Một ngày kia, anh tôi cùng với những người trong họ ở kinh thành bàn định muốn cải táng
[199] phần một tổ, định ngày và báo cho biết. Tôi đến dinh quan Chính Đường xin phép về quê. Vị quan này cho rằng tôi xin cáo biệt là muốn về Hoan Châu chăng, cho nên mấy lần đến mà vẫn chẳng cho vào giáp mặt. Tôi chán nản chẳng biết làm cách nào. Quận hầu bảo tôi rằng: “Phải vào trong phủ mà yết kiến”. Tôi vào phủ, đến trú sở Hậu Mã ngồi đợi. Nửa ngày trôi qua mới thấy quan Chính Đường ở trong cung cấm đi ra. Tôi đem việc ra nói; lúc mới đầu ông không ưng thuận. Tôi nói rằng: “Tôi bỏ nhà ra đi, xa phần mộ đã hai mươi năm nay, nghèo túng không về thăm được. Ngày nay vâng chiếu chỉ, may được về kinh đã quá nửa năm mà vẫn chưa trở về thăm lấy một lần. Cái tình làm con như vậy, chịu đựng làm sao được. Xin đại nhân thương cho”. Lúc đó lời nói và sắc mặt của tôi đều tỏ ra cương quyết. Quan Chính Đường nói rằng: “Hiện nay về thuốc thang cần luôn luôn có cố vấn. Nếu có lệnh triệu thì sao?”. Tôi nói: “Từ nhà tôi tới kinh, đường đi hết nửa ngày. Thảng hoặc có việc khẩn cấp thì đi về bất quá một ngày có khó gì”. Ông nói rằng: “Ông nên làm tờ khải xin một hạn dài để hồi hương, nói rõ việc cải táng, xin nghỉ mười lăm ngày, sau sẽ trở lại kinh, trông coi việc thuốc thang”. Tôi xin một tháng; ông nói rằng: “Nếu cần lo liệu xếp đặt việc nhà, thăm hỏi cố cựu thì bấy nhiêu cũng đủ rồi”. Tôi lại nài xin thêm, ông bằng lòng tăng thêm năm ngày nữa. Tôi biết là cái thế chẳng cưỡng lại được, mới làm tờ khải đệ nạp, cảm ơn mà cáo biệt, quay về nhà trọ, mừng khôn xiết. Tôi thu xếp hành trang, mượn vài ba người đi theo, cắt năm người lính Tiền Dũng giữ nhà. Ngày mùng mười tháng chín, nhân đêm trăng lên đường sớm. Khi đến cửa Ông Mạc
[200] thì cửa thành chưa mở, quân giữ cửa thấy có phù hiệu hành quân mới mờ cửa cho đi qua. Tôi tới đò Thanh Trì
[201], trời mới bình minh. Tôi lên đường qua sông. Lúc này ở trong thuyền, lòng tôi lâng lâng nhẹ. Tôi ngâm một bà i thơ để tả khúc nhôi rằng:
Lạc phách giang hồ tam thập niên
Như kim phục thướng Nhị hà thuyền
Thiên lưu hợp phái hoành trung thổ
Tam đảo kinh vân lập viễn thiên
Cảm tích hứng kim do vị dĩ
Hương hoài khách tứ khước du nhiên
Hạnh thừa chiếu mệnh lai kinh quốc
Đắc dữ thân bằng tiếu nhất phiên
Ba chục năm lưu lạc đất người Lại qua sông Nhị một thuyền bơi Nghìn dòng họp nước dâng trong cõi Tam đảo[202] gần mây đứng giữa trời Cảm cũ hứng nay dường chẳng vợi Tình quê nỗi khách luống khôn nguôi Dịp may vâng chiếu vào kinh ấy Được gặp thân bằng thỏa nói cười! Đến bến sông Bát Tràng, bỏ thuyền lên bộ mà đi. Hai bên đường hương thôn trù thịnh, thần đình phật tự đều lập ngói, điếm rượu phòng trà nối liền nhau. Mỗi lần đi được hơn một dặm đường thì tôi dừng chân nghỉ ngơi. Người hầu mang gậy trúc đi theo. Tôi vui ngắm phong cảnh, mỗi bước chân lại thấy cây liễu, cây bưởi. Khi sắp tới nhà ở Liêu Xá, thì noi theo cái cầu ngói (trước thôn có cầu ngói bắc qua sông) mà đi vào dinh cũ của cha tôi xưa để nghỉ ngơi. Lúc này người anh làm quan trấn Lạng Sơn đã có dinh riêng biệt trong làng. Bà chị dâu trưởng, tức vợ quan Thống Nhất
[203] xưa, ở đó trông coi việc thờ phụng tổ tiên, tuổi đã ngoài bảy mươi, tóc bạc như tơ, mà tinh thần còn sảng kiện. Bà thấy tôi thì vừa đau khổ, vừa mừng rỡ, cầm nước mắt mà cất tiếng nói. Trong cảnh lữ thứ này lòng tôi cũng xót xa.
Ngày hôm sau, tôi đi ngoạn cảnh trong vườn, coi kỹ cái nền móng thuở xưa. Khi bước tới một gốc cây lớn, tôi nhận ra phòng ngủ của cha tôi xưa ở đây. Ở giữa vườn cau là nhà khách, ở về một bên phía sau công đường; bên tả là nhà trong, bên hữu là nhà bếp. Ngói vỡ và bậc đá là vết tích còn lại của nhà học, nom thấy khá rõ ràng. Mỗi khi đi đến một nơi nào đó thì lại một phen trù trừ. Việc đời biến cải, thời gian đổi dời, cái cảnh thử ly
[204] khiến cảm động khôn xiết, trong dạ bồi hồi chẳng nỡ bỏ đi. Khoảng nửa giờ sau mới lại nhà, cùng thân thuộc gặp gỡ, bày biện đủ sanh lễ, tế từ đường. Người trong làng sắm lễ vật đến yết hạ
[205], già trẻ có đến vài mươi người, trong số đó biết tên, biết mặt chừng vài ba người. Tôi đem rượu, tiền đáp lại và vội vã dọn mâm chén cùng bọn ấy uống rượu. Từ đó có ai đến thăm thì lại nói chuyện về chi phái của tổ phụ, về nhũ danh của mọi người. Có để ý kỹ càng mới phân biệt được những điều ấy. Nghĩ cái tình huống xa cách nhớ nhung, bất giác tôi khóc lên mà rằng: “Tôi từ bỏ quê hương ra đi đã ba mươi năm nay, đến nay trở về thì vật đổi sao dời, thân thuộc đầy dẫy trước mặt mà không rõ tính tự, thật là ra người Lạn Kha
[206] vậy”. Tôi mới nhân cảm hứng có mấy vần thơ rằng:
Cố hương nhất qui tỉnh
Khế khoát ám nhiên sinh
Lịch hí hi du địa
Du du cảm động tình
Tùng thu tân sáng tự
Hoa thảo cựu thời dinh
Tương kiến nhi đồng bối
Hàm hồ nhận nhũ danh
Một chuyến thăm làng cũ Sầu này dễ kẻ không Chơi bời xưa đất ấy Cảm động nay tình nồng Chùa mới trúc tùng rậm Dinh xưa hoa cỏ lồng Nhi đồng cùng lứa gặp Tên cũ nhớ lung tung Ngày hôm sau, tôi sắm đủ nhang đèn, tiền giấy, mang theo đi lễ phần m ộ tổ tiên cùng các từ đường, lại còn đến miếu trong làng lễ yết bản cảnh thần linh
[207]. Xong việc rồi, nhân đến cái cầu trong làng chơi ngắm cảnh, tôi cùng các công tử em họ trò chuyện.
Nguyên trong làng tôi có một cái khe nước nhỏ giống hình quả bầu. Là ng chia làm hai thôn, một thôn ở giữa quả bầu, thôn kia ở phía ngoài. Mộ t cái cầu gỗ nối hai thôn lại để tiện qua lại. Trên cầu có cột và dầm
[208] lập ngói, hai bên dựng ván cao, phía ngoài lại dựng lan can bằng gỗ để tiện cho du khách nghỉ ngơi. Trong thôn, đàn bà hàng ngày đến ngồi ở đây bán trà, rượu và những dồ chứa đựng trà r ượu. Thuở thiếu thời tôi rất thích mến nơi này, chẳng ngày nào không đến đây chơi. Mỗi năm về đầu mùa hạ, hai dòng nư ớc dâng lên đầy dẫy, nước sông chảy cuồn cuộ n. Tôi thường cùng anh tôi là quan trấn Lạng Sơn nhảy xuống nước tắm, lúc bơi lúc lặn, cùng nhau đùa giỡn, canh khuya mới về nhà. Tôi nhớ lời anh tôi bảo tôi rằng: “Bọn ta còn nhỏ tuổi, nên tùy ý du ngoạn, nữa một mai trưởng thành đi làm quan, xa gót chốn giang hồ, làm sao ngày ngày lại có thể chơi đùa ở chốn này được”. Rồi sau này quả nhiên anh tôi thi đỗ còn tôi đi xa đó đây, há chẳng phải là lời sấm của trẻ con sao? Lúc đó tôi kể chuyện cũ cho các công tử cùng nghe, bỗng thấy tấm lòng hoài cổ như bị khêu gợi, tôi mới ngâm lên một bài thơ ngắn rằng:
Thiếu thời du ngoạn xứ
Mỗi vọng mỗi tư ta
Kỷ độ phi hoàng diệp
Trùng lai vọng bạch ba
Kiều hoành y cựu khúc
Đoản thụ chí kim tà
Tuế nguyệt thôi nhân khứ
Thân bằng kỷ tại gia
Chốn ấy xưa du ngoạn Mắt trông than thở phiền Lá vàng bao độ rụng Nước bạc một dòng tuôn Cầu bắc như xưa đứng Cây cằn tựa trước xiên Tháng ngày người cách biệt Lắm kẻ vắng gia môn Các công tử bảo tôi rằng: “Trong thôn ta, chùa Từ Vân do quan Đốc dồng Lạng Sơn tự xuất của nhà ra hưng công sáng tạo, cực kỳ tráng lệ; trước chùa có hồ phẳng lặng. Năm ngoái không biết từ đâu bay đến, mà trong hồ thấy có vài ba thân cây sen hồng; năm nay đầy khắp mặt hồ nào hoa nào lá tốt tươi, mùi thơm bay khắp ấp, thực là cái điềm tốt hiếm có. Nghĩ rằng trong làng ắt có cái triệu ứng vào danh cao vọng lớn, nay thấy đại huynh phụng chiếu mà đến, ý giả cái điềm lành ở đó chăng?”. Tôi cười mà rằng: “Phàm
xử thời giữ đạo,
xuất thì thi ân, thế mới là làm được việc lớn, ta là người bỏ đi, nay lại cầu may thì hổ thẹn biết bao, sao có xứng cái điềm tốt được!”. Các công tử nói rằng: “Anh đừng coi nhẹ mà phụ cái điều thần ứng”. Rồi chúng tôi dắt tay nhau trèo lên gác chuông mà ngắm cảnh. Các công tử còn đòi phải có thơ. Tình và hứng của tôi đang dào dạt, tôi ngâm rằng:
Tiêu điều loạn hậu cảnh
Kim nhật thủy trùng quang
Cổ tỉnh trùng lưu nguyệt
Phi liên thụy thổ hương
Lâu cao ưởng chung cổ
Tùng tĩnh vận sinh hoàng
Phi điểu ưng tri quyện
Khuynh sào tại dị hương
Buổi trước loạn xơ xác Cảnh nay sáng tựa gương Giếng xưa soi bóng nguyệ Sen nở thoáng mùi hương Chuông gác nghe âm vẳng Rặng tùng nổi nhạc vang Chim bay dường đã mỏi Vỡ tổ lạc tha hương Các công tử cười mà nói rằng: “Chim bay đã biết mỏi mệt rồi vậy”. - Tôi nói: “Kẻ du tử thương xót quê cũ, ai chẳng một bụng ấy, huống chi cái niềm vui sống trong tử lý
[209] cũng đã muộn màng rồi. Thơ Đường có câu:
Mạch thượng qui tầm vô sản nghiệp
Thành biên chiến cốt hữu thân tri
Lối cũ tìm về vô sản nghiệp Bên thành chết trận có thân nhân. Thơ ấy thật tả trúng cái bệnh của ngu huynh”.
Trong lúc chuyện trò, bỗng nghe lanh lảnh tiếng chuông xa vang lại. Tôi nói: “Không biết tiếng chuông ở xứ nào mà khêu gợi như vậy?” - Các công tử đáp rằng: “Chùa Liêu Xuyên”. Tôi mừng rỡ mà rằng: “Xưa kia ngu huynh cùng với người ấy có chút giao tình”. Tôi mới cùng mọi người đến chơi nơi đó. Khi tới cửa chùa thì thiền sư chống trượng, đứng ở bên sân Đàm Hoa
[210]. Trông thấy tôi nhà sư mừ ng rỡ vô cùng, dắt tay đi vào thiền phòng
[211] cùng ng ồi, pha trà, cùng nhau đàm đạo. Nhà sư mở đầu nói rằng: “Từng nghe đại nhân nằm mát một nơi sơn thanh thủy tĩnh, cảnh trí tịch mịch mát mẻ, vượn hạc từng bầy, yên hà đầy cửa; bần tăng muốn đến nương nhờ, chỉ giận không có cách nào cả”. Tôi đáp: “Người gặp cảnh mà nên sang, cảnh gặp người mà nên đẹp. Giữa cái vườn trong núi của tôi lại có ngư ời đức hạnh nữa. Anh tôi mến cái cảnh nhàn tịch mới dựng lên một nơi thờ Phật dưới gốc cây trong đám rậm rạp; phía ngoài xây gác chuông, sớm tối đánh mấy hồi chuông để quên trần niệm
[212]” - Nhà sư nghe vậy thì chắp hai tay lại mà nói to rằng: “Thanh nhàn và thích thú như vậy, thì dẫu có đỉnh chung
[213] cũng không đổi lấy được”.
Lúc đó mặt trời về tây sắp lặn,tôi muốn cáo biệt. Các công tử nói rằng: “Nhà chùa tuy ở chốn thôn dã, nhưng có hoa cỏ u nhã cũng đủ cung hứng thơ, sao anh lại lặng thinh được ư?” - Tôi nói: “Xin đề thiền phòng một bài thơ ngắn để lưu biệt mà thôi” - Nhà sư nói: “Nếu ban cho như thế thì còn cái gì hay hơn!”. Rồi đưa ngay tứ bảo
[214] lại. Tôi đề rằng:
Yên thủy giang thôn tịch
Thiền phòng hoa thảo thâm
Vô trần đăng bỉ ngạn
Hữu vị giác từ tâm
Hải nguyệt khuy Kim tướng
Tùng phong cổ đạo cầm
Hương đăng cung thần tịch
Chung cổ hữu hòa âm
Sông thôn dâng khói nước Hoa cỏ phủ thiền phòng Sạch bụi chèo qua bến Bén mùi tu gắng công Gió tùng vang đạo nhạc Trăng biển chiếu Thiền tông[215] Hương khói thờ khuya sớm Trống chuông âm điệu đồng Đề xong, tôi từ giã nhà sư ra về. Lúc này gặp ngày húy chú tôi, xưa l àm thượng thư. Quan Đốc đồng tuy làm quan nơi xa xôi, đến ngày giỗ cũng về. Cúng lễ xong, ngày hôm sau, ông đến chùa Từ Vân, rủ tôi cùng đi chơi với các công tử, lại bày yến tiệc thịnh soạn cùng nhau hoan hội. Tôi đến, các công tử đem mấy bài thơ đề vịnh của tôi ra cùng nhau bình ph ẩm. Quan Đốc đồng chọn hai bài
Qui Tỉnh và
Đề Kiều mà ông cho là trội hơn cả.
Họa
Qui Tỉnh Cổ Liêu danh thắng địa
Hào kiệt mỗi thời sinh
U nhã tam hiền miếu
Oanh hồi nhất thủy tình
Nhân dân hằng kiệm ước
Đình vũ thủy kinh doanh
Cao chí ưng đa thứ
Hà tu ẩn tính danh
Cổ Liêu nơi thắng địa Hào kiệt chẳng thời không Ba đấng[216] đền u nhã Một dòng thư mặn nồng Nhân dân kiệm phác[217] ấy Nhà cửa trước sau lồng Kẻ chí cao tìm thú Cần chi phải ẩn tung Họa
Đề KIều Thử kiều cư thử địa
Du ngoạn mỗi ta ta
Văn đồ hoàn vũ lộ
Tiền lưu chuyển hậu ba
Bằng lan thi hứng sảng
Đối bạn trúc chi tà
Tứ vọng hân hân xứ
Thi thư lễ nhạc gia
Cây cầu xây đất ấy Du ngoạn luống than phiền Đường võ nghề văn sẵn Dòng tiền sóng hậu tuôn Lan kề thơ vịnh khoái Bờ trước trúc cành xiên Bốn phía say sưa ngắm Văn chương thi lễ môn[218] Anh Trấn Lạng nói rằng: “Nghề văn đường vũ, dòng trước sóng sau, những câu ấy chứa đựng cái khí tượng xa rộng, thơ họa như thế thật hay”. Lúc ấy người cháu họ cũng có mặt tại đó. Quan Đốc đồng bảo rằng: “Bọn các ngươi khi nhỏ chưa coi mặt quan tổ thượng thư, nên coi mặt bác đây sẽ rõ”. Tôi cười mà rằng: “Cứ nghĩ đến mi rậm tóc dày thì sao có tương tự được với tôn thúc”. Các công tử đều nói rằng: “Coi cho kỹ, quả mư ời phần không sai”. Chúng tôi ngồi chuyện trò ăn uống thỏa thê, mãi đến canh khuya, mọi người mới giải tán ra về. Các ông vui mừng thấy tôi về làng, chưa có cách gì để cùng vui với nhau. Quan Đốc đồng đưa giấy báo em rể là quan Viên hình, khiến chỉnh bị một chiếc thuyền, ước hẹn với quan Trấn Lạng Sơn, quan Viên lễ (cũng là em họ tôi) đem rượu và đồ nhắm đến cùng tôi xuống thuyền, phóng chèo trên sông Hồ Lô, ngắm trăng, làm thơ, thuận giòng mà xuôi, như vậy trong hạn mười ngày. Lại có người làng đến nói là hiện đình đài mới xây dựng lên, sẽ có lễ lạc thành
[219], có tổ chức một chầu ca xướng, mời tôi định ngày đến dự lễ. Tôi cúng hương tiền ba quan. Lúc này có quan Doãn Thừa Thiên
[220] đến xin chẩn bệnh. Nguyên lúc tôi ở Kinh thì ông mắc bệnh đã lâu, có sai người đến lấy thuốc. Đến khi nghe tin tôi trở về làng thì bệnh của ông ta vốn vẫn là hư kiệt; tôi chế tạo một tễ cao dược cho ông ta. Trong lúc dùng thuốc, ông ta thấy tôi về làng mà vẫn để tâm nghiên cứu chữa bệnh, mới gửi cho tôi một bài thơ để tạ ơn (nói về lúc bị triệu, trên đường đi tả nỗi lòng, dùng vần của bài thơ ấy). Thơ rằng:
Nhục mông thanh cố kiến tâm chân
Nghĩa tại nguyên vô thị phú bần
Tích huệ dược phương điều cửu bệnh
Kim tư dịch liệu tế suy thân
Bất quan đầu hạt năng lưu khách
Chỉ đãi thành cao dục hoạt nhân
Tạ đáp thiên hoài vô biệt huống
Liêu bằng nhất luật biểu thiên quân
Ngửa trong chiếu cố cảm lòng chân Trọng nghĩa không coi nặng phú bần Trước cậy điều thang trừ sạch bệnh Nay nhờ chế tễ giữ yên thân Chẳng cần cản trục mà lưu khách Chỉ đợi cho cao để cứu nhân Tạ đáp lấy chi làm tặng vật Dãi lòng mấy vận nhớ ơn quân ----------------
[199] Cải táng: thu góp xương cốt người chết đã được táng năm ba năm, lau chùi cho sạch, bỏ vào một cái tiểu bằng sành mà di đi, chôm tại một nơi khác.
[200] Ông Mạc: thường gọi là Ô Đồng Mác.
[201] Thanh Trì: tên một huyện cách Hà Nội chừng 12 cây số, thuộc tỉnh Hà Đông.
[202] Tam Đảo: tên ngọi núi cao thuộc tỉnh Vĩnh Yên, Bắc Phần.
[203] Quan Thống Nhất: chưa rõ vị nào. Hoàng giáp Lê Hữu Danh là thân ohụ Lê Hữu Hy, Lê Hữu Mưu và Lê Hữu Kiều. Không rõ đây có phải là Hữu Hy không?
[204] Thử ly: Kinh Thi, thiên Vương Phong nói về điều thương xót nhà Chu. Quna đại phu nhà Chu đi hành dịch (công tác) đến chỗ nhà Chu, đi qua cung thất xưa chỉ thấy đầy dẫy cây lúa và cây kê, thương xót cái cảnh nghiêng đổ của nhà Chu, bàng hoàng không nỡ bỏ đi, nhân đó mới làm ra bài thơ ấy. Khi này nhà Chu đã dời đô về ph ương đông, nhà Chu túc là Tây Chu trước vậy. Ở đây mượn tích
Thử ly để tả cảnh tang thương trước mắt.
[205] Yết hạ: đến hầu chuyện và đưa lễ mừng.
[206] Lạn Kha: tên núi Lạn Kha ở Triết Giang. Đời Tấn, Vương Chất vào núi kiếm củi, thấy hai đồng tử ngồi chơi cờ. Đồng tử cho Chất một vật như hột táo, ăn vào hết đói. Xong cuộc cờ, đồng tử trỏ tay mà bảo rằng: “Cán búa nhà ngươi hư nát rồi”. Chất quay trở về làng thì đã được một trăm năm rồi. Vì thế mới có tên núi là Lạn Kha (lạn là hư nát, kha là cán búa).
[207] Bản cảnh thần linh: vị thần cai quản địa ph ương.
[208] Dầm: phiến gỗ bắc ngang để đỡ xà nhà hay sàn gác.
[209] Tử lý: quê cũ (tử là cây thị - lý là là ng). Cây tử thường được trồng ở đầu làng, dùng để chỉ quê hương. Nhị Độ Mai có câu: “Kẻ về Tử Lý người vào Ngọc Kinh”.
[210] Đàm Hoa: tên cái sân. Đàm hoa là một thứ cây ba nghìn năm mới trổ, một lượt thì có Phật xuất thế.
[211] Thiền phòng: Phòng ốc nhà sư ở.
[212] Trần niệm: những mối ưu tư của người đời.
[213] Đỉnh chung: cái vạc và cái chuông. Ý nói nhà quyền quý, mỗi bữa ăn, đánh chuông gọi người về ăn, bầy vạc ra cho ăn (vì nhân gia đông đảo). Đỉnh chung do câu “Chung minh đỉnh thực” của Vương Bột.
[214] Tứ bảo: Bốn thứ là bút, nghiên, giấy và mực.
[215] Thiền tông: tên tông phái Phật Giáo, cũng có tên là Phật tâm tông.
[216] Ba đấng: dịch chữ tam hiền, ba nhân vật tà i giỏi được thờ phụng trong đền làng.
[217] Kiệm phác: cần kiệm và chất phác.
[218] Thi lễ môn: Nhà có học Thi học Lễ, ý nói l à nhà văn học.
[219] Lạc thành: lễ mừng mới làm xong, đền đài, nhà ở - lễ khánh thành nhà cửa.
[220] Quan doãn Thừa Thiên: quan đầu phủ Thừa Thiên. Doãn tức là chức quan phủ, huyện cũ (phủ doãn, huyện doãn).