Có những giờ mà người ta có thể khắc bằng chữ vàng trong quyển lịch của đời mình. Đó là một trong những giờ phút thần tiên mà định mệnh đã dành cho tôi khi tôi trở lại đạo viện của đức Maharachi.
Ngài vẫn ngồi ở Tịnh xá như thuờng lệ, trên tấm da cọp rất đẹp. Những cây nhang nối tiếp nhau cháy một cách chậm chạp trên chiếc bàn nhỏ, tỏa ra khắp phòng một mùi hương thơm dịu. Trong lúc đó, đức Tôn Sư không ngồi nhập định, Ngài vẫn tỉnh táo như thuờng, đôi mắt nhìn tự nhiên và đôi môi Ngài nở một nụ cười tiếp đón khi tôi bước vào Tịnh Xá và nghiêng mình kính cẩn chào Ngài. Vài vị đệ tử ngồi cách xa Ngài một cách cung kính, một vị đứng gần kéo cái quạt tre treo trên trần để quạt cho mát khắp phòng.
Lần này tôi định trình bày cho Tôn Sư biết rõ ý muốn của tôi, và chỉ yên lòng khi tôi biết được quyết định của Ngài. Nhưng tôi có nhiều hy vọng được Ngài thâu nhận, vì cái tiếng nói trong nội tâm nó gọi tôi từ Bombay trở về đây, và nó vang lên như một cái lịnh, là một tiếng nói mãnh liệt mà tôi không thể nào cãi lời và không nghe theo. Sau vài lời giải thích tôi trình bày lời thỉnh cầu của tôi một cách vắn tắt, gọn gàng, Đức Maharichi vừa nhìn tôi vừa mỉm cười, nhưng vẫn giữ im lặng. Tôi lập lại câu nói của tôi, và lần này Ngài trả lời trực tiếp bằng tiếng Anh rất lưu loát:
- Cần gì phải nói đến việc thầy trò? Những sự khác biệt đó chỉ có dưới quan điểm của người sơ cơ. Ðối với người nào đã phản hồi nguyên tánh của mình, thì không có chuyện thầy với trò, mà chỉ có người với người mà thôi.
Tôi tự nghĩ phải chăng đó là một sự từ chối, tôi cố gắng trình bày lời yêu cầu của mình một cách khác và tôi được trả lời như sau:
- Anh phải tìm thầy ở tự nơi anh, tôi muốn nói ở nơi Chân Ngã, hay Chân Như Phật tánh của mình.
Tôi bắt đầu hiểu ý Ngài: đức Maharichi không muốn trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi, tôi phải tìm hiểu những lời nói của Ngài, nó rất u ẩn và tế nhị. Tôi không nói thêm nữa về việc đó, và chỉ nói chuyện với Tôn Sư về chuyến du hành của tôi. Kế đó, tôi trở về chỗ an nghỉ dành riêng cho tôi trong đạo viện, và chuẩn vị ở trong một thời hạn lâu dài.
Trong tuần lễ kế đó, tôi sống một cuộc đời bất thuờng. Ban ngày tôi đến ngồi trong Tịnh Xá của đức Maharichi để nghe những lời vàng ngọc của Ngài và để hy vọng nhận được câu trả lời mà tôi đang chờ đợi. Nhưng ban đêm tôi vẫn bị chứng mất ngủ, mặt dầu tôi nằm dưới đất một cách giản dị trong một cái chòi mới cất ở cách đạo viện chừng một trăm thước. Chỗ này vách tường làm bằng đất, nóc lợp tranh, ở chung quanh toàn là những bụi cây có gai, những loại cây xương rồng, là chỗ bắt đầu của khu rừng hoang rậm rạp, không hề có chân ngọn núi Thiêng, ở phía nam, có một cái ao lớn, mặt nước phẳng lặng, trên bờ ao có nhiều chòm cây và rất nhiều loài khỉ vượn nhảy nhót trên cành.
Những chuỗi ngày trôi qua một cách đều đặn. Mỗi ngày, tôi dậy sớm trước khi mặt trời mọc và xuống ao tắm. Tôi phải đập nước và làm nhiều tiếng động để cho loài rắn tránh xa. Kế đó, tôi uống một cách ngon lành ba chén trà thơm nóng, nó là cái xa xỉ phẩm duy nhất của tôi ở đạo viện thâm nghiêm này.
Còn nói về những bữa ăn của tôi, thì chỉ có một người bồi lo việc bếp núc và đi chợ nấu ăn. Tuy thế, tôi chỉ có ăn một buổi trưa còn buổi chiều thì tôi uống sữa hay uống trà. Sau khi điểm tâm xong, tôi thong thả bước lần xuống Tịnh Xá, có khi tôi ngừng lại xem những bụi hoa hường trong vườn, hoặc ngồi dưới những gốc dừa sai trái. Vì buổi sớm mai mặt trời chưa lên cao nên dạo chơi trong vườn để thuởng hoa như thế là một điều thích thú.
Kế đó tôi bước vào Tịnh Xá, cúi đầu chào Tôn Sư, và ngồi xếp bằng dưới sàn gạch. Tôi được tự do đọc sách hay viết thư trong một lúc hoặc nói chuyện với các vị đệ tử, chất vấn Tôn Sư về một vấn đề nào đó, hoặc tham thiền trong một giờ về một đề tài của Tôn Sư đưa ra. Buổi tối thì dành cho cuộc tham thiền chung. Nhưng, dầu cho tôi mắc bận việc gì, tôi cũng cảm thấy cái ảnh hưởng tốt lành của bầu không khí chung quanh nó tiềm tàng một niềm an tịnh thiêng liêng, phảng phất trong đạo viện. Chỉ ngồi bên cạnh đức Maharichi cũng đủ làm cho tâm hồn được tạo ra khi tôi với Tôn Sư ngồi gần nhau. Điều này tuy rất tế nhị, nhưng không thể nào lầm lẫn được.
Đúng mười một giờ, tôi trở về chòi dùng cơm và nghỉ trưa, kế đó tôi trở lại ngồi nơi Tịnh Xá.
Thỉnh thoảng để thay đổi không khí, tôi đi dạo vùng chung quanh hoặc xuống tỉnh để viếng ngôi đền Bà La Môn vĩ đại và tôn nghiêm ở đó. Đôi khi, đức Maharichi bổn thân đến nơi chòi tranh để viếng tôi mà không báo trước. Lẽ tự nhiên, tôi không bỏ qua những dịp đó để hỏi Ngài về nhiều vấn đề thắc mắc. Ngài nghe tôi một cách vô tư tuy rằng với những danh từ ngắn ngủi, ít khi thành một câu trọn vẹn. Có lần tôi hỏi mà Ngài không trả lời. Cặp mắt ngài đắm chìm vào chỗ hư không ở tận chân trời, Ngài im lặng như thế trong vài phút, không chút cử động, hình như Ngài không có ở đó nữa. Ngài mắc thiền định suy tư, hay mãi nhìn vào một vật vô hình nào ở trong không gian, mà chỉ có Ngài mới nhìn thấy? Ngài có nghe thấy tôi chăng? Dầu sao đứng trước mặt Ngài, tôi bị một cái sức mạnh gì nó xâm chiếm và chế ngự cả tâm hồn tôi.
Việc ấy đã cho tôi một bài học. Có ích gì mà đặt ra những câu hỏi nọ kia và thảo luận dông dài khi mà tôi đã có tự nơi mình một cái giếng hiểu biết mà tôi chỉ cần đào xới lên để tìm thấy? Tốt hơn là hãy chấm dứt mọi suy luận, đôi co và cố gắng khai thác những gì tiềm tàng trong bổn tánh Chân Như của mình. Vì thế, tôi vẫn giữ im lặng và chờ đợi.
Nửa giờ sau, đức Maharichi vẫn điềm nhiên bất động. Hình như Ngài đã quên sự có mặt của tôi nhưng tôi cảm thấy rõ ràng rằng sự giác ngộ bên trong của tôi vừa thần giao cách cảm, một ảnh hưởng huyền bí toát ra từ thân mình của Ngài.
Có lần, trong một cuộc viếng thăm bất thần như thế, Ngài thấy tôi đang bị dày vò bởi một cơn khủng hoảng, buồn rầu. Ngài mới an ủi và khuyến khích tôi, và nói về cái mục đích huy hoàng hứa hẹn cho người nào thực hành pháp môn Yoga.
- Nhưng bạch Tôn Sư, pháp môn đó là một con đường đầy những chướng ngại, và tôi tự biết rõ về sự yếu đuối của tôi.
- Đó là điều chắc chắn nhứt để trì kéo ta lại, vì chính sự thiếu tin tưởng đó, cái tinh thần chủ bại đó, làm tê liệt mấy ý chí tiến thủ của con người.
- Nhưng nếu sự chủ bại đó có căn cứ?
- Nó không có căn cứ nào cả. Điều lầm lạc lớn nhứt của ta là tưởng rằng con người tự nhiên vốn yếu đuối, xấu xa, hèn kém, nó là do những thói quen, lòng ham muốn và dục tình sinh ra, chớ không phải chính là của ta.
Những lời nói đó có một sự kích thích rất mạnh. Có lẽ tôi sẽ gạt bỏ, nếu là từ người nào khác thốt ra, nhưng lương tri của tôi cho biết rằng lời Ngài thốt ra là đúng Chân Lý, rằng Tôn Sư không phải là một triết gia phân tách từ cái mũi kim, mà là một bực Hiền Giả nói ra những kinh nghiệm thâm sâu và dồi dào phong phú của Ngài. Một lần khác, trong một cuộc nói chuyện về đời sống ở phương Tây, tôi nói:
- Tôn Sư không có gì khó khăn để tìm thấy sự an tịnh trong một đạo viện êm đềm vì ở đây Ngài bị xao lãng hay xáo trộn tinh thần.
- Anh tưởng như vậy, nhưng một khi đã đi tới mục đích, một khi anh đã được sự giác ngộ, thì dầu cho anh sống giữa chốn phồn hoa náo nhiệt của tỉnh thành hay giữa sự im lặng của rừng thẳm, điều đó không có khác biệt chi cả.
Một lần khác, tôi phàn nán về việc người Ấn Độ không chú ý đến sự tiến bộ về vật chất, thì Ngài nói:
- Thật vậy, chúng tôi thuộc về một chủng tộc mà các anh gọi là lạc hậu. Nhưng chúng tôi quen sống đơn giản. Nhiều sự tiến bộ khoa học vẫn còn xa lạ đối với chúng tôi, nhưng chúng tôi lấy làm an phận và không có quá nhiều sự nhu cầu như các anh. Như vậy, tuy ít tiến bộ hơn, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi kém hạnh phúc.
Bằng cách nào đức Maharichi đã đạt tới cái trình độ tâm linh tuyệt vời và siêu đẳng như thế? Nhờ sự góp nhặt tài liệu về cuộc đời Ngài, do các đệ tử thuật lại hoặc do chính Ngài thốt ra một đôi khi, mặc dầu Ngài không thích nói về đời tư của mình, tôi đã chép lại đại khái tiểu sử của Ngài như sau:
Ngài tên là Ramana, sinh nãm 1879, tại một làng cách thành phố Madrua độ ba mưưi dặm, thành phố này có một ngôi đền vĩ đại nổi tiếng ở miền Nam Ấn Độ. Cha ngài, một vị thẩm phán thuộc dòng Bà La Môn, có tiếng là nhân từ, giàu lòng bố thí và hay cấp dưỡng cơm áo cho người nghèo. Ngài được nuôi nấng và giáo dục tại Madrua, tại đây ngài học Anh văn ở một trường đạo của các vị giáo sĩ người Mỹ sáng lập.
Lúc thiếu thời chàng thanh niên Ramana thích thú chơi các môn thể thao và điền kinh, chàng tập chơi các môn vật, đánh quyền và bơi lội. Chàng không có biểu lộ một sự thích thú đặc biệt nào về tôn giáo hay triết học.
Có điều lạ là hồi đó chàng thuờng có những cơn mê sảng, nửa đêm đứng dậy đi trong giấc ngủ và tiếp theo đó là cơn ngủ say li bì, không có tiếng động nào có thể đánh thức dậy. Những bạn học cùng lớp kiêng sợ chàng lúc ban ngày vì chàng trả đũa lại rất mau chóng mọi sự khiêu khích của chúng. Nay chúng thấy vậy, mới lợi dụng lúc ban đêm để trả thù. Chúng kéo chàng ra khỏi giường nằm, đưa chàng ra sân trường và đánh chàng túi bụi rồi đem chàng để lại chỗ cũ trên giường mà chàng vẫn không tỉnh giấc. Qua ngày sau, chàng vẫn không hay biết chi cả. Đối với nhà tâm lý học quan sát hiện tượng lạ lùng này, thì đó là những triệu chứng hiển nhiên của một cơn thoát trần đại định.
Ngày kia có một người thân nhân đến viếng chàng, và thuật lại rằng y vừa đi hành hương ở Arunachala trở về. Danh từ này vang dội một âm thanh lạ lùng huyền bí trong trí của người thiếu niên mà chàng không hiểu lý do vì đâu. Chàng bèn hỏi thăm về Arunachala và khi chàng biết được sự tích của ngôi đền lớn ở tại đó, chàng liền bị một sự ám ảnh. Tuy Ấn Độ có đến mười hai nơi Thánh Ðịa, nhưng tại sao Arunachala lại làm sao cho chàng say mê và thích thú nhiều hơn những nơi Thánh Ðịa khác thì chàng cũng không thể trả lời được.
Chàng tiếp tục sự học tại trường đạo nhưng không biểu lộ một khả năng đặc biệt nào, mặc dầu chàng là một đức học trò thông minh và chăm chỉ. Năm chàng mười bảy tuổi thì định mệnh mới bắt đầu hành động. Chàng bỏ trường và thôi học mà không có lý do rõ rệt, cũng không cho các giáo sư hoặc cho gia đình biết trước. Sự thay đổi thình lình đó, nó phá tan mọi triển vọng về tương lai của chàng, có một nguyên nhân nào chăng? Cái nguyên nhân đó đối với chàng thật là hiển nhiên, nhưng nó làm cho gia đình chàng phải bóp trán nghĩ ngợi. Vì cuộc đời, vị Thầy học lớn nhứt của ta, vừa đặt để người thanh niên ấy trên một con đường mà các ông giáo sư không hề nghĩ đến. Sáu tuần lễ sau đó, chàng rời khỏi trường, từ giã Madura và không hề trở lại nữa.
Ngày đó chàng đang ở một mình trong phòng thì tự nhiên chàng bị xâm chiếm bởi một cơn khủng hoảng lạ kỳ. Mặc dầu đang mạnh khỏe, chàng có cảm giác như người sắp chết. Bị ám ảnh bởi ý nghĩ đó, chàng chuẩn bị để đón tiếp Tử Thần, dường như là sự chết đã đến nơi. Chàng tự nghĩ rằng: "Thế là hết. Cái thể xác này sẽ chết, người ta sẽ đem nó ra thiêu ngoài đồng và nó sẽ thành một nhúm tro tàn. Nhưng còn tôi, tôi cũng sẽ chết với cái xác này chăng? Cái xác này có phải là tôi không, cái xác này đã cứng đờ và im lặng, nhưng tôi vẫn còn tiếp tục cảm thấy cái tôi trong sức mạnh vô biên của nó."
Đức Maharichi đã diễn tả cơn khủng hoảng lạ lùng đó bằng những lời lẽ trên đây. Còn việc gì xảy ra sau đó thì rất khó hiểu, nếu không là khó thuật lại. Chàng dường như rơi vào một trạng thái đại định có ý thức, khi đó chàng đạt tới nguồn gốc của Chân Ngã, tức là tinh hoa của bản thể. Khi đó chàng quan niệm rằng xác thể là một vật ở ngoài Chân Ngã, và Chân Ngã vẫn tồn tại không thay đổi trong khi chết. Chân Ngã xuất hiện với chàng như là một sự chân thật tuyệt đối, nhưng bị ẩn dấu và chôn sâu trong chỗ tận cùng của con người, đến nỗi cũng như bao nhiêu người khác, trước khi đó chàng không hề biết nó là gì.
Khi chàng Ramana tỉnh lại sau cơn khủng hoảng đó thì chàng hoàn toàn thay đổi. Chàng đã mất hết mọi thích thú về sự học, chơi điền kinh, về bạn bè, vì sự thích thú của đời chàng đã tập trung về cái ý niệm Chân Ngã nó thình lình xâm chiếm lấy chàng. Mọi ý niệm về sự chết trước đây đã biến mất. Chàng đã chinh phục được, với một niềm an tịnh bên trong, một sức mạnh tinh thần nó không hề mất đi hoặc suy chuyển chút nào kể từ khi đó.
Xưa kia chàng phản ứng mãnh liệt như thế nào đối với những bạn học khi bị chúng nó phá phách, thì nay đối với chúng chàng chỉ có một lòng ưu ái và nhân từ. Chàng chịu đựng mọi sự bất công một cách thản nhiên và biểu lộ một sự khiêm tốn hoàn toàn trong mọi việc. Chàng từ bỏ những thói quen có từ xưa, tìm kiếm sự yên tịnh để lo việc tham thiền quán tưởng và sống đời sống nội tâm.
Những sự thay đổi tâm tính như thế không khỏi làm cho người chung quanh chú ý. Một hôm người anh cả của chàng bước vào phòng, thấy chàng đang nhắm mắt và đắm chìm trong một cơn thiền định, những sách vở nhà trường rơi rớt tản mát dưới đất, như là chàng vừa ruồng bỏ chúng một cách chán nản. Người anh cả liền trách móc:
- Mầy đang làm gì đó? Nếu mầy muốn trở nên đạo sĩ thì còn đi học để mưu cầu công danh làm gì? Chàng Ramana cảm thấy thấm thía về những lời nói đó và quyết định rất mau chóng. Chàng đã mồ côi cha và biết rằng chàng có thể nhờ cậy nơi người cậu và các em để nuôi dưỡng mẹ chàng. Dầu sao, chàng không còn phận sự gì phải làm ở nhà nữa. Ngay lúc đó, cái tên ngọn Đồi Thiêng bỗng xuất hiện như một tia chớp trong trí chàng, cái tên nó vẫn ám ảnh chàng từ một năm nay, và hiện ra một cách quyến rũ: Arunachala! Đó chính là nơi chàng phải đi đến, mặc dầu chàng không nói rõ lý do tại sao. Nhưng chàng chỉ nghe theo một tiếng gọi mãnh liệt, không hề dự tính trước. Về sau này, chính đức Maharichi đã nói với tôi: "Hồi đó, tôi hoàn toàn chịu ảnh hưởng của một sự quyến rũ lạ lùng. Cái mãnh lực huyền bí nó dắt dẫn anh đến đây cũng giống như cái sức mạnh vô hình nó bắt buộc tôi từ giã Madura."
Như thế, chàng thanh niên Ramana rời bỏ tất cả sự học vấn, bạn bè và gia đình, và nhắm con đường đưa đến Arunachala dưới sự dìu dắt của định mệnh. Chàng để lại cho gia đình một bức thư bằng chữ Tamoul, nay còn được giữ gìn tại đạo viện. Thư nói như vầy: "Tôi đi tìm đấng Cha Lành và để nghe theo tiếng gọi của Ngài. Mục đích của tôi vốn trong sạch, vậy đừng ai lo ngại gì cả. Không cần phải tiêu phí tiền bạc để đi tìm tôi." Chàng ra đi hoàn toàn rời bỏ thế gian, với ba rupee trong túi, và bỡ ngỡ trước một thế giới hoàn toàn xa lạ. Nhưng ngọn lửa Thiêng bừng cháy trong lòng chàng, chàng khinh bỉ của cải thế gian đến nỗi khi bước vào đền, chàng cởi bỏ quần áo và cúi rạp đầu lạy trong khi mình mẩy đều trần truồng. Một người giáo sĩ bước tới và khiển trách, nhưng chàng vẫn trơ trơ. Nhiều người khác cũng can thiệp và yêu cầu chàng hãy mặc tạm cái quần cụt, chàng không mặc một thứ y phục nào khác hơn kể từ khi đó.
Trong sáu tháng trường chàng vẫn ở đó, thỉnh thoảng chàng rời chỗ nhưng không bao giờ ra khỏi cổng đền. Mỗi ngày một lần, một giáo sĩ ngạc nhiên vì lòng sùng tín quá sớm của chàng, mới đem cho chàng một ít cơm. Những ngày sống trong đền, chàng đều đắm chìm trong một cơn nhập định thâm trầm đến nỗi chàng quên cả sự hiện diện của thế giới bên ngoài. Có đôi khi, những đứa trẻ mất dạy quanh vùng đến ném đá và bùn nhơ vào người chàng, rồi vừa chạy trốn vừa chế nhạo. Chàng chỉ nhận thấy điều đó trong nhiều giờ sau, và không có một sự oán trách nào đối với những đứa trẻ mất dạy kia.
Những đám người đi hành hương hằng ngày đổ xô đến ngôi đền làm cho nơi đó không còn là một nơi yên ổn tịch mịch như chàng vẫn mong muốn. Vì lẽ đó, chàng mới từ giã ngôi đền và đến ở ẩn trong một cái miếu nhỏ giữa đồng, cách xa thành phố. Chàng ở nơi miếu đó một năm rưỡi, chỉ tự bằng lòng với một ít lương thực mà người hành hương sùng tín đặt trước mặt chàng mỗi ngày. Chàng không nói năng gì với ai. Thật ra, chàng không hề mở miệng trong ba năm đầu tiên của cuộc đời ẩn dật đó, không phải vì chàng đã có lời nguyện giữ giới tịnh khẩu, mà bởi vì tiếng nói của nội tâm, truyền lịnh cho chàng hãy tập trung mọi sự chú ý vào đời sống tâm linh. Khi chàng đã đạt được mục đích, chàng mới phá sự im lặng, tuy nhiên chàng vẫn không hề nói nhiều.
Chàng vẫn giữ kín tung tích của mình, nhưng mẹ chàng lần hồi đã dọ ra được chỗ ở của chàng, vừa đúng hai năm kể từ khi chàng bỏ nhà ra đi. Bà mẫu liền cùng với người anh cả đến tận nơi, và cố gắng dùng nước mắt của bà để làm cho chàng phải xiêu lòng và trở về nhà, nhưng vô ích. Hết dùng nước mắt bà mẫu lại dùng lời oán trách. Khi đó, chàng mới biết trên giấy nói rằng một sức mạnh thiêng liêng điều khiển vận mạng con người, và dầu cho mẹ chàng cũng không thay đổi gì được. Sau cùng bà mẫu chàng phải nhượng bộ.
Chuyện này đồn đãi gần xa, càng ngày càng có nhiều khách hành hương đến viếng chỗ của chàng ở ẩn, làm cho chàng lại phải dời chỗ một lần nữa và lên ngọn Đồi Thiêng, tại đây chàng sống nhiều năm trong một cái động đá. Trên ngọn Đồi Thiêng có rất nhiều động đá làm nơi trú ẩn cho những nhà Yogi và những nhà tu sĩ khổ hạnh, riêng có động đá của chàng Ramana hơi đặc biệt, vì nó có chứa đựng một ngôi mộ của một vị đạo sĩ ưu tú thời xưa.
Người Ấn Độ vẫn theo phong tục hỏa táng, tức là thiêu xác người chết, nhưng đối với người Yogi đã tu hành đắc đạo, thì luồng sinh khí Tiên Thiên của Thời Đất sẽ thấm nhuần trong cơ thể của y trong nhiều ngàn năm, làm cho xác thịt của y vẫn tươi và không hề tan rã. Trong trường hợp đó xác người Yogi được tắm sạch sẽ, ướp dầu thơm và được đặt trong ngôi mộ với thế ngồi kiết dà hai chân tréo như thế ngồi thiền. Cửa vào ngôi mộ được đóng kín bằng một tảng đá lớn và trám lại bằng chất xi măng. Ngôi mộ này thuờng trở nên một nơi hành hương của dân chúng. Còn một lý do khác vì sao người ta tin rằng xác thể của những vị ấy không cần phải tẩy uế bằng lửa, vì nó đã được tinh luyện bởi lối sống cao khiết và cuộc đời thánh thiện của họ hồi thuở sanh tiền.
Có điều đáng chú ý là những nơi hang động, thuờng là những nơi trú ẩn của các nhà đạo sĩ Yogi hay các bậc Thánh Nhân Hiền Triết. Thời cổ xưa, người ta dùng những nơi ấy để thờ Thần. Đức Zoroastre, Giáo Chủ đạo Hỏa Giáo, xưa kia đã ngồi thiền trong một động đá, còn Giáo Chủ Mahomet của đạo Hồi cũng đã có những kinh nghiệm tâm linh trong một hang núi. Những nhà đạo sĩ Yogi Ấn Độ có những lý do rất tốt để chọn lựa những hang, động làm nơi trú ẩn khi họ không tìm được chỗ nào khác lúc mưa nắng dãi dầu hay những khi thời tiết thay đổi bất thuờng ở vùng nhiệt đới. Ở những nơi đó, ít có ánh sáng hay tiếng động có thể làm rộn hay quấy rầy họ trong những cơn tham thiền và thở cái không khí kín bít trong hang làm cho sự đói khát được giảm bớt rất nhiều, nhờ đó sự nhu cầu của thể xác được hạn chế đến mức tối thiểu.
Một lý do khác nữa đã hấp dẫn chàng Ramana đến cái hang đặc biệt này trên ngọn Đồi Thiêng, là cái phong cảnh ngoạn mục của vùng chung quanh. Người ta có thể đứng trên một mô đá bên cạnh hang và nhìn thấy thành phố nhỏ diễn ra dưới chân đồi, và ngôi đền vĩ đại nhô lên ở trung tâm thành phố. Bên kia vùng đồng bằng bao bọc chung quanh, là một dãy đồi núi dài liên tiếp nhau đến tận chân trời.
Dầu sao, chàng Ramana đã sống tại hang đá này trong nhiều năm, đắm chìm trong những cơn thiền định rất thâm sâu. Chàng không phải là một nhà Yogi theo nghĩa thông thuờng, vì chàng không hề học qua một pháp môn Yoga nào và cũng không hề thụ giáo một vị danh sư nào. Chàng đã được hướng dẫn bởi một nguồn cảm hứng thiêng liêng, đưa đến sự hiểu biết và thực hiện Chân Ngã. Năm 1905, bịnh dịch tả xuất hiện trong vùng, do một người hành hương mang vào khi y từ phương xa đến viếng đền Arunachala. Dân chúng bị truyền nhiễm chết rất nhiều đến nỗi trong cơn kinh hoàng, hầu hết mọi người đều bỏ thành phố, chạy sang những tỉnh hoặc những làng mạc kế cận. Vùng này bị bỏ trống và trở nên vắng vẻ đến nỗi các loài cọp beo từ trong những sào huyệt của chúng bò ra đến đây và đi lại tự do ngoài đường. Mặc dầu chúng đã đi dạo chơi trên đồi nhiều lần và qua lại trước cửa hang của chàng đạo sĩ trẻ tuổi, nhưng chàng nhất định không dời chỗ, mà vẫn điềm nhiên không chút sợ sệt.
Vào lúc đó có một người đến tình nguyện xin làm đệ tử của chàng đạo sĩ trẻ tuổi, xin được ở gần bên cạnh để lo phục dịch và săn sóc cho chàng. Người ấy nay đã qua đời nhưng tục truyền rằng mỗi đêm có một con cọp lớn đi vào trong hang và liếm hai bàn tay của chàng Ramana. Trong khi đó chàng cũng đáp lại bằng cách vuốt ve cái bộ da của nó. Con cọp ấy ngồi trước mặt chàng suốt đêm và đến lúc gần sáng mới đi.
Ở Ấn Độ người ta tin rằng những nhà đạo sĩ Yogi và thuật sĩ Fakir sống trong rừng sâu núi thẳm, giữa những loài thú dữ như hùm beo, cọp, sư tử, rắn rết và những loài thú rừng khác, đều không sợ bị thú dữ làm hại nếu họ đạt tới một trình độ khá cao trên đường tu luyện. Người ta còn thuật lại một câu chuyện khác về chàng Ramana, rằng một buổi trưa chàng ngồi nơi cửa hang bỗng có một con rắn hổ mang lớn thình lình xuất hiện từ trong kẹt đá và ngừng lại ở trước mặt chàng. Con rắn vươn mình và phùng mang, nhưng chàng đạo sĩ vẫn ngồi yên không cử động. Chàng và con rắn đều lẳng lặng bốn mắt nhìn nhau trong vài phút. Sau cùng, con rắn rút lui và chàng vẫn bình yên vô sự.
Cuộc đời cô đơn và khổ hạnh của chàng thanh niên lạ lùng này kết thúc giai đoạn đầu tiên khi chàng đã đạt tới điểm thâm trầm cao siêu nhất trong phép tham thiền.
Sự lánh trần và ẩn độn không còn cần thiết nữa, nhưng chàng vẫn tiếp tục sống trong hang cho đến khi có một nhà bác học Bà La Môn ưu tú tên Ganapati Shastri đến viếng chàng trong động đá. Cuộc thăm viếng này đánh dấu một khúc quanh trong đời chàng, và chàng bắt đầu bước vào một thời kỳ nhập thế. Trước khi đó, nhà bác học có đến ở gần ngôi đền để tiện bề học Đạo và tham thiền quán tưởng. Y nghe nói đến một người Yogi trẻ tuổi sống trên đồi, và do tánh hiếu kỳ mới đi tìm xem cho biết. Khi y gặp Ramana thì chàng đang vận nhỡn lực nhìn thẳng vào Mặt Trời. Chàng vẫn thuờng nhìn Mặt Trời như thế suốt nhiều giờ cho đến khi vầng Thái Dương khuất dạng dưới chân trời hướng Tây. Một người chưa từng kinh nghiệm về điều này không thể nào biết được cái mãnh lực của những tia nắng mặt trời ở Ấn Độ vào buổi trưa. Tôi còn nhớ có một lần tôi trèo lên sườn đồi vào một giờ quá trễ và bận trở về tôi đi đầu trần vào đúng lúc giữa trưa. Tôi bị say nắng và đi loạng choạng như người say rượu trong một lúc. Người ta có thể hiểu rõ hơn cái bản lĩnh của chàng Ramana là như thế nào, khi chàng nhìn thẳng vào Mặt Trời buổi trưa như thế.
Nhà bác học nọ đã từng học hỏi những kinh sách Ấn Độ về nền Minh Triết cổ truyền trong hai mươi năm, và đã thực hành những phép công phu tu luyện khắc khổ để hy vọng đạt tới một vài kết quả thật sự về đường tâm linh, nhưng y vẫn bị chướng ngại bởi những điều thắc mắc và nghi ngờ. Y bèn đưa ra cho Ramana một câu hỏi, và sau mười lăm phút y được một câu trả lời đầy Minh Triết nó làm cho y phải ngạc nhiên. Y đưa ra thêm nhiều câu hỏi khác cùng những điều thắc mắc về các vấn đề triết học tâm linh, và y càng ngạc nhiên hơn nữa mà thấy rằng những điều thắc mắc nghi ngờ nó vẫn dày vò y hằng bao nhiêu năm, nay đã được giải quyết mau chóng. Y bèn khấu đầu làm lễ trước mặt chàng đạo sĩ trẻ tuổi và trở nên một đệ tử của người từ đó. Shastri cũng có riêng một nhóm đệ tử theo học Đạo với y ở tỉnh Vellore. Y bèn trở về nói cho họ biết rằng y đã gặp được một vị Maharichi (tức là Đại Hiền hay Thánh Sư). Vị này chắc chắn là người đã đạt tới một trình độ tâm linh siêu đẳng, và những giáo lý của Ngài thật là khác thuờng đến nỗi nhà bác học chưa từng thấy trong tất cả những kinh sách mà y đã đọc.
Kể từ khi đó, các giới trí thức ở Ấn Độ bắt đầu gọi chàng Ramana bằng cái danh hiệu Maharichi, còn giới bình dân thì lại quá tôn sùng khi họ được biết rõ đạo hạnh và đời sống của Ngài và muốn tôn thờ Ngài như một vị Thánh Sống. Nhưng đức Maharichi triệt để ngăn cấm mọi sự biểu lộ lòng tôn sùng như thế trước mặt Ngài. Phần nhiều những đệ tử và những người trong vùng đều gọi Ngài là bậc Thánh trong khi họ nói chuyện với nhau hoặc trong những câu chuyện riêng với tôi.
Sau đó ít lâu, có một nhóm đệ tử quy tựu chung quanh Ngài. Họ xây cất một ngôi nhà bằng gỗ dưới chân đồi và yêu cầu Ngài sống chung với họ tại đó. Bà mẫu của Ngài cũng đã nhiều lần đến viếng Ngài, và khi người con trưởng của bà cùng những người thân quyến khác đều đã qua đời, bà đến đây và yêu cầu Ngài để cho bà được ở đây với Ngài. Ngài vui lòng chấp thuận, bà sống sáu năm cuối cùng của đời bà ở bên cạnh Ngài, và sau cùng bà trở nên một đệ tử trung kiên của con bà. Trong thời gian ở đạo viện, bà được chôn dưới chân đồi và vài người đệ tử của đức Maharichi xây một cái miếu nhỏ ở chỗ đó. Tại đây người ta đốt nhang đèn cháy thuờng xuyên để tưởng niệm công đức của một người đàn bà để đem đến cho nhân loại một vị Thánh Sống, và hằng ngày đều có người đem dâng bông hoa cúng trước bàn thờ.
Thời gian trôi qua, danh tiếng của đức Maharichi đã được đồn khắp gần xa, và những người hành hương ở ngôi đền lớn thuờng hay trèo lên ngọn Đồi Thiêng để chiêm ngưỡng Ngài trước khi về nhà. Về sau, đức Maharichi nghe theo lời thỉnh cầu của bá tánh và bằng lòng lưu trú tại ngôi nhà lớn của họ mới cất dưới chân đồi để làm chỗ ở cho Ngài và các đệ tử.
Đức Maharichi không hề thâu nhận món gì của ai trừ ra lương thực và luôn luôn từ chối không chịu nhận lãnh tiền bạc. Còn những thứ lễ vật gì đem đến cho Ngài đều là do kẻ khác tự nguyện hiến dâng và khẩn khoản yêu cầu Ngài nhận cho. Trong những năm đầu tiên, khi Ngài còn sống cuộc đời ẩn dật và đơn chiếc một mình trên núi để tu luyện và tham thiền, Ngài thỉnh thoảng vẫn rời khỏi hang với cái bình bát trong tay để đi xuống làng xóm xin ăn mỗi khi Ngài thấy đói. Một bà già góa bụa động lòng trắc ẩn, bèn cung cấp thức ăn cho Ngài đều đều mỗi ngày, và sau cùng bà tự nguyện đem thức ăn lên đến tận hang để cho Ngài khỏi phải đi khất thực. Như thế, cái đức tin nó khiến cho Ngài bỏ nhà ra đi, từ giã cuộc đời khá giả của một gia đình trung lưu, để chứng minh rõ rằng Người dốc lòng cầu Đạo, không cần phải lo thiếu hụt về bề vật chất, và những quyền năng thiêng liêng vẫn luôn luôn che chở và cung cấp cơm ăn nhà ở cho họ. Từ đó có nhiều quà tặng và lễ vật được đem đến cống hiến cho Ngài, nhưng Ngài đều luôn luôn từ chối.
Có một đêm nọ, một đám quân cướp đột nhập vào tịnh xá và lục lạo khắp nơi để kiếm tiền bạc chôn dấu, nhưng chúng chỉ tìm được có vỏn vẹn vài đồng rupee trong túi người quản gia lo về việc mua sắm đồ vật thực. Quân ăn cướp lấy làm thất vọng, chúng bèn nổi giận và đánh đập đức Maharichi bằng gậy lớn làm cho thân thể Ngài có nhiều vết bầm. Ngài không những chịu đựng điều ấy một cách kiên nhẫn, mà còn mời chúng ở lại dùng cơm trước khi ra về! Kế đó, Ngài thực sự đem cơm và thức ăn ra đãi chúng. Đối với chúng Ngài không hề có một sự oán giận hay thù ghét nào trong lòng, mà chỉ có một lòng thương hại cho sự vô minh hắc ám của chúng. Ngài để cho chúng tự do trốn thoát, nhưng một năm sau chúng bị bắt trong khi đánh cướp ở một nơi khác và lãnh án tù chung thân.
Nhiều người Âu không khỏi cho rằng một cuộc đời như thế thật là một cuộc đời lãng phí vô ích. Nhưng có lẽ chúng ta cũng cần có một đôi người tách mình ra khỏi thế cuộc phù vân và nhìn xét cuộc đời dùm cho chúng ta từ đằng xa. Người ngoại cuộc có thể nhìn thấy thế sự một cách rõ ràng sáng suốt hơn. Ai dám bảo rằng một nhà Hiền Giả sống trong rừng thẳm đã chinh phục được cái bản ngã của mình, lại thua kém gì những thằng ngốc sống cuộc đời phiêu bạt như chiếc lá giữa dòng, và rốt cuộc chẳng biết rằng mình đi đến đâu?
Mỗi ngày qua càng đem đến cho tôi những bằng chứng xác nhận về sự cao cả tâm linh của đức Maharichi. Trong số những người thuộc đủ các giai cấp đến viếng thăm đạo viện, một hôm có một người cùng đinh bị dày vò bởi một cơn đau khổ tinh thần rất lớn, vừa bước vào tịnh xá vừa khóc kể và trút hết những nỗi đau thương của y dưới chân đức Maharichi. Ngài không nói một lời, vì Ngài lúc nào cũng vẫn im lặng và kín đáo, và người ta có thể đếm những lời của Ngài thốt ra trong một ngày. Ngài chỉ lẳng lặng nhìn một lúc vào người kia, trong giây lát, những tiếng khóc kể của y cũng lần lần giảm bớt và hai giờ sau, khi y rời khỏi tịnh xá ra về thì y đã trở nên một người vui vẻ bình tĩnh và tinh thần phấn khởi hơn trước.
Tôi mới hiểu rằng đó là phương pháp của Ngài để giúp đỡ kẻ khác, tức là tỏa ra những luồng sóng rung động có tánh cách an ủi, xoa dịu vết thương của những tâm hồn đau khổ bằng một phương pháp thần giao cách cảm bí mật mà có ngày khoa học sẽ phải khám phá và giải thích.
Một hôm, một người Bà La Môn có học thức đến tịnh xá và trình bày tâm sự của y với nhiều câu hỏi. Người ta không bao giờ biết trước rằng nhà Hiền Giả sẽ trả lời hay không, vì nhiều khi Ngài rất hùng biện mà không cần phải thốt ra bằng lời nói. Nhưng hôm ấy Ngài có vẻ cởi mở và chỉ vài câu nói vắn tắt bao hàm những ý nghĩa sâu sắc thâm trầm cũng đủ hé mở những chân trời mới lạ về tư tưởng để giải đáp những nỗi thắc mắc cho người khách kia.
Mỗi buổi chiều vào lúc mặt trời lặn là giờ tham thiền chung trong tịnh xá. Đức Maharichi thuờng bắt đầu giờ tham thiền bằng cách chính Ngài tĩnh tọa công phu và xuất thần nhập định, quên hẳn cả thế giới bên ngoài. Trong những giờ tham thiền hàng ngày bên cạnh đức Maharichi, tôi đã học được phương pháp gom tư tưởng của tôi vào nội tâm đến một điểm thâm sâu nhất. Trong những cuộc tiếp xúc thuờng xuyên với đức Maharichi, người ta không khỏi được giác ngộ từ bên trong và nhận thấy rằng mình được soi sáng tâm hồn trí não bằng một tia sáng phát ra từ hào quang của Ngài. Càng ngày tôi càng nhận thấy rõ rệt rằng Ngài thâu hút tâm trí của tôi vào cái vòng ảnh hưởng đặc biệt của Ngài trong những giờ yên tịnh đó. Và chính trong những lúc đó mà người ta bắt đầu hiểu rằng tại sao sự im lặng của Ngài lại hùng biện và nhiều ý nghĩa hơn là những lời nói. Sự yên tịnh trầm lặng của Ngài có ẩn dấu một cái quyền năng mạnh mẽ phi thuờng, nó có thể ảnh hưởng mãnh liệt đến một người mà không cần đến ngôn ngữ hay hành động bên ngoài. Có những lúc tôi cảm thấy cái quyền năng đó một cách rõ rệt đến nỗi tôi biết rằng Ngài chỉ cần ra lệnh cho tôi làm một việc hèn mạc nhất, là tôi sẽ vâng lời theo tức khắc. Nhưng đức Maharichi không phải là người bắt những đệ tử tuân lệnh và vâng lời một cách mù quáng và nô lệ, mà trái lại, Ngài để cho mọi người được tự do hành động. Về phương diện đó, Ngài thật là khác hẳn với phần nhiều những danh sư và đạo sĩ mà tôi đã gặp ở Ấn Độ.
Những buổi tham thiền của tôi vẫn noi theo đường lối mà Ngài đã chỉ dẫn cho tôi trong cuộc thăm viếng đạo viện lần đầu, khi mà Ngài làm tôi ngạc nhiên vì những câu trả lời dýưng như mơ màng và bí hiểm của Ngài. Tôi đã bắt đầu nhìn vào cái bản ngã của tôi : Tôi Là Ai?
Phải chăng tôi là cái thể xác bằng xương bằng thịt này? Phải chăng tôi là cái trí tư tưởng hay là những tình cảm dục vọng nó phân biệt tôi với những người khác?
Xưa nay, người ta vẫn đáp là "Phải," nhưng đức Mahatichi đã dặn tôi đừng chấp nhận như thế. Nhưng Ngài cũng không đưa ra một câu trả lời dứt khoát, mà chỉ đưa chỉ thị như sau:
- Hãy đặt câu hỏi "Tôi là ai?" và hãy phân tách toàn bộ con người của anh. Hãy cố tìm xem cái tư tưởng về bản ngã bắt đầu từ chỗ nào? Hãy tiếp tục cuộc tham thiền về điều này và chuyển hướng mọi sự chú ý vào nội tâm. Một ngày kia cái vòng tư tưởng của anh sẽ quay chậm lại và trực giác sẽ hiện ra. Hãy noi theo cái trực giác đó, ngưng hết mọi tư tưởng và sau cùng nó sẽ đưa anh đến mục đích.
Tôi đã chiến đấu hàng ngày với những tư tưởng của tôi và lần lần vạch một đường đi vào tận những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tâm hồn. Nhờ có đức Maharichi ngồi gần bên, những cơn tham thiền của tôi càng ngày càng trở nên ít mệt nhọc hơn và càng hữu hiệu hơn. Sự dìu dắt của Ngài giúp nguồn cảm hứng rất nhiều cho những cố gắng thuờng xuyên và liên tục của tôi. Có những giờ phút lạ lùng mà tôi ý thức được rõ rệt cái ảnh hưởng và quyền năng thần diệu của Ngài nó làm cho tôi tiến sâu vào lãnh vực huyền bí của nội tâm.
Sau buổi tham thiền chung, đức Maharichi cùng với các đệ tử và khách khứa đều rời khỏi tịnh xá và bước qua phòng ăn để dùng cơm tối. Vì tôi không dùng được cơm Ấn Độ và cũng không muốn nhọc công nấu bữa ăn chiều, nên tôi thuờng ngồi lại một mình trong tịnh xá và chờ họ trở lại. Tuy nhiên, có một món ăn trong đạo viện mà tôi thấy ngon lành và ăn được, là món sửa chua. Đức Maharichi, khi nhận thấy rằng tôi thích món ấy, thuờng dặn người đầu bếp mỗi chiều đem cho tôi một bát lớn.
Độ nửa giờ sau khi cả bọn đều trở lại, những người nội trú của đạo viện cùng những quan khách ở lại ban đêm đều chen chúc nhau nằm trên sàn gạch của nhà tịnh xá, mỗi người đều quấn một cái chăn bằng vải mỏng và sửa soạn đi ngủ. Đức Maharichi thì ngủ luôn trên chiếc giường gỗ của Ngài thuờng dùng, Trước khi Ngài đắp chăn vải mỏng lên mình, có một người tiểu đồng đấm bóp và xoa dầu lên tay chân của Ngài.
Còn tôi, tôi cầm chiếc đèn lồng rời khỏi tịnh xá và đi một mình về chòi tranh của tôi. Có vô số những con đom đóm bay lập lòe trong những khóm hoa bụi cỏ và các chòm cây trong vườn, có một đêm tôi về trễ độ chừng vài tiếng đồng hồ, lúc ấy có lẽ đến gần nửa đêm, tôi thấy tất cả đom đóm đều đồng thinh tắt hẳn những đóm sáng kỳ dị của chúng. Tôi phải rón rén cẩn thận và coi chừng kẻo đạp nhầm loài bò cạp hay rắn rết khi đi trong đêm tối. Có đôi khi, tôi vừa đi vừa đắm chìm trong sự trầm tư mặc tưởng và tôi cũng không cần chú ý đến những con đường mòn nhỏ hẹp đưa tôi về chòi tranh. Về đến chòi, tôi đóng chặt cánh cửa lớn và các cửa sổ để các loài thú rừng hay rắn độc khỏi đột nhập vào lúc ban đêm.