuệ của nhiều nhà văn hoá đủ các bộ môn thân thiết với đời sống tổng thể của cả nước, để từ đó đặt nền tảng cho nền văn hoá giáo dục Việt nam, tránh tình trạng mỗi lần thay đổi chính phủ là mỗi lần thay đổi chính sách văn hoá giáo dục.

Do đó, sau khi nhận chức vụ Phó Thủ tướng văn hoá, tôi cho mời một số nhà trí thức có thực tài và đạo đức âm thầm soạn thảo chương trình vận đồng cho một đại hội văn hoá giáo dục mà tôi sẽ triệu tập trong tương.

Việc cấp tốc thứ hai là phải khơi lại nguồn suối tình tự dân tộc và ý thức trách nhiệm uống nước nhớ nguồn cho thế hệ mà chính sách "làm sáng danh Chúa" của nhà Ngô đã làm cho một phần lớn sinh viên sinh ra vọng ngoại, dù sống trên quê hương mình mà suy nghĩ và hành xử như một người ngoại quốc.

Tuy nhiên, mới đảm nhận chức vụ Phó Thủ tướng văn hoá xã hội trong khoảng thời gian quá ngắn ngủi từ đầu tháng hai đến cuối tháng bảy năm 1964 và chưa thực hiện được chí hướng của mình cũng như chưa đóng góp gì cho đại cuộc thì đầu tháng tám, tướng Khánh, tướng Khiêm cử tôi đi Đại Hàn tham dự lễ Độc lập của nước bạn là để cảm ơn đã giúp đỡ quân đội VNCH một số dụng cụ thuốc men.

Rời Đại Hàn, tôi về Nhật Bản thăm Ngoại trưởng Nhật dù chương trình công du của tôi không trù liệu cuộc viếng thăm này.

Tôi đang dự định đi thăm Hoàng Thành của vua Hirohito và Cố đô Kyoto thì bỗng nhận được công điện của tướng Khánh gọi về ngay. Về đến Sài gòn, nhìn quang cảnh Thủ đô xáo trộn do Hiến chương Vũng Tàu gây ra, tôi chua xót nhìn quê hương đắm chìm trong gió bụi hận thù và phân hoá. Bây giờ thì tôi hiểu vì sao Khánh và Khiêm không cử ông Đệ nhất, Đệ Nhị Phó Thủ tướng đi Đại Hàn mà cữ tôi vốn chỉ là Đệ Tam phó Thủ tướng. Thì ra họ nghi ngờ tôi có thể dựa vào lực lượng sinh viên và phật tử để chống đối lại Hiến chương Vũng Tàu vô chính trị và độc đoán của họ. Chả trách ngay sau ngày chỉnh lý, họ đưa đại tá Lê Nguyên Khang từ Phillippines về thay thế cháu tôi là Trung Tá Nguyễn Bá Liên (đang là tư lệnh thuỷ quân lục chiến). Lê Nguyên Khang từ Phillippines về, đi thẳng bằng trực thăng đến Kiến Hoà nơi cháu tôi đang chỉ huy một cuộc hành quân quan trọng, đòi phải được bàn giao tức khắc chức Tư lệnh và Liên phải về ngay Sài gòn bằng chiếc trực thăng của Khang. Thiếu tá Trần Văn Nhật, người bạn thân của cháu tôi cũng bị thuyên chuyển ra khỏi binh chủng thuỷ quân lục chiến và phải cùng với cháu tôi đi phục vụ tại Manila trong văn phòng tuỳ viên quân sự. Thì ra tuy họ muốn lợi dụng tên tuổi và uy tín của tôi nhưng vẫn e ngại nên âm mưu vô hiệu hoá các bạn hữu và con cháu của tôi ngay khi họ vừa chỉnh lý xong. Chả trách họ đẩy tôi đi Đại Hàn để gạt đi một phần tử có thể chống đối họ trong việc múa may quay cuồng tung hô lẫn nhau tại Vũng Tàu, chung quanh Hiến chương quái đản đó.

Nhớ lại khoảng thời gian tám tháng trước đó, ngày 31-1-1964, Khánh và Khiêm gọi tôi đến Bộ Tổng tham mưu “có việc cần”. Chỉ đến lúc đó tôi mới biết cuộc chỉnh lý do Khánh, Khiêm và Viên cầm đầu đã xảy ra. Khánh trình bày những lý do buộc ông ta và một số tướng trẻ phải làm cuộc chỉnh lý. Khánh và Khiêm cũng cho tôi biết "bọn Đôn, Kim, Xuân, Vỹ đi với Tây”, chủ tương trung lập nhưng khi tôi tỏ vẻ hoài nghi thì Khánh và Khiêm bảo rằng họ có đầy đủ bằng cớ mà việc "nhóm đó” cho phép Nguyễn Văn Vỹ và dự định cho phép trung tá Trần Đình Lan về Việt nam là một. Khiêm và Khánh còn nói thêm: tướng Dương Văn Đức ở Pháp về có đủ hồ sơ về “những hoạt động trung lập”, những hoạt động cho Pháp của Vỹ và Lan. Mấy tháng qua, khi các tướng Đôn, Xuân, Kim, Đính, Vỹ bị đem ra xét xử tại Đà Lạt trong suốt hai ngày đêm ròng tôi mới biết tướng Vỹ được các tướng Đôn, Kim mời hết về trước hết, vì Vỹ đã từng chống đối chế độ Diệm và chỉ vì tình bạn với các tướng Kim, Đôn, tướng Vỹ có tinh thần thân Pháp nhưng lại có lập trường chống trung lập và chống giải pháp thống nhất hai miền của Tổng thống De Gaulle. Trớ trêu thay, những kẻ cùng với Khánh lên án tướng Vỹ là chủ trương trung lập trong đó có Thiệu, Khiêm, Viên sau này lại mời tướng Vỹ giữ chức Tổng trưởng Quốc phòng khi Thiệu, Khiêm, Viên trở thành những nhà lãnh đạo quốc gia, thứ lãnh đạo quốc gia tham nhũng, trong lúc tướng Vỹ vẫn là người liêm chính. Vụ án "ngân hàng quân đội” mà tướng Vỹ phải chịu trách nhiệm chỉ là vụ án "có ít xít ra nhiều". Chẳng qua Hoa kỳ không muốn quân đội Việt nam có một số tư bản to lớn để có thể bất chấp áp lực của Hoa kỳ nên đã buộc Nguyễn Văn Thiệu giải tán ngân hàng quân đội.

Chính lý xong, Khánh và Khiêm bèn nhờ tôi đến gặp tướng Dương Văn Minh tại dinh Hoa Lan đường Hồng Thập Tự để mời ông giữ chức quốc trưởng. Vì chưa nắm vững tình hình nên tôi muốn nhân dịp này biết thêm chi tiết, tôi bèn ghé nhà tướng Minh thì gặp thêm cả tướng Lê Văn Nghiêm, Phạm Xuân Chiểu đang ngồi bàn bạc chuyện trò trong căn nhà bị quân lính của nhóm chỉnh lý canh gác. Sau khi nghe tôi trình bày chủ trương của Khánh tướng Minh với vẻ mặt trầm ngâm nhờ tôi về nói lại với Khánh là ông sẽ suy nghĩ và trả lời Khánh sau. Tôi bèn về thẳng nhà tôi và điện thoại cho Khiêm biết ý kiến của tướng Minh.

Trước cảnh xáo trộn của đất nước, ngày 30-9-1964 tôi từ chức Phó thủ tướng và trở về quân đội, trở lại cuộc đời học trò ngày hai buổi đến trường sinh ngữ quân đội học thêm Anh văn. Bài học Ngô Đình Diệm, bài học tướng lĩnh đã làm cho tôi thấm thía nên quyết định xa lánh chính trường.

Nhưng rồi một hôm tôi được Khánh mời vào dinh Thủ tướng và yêu cầu tôi đi Pháp hai tháng để quan sát tình hình và "Pháp đang có âm mưu vận động đưa vấn đề Việt nam ra trước một hội nghị quốc tế”. Khánh cung cấp 10.000 quan cho việc chi phí tại Pháp trong hai tháng đó. Tôi nghĩ thầm Khánh muốn đẩy tôi ra khỏi nước nên từ chối ngay với lý do tôi đã từng là thành phần "persona non grata" của chính quyền Pháp. Khánh bảo tôi cứ về suy nghĩ lại.

Vài hôm sau Albert Cao đến nhà tôi mang theo vé máy bay đi Pháp và cái ngân phiếu 20.000 quan: "Trung tướng Khánh nhất định nhờ thiếu tướng đi Pháp và tăng tiền chi phí cho thiếu tướng 20.000 quan”. Tôi bảo Cao: “Anh về thưa lại với trung tướng rằng tôi không đi đâu hết, đừng đem tiền bạc mà dụ tôi. Tôi ngồi đợi để trung tướng cho quân cảnh đến bắt. Tôi biết ông ta muốn đẩy tôi ra nước ngoài". Cao ra về và sau đó không thấy Khánh nhắc lại vụ đi Pháp nữa. Nhưng độ một tháng sau lại thấy Khánh cho mời tôi vào văn phòng để yêu cầu tôi cùng với lãnh tụ Tự do Khmer Sơn Ngọc Thành đi Thái Lan trong suốt mười ngày để quan sát công cuộc chiến đấu chống Sihanouk và giao thiệp với cơ quan tình báo hải ngoại của Thái Lan hầu thiết lập kế hoạch trao đổi tin tức tình báo giữa hai chính phủ như tôi đã nói trước kia. Tôi biết Khánh lại muốn đẩy tôi ra khỏi nước nhưng vẫn bằng lòng đi vì tin tưởng rằng đi Thái Lan thì việc trở về không khó khăn gì. Tôi đem theo cháu tôi là đại uý Đỗ Hải làm sĩ quan tuỳ viên. Khi lên máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhất, tôi ngạc nhiên thấy thiếu tá Hữu, một cựu cán bộ Cần lao công giáo từng làm việc với bác sĩ Tuyến trong Sở nghiên cứu chính trị đi theo. Hữu cho tôi biết đi Thái Lan là để liên lạc với cơ quan tình báo Việt nam tại Bangkok nhưng tôi biết Hữu vâng lệnh của Khánh để đi theo dõi tôi. (Thiếu tá Hữu dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Tỉnh trưởng Cam Ranh nổi tiếng là một tay tham nhũng).

Đến Bangkok, tôi cùng với Đại sứ Thái Quang Hoàng đến thăm xã giao Thủ tướng Sarit Thanarat và sau đó hội họp mấy ngày liền với các cơ quan tình báo Thái và thăm tổ chức của Sơn Ngọc Thành. Lợi dụng những lúc rảnh rỗi, tướng Hoàng dẫn tôi đi thăm viếng phong cảnh xứ Thái và chiêm ngưỡng một số chùa tháp danh tiếng. Gần 10 ngày sau, tôi nhận được công điện của Khánh phải rời Thái Lan đi Mã Lai hai tháng để nghiên cứu về du kích chiến của xứ này. Biết rằng Khánh muốn đẩy mình đi xa hơn, tôi bèn quyết định trở về. Tôi đến gặp Thái Quang Hoàng và cho biết sẽ trở vè Việt nam ngay. Hoàng đắn đo hỏi tôi: “Bác về bằng cách gì? ", tôi trả lời liền: "Tôi sẽ về bằng ghe Thái Lan, đổ bộ lên Hà Tiên hay Rạch Giá rồi về Sài gòn".

Từng là bạn thân lâu năm, biết rõ nhau qua nhiều hoạt động quân sự và chính trị dưới nhiều chế độ, tôi biết Hoàng là người khí phách can trường. Hoàng lo lắng cho tôi: "Bác về như vậy sợ nguy hiểm. Tôi sẽ cấp vé máy bay cho bác về thẳng Sài gòn. Khi nào bác đặt chân đến phi trường Tân Sơn Nhất, tôi sẽ đánh điện báo cho chính phủ”. Sợ liên luỵ đến địa vị của Hoàng, tôi từ chối nhưng Hoàng nài nỉ khuyên tôi phải trở về bằng phi cơ, rồi tiễn tôi ra tận máy bay. Về Sài gòn tôi đợi đến sáng hôm sau mới gặp Khánh. Khánh không tỏ vẻ tức giận nhưng với cái mỉm cười đầy bí hiểm Khánh đùa: "Thế là hai lần anh đã không tuân lệnh tôi". Ít lâu sau tướng Hoàng cũng mất chức Đại sứ VNCH tại Thái Lan.

Chính tình Việt nam vẫn sôi động, những xáo trộn vẫn liên tiếp xảy ra tại Sài gòn và Huế, rồi ông Phan Khắc Sửu lên làm Quốc trưởng, ông Trần Văn Hương làm Thủ tướng, Thượng hội đồng Quốc gia ra đời, Trung tướng Nguyễn Khánh trở về quân đội giữ chức Tổng tư lệnh, hai Đại tướng Dương Văn Minh và Trần Thiện Khiêm đi ra nước ngoài với Quốc trưởng Phan Khắc Sửu các tướng "già" (trong đó có tôi) buộc phải về hưu kể từ 30-12-1964.

Rời khỏi chính trường, rời khỏi quân đội tôi mừng thầm từ đây thoát khỏi vòng cương toả, sẽ được yên thân dù biết rằng nhà tôi vẫn bị những nhân viên an ninh theo dõi. Tôi tiếp tục các thú vui bình nhật như đọc sách, uống trà, đánh tổ tôm, tài bàn vui vẻ với nhiều bạn hiền và đến nhà các thầy tử vi để nói và nghe chuyện đời.

Không ngờ vào khoảng 3 giờ đêm ngày 20-12-1964, đại tá Nhiêu, một cộng sự viên của Khánh và đang là Giám đốc Sở Trung ương tình báo, đi xe Jeep cùng với ba binh sĩ võ trang đến nhà riêng của tôi mời tôi đến gặp Hội đồng tướng lĩnh đang nhóm họp tại Bộ Tổng tham mưu. Tôi biết việc chẳng lành đang xảy ra nên dặn vợ con cứ yên tâm ở nhà vì tin chuyến này ra đi thì còn lâu lắm mới trở về.

Đại tá Nhiêu mời tôi vào ngồi trong phòng khách nhà tướng Khánh trong khuôn viên Bộ Tổng tham mưu, gần cổng chính. Trong một phòng bên kia, Khánh và các tướng trẻ đang hội họp. Họ để tướng Sang vừa ngồi nói chuyện vừa canh chừng tôi. Độ năm giờ sáng, cuộc họp vừa tan thì Nguyễn Văn Thiệu, rồi Nguyễn Chánh Thi đến chào và nói vài câu chuyện đãi bôi. Đến bảy giờ sáng, tướng Nguyễn Hữu Có, lúc bấy giờ là Tư lệnh Quân đoàn II đóng ở Pleiku, vào gặp tôi và cho biết: "Tôi được lệnh Hội đồng tướng lĩnh mời anh lên cao nguyên ở một thời gian". Tướng Có mời tôi lên xe và đưa ra phi trường Tân Sơn Nhất. Tại đây, tôi thấy một số chính khách, một số Hội viên Hội đồng quốc gia, một số sinh viên và ba người bạn thân của tôi là nhà báo Vũ Ngọc Các, luật sư Trần Thanh Hiệp và học giả Mai Ngọc Liệu. Biết là đồng hội đồng thuyền, Các, Hiệp, Liệu và tôi nhìn nhau mỉm cười. Đến Pleiku, bác sĩ Lê Khắc Quyên bị giữ lại gần Bộ tư lệnh Quân đoàn, ông Nguyễn Văn Lực bị chuyến đi Nha Trang, các chính khách và sinh viên khác đi Kontum, còn riêng tôi thì tướng Có dành cho ngôi dinh thự cũ của viên công sứ Pháp, biệt phái cho tôi một binh sĩ để phục vụ. Từ đó, tôi ở vào tình trạng "quản thúc vô hạn định” trên thành phố đìu hiu này. Thỉnh thoảng tướng Có đến chuyện trò hoặc đích thân lái xe đưa tôi đi thăm phong cảnh Pleiku nhưng tuyệt nhiên không bao giờ đề cập đến việc quản thúc của tôi hoặc thảo luận về tình hình chính trị của đất nước.

Trong hơn hai tháng chúng tôi bị quản thúc thì cụ Trần Văn Hương cũng mất chức Thủ tướng và nghe nói bị an trí tại Vũng Tàu, chính phủ Phan Huy Quát ra đời, đại tá Phạm Ngọc Thảo, lực lượng bảo vệ dân tộc và lực lượng đại đoàn kết của khối Công giáo nổi dậy chống chính phủ. Tướng Khánh phản ứng trong tuyệt vọng vì Hội đồng quân lực cho rằng những xáo trộn đều có Khánh gây nên, nên cách chức Khánh. Sau màn trình diễn như thăng chức lên Đại tướng và gắn Đệ nhất Kim khánh cho Khánh, Hội đồng tướng lĩnh buộc Khánh phải rời khỏi đất nước. Ngày 25-2-1965, Khánh lên phi cơ rời đất Tổ mang theo một nắm đất quê hương và hẹn ngày trở lại. Nhưng Khánh đi mãi mà không có ngày về dù miền Nam còn hơn 10 năm trời sống sót. Khánh xin cư trú tại Mỹ nhưng bị từ chối nên đành phải đến Pháp với tất cả nỗi lòng chua chát của một con người nhiều thủ đoạn, đã mê hoặc được cả hai anh em Diệm - Nhu, đã vận dụng được cả đảng Đại Việt, đã lừa được tất cả những tướng lĩnh để cuối cùng phải ngâm câu "chữ Tài liền với chữ Tai một vần".

Tướng Khánh ra đi, chính phủ Phan Huy Quát chỉ kéo dài được từ 16-2-1965 đến 11-6-1965, nghĩa là không đầy bốn tháng, rồi vì sự chống đối của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và của khối Công giáo, chính quyền lại về tay các tướng trẻ với tướng Thiệu làm chủ tịch Uỷ ban lãnh đạo quốc gia, tướng Kỳ làm chủ tịch Uỷ ban hành pháp, tướng Có giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng, tướng Thi giữ chức Tư lệnh Quân đoàn I. Còn tôi sau ba tháng bị cô lập ở Pleiku, được thả về Sài gòn.

Từ ngày bị an trí lại Pleiku trở về, vốn mang tâm hồn bảo thủ, tôi trở lại cuộc đời bình dị, mang chiếc áo lương đen dài, bắt chước người xưa làm nhà ẩn dật, ngồi nhìn mưa nắng hai mùa, mặc cho thế sự thăng trầm... Tôi không tham gia cuộc đấu tranh của Phật giáo năm 1966 mặc dầu tôi đồng ý về căn bản với lập trường chính trị của thượng toạ Trí Quang.

Tuy nhiên, dù tôi không liên hệ gì đến cuộc đấu tranh của Phật giáo và cũng chẳng dính dự gì đến những biến động lúc bấy giờ, nhưng các tướng trẻ và bộ tham mưu Công giáo của Thiệu vẫn cứ e ngại tôi nên họ lấy lý do tình hình xáo trộn để một lần nữa tạo thêm gian truân cho tôi. (Sau này tướng Nguyễn Hữu Có đến thăm tôi tại nhà riêng cho tôi biết từ ngày tôi về hưu trí, những tướng nào thường có thái độ thù hằn tôi. Đại tá Phạm Văn Liễu sau khi thôi chức Tổng giám đối cảnh sát cũng ghé thăm và cho tôi biết vụ bắt bớ tôi năm 1966 là do lệnh của Nguyễn Văn Thiệu).

Một hôm, tôi được viên thiếu tá chánh văn phòng của chủ tịch Uỷ ban hành pháp Nguyễn Cao Kỳ đến mời vào gặp ông ta trong dinh Thủ tướng. Ngày hôm sau, tôi vào dinh đợi khoảng hơn một tiếng đồng hồ mới thấy Kỳ đến. Kỳ đi thẳng vào văn phòng và bắt tôi đợi thêm một giờ nữa mới ra phòng khách tiếp tôi. Ngồi chờ lâu, tôi suy nghĩ miên man đoán rằng có lẽ mình đã làm điều gì đụng chạm nên Kỳ mới có thái độ cao ngạo như thế. Cuối cùng tôi đoán có lẽ vì chuyện đám cưới của Kỳ mà tôi đã không tham dự có thể đã làm cho Kỳ tức giận chăng.

Mùa xuân năm ngoái Thiếu tướng Tư lệnh không quân Nguyễn Cao Kỳ làm lễ thành hôn với người đẹp nữ tiếp viên phi hành Đặng Tuyết Mai. Đám cười Kỳ - Mai là một trong những đám cưới linh đình nhất Việt nam từ mấy chục năm nay, chỉ thua đám cưới ông Trần Trung Dung, cháu rể của Tổng thống Diệm và dĩ nhiên phải thua đám cưới ái nữ của Tổng thống Thiệu và con trai ông Nguyễn Tấn Trung, những đám cưới mang hình thức quốc tế.

Theo báo chí và những bạn bè tôi kể lại thì đám cưới Kỳ - Mai gồm một buổi đại tiệc tại Chợ Lớn cho hai họ và bà con bạn bè, rồi một buổi đại tiệc thứ hai tại khách sạn Caravelle cho hàng ngàn quan khách tham dự như Quốc trưởng Phan Khắc Sửu, Thủ tướng Trần Văn Hương, toàn bộ nhân viên chính phủ tướng lĩnh và các chỉ huy trưởng các đơn vị của ba ngành Thuỷ - Lục - không quân đang có mặt tại Sài gòn. Ngoại giao đoàn, và rất đông nhân vật cao cấp văn võ Việt Mỹ. Nghe nói rượu sâm banh đến 7.800 chai nổ kêu đôm đốp liên hồi. Tân lang trong chiếc áo dạ hội màu đỏ đã tặng giai nhân chiếc nhẫn to bằng đầu ngón tay. Nghe nói tướng Khánh đã tặng cho Nguyễn Cao Kỳ một số tiền rất lớn để Kỳ lo liệu đám cưới. Đêm hôn lễ của cặp Mai - Kỳ tại khách sạn Caravelle quả thật là một đại dạ hội tưng bừng hiếm có giữa Sài gòn xáo trộn, báo hiệu cái thế giá đang lên của một nhân vật đang gặp thời vì chỉ nửa năm sau Nguyễn Cao Kỳ đã trở thành Thủ tướng: Thủ tướng của một chính phủ, mỉa mai thay được chính Kỳ mệnh danh là "chính phủ của dân nghèo".

Trong quá khứ, Kỳ vốn coi tôi như người anh ruột thịt và sự nghèo túng của Kỳ nhiều khi làm vợ chồng tôi bùi ngùi. Trước ngày cưới, chẳng những Kỳ gửi hồng thiệp báo tin mừng mà còn đến tận nhà đích thân mời vợ chồng tôi dự tiệc; cẩn thận hơn, gần ngày hôn lễ Kỳ còn gọi điện thoại nhắc nhở lần cuối cùng. Nhưng sau khi nhìn thấy cuộc cách mạng 1-11-63 đang đi chệch khỏi những mục đích đẹp đẽ ban đầu, lại thêm những xáo trộn chính trị liên miên xảy ra, tất cả đã làm cho tôi chán chường không muốn chen lấn vào những nơi tụ họp đồng đảo của hạng người trưởng giả nữa. Chúng tôi chỉ mua một bộ đồ trà đơn giản giao cho sĩ quan tuỳ viên đến nhà tặng Kỳ làm kỷ niệm mà không đến dự tiệc tại nhà hàng Caravelle.

Đang miên man suy nghĩ về chuyện tình nghĩa ngày xưa thì bỗng Kỳ vào ngồi cạnh tôi và hỏi: "Thiếu tướng có mạnh không? Thiếu tướng ở nhà làm gì?". Tôi đáp: "Từ ngày bị các tướng trẻ bắt đi cô lập ở Pleiku về, tôi ở nhà nghỉ ngơi, chưa có dự định gì cả". Tôi đợi xem Kỳ có bàn bạc gì về tình hình chính trị không thì bỗng Kỳ nói: "Lâu ngày không gặp nên tôi chỉ mời thiếu tướng vào thăm thế thôi”. Tôi cám ơn rồi ra về. Kỳ còn nhắn theo: "Cho tôi gửi lời thăm Đỗ Hải”. (Tôi có ba đứa cháu là Đỗ Thọ, Đỗ Hảo và Đỗ Hải rất thân thiết với Kỳ thời Kỳ còn là thiếu tá, trung tá).

Về đến nhà, tôi suy nghĩ mãi về cách cư xử lạ lùng của Kỳ đối với tôi. Nếu quả Kỳ còn nhớ chút tình cố cựu tại sao trong vụ Khánh và các tướng trẻ bắt tôi đi cô lập tại Pleiku, Kỳ không phản đối. Còn nếu Kỳ đã bỏ rơi tình cũ người xưa thì tại sao hôm nay lại mời tôi đến để thăm hỏi. Tôi lại nghĩ nếu quả Kỳ còn tính mến tôi thì tại sao Kỳ không đến nhà riêng thăm viếng mà lại mời tôi vào dinh thủ tướng. Tôi vẫn còn phân vân về thái độ khó hiểu của Kỳ thì ngày hôm sau trung tá Nguyễn Văn Khuyển, chánh sở An ninh quân đội Thủ đô đến mời tôi và thiếu tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh quân khu Thủ đô kiêm Tổng trấn Sài gòn - Gia định. Sự kiện hai tướng trẻ đều mời tói liên tiếp trong hai ngày như điều bất thường báo trước sắp có chuyện chẳng lành xảy ra.

Gặp Khang, Khang cho biết được lệnh Hội đồng quân lực mời tôi ra “tạm trú” tại Nha Trang một thời gian cho đến khi nào tình hình chính trị ổn định. Rồi Khang giao cho tôi sự vụ lệnh và vé máy bay. Tôi nghĩ thầm thế là tôi được các ông tướng trẻ bắt đi quản thúc một lần nữa. Tôi cám ơn Khang rồi đứng dậy ra về. Khang tiễn tôi ra tận xe rồi nói tiếp: “Xin Thiếu tướng hiểu cho lòng em, em chỉ biết thừa lệnh cấp trên". Tôi mỉm cười rồi lên xe. Tôi có trách gì tướng Khang đâu, vì tự biết mình đang gặp vận hạn rắc rối và đang sống giữa cảnh đất nước loạn ly thì phải chịu theo cảnh ngộ. Sau 6 tháng bị an trí ở Nha Trang, tôi mới được Kỳ điện cho trở về Sài gòn. Sống ở miền Nam tự do, bây giờ tôi mới được tự do đi lại.

Tình nhân thế chua cay người lịch duyệt, câu thơ ảo não của thi sĩ Vũ Hoàng Chương quả nói đúng tâm sự tình cảnh của tôi, tôi quyết định từ đây không vương vấn đến chính trường, chỉ lo việc sinh sống cho gia đình vợ con. Nhiều nhân vật thuộc các đảng phái, nhiều chính khách nhân sĩ đến khuyên rủ tôi ra ứng cứ dân biểu nghị sĩ, tôi đều từ chối hết. Ngay cụ cả Nguyễn Xuân Chữ, một bậc kỳ lão tiếng tăm xứ Bắc Hà xưa kia, đích thân đến nhà mời tôi đứng tháng một liên doanh nghị sĩ với các đồng khí của cụ, tôi cũng xin khước từ. Vì thế, rất nhiều tướng tá như Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Thái Quang Hoàng, Huỳnh Văn Cao, Nguyễn Văn Chuân, Lê Văn Nghiêm, Tôn Thất Xứng... đều ra tranh cử thượng viện, riêng tói chỉ nằm nhà để thỉnh thoảng ngâm lên câu thơ cũ:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao...

<< Chương 17 | Chương 19 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 350

Return to top