Phạm Hải AnhThành hối hận là đã thuê cái phòng này để bầy bán tranh. Hai mét chiều ngang, bốn mét chiều dài, chỉ độc một lối đi gắng gỏi len ra mặt phố- thế giới nghệ thuật của anh đấy! Địa thế khuất nẻo đã đành, nó lại tối om om, sặc mùi ẩm mốc lưu cữu, trông thẳng ra cái cống ngập rác. Bên phải là cửa hàng "Hơn cả thời trang" bán đồ lót phụ nữ. Nịt vú, độn mông, tất dài, áo ngủ... treo rủ tầng tầng lớp lớp, chị em vào ra hớn hở. Bên trái là liên minh gà tần- ngẩu pín tần, bổ cả âm lẫn dương. Khách từ cửa hàng bên trái dắt nhau sang cửa hàng bên phải, hoặc từ cửa hàng bên phải vui vẻ tạt vào bên trái, nhưng không ai dừng lại ở phòng tranh của Thành. Những bức tranh gượng gạo trần mình dưới ánh sáng nhân tạo trông tội nghiệp và xa lạ như không phải do chính tay Thành vẽ. Tự nhiên anh có tâm trạng của ông bố thất nghiệp mà phải chứa trong nhà cả đàn con gái nhỡ thì...
Nhưng hôm đó thì khác. Trời đang oi chợt òa xuống một cơn mưa. Rồi tạnh. Không khí tươi mát, thoảng mùi lá giập ngai ngái. Cả phòng tranh bỗng chốc ngập trong ráng chiều màu cam lộng lẫy. Ngực Thành thắt lại. Những buổi chiều thế này người ta thường trông ngóng một điều gì đó màu nhiệm, phi thường.
Đúng lúc ấy, một phụ nữ vận đồ đen bước vào phòng tranh. Trông chị ta có vẻ không giống những người khách tạt qua từ cửa hàng bên trái hay bên phải. Bộ quần áo màu tối nom hơi khắc khổ, nhưng cồ áo bất ngờ khoét trễ xuống, phô một khuôn ngực đầy đặn với làn da trắng ngần. Gương mặt thanh tú, thoạt trông thì còn trẻ, nhìn kỹ lại có vẻ từng trải, rất khó đoán tuổi. Đôi mắt chị ta nhìn hút vào một bức tranh. Thành nhìn theo, thất vọng. Đó là một bức sơn dầu rất bình thường, vẽ một đám rước dâu bằng ngựa ô. Anh treo nó lên vì màu sắc tươi vui, nhưng chủ yếu là để lấp chỗ trống trong phòng tranh. Thành ướm lời:
-Chị thích bức này?
-Dạ...-người đàn bà như sực tỉnh, quay sang anh nở nụ cười ngượng ngùng -Xin lỗi anh. Tôi không hiểu mấy về hội họa. Tôi chỉ để ý đến con ngựa ô... Vâng, tôi định nói là, tôi muốn nhờ anh vẽ hộ một bức tranh ngựa ô, chỉ có ngựa không thôi...
Thành ngán ngẩm. Anh toan từ chối thẳng, nhưng người đàn bà hình như biết ý, phác một cử chỉ ngăn anh lại:
-Xin anh hãy nghe tôi nói đã. Nó không phải là một bức vẽ thường đâu. Biết nói thế nào nhỉ... Nó ở trong tôi. Anh hãy giúp tôi lấy nó đi, giải thoát cho tôi khỏi sự ám ảnh. Tôi nhìn những bức tranh của anh và linh cảm là anh có thể giúp tôi. Tôi van anh. Tôi sẵn sàng trả giá!
Trông chị ta không có vẻ gì là người mắc bệnh tâm thần. Thành nhếch mép, anh chẳng hơi đâu chạy theo ý tưởng đồng bóng của các bà:
-Tôi làm sao mà vào trong chị để lấy cái gì ra được.
Người đàn bà đỏ bừng mặt, nhìn thẳng vào Thành. Cặp mắt chị ta sáng rực, môi hơi mím lại:
-Nếu anh không muốn thì thôi vậy. Xin lỗi. Chào anh.
Thành nhìn chị ta quay đi. Đầu ngẩng cao, sau lưng là phòng tranh im lìm. Bộ đồ đen bí ẩn đi giữa ráng chiều đang cháy rực lên kì lạ. Một bức họa tuyệt vời. Anh phải giữ chị ta lại thôi, cho dù phải vẽ cả tá ngựa ô.
Thành tìm đến nhà người đàn bà theo địa chỉ được cho. Cánh cổng sắt hoen rỉ khép im ỉm. Bên trong thấy xanh xanh một mảnh vườn con, lá hồng xiêm lòa xòa. Một ngọn cau còi cọc gắng nhô mấy tàu lá héo trụi lấp ló sau bức tường bao cắm đầy mảnh chai. Thành nhấn chuông. Lâu lắm mới có người ra. Mở khóa, tháo ba vòng xích sắt quấn quanh kêu xoang xoảng, cánh cửa nặng nề hé ra, bản lề nghiến ken két. Người đàn bà đứng trước Thành, bé nhỏ và hơi là lạ trong bộ đồ hoa xanh nhạt. Chị ta đưa Thành vào trong nhà. Ngôi biệt thự cổ, màu vôi đã nhạt phếch vì mưa nắng, trông có vẻ gì rất Liêu Trai...
Thành đưa bức tranh cho người đàn bà. Tối qua anh đã vẽ phóng một con ngựa ô thật to, trông y như thật. Nét mực tầu đen ánh nổi bật trên nền giấy trắng, chắc là vừa ý chị ta. Người đàn bà đón lấy bức tranh, xem rất kỹ rồi cuộn lại. Chị ta thở dài:
-Lỗi tại tôi chưa nói rõ với anh. Anh vẽ giống lắm, nhưng anh chưa biết con ngựa mà tôi muốn vẽ. Tôi vẫn mơ thấy nó, đen huyền và có cặp cương đỏ rực như lửa...
-Nếu chị muốn tôi sẽ vẽ thêm dây cương màu đỏ vào. Không hề gì.
Người đàn bà lắc đầu:
-Không, không phải thế. Chuyện dài lắm anh ạ. Tôi chưa bao giờ trông thấy một cái gì tương tự như thế. Vậy mà tôi lại mơ thấy nó. Đẹp lắm, không giống ác mộng chút nào. Tôi nghĩ đó là một điềm báo. Anh có tin không? Tôi đã mơ thấy nó ba lần tất cả. Cách nhau mười mấy năm. Sau mỗi lần nó xuất hiện, một chuyện gì đó ghê gớm lại xảy ra với tôi. Tôi không biết đó là may mắn hay bất hạnh nữa, chỉ biết đời tôi cứ bị bẻ quặt đi. Vậy mà hôm nọ, tôi lại mơ thấy nó. Vẫn y như thế. Đen huyền, lẫm liệt, dây cương kéo thẳng băng và rừng rực như lửa...
Thành không tin vào những chuyện mộng mị và điềm báo. Nhưng người đàn bà trông thật cuốn hút và đầy xúc động. Đôi bàn tay trắng xanh, ngón thon dài xoắn chặt vào nhau rồi lại rời ra, bồn chồn không yên. Chị ta hẳn phải rất cô đơn.
-Chị có nói chuyện đó với ai không? Sao chị phải vẽ nó? Để làmgì?
Người đàn bà cười gượng gạo:
-Nói anh đừng cười. Tôi đi xem bói. Trước đây tôi chưa bao giờ đi xem bói. Tôi không dễ tin... Nhưng lần này, tôi sợ. Vả lại tôi rất muốn biết nó là cái gì. Ông ta khuyên tôi hãy vẽ nó ra. Lẽ ra tôi phải tự tay vẽ, tập trung hết tinh thần vào đó thì mới linh nghiệm. Nhưng tôi không biết vẽ... Tôi muốn nhờ anh. Tôi sẽ kể hết với anh để anh vẽ cho đúng. Tôi biết, toàn bộ chuyện này đối với anh chắc là kì quặc lắm. Nhưng tôi còn biết phải làm gì nữa? Xin anh hãy giúp tôi!
Sao đời Thành cứ phải lụy vì đàn bà thế nhỉ. Đồ lót phụ nữ, gà tần ngẩu pín kẹp gí hai bên chưa đủ, bây giờ họ còn xông thẳng vào anh với những chuyện mộng mị, bói toán, xổ tung ra một dòng thác tâm sự và rồi yêu cầu anh vẽ tất cả những cái đó nữa chứ!... ánh mắt người đàn bà nhìn anh cầu khẩn. Chưa có ai từng nhìn anh như thế. Thành thấy mình rơi tõm vào lưới rồi. Vô phương...
-Cha tôi lúc nào cũg tự hào vì cái ảnh cụ nội đội mũ cánh chuồn ngự chính giữa ban thờ. Ông có được hưởng cái gì từ cụ đâu, chưa kể một thời còn bị điêu đứng vì lý lịch. Vậy mà tôi đến khổ vì cái danh hão ấy. Cha tôi dữ đòn lắm. Mẹ thì suốt ngày đe: "Cá không ăn muối cá ươn!". Hồi bé, có lần tôi lén bỏ một vốc muối vào chậu cá cảnh. Sáng hôm sau, cá chết nổi bềnh. Con cá vàng ánh, đẹp lắm. Tôi bị đòn quắn mông. Mẹ mắng: "Đồ ngu. Tao nói cá chết ăn muối chứ không phải là cá sống!". Tôi khóc mãi. Không phải vì đòn đau mà vì thương con cá. Tôi muốn cứu nó mà lại thành giết nó... Tôi nghĩ lẽ ra tôi phải mơ thấy con cá ấy, chứ con ngựa thì có liên quan gì tới tôi đâu?
Thành sợ tâm sự của các bà các cô như sợ ăn dồi. Một tí phèo phổi, một tí huyết, mỡ lòng bám dối, trộn nháo nhào rồi nhồi vào trong khúc ruột già chưa tẩy sạch mùi. ớn lắm! Anh đã cố tránh thật xa chỗ các bà đun nồi tâm sự, cho dù nó có sôi lóc bóc đến trào bật nắp vung cũng mặc. Vậy mà còn không thoát. Bây giờ, chị ta đang mặc sức trói anh bằng những dây hoài niệm nghi ngút khói:
-Hồi bé, anh ấy hay đến đón tôi đi học. Có lần trời mưa, bố mẹ sợ tôi bị cảm lạnh, không cho đi. Anh ấy cứ kiên trì chờ ngoài cổng. Một chàng trai bé con, chân đi đôi ủng đỏ tươi, tôi còn nhớ rất rõ... Sau đó, chúng tôi không gặp lại nhau nữa. Gia đình anh ấy chuyển đi Thái Nguyên. Chẳng còn ai đến rủ tôi đi học... Xin lỗi anh, tôi hơi dài dòng. Nhưng chuyện là như thế. Anh ấy là người bạn thực sự đầu tiên của tôi. Rồi lại là người yêu đầu tiên. Anh ấy đã trở lại tìm tôi. Đêm trước hôm gặp lại anh ấy, lần đầu tiên tôi mơ thấy con ngựa ô. Lúc đó tôi hai bốn tuổi, chưa hề có bạn trai và tôi khao khát từng ngày. Tôi mơ thấy nó, tất cả tối đen, im lìm như đang ngủ và nó vụt hiện ra, kỳ lạ, dũng mãnh. Tôi choàng tỉnh, bật khóc. Lúc đó, tôi không hề biết cái gì đang chờ đợi mình...
Thành nghĩ có lẽ anh nên về. Chiều đã muộn. Hôm nay thế là đủ. Cá vàng này, ủng đỏ này, cả ngựa ô nữa... không biết sẽ còn những màu gì nữa đây? Người đàn bà tiễn Thành ra cửa. Xích sắt lại va loảng xoảng, cánh cổng hé ra rồi vội vã khép lại, nuốt gọn cái bóng nhỏ nhắn của chị ta. Thành chợt cảm thấy ngột ngạt. Anh hình dung ra một cô bé con bị nhốt sau cánh cổng sắt nặng nề, xám xịt, dõi cặp mắt buồn rầu qua làn mưa dày đặc..., ngoài kia có một đôi ủng đỏ tươi nấn ná chờ đợi rồi chầm chậm bỏ đi và khuất hẳn. Anh muốn nhổ cái hình ảnh sực mùi lãng mạn ấy ra khỏi đầu như con chó muốn gặm đứt cái đuôi ghẻ của mình. Chẳng có ủng đỏ nào hết. Người anh yêu đi giày cao gót, trèo vào hàm ôtô Cá mập của ông giám đốc bụng và ví căng nứt. Mưa thì có xá gì...
Người đàn bà không nhiều lời mời Thành quay lại. Không cần thiết. Con sói cái đã đánh hơi thấy mùi và nắm chắc sơ hở của con mồi. Khát vọng của giống cái bao giờ cũng thế, đầy bản năng, mãnh liệt và nông cạn đến mức nguy hiểm. Thành không đủ sức cưỡng lại. Anh đã ngu ngốc lao vào, bây giờ chỉ còn cách tự trói gô mình lại để chị ta luộc trong nồi tâm sự bẩy nổi ba chìm.
...Thành lắng nghe lơ mơ. Anh ngửi thấy thoang thoảng mùi nước hoa quyến rũ từ cánh tay trần nuột nà của người đàn bà. Rốt cuộc, chị ta có khác gì những cô ả khác? Con ngựa ô hoang dại lồng lên sau cánh cổng sắt và bức tường cắm đầy mảnh chai.
-... Tại sao anh ấy lại bỏ tôi đi? Anh ấy đã yêu tôi đến thế! Đối với đàn ông các anh lại có cái còn đáng kể hơn cả tình yêu, hơn cả mạng sống ư? Đêm đó, tôi mơ thấy con ngựa ô. Nó giằng sợi dây cương và hí lên thảm khốc. Tiếng hí làm tôi lạnh toát cả người... Đôi lúc tôi tự hỏi, hay là linh hồn anh ấy hiển linh thành con ngựa ô để dẫn đường chỉ lối cho tôi?
Thành không thể kể cho chị ta nghe về giấc mơ của mình. Chẳng có ngựa ô. Anh mơ thấy một bữa cơm dọn trên cái mâm nhôm, hàng gia công, loại rẻ tiền, được cái nhẹ và sáng choang. Trên mâm có một đĩa thịt bò xào, một đĩa rau muống luộc, canh cá chua, cà pháo và cả một cút rượu nữa. Thành bê khư khư cái mâm, không biết đặt đâu. Anh đang ở trong căn phòng tám mét vuông, choán một góc là cái hố xí hai ngăn, bệ rất cao, đen đúa, ngạo nghễ. Cả gia đình đang náo nức xà xuống bên mâm cơm, quây quần, ấm cúng. Không ai để ý đến nó. Người ta cần ăn, cũng cần ỉa, mà căn buồng tám mét vuông thì chẳng bõ ngăn. Cái mùi ấy che làm sao được, hít mãi cũng thành quen. Cả nhà vui vẻ gọi nó là "nước hoa Mỹ". Thành cẩn thận chọn góc xa nhất, đặt mâm cơm xuống đất. Anh ngồi xổm bên mọi người. Ngay dưới chân anh, những con giòi trắng ve vẩy vãi tung ra như gạo. Đúng lúc đó, Thành cũng lạnh toát người, choàng tỉnh... Con ngựa ô, ngựa ô có cặp cương rừng rực như lửa, mày ở đâu?
-Tôi nghiệm thấy mỗi lần mơ thấy con ngựa đó, nếu có chút hạnh phúc thì liền sau đó, tôi lại khổ sở gấp đôi. Nhưng nếu nó bắt đầu bằng bất hạnh thì rồi sau đó tôi lại gặp may. Ngày anh ấy bỏ tôi, tôi đau đớn tưởng chết. Nhưng nếu không thế, chắc gì tôi đã được như bây giờ. Người ta bảo là gì nhỉ, à, "Tái ông thất mã", phải không anh? Bây giờ tôi chẳng mơ ước gì nữa. Tôi có gia đình, nhà cửa, công việc đàng hoàng. Tôi chỉ mong được sống yên ổn. Suốt mấy đêm liền tôi không ngủ được.Tại sao nó cứ đeo đuổi tôi như vậy?
Người đàn bà rướn người về phía Thành. Trông chị ta có cái vẻ của một con báo đang rình mồi. Cái dáng mềm mại nguy hiểm, căng lên vì chờ đợi. Nhưng Thành biết, ẩn sau đó là một trái tim đàn bà yếu ớt, dễ thương tổn và tự tin đến ngu ngốc. Anh lặng lẽ ủ đôi tay run rẩy của chị ta trong lòng bàn tay rộng lớn của mình. Con ngựa ô tội nghiệp...
Thành vẽ như người bị nhập đồng. Bức họa anh chưa từng vẽ. Không phải màu nữa mà là những tuyệt vọng u ám, sự căm giận điên cuồng, tình yêu và khát vọng chưa bao giờ chạm tới được... chảy như suối trên mặt giấy, xoắn lại thành một khối hình. Thành quăng bút. Anh kiệt sức ngắm tác phẩm của mình. Con ngựa ô đứng trên mặt đất xám tẻ nhạt, giữa sỏi, lá im lìm, gà vịt ngủ lăn lóc. Hoang dại, kiêu hãnh, dây cương thắng sẵn đỏ rực như lửa cháy, ngựa ô, mày chờ đợi gì?
Người đàn bà khóc khi nhìn bức tranh của Thành. Chị ta lấy ra một tập tiền, trân trọng đưa anh với vẻ hàm ơn. Thành toan từ chối, nhưng lại nhớ tới món nợ thuê phòng tranh. Có cái gì toàn vẹn đâu. Dù là ngựa ô thì cũng phải sống chứ... Má nóng rát vì hổ thẹn, anh mỉm cười cảm ơn người đàn bà.
Thành thôi không thuê cái phòng tranh tám mét vuông đó nữa. Thanh toán xong món nợ, anh ra quán, gọi một vại bia, lại vại nữa... Chiều rỗng tuếch. Thành chợt thấy nóng ruột như lửa đốt. Anh thèm gặp lại người đàn bà. Thèm được ngắm con ngựa ô. Anh là thằng đàn ông khốn nạn. Nhưng nàng sẽ tha thứ. Nàng là đàn bà. Và con ngựa ô, chính tay anh đã vẽ, nó sẽ hiểu anh... Thành bấm chuông. Cánh cổng sắt nặng nề hé mở. Người đàn bà đang bận. Thành thấy một đống lửa nhỏ ở góc vườn. Con ngựa ô đang bị hỏa thiêu cùng với một đống vàng mã và tiền âm phủ. Dây cương đã cháy trụi, bờm ngựa bắt đầu bén lửa ngùn ngụt. Thành lao tới. Nhưng đã muộn. Anh nhìn đống tàn tro ngổn ngang, vô nghĩa. Nhìn người đàn bà. Gương mặt chị ta đẫm nước mắt:
-Tôi phải đốt nó đi. Để giải thoát. Thầy bói đã bảo, có thế, tôi mới sống yên ổn được... Anh ơi, đó là bức tranh đẹp nhất đời tôi...
Thành bỏ đi. Chiều oi ả khủng khiếp. Không có mưa. Thành cầu mong đêm xuống, anh lại mơ thấy con ngựa ô, hoang dại, kiêu hãnh, lông đen ánh kỳ dị và cỗ bờm rực lên ánh lửa... Nhưng nó chẳng bao giờ xuất hiện. Có đôi lần, trong những đêm trở gió, anh mơ hồ nghe tiếng hí của nó vẳng lại, tha thiết, bồn chồn... ./.