Một ngày kia, có hai người mang nhiều binh lính đi theo, đến hỏi tôi. Một người là trợ giáo ở Quốc Từ Giám, một người là quan tri phủ cũ huyện Tiên Hưng. Hai ông nói rằng: “Thừa lệnh quan Tham tụng Tả binh, chúng tôi đến mời quý sư”. Tôi đón vào, mọi người cùng ngồi. Hai ông nói: “Quan lớn chúng tôi mắc trọng bệnh, đã hơn tháng nay dùng thuốc khắp nơi mà không khỏe. Nay bệnh nguy kịch lắm, xin quý sư niệm tình niên hữu (viên quan này cùng với quan Trấn Lạng Sơn có tình bạn cùng thi đỗ một năm) chẳng tiếc gì mà đến một phen”. Tôi đáp: “Đại quan cùng với anh tôi có tình nghĩa đồng khoa
[148], tôi đâu dám biếng nhác”. Tôi mặc áo lên cáng ra đi, đến nhà ngoài thì quan Tham nghị Hải Dương bước ra đón vào nhà trong cùng ngồi, kể cho nguồn gốc bệnh. Giây lát xong, ông mời tôi vào phòng coi bệnh. Người ốm nằm trên võng, đưọc nâng dậy đặt xuống giường, đợi chẩn bệnh. Tôi thấy mạch bên tả ba bộ thật yếu ớt, mạch bên hữu như không còn, nhưng ba bộ còn vuợng. Chỉ biết đè nhẹ xuống thì mạch tản mác, đè hơn nữa thì không còn thấy gì. Đến sát gần người ốm thì thấy khí nóng bốc ra, sờ vào nguời thì thấy âm ấm, chân lạnh, hơi ợ ra. Hỏi thì đáp rằng như ngồi trong đám khói dầy đặc, mắt cay lắm, phải nhắm lại; trong ngực nghe nóng lắm và ợ hơi ra; đại tiện táo kết, tiểu tiện đỏ và rít, không nuốt đồ ăn đuợc. Bệnh nhân nói rằng: “Tôi với bác có tình nghĩa niên gia
[149]. Mệnh này chỉ còn trong sớm tối”. Tôi từ tạ nói rằng: “Đây cũng là bệnh thường, quyết không có gì phải lo, xin yên tâm đừng lo nghĩ. Trong tuần nhật
[150] bệnh sẽ thuyên giảm”. Ông ta nghe nói vậy thì mừng lắm. Tôi kiếu từ xin ra ngoài.
Quan Tham nghị hỏi nhỏ tôi chứng bệnh ra sao. Tôi nói: “Cái chân âm ở bên trong đã kiệt, dương không tựa vào đâu mà muốn thoát thế đến nơi rồi”. Tôi hỏi trước kia chữa bệnh ra sao. Quan Tham nghị đem quyển ký bạ cho tôi coi. Tôi xem xét thấy các vị thuốc đều là thanh hỏa hóa đàm, trừ thấp. Viên quan ấy tuổi cao, hầu thiếp đầy rẫy trước mặt, người già thì chân âm đã hao, lại luyến ái sắc đẹp để cái tinh khí sút giảm, cho nên âm phải kiệt. Thuốc chữa đã không biết bồi bổ, trái lại còn làm tiêu bại đi, chẳng nguy sao được. Tôi nghĩ mạch còn hòa hoãn, thế là cái vị khí chưa tuyệt, nhưng con bệnh đã bị thuốc làm tổn hại, chứ riêng bệnh cũng không đến nỗi thế. Tôi cố gắng sức thì mới nên việc được. Tôi nói rằng: “Cơ nguy đã đến, chưa dám đoan chắc, xin bốc một thang, khó dễ sẽ phân định ngay. Tôi có điều tâm sự không biết đại quan có ưng cho không, sau đó mới dám bốc thuốc”. Vị hầu ấy đáp rằng: “Lão sư có việc bảo cho biết, lẽ nào chẳng nghe theo”. Tôi nói: “Tôi vì già yếu không thể vào chầu, nhiều lần làm tờ khải xin kiếu từ mới được tại ngoại mà phụng thị
[151] thuốc thang. Những quý quan các nhà có việc tìm đến thì tôi lấy cớ già yếu mà chối từ. Còn quan lớn đây thì có tình nghĩa niên nghị với anh tôi, tôi chẳng dám trái lời. Chỉ vì Thánh Thượng không ngày nào là không sai quan đến vấn an ngài, nếu như có hỏi về việc dùng thuốc, xin nói trá ra người khác mà giấu danh tính cho”. Quan Tham nghị vào nhà trong cáo trình. Đại quan sai ông trợ giáo đến trả lời rằng: “Chỉ mong lão sư hết lòng điều trị, tôi đã điều đình, bất tất e ngại”. Tôi mới chế một tang thuốc tư âm
[152] thật lớn, dùng thục địa, ban long, tất cả đến vài ba lạng, bảo đun lửa to rồi đem dùng. Tôi từ biệt về nhà.
Ngày hôm sau, trời còn thật sớm đã thấy ông trợ giáo, mặt mày hớn hở, nói rằng: “Thật là thần dược! Uống một nước thuốc thì mát như đã uống hai ba nước, các chứng bệnh mười phần đã giảm đi ba bốn, cả nhà đều hết sức mừng rỡ. Quan tôi sai tôi đến xin thuốc”. Tôi cứ đơn thuốc nọ thêm nhân sâm mà chế thang bội lên. Ngày hôm sau lại cho mời tôi đến. Tôi bắt mạch, hỏi bệnh nhân thì mười phần đỡ đau bảy, tám. Trong lúc ăn uống viên quan ấy cung phụng không thiếu thứ gì, tận tình xiết kể. Ông cầm tay nói rằng: “Giận rằng tôi vô duyên, bị bọn thầy thuốc bất tài làm cho khốn đốn, suýt nữa toi mạng. Giận rằng bác Lạng Sơn từng đến vấn an tôi, lại không cho biết lại có bác ở đây”. Tôi nói: “Xin đại quan đừng trách, anh em với nhau càng khó nói”. Viên quan nói rằng: “Cất nhắc cha hiền, con không hiềm nghi, huống hồ là anh em”. Tôi nói: “Chỉ vì tị hiềm mà thôi”. Mọi người đều cả cười. Tôi xin phép ra ngoài biên đơn thuốc. Tôi thấy hư hỏa còn mạnh, nên tiếp tục dùng thang thuốc bổ hỏa, dẫn hỏa và thuốc vị khí. Viên quan đưa tặng vật thật nhiều. Tôi từ tạ rồi ra về. Từ ngày đó, vật thực thời nghi
[153] đưa đến làm quà tặng luôn luôn, chẳng cần nói đến.
Mới được hơn một tuần, bệnh lại tái phát, lại vội vã cho người đến mời tôi. Tôi nghe vậy chẳng đoán được việc gì mới dò hỏi. Người đến mời nói rằng: “Đích thị là ngộ phòng
[154]”. Tôi đến bảo vị quan rằng: “Phàm bệnh nặng dai dẳng thì khí huyết hư nhược, bất cẩn một chút thì bệnh khó mà chữa được; đại quan thân trọng vạn kim, xin nên vạn lự
[155]". - Vị quan ấy đáp rằn g: “Từ nay một lòng nghe theo lời dạy, chẳng dám cưỡng lại”. - Tôi lại nghiên cứu cho thuốc điều bổ rồi cáo lui. Tôi trở lại nhà thì có một người bảo tôi rằng: “Ông quan ấy, cụ dẫu có gắng sức điều trị cũng chẳng được. Nếu bệnh có chữa được tạm yên thì trong thời gian bốn, năm ngày tất có vài ba bận âm cữu
[156]. Ai cũng nói như vậy”. Tôi cho là vị quan ấy cầm quyền bính trong tay thì những việc ân oán hẳn là có, nhưng không hay biết là những lầm lỗi đã thành thói quen vậy, nên tôi chỉ mỉm cười thôi. Rồi nửa tháng sau, bệnh tái phát như trước, cho người đến mời tôi. Tôi hỏi chuyện kỹ lưỡ ng thì được trả lời vì ăn cơm nếp mà ra vậy. Ông trợ giáo nói riêng với tôi rằng: “Vị tất lại ăn cơm nếp mà bệnh tái phát, nếu có như vậy đã chẳng vội vã cầu đến lão sư làm gì, chỉ vì nghe nói bên đông có thầy thuốc thần diệu là thử dùng một lần, hoặc nghe nói đằng tây có thầy thuốc giỏi lại dùng một thang, trong một ngày một đêm đã thay đổi đến bốn, năm thầy, ý chừng bị ngộ thuốc, xin lão sư để tâm điều trị”. Được vài ba ngày, bệnh tuy thuyên giảm một vài phần, lại thấy đi ỉa chảy. Sợ rằng không cầm giữ được, tôi vội cho thuốc vị khí mới yên, rồi lại biến ra chứng táo bón, tôi lại dùng thang tư âm để cho thông hoạt, tạm được hòa dịu. Tôi ra về. Năm, sáu ngày qua đi mà không thấy người đến hỏi thuốc. Tôi hỏi chuyện thì người ở cạnh tôi nói rằng: “Vâng chịu ngự y lo việc chữa bệnh đã vài ba ngày rồi mà không công hiệu, nay mời chư y họp lại để cùng chạy chữa”. Tôi nghĩ đi nghĩ lại, than rằng: “Vị quan này đem thân ra thử thuốc; thầy thuốc lập dị tranh công, tính mạng hẳn chẳng còn nữa! Có điều bất cẩn là việc của con người lại cho là mệnh trời không cải được ư?” - Ngày hôm sau ông trợ giáo đến tìm tôi, tôi thấy con quan Tham nghị cũng đến mời nữa và còn tạ lỗi. Nghe các ông ấy tìm mọi lẽ kêu nài thảm thiết, tôi nghĩ thầm: “Nếu ngày hôm nay bệnh bớt, ngày mai sẽ lại thay tay khác. Vả lại vị khí đã bại, cái thế thực khó mà duy trì được”. Tôi không chịu đi nữa. Họ khẩn cầu, tôi mới chế cho một thang cửu dương
[157]. Vài ba ngày sau, quả nghe nói vị quan kia đau không trở dậy được. Tôi than thở không thôi. Nhân tập cổ thi làm thành một bài đoản luật để ghi lại sự việc
Vô dược khả y khanh tướng mệnh
Hữu tâm ưng đối quỷ thần tri
Thế gian duy hữu phương danh tại
Phú quý phù vân bản tự khi
Khanh tướng[158] thôi đành không thuốc chữa Lòng này thực có quỷ thần hay Thế gian chỉ có danh thơm quý Phú quý mây bay giả dối thay Lại như quan án trấn Thái Nguyên (tên Hầu Tạo Tịnh) bị bệnh ung nhọt, không ngồi dậy được. Máu đã kiệt, chẳng làm mủ nữa, mà thầy thuốc còn cố trừ khử. Cái thoát thế đã sẵn sàng. Tôi cho uống thuốc bổ thật mạnh, tinh huyết bấy giờ mới hồi sinh. Lại trước đấy, bụng thì lạnh, ngực cách bị đầy nghẹt, đầu nóng như lửa bốc, mắt đỏ, tai ù, gân cốt run rẩy. Hỏi ra thì vì sợ nóng bốc lên, nên chẳng dám dùng quế phụ. Tôi đem thuốc thủy hỏa kèm thêm các thứ liễm nạp mà cho uống. Sau vài ba năm ốm đau dai dẳng, chỉ một tháng chữa trị là thành công.
Lại còn em vợ quan Trung Hãn cũng bị đau, toàn thân giá lạnh, sợ gió, chân bị tê liệt, tai điếc, thêm cái bệnh táo bón, cứ hay uống nước. Hỏi ra thì sợ ngực trướng, một ly thục địa chẳng dám dùng. Tôi cho dùng bát vị gia giảm thêm mấy vị bổ âm cho lá lách, vài ba tháng sau là chữa khỏi cái cố tật từng mang mười năm kia.
Rồi lại bà vợ quan huyện Cẩm Giang đau chứng hỏa hư, mỗi lần phát bệnh thì ngực tức, mặt đỏ, nước dãi trào ra, đàm xuyễn, chân lạnh, tai ù, hơi ngắn như muốn đứt, nói không ra tiếng, như thế trong một ngày hay nửa ngày mới tỉnh. Thầy thuốc cho là bệnh thấp đàm hoặc phong hỏa, chữa trị đã hai năm rồi mà bệnh càng tăng. Tôi dùng bát vị cho thêm thuốc giáng hỏa mà chữa, chỉ hết bốn, năm tễ là yên. Còn nhiều trường hợp khác nữa, chẳng kể xiết.
Hồi tôi ở trong núi cứ tưởng rằng ở đế đô có các danh y, học thuật giỏi giang, tinh diệu nhập thần
[159]. Tôi thường than l à mình vô duyên nên không được cùng nhau gặp gỡ. Khi đến kinh thì thấy thầy thuốc trị bệnh không nói là phong hỏa thì cũng bảo là bệnh thấp đàm. Nếu cho là bệnh hư mà chịu dùng thuốc bổ thì chỉ phô diễn khí huyết
[160] mà thôi. Còn như chân thủy, chân hỏa là cái gốc để giữ cái mệnh, cái cốt yếu để cầu sống thì tuyệt nhiên không một chút nào coi làm trọng. Sao cái nghề thuốc lại khó đến như vậy! Nhớ xưa Tiên Chính có nói: “Người nước ta học nghề y mà không tinh là vì mắc phải hai cái bệnh: một là người trong đám nho học đọc sách thuốc từ đầu đến cuối, một lượt là xong, tuyệt nhiên không nghi ngờ nghĩa sách, tự cho là không có gì khó, dến khi dùng thuốc thì lại hấp tấp bất cẩn; hai là văn lý tự hoạch
[161] chỉ mới được nửa thôi, nếu có tập nghề thuốc thì cũng không khỏi tưởng tượng mơ hồ, nghi hoặc, như thể kẻ kéo cây cung, sức chẳng đủ thì cho là cung cứng”. Thật là lời nói đích đáng vậy. Than ôi! Kẻ bất túc là kẻ có bệnh sẵn, kẻ có dư cũng là kẻ có bệnh. Há chẳng phải là khó ru? - Nhân đây tôi ngâm mấy câu rằng:
Cổ vân dụng dược như dụng binh
Sinh sát quan đầu hệ mi khinh
Quốc thủ do đa khuy phạp xứ
Tàm dư cô lậu lý nan minh
Từ xưa dùng thuốc tựa dùng binh
Sinh sát ai người dám rẻ khinh
Đầu sỏ nghề y còn yếu kém
Quê mùa ta thẹn lý chưa minh -----------------------
[148] Đồng khoa: cùng thi đỗ một khoa, một năm.
[149] Niên gia: Trong thời đại khoa cử, hai người cùng thi đỗ một năm thì gọi là niên gia.
[150] Tuần nhật: thời gian mười ngày.
[151] Phụng thị: vâng mệnh mà hầu hạ.
[152] Tư âm: vun nhuần khí âm.
[153] Vật thực thời nghi: những thực phẩm thời nào thức ấy.
[154] Ngộ phòng: thứ bệnh do sự giao cấu mà sinh ra, cũng nói là phạm phòng.
[155] Vạn lự: lo lắng vạn điều, ý nói phải lo gìn giữ mọi điều.
[156] Âm cữu: cái lỗi về việc gần đàn bà (âm là giống cái, cữu là tội lỗi).
[157] Cửu dương: bổ cứu chân dương.
[158] Khanh tướng: nói chung về các quan có chức vụ cao cả trong triều. Quan khanh giúp vua trong các việc lớn, quna tướng chủ trương việc chính trị trong nước, tì dụ tể tướng, tướng quốc, tướng công.
[159] Tinh diệu nhập thần: cái tinh vi màu nhiệm đã thấu đáo đến cùng, như đã nhập vào thần trí mình.
[160] Phô diễn khí huyết: ý nói chỉ bổ khí huyết để bày tỏ cái hiệu nghiệm của thuốc bổ mà không biết điều gì khác.
[161] Văn lý tự hoạch: ý nghĩa câu văn và các nét của mỗi chữ sách.
[162] Tạo sĩ: người đỗ khoa thi võ.
[163] Nghĩa điệt: cháu nuôi đối với chú.
[164] Duy Tiên: một huyện thuộc tỉnh Hà Nam.
[165] Ngoại tộc: họ mẹ.
[166] Hoãn cấp: thư thả và vội vã.
[167] Văn Quốc Sư: Thời loạn Kiêu Binh có Quốc sư Nguyễn Hoãn. Ông quán làng Lan Khê, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá. Đỗ tiến sĩ khoa Quý Hợi (1743); làm Thái phó, tước Viên quận công. Ông có trông coi việc làm quốc sử.
[168] Trấn Vũ: Tên đền thờ đức thánh Huyền Vũ, ở phía bắc thành Thăng Long và trông ra Tây Hồ.
[169] Biện chứng: biện luận và phân tích chứng bệnh.
[170] Kiệu hữu: quân Kiệu thuộc cánh hũu. Kiệu và Nhương là tên hai cơ binh trong hàng ngũ Kiêu binh, tức là quân Tam phủ.
[171] Quan thuyền: thuyền thuộc công quyền.
[172] Tiễn hồi: đưa trở về.
[173] Điện các: đền thờ thánh có nhà lầu.
[174] Chùa Trấn Quốc: nguyên chùa tên gọi Trấn Bắc, thuộc phường Yên Phụ, huyện Vĩnh Thuận, được dựng lên từ đời Trần. Đến đời Hậu Lê, niên hiệu Vĩnh Tộ (1628) đời Lê Thần Tông, chùa được tu sửa lại, đổi tên là Trấn Quốc. Năm 1639, chúa Trịnh Tráng trùng tu lại chùa và đổi tên lại là Trấn Bắc.
[175] Ly cung: tên một cái cung của của nhà vua.
[176] An Quảng: vùng đất Quảng Yên, thuộc miền trung du Bắc Phần.
[177] Làng cũ: làng Liêu Xá, tỉnh Hải Dương, quê cũ cùa Lãn Ông.
[178] Bát Tràng: tên làng thuộc tỉnh Bắc Ninh, gần Hà Nội.
[179] Lao dật: mệt mỏi và nhàn hạ. Ý nói đem quân nhàn hạ đánh quân mệt mỏi, theo câu chữ Hán thường nói là
dĩ dật đãi lao.[180] Hồng Châu: tên đất thuộc tỉnh Hài Dương.
[181] Kim Đôi: địa danh.
[182] Hàm Giang: tên trấn thuộc tỉnh Hải Dương, quê quận công Đinh Văn Tả và cháu xa đời của ông là Đinh Nhạ Hành.
[183] Hưng Hóa: một khu vực thuộc tỉnh Phú Thọ, ở hữu ngạn Đà Giang. Năm 1930, Nguyễn Khắc Nhu tục gọi Sử Nhu, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, đánh Pháp ở đồn Hưng Hóa, tức là nơi đây.
[184] Tri ngộ: biết mình mà hậu đãi mình.