Madras của Sở Nam Ấn Hỏa Xa, Subramanya và tôi đổi qua chuyến xe lửa khác trên đường thiết lộ đi Tích Lan. Xe chạy trong nhiều giờ qua những vùng đồi núi và đồng ruộng, phong cảnh thay đổi liền liền. Những ruộng lúa màu xanh lá mạ tiếp theo những ngọn đồi đất đỏ ở chân trời, những vườn dừa cao vút và che bóng mát rượi lại nối theo sau những cánh đồng xanh tươi với những người nông phu đang cấy lúa gieo mạ.
Ngồi trên toa xe nhìn ra cửa sổ, bóng hoàng hôn qua mau phút chốc đã làm cho cảnh vật mờ dần và đắm chìm trong bóng tối. Tôi ngẫm nghĩ về những sự việc lạ lùng đã xảy ra từ khi tôi đeo chiếc nhẫn vàng mà Brama đã tặng cho tôi. Tất cả những chương trình của tôi đều bị đảo lộn. Sự phối hợp ngẫu nhiên của những hoàn cảnh bất ngờ đã thúc đẩy tôi đi xuống miền Nam. Thay vì đi lên miền Đông Bắc như tôi đã dự định. Tôi tự hỏi rằng phải chăng viên ngọc thạch trên chiếc nhẫn có cái quyền năng kỳ bí mà người đạo sĩ đã tin là có thật? Mặc dù tôi cố gắng giữ một thái độ cởi mở, nhưng đối với một người Âu có tinh thần khoa học thì thật khó mà chấp nhận điều đó. Tôi bèn gạt bỏ cái giả thuyết ấy, nhưng tôi vẫn không thể nào dẹp tan sự lưỡng lự phân vân nó lởn vởn trong đầu óc của tôi. Có một cái gì lạnh lùng bí ẩn nó dìu dắt những bước chân của tôi đi đến thâm sơn cùng cốc này. Hai người tu sĩ áo vàng kia phải chăng là những khí cụ của định mệnh để hướng dẫn tôi đến nơi đạo viện của đức Maharichi?
Tôi dùng chữ định mệnh không phải theo cái ý nghĩa thông thường, nhưng tôi không tìm thấy được chữ nào khác. Có ai ngờ rằng đôi khi những sự việc nhỏ nhặt hình như vô nghĩa lại có thể đóng một vai trò quan trọng trong đời của một người?
Khi đoàn xe lửa đến một nhà ga cách thành phố Pondichéry độ bốn mươi dặm, tôi và người khất sĩ cùng xuống và đón chuyến xe lửa khác để đi sâu vào nội địa. Đến một nhà ga nhỏ ở đồng quê, thì trời vừa hừng sáng. Cách đó vài dặm, một ngọn núi nhô lên ở tận chân trời, chân núi rất hùng vĩ, ngọn núi hãy còn khuất dạng trong sương mù ban mai.
Lần theo những tiếng ngáy rất lớn phát ra từ một góc bên cạnh nhà ga, người khất sĩ đưa đường tìm ra được một người đánh xe còn ngủ mê trên một cỗ xe bò nhỏ. Người khất sĩ bèn đánh thức y dậy và cho y biết rằng chúng tôi muốn đi đến đạo viện của đức Maharichi. Điều này dường như kích thích sự sốt sắng của người phu xe, nhưng tôi nhìn một cách ngần ngại cỗ xe nhỏ hẹp và mảnh khảnh làm bằng tre đặt trên hai bánh. Tuy nhiên chúng tôi cũng lên xe ngồi trong khi người phu xe chất hành lý ở phía sau. Người khất sĩ cố thu hình vào một gốc để choán thật ít chỗ và nhường chỗ rộng hơn cho tôi, còn người phu xe ngồi phía đằng trước, ở giữa hai con bò, cằm y tựa trên hai đầu gối. Khi mọi người đã ngồi xong một cách tạm yên như thế, thì chiếc xe bắt đầu lăn bánh.
Cỗ xe không đi mau được bao nhiêu mặc dầu những cố gắng của hai con bò trắng mập mạp to lớn. Ở xứ này, loài bò lại hữu ích hơn ngựa ít nhất là để kéo xe, vì chúng chịu đựng dẻo dai hơn và nuôi ít tốn kém hơn. Ðời sống ở tỉnh nhỏ và ở thôn quê trong vùng nội địa vẫn trầm trệ, không có tiến bộ nào từ nhiều thế kỷ. Cỗ xe bò này vẫn là loại xe đã từng chở hành khách ở Ấn Độ cách đây trên hai ngàn năm. Người đánh xe với gương mặt rám nắng rất hãnh diện với cặp bò của y. Những cặp sừng dài của chúng đều có nạm đồ trang sức bằng vàng, những chuông lục lạc bằng đồng cột vào bốn chân của chúng phát ra một tiếng reo nghe rất vui tai.
Phong cảnh chung quanh rất ngoạn mục, với những đồi núi nối tiếp nhau ở tận chân trời. Đất màu đỏ, rải rác đó đây những bụi cây rậm rạp và ở hai bên đường là ruộng lúa xanh tươi một màu lá mạ. Một người nông phu với vẻ mặt gân guốc, đen xạm, bước chân ra đồng làm việc. Một cô thôn nữ Ấn, một tay vịn một bình nước bằng đồng mà cô đội trên đầu, đi qua một cách dịu dàng, lả lướt. Cô ấy mặc một chiếc Sari bằng vải màu đỏ sậm, quấn chung quanh mình vai để trần, lỗ mũi có gắn một viên ngọc đỏ, cổ tay đeo một cặp neo vàng chiếu lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời.
Các cô gái Ấn miền Nam nước da sậm, vui vẻ hồn nhiên hơn và thích nói chuyện hơn các thiếu nữ miền Bắc, và giọng nói các cô nghe êm tai hơn. Cái nhìn ngạc nhiên của cô thôn nữ làm cho tôi nghĩ rằng sự hiện diện của một người Âu chắc không phải là một việc thông thường ở chốn đồng quê hẻo lánh này.
Cỗ xe chở chúng tôi đã vào thành phố. Thành phố này có vẻ thịnh vượng, với một ngôi đền cổ rất lớn mà những mặt tiền chạy dọc theo nhiều đường lộ. Chúng tôi đi qua một cổng lớn trước đền. Tôi bảo ngừng xe một lúc và bước xuống để xem phía trong đền. Ngôi đền này có một kiểu kiến trúc vừa vĩ đại vừa uy nghiêm. Phía trong đền làm thành một hình bốn góc tầm nhỡn quang của du khách có cái cảm giác như lạc bước vào một nơi bát trận đồ không có ngõ ra. Bốn vách tường rào bên ngoài đã từng chịu đựng sự dãi dầu của thời gian, nung nấu dưới ánh nắng như thêu đốt của mặt trời vùng nhiệt đới.
Đền có bốn cổng lớn, phía trên mỗi cổng đền đều có một ngọn tháp nhô lên với thiên hình vạn trạng những hình tượng điêu khắc tiêu biểu những vị Thần. Phía trong đền có những nơi Tịnh Xá, những dãy hành lang với rất nhiều cột bằng đá chạm trỗ tinh vi, và chung quanh là những chỗ điện thờ tối tăm, thờ rất nhiều hình tượng các vị Thần của Bà La Môn giáo.
Hai con bò lại tiếp tục kéo cỗ xe một cách nhẫn nại, vô tư và một lần nữa lại chở chúng tôi ra vùng đồng quê. Sau khi đã vượt qua sáu dặm đường, cỗ xe đến gần ngọn núi mà tôi đã nhìn thấy từ nhà ga. Sương mù đã tan dần, ngọn núi gồm đất đỏ và đá mầu nâu đứng cô lập một mình giữa ánh sáng trong vắt của buổi sớm mai.
Người khất sĩ kêu to, với một giọng đầy hứng khởi và tôn sùng không thể tả: "Arunachala! Ngọn Đồi thiêng!"
Tôi hỏi:
- Tại sao lại gọi là ngọn đồi thiêng?
Người khất sĩ cho biết:
- Mỗi năm một lần, vào ngày lễ lớn được cử hành trong đền, người ta đốt một ngọn lửa trại rất lớn trên đỉnh núi. Ngọn lửa trại này được đốt lên với rất nhiều bơ và long não và cháy suốt nhiều ngày, có thể thấy rõ từ những vùng chung quanh ở cách xa đền mấy dặm. Khi ngọn lửa bốc cháy lên, thì mọi người ở vùng lân cận đều cúi lạy. Ngọn lửa đó chỉ rằng ngọn núi này là một vùng rất linh thiêng và được sự che chở của một vị Thiên Thần rất lớn.
Chúng tôi đã gần đến nơi. Chiếc xe bò đã rời khỏi đường cái và đi theo một con đường dốc đưa đến một vườn dừa và xoài rất rậm rạp. Qua khỏi vườn cây này là chỗ cùng đường, chiếc xe ngừng trước cửa đạo viện. Người phu xe bước xuống đẩy cánh cửa cổng và đưa chúng tôi vào sân. Đạo viện của đức Maharichi ở dưới chân núi, phía trước có trồng cây và một khoảnh vườn, chung quanh toàn là những hàng rào bằng cây xương rồng. Bên ngoài hàng rào là những rừng, bụi rậm rạp phủ chung quanh đến tận chân trời. Chung quanh không có nhà cửa, xóm làng chi cả. Thật không có chỗ nào hoang liêu, cô tịch hơn nữa, và là một nơi lý tưởng cho việc thiền định suy tư.
Ðạo viện gồm có một dãy nhà dài bằng gạch, lợp ngói, cất theo kiểu tân thời, và hai túp nhà tranh ở phía bên trái. Trước dãy nhà dài có một hàng ba, và giữa sân có một cái giếng nước. Một đứa trẻ nhỏ ở trần, nước da đen sậm đang kéo một thùng nước từ dưới giếng bằng một cái tay quay.
Khi chúng tôi vừa đến, thì trong nhà có vài người bước ra sân và trố mắt nhìn một cách ngạc nhiên. Người khất sĩ vừa cười vừa tiến lên và giới thiệu vài câu bằng tiếng Tamoul. Tức thời mọi người đều đổi sắc mặt và nhìn tôi mỉm cười vui vẻ. Tôi cảm thấy tôi đã yêu mến những người dân lành chất phác và hồn nhiên đó.
Người khất sĩ mời "Chúng ta hãy vào trong." rồi ra dấu cho tôi đi theo y. Tôi mới ngừng lại ngoài hàng ba để cởi giày và sắp sửa lại rổ trái cây mà tôi mang theo để làm lễ vật ra mắt vị tôn sư.
Hai mươi cặp mắt đổ dồn vào chúng tôi khi chúng tôi bước vào nhà Tịnh Xá. Họ ngồi xếp bằng theo vòng bán nguyệt trên nền gạch màu đỏ. Cách đó một khoảng, trong góc phòng có một người ngồi trên một chiếc giường gỗ dài lót nệm trắng, đó là đức Maharichi.
Người khất sĩ đưa đường cho tôi tiến đến gần giường và cúi xuống lạy, gương mặt úp vào trong hai bàn tay. Gần đó có một cửa sổ lớn chiếu vào vị Tôn sư và tôi thấy rõ Ngài từng chi tiết.
Thừa dịp thuận tiện tôi mới đến gần cửa sổ, đặt mâm trái cây ở dưới chân Ngài và lùi lại một bước.
Đức Maharichi lúc đó vào khoảng năm mươi tuổi, tác người cao lớn, nước da ngâm ngâm như đồng bạch, nét mặt đều đặn, tóc hoa râm và cắt ngắn, trán cao và rộng, dấu hiệu của một bộ óc thông minh khác thường. Chiếc giường của Ngài ngồi lót nệm trắng, chân Ngài đặt trên một tấm da cọp rất đẹp.
Một sự im lặng hoàn toàn ngự trong căn phòng. Đại đức ngồi tĩnh tọa, tuyệt nhiên không cử động. Tôi tự hỏi không biết Ngài có biết chúng tôi đến chăng? Một vị đệ tử nước da sậm, tay nắm một sợi dây kéo cái quạt bằng tre treo trên trần nhà ngay trên đầu đức Tôn sư, để quạt cho Ngài. Tôi bèn nhìn thẳng vào mắt Tôn Sư, hy vọng làm cho Ngài chú ý đến tôi. Cặp mắt Ngài màu nâu sậm, và mở lớn.
Không có dấu hiệu gì chỉ rằng Ngài biết có tôi ở đó. Toàn thân Ngài yên lặng như một pho tượng. Sự yên lặng đó hẳn là một điều phi thường. Không, Ngài không nhìn thấy tôi vì cặp mắt Ngài bận nhìn vào chỗ hư không, huyền bí. Hồi còn ở Âu Châu tôi thường hay đặt cái nguyên tắc là hãy nhìn trong cặp mắt để biết rõ tâm tính của một người. Nhưng trước cặp mắt của đức Maharichi, tôi đã đi lạc hướng và tôi không đọc được gì cả.
Giờ phút trôi qua một cách chậm chạp. Kim đồng hồ treo trên tường đã chỉ qua nửa giờ rồi một giờ, nhưng không ai nhúc nhích cử động, cũng không ai nói năng gì cả. Tôi tập trung hết nhãn lực vào vị Tôn Sư đang ngồi tĩnh tọa trên divan (đi-văng). Mâm lễ vật của tôi vẫn còn y nguyên trên chiếc bàn nhỏ, không có ai để ý đến. Người đưa đường cho tôi không có dặn cho tôi biết trước rằng tôi sẽ được đón tiếp một cách khác thường như thế, nghĩa là không được Ngài chú ý đến mình. Nhưng dầu cho Ngài không nói, tôi cũng hiểu rằng Ngài đang nhập định. Tôi bỗng có một ý tưởng thoáng qua: Cơn nhập định đó phải chăng là làm cho tâm trí vắng lặng trống không? Nhưng rốt cuộc tôi cũng gạt bỏ ý định đó, vì tôi không thể trả lời được.
Dầu sao có một cái gì ở trong người của đức Tôn Sư, nó hấp dẫn tôi như đá nam châm hút sắt. Tôi hoàn toàn bị thu hút và không thể nào day mặt để nhìn ra chỗ khác. Sự ngạc nhiên của tôi lúc ban đầu cùng sự băn khoăn của tôi đã tiêu tan và lần lần nhường chỗ cho một sự hấp dẫn say mê lạ lùng và mãnh liệt. Hai tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ khi tôi mới bước vào. Tôi bắt đầu nhận thấy có một sự thay đổi huyền diệu, nó đang diễn ra trong người của tôi mà tôi không thể nào cưỡng lại được.
Những câu hỏi mà tôi sắp đặt một cách công phu, tỉ mỉ trên xe lửa để chất vấn Ngài giờ đây biến đi đâu mất. Tôi không màng đưa ra những câu hỏi đó nữa, cũng không màng tìm sự giải đáp cho những nỗi khó khăn thắc mắc nó vẫn dày vò tôi từ bao lâu nay. Tôi chỉ biết là một niềm an tịnh vô biên đang xâm chiếm lấy tôi, cũng như nó đang tràn ngập bầu không khí trong gian phòng này. Tâm hồn tôi, trí não tôi, từ lâu nay bị dày vò, căng thẳng bởi sự độc đoán của tư tưởng, biện luận, suy tư, có lẽ đến nay mới được nghỉ ngơi đôi chút.
Và những câu hỏi mà tôi đã chuẩn bị một cách rất công phu để hỏi Ngài, nay tôi nhận thấy nó tầm thường, vô vị làm sao. Tôi nhận thấy rằng trí não chúng ta tự tạo ra những sự thắc mắc, khó khăn, để rồi sau đó tự dày vò một cách vô ích để tìm ra sự giải đáp. Nay tôi tự thả trôi theo sự nghỉ ngơi và an tịnh một cách tuyệt diệu đến nỗi hai giờ đồng hồ trôi qua mà tôi không cảm thấy chút nào bực dọc hay khó chịu.
Tuy nhiên lần lần, một câu hỏi mới được nêu ra: Sự an lạc tuyệt vời nó vừa tràn ngập cõi lòng tôi đó, là từ đâu đến? Hay là nó toát ra từ người của đức Tôn Sư, cũng như hương thơm tỏa ra từ cái hoa?
Tôi không thể trả lời câu hỏi này, nhưng tôi biết rõ những phản ứng của tôi, tôi biết rằng cái niềm an tịnh thiêng liêng nó xâm chiếm tâm hồn tôi lúc đó là do đức Maharichi tạo nên. Ngài tạo ra nó bằng cách nào? Bởi tánh chất phóng quang của linh hồn (Ratio activité de l’âme) hay bởi một phương pháp thần giao cách cảm nào đó chăng? Tuy nhiên, Ngài vẫn ngồi đó, hoàn toàn bất động, hình như không hay biết chi cả về sự có mặt của tôi. Chung quanh bầu không khí vẫn hoàn toàn im lặng như tờ.
Trên mặt hồ phẳng lặng đó, một gợn sóng nhỏ. Có một người bước lại gần và nói nhỏ vào tai tôi:
- Ông muốn hỏi đức Tôn Sư điều chi chăng?
Người bạn đồng cảnh của tôi đã mất sự kiên nhẫn của y chăng? Hay là y tưởng rằng tôi đã kiên nhẫn quá mức, vì chờ đợi đã quá lâu? Nhưng này bạn ơi, quả thật tôi định đến đây để chất vất Tôn Sư của bạn, nhưng vào giờ này tôi đã có được sự an thuận với thế gian và an thuận với chính mình tôi nữa, thì tại sao tôi lại còn bận rộn dày vò trí óc của tôi với những câu hỏi của tôi để làm gì? Thuyền tôi đã xuôi dòng đi trên mặt biển yên lặng thần tiên của chốn non Bồng nước Nhược, mà bạn còn muốn giữ nó lại ở chỗ phong ba bão táp của bến trần ai tục lụy mà tôi vừa thoát khỏi hay sao?
Tuy nhiên, cái gợn sóng nhỏ mà người bạn tôi đã gieo trên mặt hồ phẳng lặng đó, cũng đủ làm gián đoạn cái giờ phút thiêng liêng ấy. Dường như đó là một ám hiệu đã trông đợi từ lâu, chung quanh tôi, mọi người đã đứng dậy, những tiếng nói đã vọng vào tai tôi, và kia, hai mí mắt của đức Maharichi đã chớp vài lần. Ngài day mặt về phía góc phòng và trong giây phút tôi đã lọt vào tầm nhãn quang của Ngài. Ngài vừa thức tỉnh sau một cơn đại định rất dài. Có lẽ người bạn đồng hành của tôi tưởng rằng sở dĩ tôi không trả lời vì tôi không nghe bèn lập lại câu hỏi của y lớn giọng hơn trước. Nhưng trong cặp mắt sáng dịu hiền của Tôn Sư nhìn vào tôi, tôi đọc được một câu hỏi khác: "Anh còn nghi ngờ gì nữa chăng, trong khi anh vừa cảm giác được cái yên tịnh thâm trầm của tâm hồn, mà tôi vừa ban cho anh cũng như cho tất cả những người kia?"
Quả thật, một niềm an tịnh vô biên dâng tràn ngập cõi lòng tôi. Tôi bèn day lại người khất sĩ và đáp:
- Không, tôi không muốn hỏi gì ngay bây giờ. Thôi, hãy để khi khác ...
Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng sự có mặt của tôi trong phòng làm cho nhiều người ngạc nhiên, không phải đức Maharichi, mà là những người đang nói chuyện huyên thuyên ở chung quanh tôi. Người bạn đồng hành của tôi cho biết một vài người trong số đó là những đệ tử, những người khác là những du khách viếng thăm đạo viện. Subramanya bèn giới thiệu tôi với mọi người. Y nói bằng tiếng Tamoul với một giọng sôi nổi hào hứng và rất nhiều bộ tịch. Chắc y đã dậm thêm ít nhiều, vì những lời của y được tiếp đón bằng những tiếng kêu ngạc nhiên của những người trong bọn.
Buổi cơm trưa vừa xong. Mặt trời vùng nhiệt đới làm cho mực thủy ngân trong hàn thử biểu vọt lên cao. Tuy thế tôi thấy đời sống ở đây có vẻ hồn nhiên, vì tôi có thể tiếp xúc với đức Maharichi bằng cách mà tôi ưa thích, nghĩa là bằng cách tham dự sinh hoạt hàng ngày của Ngài một cách tự nhiên và không kiểu cách.
Chiều hôm ấy, tôi trở lại Tịnh Xá của đức Tôn Sư và ngồi cạnh dưới chân Ngài. Ngài ngồi dựa bên một chiếc gối lớn, một đứa tiểu đồng cầm sợi dây kéo cái quạt treo trên trần nhà để quạt cho Ngài như thường lệ.
Đức Maharichi cầm trong tay một quyển vở, và viết một cách rất chăm chú. Một lúc sau, Ngài bỏ quyển vở qua một bên và gọi một vị đệ tử đến gần, rồi nói với y vài câu bằng tiếng Tamoul. Người đệ tử đến gần tôi và nói Tôn Sư rất tiếc rằng tôi không thể dùng bữa chung với những người trong Đạo viện, vì họ chưa từng tiếp khách người Âu nên họ không biết rõ cách ăn uống của tôi ra sao. Tôi bèn cảm ơn Tôn Sư và nói rằng tôi sẵn lòng dùng cơm với họ và nếu có thiếu món chi tôi sẽ có thể mua ở ngoài chợ gần bên. Tôi nói thêm rằng đó chỉ là một vấn đề phụ thuộc, và tôi đến đây với một mục đích quan trọng hơn. Tôn Sư chăm chú nghe tôi và với một vẻ mặt thản nhiên, Ngài nói:
- Cái mục đích đó rất đáng khen.
Câu hỏi của Ngài làm cho tôi hứng chí nói tiếp theo.
- Bạch Tôn Sư, tôi đã từng tham khảo triết học và khoa học Âu Tây, tôi đã từng chen vai thích cánh với người đời, tham dự những công việc của thế gian, hưởng những thú vui trần tục, và đã từng để cho những tham vọng của người đời lôi cuốn. Nhưng những điều đó không làm cho tôi quên lãng mục đích tu hành. Tôi đã học hỏi với những bậc Hiền Triết Tây phương, bây giờ, tôi phải nhìn về phương Ðông để tìm về ánh sáng.
Đức Maharichi hơi gật đầu, như muốn nói rằng: "Tôi hiểu." Tôi nói tiếp:
- Tôi đã nghe nhiều lý thuyết, đọc nhiều sách vở nhưng không có gì làm cho tôi được thỏa mãn. Chỉ có kinh nghiệm bản thân mới có thể làm cho tôi có đức tin. Xin lỗi Ngài, tôi xin thú thật là tôi không có điều mà người ta gọi là tinh thần tôn giáo. Ngoài sự sống của thể xác hữu hình còn có gì nữa chăng? Nếu có, làm sao tôi có thể biết được?
Ba hay bốn người đệ tử chung quanh nghe nói, đều trố mắt im lặng vì ngạc nhiên. Tôi tự nghĩ không biết tôi đã vi phạm một quy luật nào trong Đạo Viện hay đã xúc phạm đến Tôn Sư vì sự nói thẳng của tôi chăng? Không sao, sự cay đắng của nhiều năm mỏi lòng chờ đợi và thất vọng đã làm cho tôi phải thốt ra bằng lời, không còn tự chủ được nữa. Nếu đức Maharichi là người mà tôi tin tưởng, thì Ngài sẽ vượt lên trên những điều thường tình đó, và Ngài sẽ hiểu.
Trong khi chờ đợi, Ngài không trả lời, và dường như theo đuổi dòng tư tưởng của Ngài. Nay vì tôi đã nói ngon trớn, tôi không dễ gì ngừng lại nửa chừng, và nói tiếp luôn:
- Các nhà bác học Âu Tây cũng phải thú nhận rằng họ không biết gì cả về những vấn đề siêu hình. Tôi nghe rằng ở các xứ phương Ðông, có những người có thể trả lời về những điều mà khoa học Âu Tây phải chịu bất lực không giải thích nổi. Có phải đúng vậy không? Tôn Sư có thể giúp tôi tìm thấy ánh sáng chăng? Hay đây cũng chỉ là một ảo mộng?
Tôi đã đi ngay vào đề và chỉ còn đợi câu trả lời. Đức Tôn Sư vẫn tiếp tục nhìn tôi. Tôi tự hỏi: "Hay là Ngài đang suy nghĩ về các câu hỏi của tôi chăng?" Mười phút trôi qua, đôi môi của Ngài mới bắt đầu cử động, Ngài nói với một giọng rất dịu dàng:
- Anh vừa nói: "Tôi muốn biết." Vậy cái tôi đó là cái gì?
Lần này Ngài nói thẳng với tôi bằng tiếng Anh và không cần thông ngôn. Tôi lấy làm bối rối vì không hiểu Ngài muốn nói gì. Tôi nói bằng một giọng yếu ớt:
- Xin lỗi Ngài tôi không hiểu.
- Câu hỏi của tôi không rõ ràng sao? Anh hãy suy nghĩ đi.
Tôi suy nghĩ rồi lấy tay chỉ vào tôi và tự xưng danh.
- Anh có thật biết y là ai chăng?
Tôi cười và đáp:
- Suốt cả đời tôi.
- Cái mà anh nói đó, chỉ là cái thể xác của anh, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tôi lặp lại câu hỏi: "Anh là ai?"
Làm sao trả lời được một câu hỏi lạ kỳ như vậy? Đức Maharichi nói thêm:
- Anh hãy cố làm sao biết được cái Tôi đó, anh sẽ biết được Chân Lý.
Tâm trí tôi đã đi lạc hướng, và tôi không dấu diếm được sự ngạc nhiên. Có lẽ Tôn Sư đã cạn vốn Anh Ngữ của Ngài, vì Ngài day lại người thông ngôn và nói ít lời. Người này dịch lại như sau:
- Anh chỉ cần làm một việc: Hãy nhìn vào nội tâm. Nếu anh làm được như vậy, anh sẽ tìm thấy sự giải đáp cho mọi vấn đề.
- Nhưng tôi phải làm sao để nhìn vào nội tâm?
- Anh hãy suy gẫm về cái chân tướng hay chân ngã của anh bằng sự tham thiền quán tưởng liên tục không gián đoạn. Đó là con đường đi đến ánh sáng.
-Tôi đã suy gẫm về những điều đó mà không thấy tiến bộ chút nào.
- Sao anh biết được? Sự tiến bộ trên địa hạt tâm linh không phải dễ gì nhận biết được như trên địa hạt vật chất.
- Trong sự thiền định, quán xét nội tâm, cần phải có Thầy hay không?
- Thầy chỉ giúp phương tiện, dìu dắt mà thôi. Còn thiền định phải là một vấn đề kinh nghiệm về bản thân.
- Nếu có Thầy dìu dắt, phải mất bao lâu mới tìm thấy ánh sáng?
- Điều đó tùy nơi trình độ riêng của mỗi người. Thuốc súng bắt lửa ngay tức khắc, còn than củi phải cháy lâu hơn.
Tôi có cảm giác rằng Tôn Sư hình như không thích bàn về vấn đề tìm thấy hoặc những phương pháp nọ kia. Tôi hỏi qua chuyện khác:
- Thế giới đang trải qua những cơn khủng hoảng trầm trọng. Xin Tôn Sư dạy cho biết tương lai của nhân loại sẽ ra sao?
- Anh đừng lo gì về tương lai. Anh đã biết cái hiện tại hay chưa? Hãy lo cái hiện tại đi đã, rồi cái tương lai sẽ tự nó quyết định.
Đây cũng lại là một câu khó hiểu nữa. Nhưng lần này tôi không chịu bỏ qua một cách dễ dàng, vì tôi tự nghĩ rằng tôi sống ở cõi thế gian mà những sự đau khổ đè nặng lên vai của người đời, nhiều hơn là ở nơi một Đạo viện êm đềm ẩn trong rừng thẳm. Tôi nói:
- Xin Tôn Sư nói cho biết trong tương lai gần đây thế giới sẽ bước vào một thời kỳ hòa bình hay là sẽ rơi vào một tình trạng hỗn loạn?
Đức Maharichi có vẻ không bằng lòng:
- Có một đấng Tạo Hóa quản trị cõi thế gian, đó là việc riêng của Ngài. Đấng Sáng Tạo ra thế giới càn khôn biết rõ hơn chúng ta về những bổn phận mà Ngài phải làm. Gánh nặng cả thế gian là trách nhiệm của Ngài, không phải của anh.
- Tuy nhiên, nếu người ta để ý quan sát, người ta không thấy có vùng nào trên thế giới là thật sự được hưởng ân huệ tốt lành của đấng Hóa Công.
Tôi không tiến thêm được bao nhiêu, nhưng dầu sao tôi cũng được một câu trả lời:
- Con người như thế nào, thì thế gian như thế ấy. Người đi tìm Chân Lý không cần biết đến những vấn đề đó và phí công vô ích với những chuyện bên ngoài. Anh hãy tìm Chân Lý ở tự nơi anh, rồi anh sẽ thấy Chân Lý ẩn tàng ở cõi thế gian chung quanh mình.
Gian phòng lại im lặng. Người tiểu đồng tiến đến bình lư hương và đốt thêm một cây nhang. Đức Maharichi, sau khi nhìn một làn khói xanh bay lên nghi ngút, bèn cầm lại quyển vở của Ngài và chăm chú viết, làm cho tôi hiểu rằng Ngài tiếp chuyện tôi như thế là đủ. Sự thản nhiên đó làm cho tôi có cảm giác như bị một gáo nước lạnh. Tôi còn ngồi đó thêm một khắc đồng hồ, nhưng tôi thấy rõ là đức Tôn Sư không muốn nói chuyện nữa, làm sao bây giờ, nếu không đứng dậy và chắp tay kiếu từ.
Tối hôm ấy, khi chúng tôi bước vào Tịnh Xá và ngồi xuống sàn gạch, thì hình như cái yên lặng của cảnh vật thiên nhiên cũng đã xâm chiếm cả Đạo viện và thấm nhuần cả bầu không khí chung quanh. Số người nhóm họp mỗi buổi chiều ngồi vòng quanh theo hình bán nguyệt như thường lệ, nhưng không ai thốt ra một lời nào, và tất cả đều giữ im lặng. Đức Maharichi vẫn ngồi trên giường, hai chân xếp bằng, hai bàn tay để trên hai đầu gối.
Gương mặt Ngài nghiêm chỉnh nhưng vẫn không kém nét giản dị và khiêm tốn, cặp mắt đứng tròng của Ngài chỉ nhìn về một điểm duy nhất, ở phía tướng bên kia. Cái nhìn không chớp mắt đó đối với tôi là một sự bí hiểm, nó trụ vào một vật ở ngoại cảnh, hay là Ngài đã đắm chìm trong cảnh hư không, trừu tượng và không thấy gì đang diễn ra ở chung quanh?
Luồng khói hương trầm bay lên và tỏa ra mùi thơm khắp phòng. Tôi thử nhìn ngay vào cặp mắt trống trơn của Ngài, nhưng trong vài phút sau, cặp mắt tôi đã nhắm lại. Tôi đắm chìm trong một cơn mơ màng, như tỉnh như mơ, giữa cái êm như ru của bầu không khí huyền diệu ở chung quanh. Trong giây lát, tâm hồn tôi trở nên trống rỗng, và đến lượt tôi bước vào cái thế giới huyền ảo của cảnh mộng ...
Tôi sống trở lại như một đứa bé năm tuổi. Tôi trèo lên một trong những con đường mòn dốc đứng, nó chạy quanh co theo ngọn núi đá đỏ ngoại đạo viện, tay tôi nắm lấy bàn tay đức Maharichi, nhưng tác Ngài cao lớn hơn tôi bội phần. So với tác bé nhỏ của tôi, thì Ngài coi như một người khổng lồ. Chúng tôi cùng đi ra khỏi đạo viện, mặc dầu trời tối Ngài dắt tôi đi một cách vững vàng.
Trăng sao dần dần ló dạng và chiếu xuống một thứ ánh sáng lu mờ. Tôi nhận thấy rằng đức Maharichi dắt tôi tránh những lỗ hang, hầm hố và những tảng đá lớn nhô lên ở phía trên đầu, dường như sẵn sàng đè bẹp chúng tôi. Ngọn núi cao, đường dốc đứng, che khuất trong hang núi, hoặc trong bụi rậm, là những động đá của các nhà tu sĩ, rải rác dọc theo con đường mòn chúng tôi đi. Những tu sĩ này bước ra chào khi chúng tôi đi ngang qua động đá của họ, và mặc dầu họ ẩn hiện như những bóng ma dưới ánh trăng mờ, tôi cũng nhận ra nhiều hạng đạo sĩ Yogi. Chúng tôi vẫn tiến bước không ngừng cho tới khi lên tới đỉnh núi. Tại đây, chúng tôi dừng bước và lòng tôi chờ đợi một sự gì quan trọng sắp tới.
Đức Maharichi nhìn tôi, và tôi ngước mặt lên nhìn Ngài. Ngay khi đó, tôi cảm thấy một sự thay đổi huyền diệu đang diễn ra trong người tôi. Những quan niệm và những lẽ sống của tôi trước kia nay không còn nữa. Những tham vọng và dục tình nó hướng dẫn cuộc đời tôi nay đã biến mất. Những sự đố kỵ, sự hiểu lầm, sự lãnh đạm, lòng ích kỷ, nó đi kèm với mọi sự giao tế của tôi với những người trần gian nay đã tiêu tan. Một niềm an vui khôn tả xâm chiếm cõi lòng tôi và bây giờ tôi đã biết rằng không còn có sự gì ở trên đời mà tôi ước mong hơn nữa.
Khi đó, đức Maharichi bảo tôi nhìn xuống dưới chân đồi. Tôi vâng lời và nhìn thấy thế giới Tây phương diễn ra dưới chân tôi. Những đám quần chúng hỗn độn gồm những dân tộc các nước trà trộn lẫn nhau dưới một bức màn vô minh hắc ám, bao phủ cả tinh thần lẫn vật chất.
Đức Tôn Sư nói với tôi:
- Khi con trở về với họ ở góc trời Âu, con sẽ giữ mãi niềm an tịnh này trong lòng con. Nhờ nó con sẽ gạt bỏ cái ý tưởng cho rằng con là một thể xác, một bộ óc nhất định. Khi con nhận thấy nguồn an vui tràn ngập cõi lòng, con đã hướng cuộc đời con về theo ánh sáng chân lý ...
Khi tôi thức tỉnh và hãy còn bàng hoàng về giấc mộng thiêng liêng đó, thì hai con mắt tôi gặp phải hai con mắt của Tôn Sư. Tôi không lầm, gương mặt Ngài lúc ấy đang day về phía tôi, và chính Ngài đang nhìn tôi.
Có một ý nghĩa thâm sâu nào ẩn dấu đằng sau giấc mộng vàng của tôi vừa rồi? Những sự ước mơ, những dục vọng, những nỗi đắng cay của dĩ vãng, tất cả đều tiêu tan như mây khói. Một trạng thái thản nhiên đối với chính mình tôi, và một lòng nhân từ bác ái sâu xa đối với mọi người hãy còn lưu lại trong lòng tôi sau khi thức tỉnh. Làm sao giải thích được điều này? Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng cái ấn tượng đó chỉ tồn tại trong một lúc chớ không kéo dài. Nó đẹp quá, nó chưa phải để dành cho tôi.
Tôi ngồi tại đây từ bao lâu rồi? Nhìn chung quanh, tôi thấy mọi người đã đứng dậy và sửa soạn đi ngủ. Tôi cũng phải đi ngủ chứ, nhưng không khí trong phòng nóng bức vì thiếu gió, nên tôi phải ra nằm ngủ ngoài sân. Một vị đệ tử vóc người vạm vỡ, có chòm râu xám bạc, cầm đến cho tôi một cây đèn lồng và dặn tôi hãy để đèn cháy suốt đêm, vì sợ các thứ rắn độc hoặc thú dữ đột nhập lúc ban đêm. Để đèn sáng, chúng sợ không dám lại gần.
Nằm dưới đất không có nệm lót, tôi thấy khó ngủ. Nhưng tôi không thấy buồn, tôi có đủ đề tài suy nghĩ đêm nay, vì tôi tin rằng rốt cuộc, tôi đã gặp người mà tôi tìm kiếm bấy lâu nay, một người lạ lùng, huyền bí nhất mà định mệnh đã đặt để trên bước đường đời của tôi. Tôi có cảm giác như tôi đang đứng trước một giai đoạn quyết liệt, nhưng chưa biết chắc sự gì sẽ xảy ra. Đó chắc chắn là một cái gì thuộc về địa hạt tâm linh, hoàn toàn xa cách với cõi giới vật chất phàm tục. Trí tôi vẫn tưởng tới cái giấc mộng vừa qua, và tim tôi hồi hộp đập mạnh trước một sự gì huyền diệu sắp đến, tuy chưa rõ rệt, nhưng chắc hẳn là thâm thúy vô cùng.
Trong những ngày kế đó, tôi tìm cách tiếp xúc trở lại với đức Maharichi, nhưng không có kết quả. Ngẫm nghĩ về điều này, tôi nhận thấy có ba lý do. Trước hết đó là bản tính dè dặt tự nhiên của Ngài, Ngài không thích thảo luận, bàn cãi và hoàn toàn thản nhiên với mọi sự tin tưởng và mọi ý kiến của người đời. Điều chắc chắn là Ngài không màng hoán cải bất cứ một người nào, và không hề có ý muốn kiếm thêm đệ tử.
Lý do thứ hai có vẻ lạ lùng, nhưng tôi cảm thấy rõ rệt. Từ ngày tôi có giấc mộng huyền linh đó, mỗi lần đến trước mặt Tôn Sư, tôi đều cảm thấy một sự tôn kính thiêng liêng. Những câu hỏi mà tôi định đưa ra chất vấn Ngài đều im bặt, tôi cho rằng thật là một điều phạm thượng mà thảo luận một cách bình đẳng, ngang vai với một người đã đạt tới một trình độ siêu phàm như thế.
Lý do thứ ba giản dị hơn. Trong Tịnh Xá lúc nào cũng có người, và tôi không thích phô bày trước công chúng những điều thầm kín nhất của lòng mình. Dầu sao đối với những người ấy tôi cũng chỉ là một người ngoại quốc. Sự bất đồng ngôn ngữ không quan hệ, nhưng cái óc hoài nghi đặc biệt của người Âu, sự hoàn toàn thiếu hẳn tinh thần tôn giáo trong việc trình bày ý kiến của tôi có thể làm trái ý phần nhiều những người chung quanh.
Bởi đó, mỗi lần tôi muốn nói, thì một trong ba lý do trên đây ngăn trở tôi và bắt tôi phải im lặng. Lúc đầu, tôi định viếng thăm đạo viện trong hai ngày cuối tuần, nhưng nay cả một tuần lễ đã trôi qua. Tôi tự hỏi cuộc đàm luận đầu tiên của tôi với đức Maharichi phải chăng cũng là buổi nói chuyện cuối cùng? Ngoại trừ một vài câu nói xã giao thường lệ, một vài tiếng chào hỏi thoáng qua, tôi và Tôn Sư, cả hai người đều dè dặt, không ai mở lời trước. Mười lăm ngày đã qua, càng ngày tôi càng cảm thấy một cách đậm đà thâm sâu, những ảnh hưởng tốt lành của niềm an tịnh thiêng liêng nó bao trùm cả Đạo viện, thậm chí đến cả bầu không khí người ta thở tại đây.
Ngày cuối cùng đã đến, mà tôi không tiến đến gần đức Maharichi được thêm một bước nào. Trong thời gian ở tại Đạo viện tôi cảm thấy có khi vui khi buồn, một trạng thái không chừng đổi nó làm cho tôi thất vọng. Tôi cảm thấy chán nản, phần nhiều những người ở đây đối với tôi lại bất đồng ngôn ngữ, và có sự cách biệt từ phương diện bên ngoài lẫn cả bên trong. Làm sao hy vọng có một sự thông cảm giữa tôi với họ được? Tôi nghĩ đến đức Tôn Sư cũng như con chim đại bàng bay cao vút trên chín tầng mây bạc, và nhận xét đời người dưới một quan điểm cao siêu đến nỗi tôi không hiểu được.
Lẽ tất nhiên, Ngài không giống như mọi người, Ngài không phải thuộc về dòng giống nhân loại như chúng ta. Ngài chẳng khác nào như ngọn núi trơ trọi, độc nhất, nó nhô lên cao ở phía sau đạo viện, như cụm rừng xanh rộng rãi bao la đến tận chân trời, hoặc như vòm trời cao vòi vọi không thể đo lường. Một cái gì vô hình và huyền diệu của Ngọn Đồi Thiêng kia hẳn là đã truyền qua tâm hồn của đức Maharichi.
Người ta nói rằng Ngài ở tại đó đã ba mươi năm nay và không bao giờ rời khỏi ngọn núi ấy dầu là chỉ trong một ngày. Một sự liên đới chặt chẽ như thế hẳn là phải có ảnh hưởng vang dội đến tâm tính của Ngài. Đức Maharichi yêu Ngọn Đồi Thiêng của Ngài, và có người đã dịch lại cho tôi xem một vài câu thơ rất hay và cảm động do chính tay Ngài viết để biểu lộ tình yêu đó.
Cũng như ngọn núi Thiêng một mình tách ra khỏi khu rừng rậm rạp và nhô lên trời, đức Maharichi vươn mình vượt khỏi đám rừng người của thế gian, và sự cao cả của Ngài cũng là độc nhất vô nhị. Một mình Ngài đã vượt bậc tiến tới trước, và những người khác yếu đuối hơn không thể theo kịp Ngài. Cho tới nay, tôi mới gặt hái được có một niềm an vui tự tại trong buổi hội kiến ban đầu, và một giấc mơ huyền diệu nó chói rạng như một ngôi sao trong ký ức của tôi. Thời gian trôi qua, trong mười lăm ngày ở đạo viện, tôi chỉ mới có được một cuộc hội đàm đáng kể với đức Tôn Sư! Gương mặt nghiêm nghị của Ngài cũng đủ làm cho tôi lánh bước không dám lại gần. Tôi tự nghĩ rằng tôi không ngờ đến một sự tiếp đãi như thế, sau khi tôi được thấy những triển vọng tươi sáng về đời sống ở Đạo viện mà người khất sĩ hành hương đã phô bày trước mắt tôi.
Tuy nhiên, chính đức Maharichi, chớ không phải ai xa lạ, là người mà tôi muốn được yết kiến lần nữa để được nghe lời vàng ngọc của Ngài, vì tôi quả quyết chắc chắn rằng trong những người mà tôi đã gặp, thì đức Maharichi là người duy nhất đã giải quyết được các bài toán khó khăn của cuộc đời, và không có một sự đau khổ nào ở thế gian có thể phạm đến Ngài được nữa.
Tôi đã tìm cách gặp Ngài một lần nữa. Tôi đi tìm người đệ tử kỳ cựu, có nhiều thiện cảm đối với tôi ngay từ lúc đầu và nói cho y biết rằng tôi muốn được hội kiến một lần cuối cùng với đức Tôn Sư, nhưng không dám xin Ngài một cách trực tiếp. Vị đệ tử liền thông cảm và mỉm cười. Y liền bước đi ngay và một chặp sau, y trở lại với câu trả lời: đức Maharichi rất vui lòng tiếp kiến tôi. Tôi bèn trở lại chỗ ngồi trong Tịnh Xá gần kế bên giường. Đức Tôn Sư day lại tôi và làm cho tôi cảm thấy thoải mái tự nhiên bằng cách nghiêng đầu chào tôi một cách rất lịch sự.
Tôi hỏi:
- Những nhà đạo sĩ Yogi nói rằng muốn tìm Chân Lý, người ta phải từ bỏ thế gian và sống ẩn dật trong chốn rừng sâu núi thẳm. Ở các xứ Tây phương, đó là một việc gần như không thể làm được vì cách sinh hoạt của chúng tôi khác hẳn. Tôn Sư có đồng ý với những người Yogi chăng?
Đức Maharichi day lại một đệ tử, một người Bà La Môn rất lễ độ, người này dịch lại câu trả lời của Ngài:
- Sự từ bỏ cuộc đời hoạt động của thế gian không phải là cần thiết. Anh hãy tham thiền một giờ hay hai giờ mỗi ngày và hãy theo đuổi những công việc hàng ngày của anh. Khi anh biết thiền định đúng cách, anh sẽ tự tạo cho anh một nguồn sinh hoạt tâm linh nó sẽ thấm nhuần đến công việc làm hàng ngày. Nói một cách khác, sự hoạt động hàng ngày của anh sẽ tiếp diễn trong một bầu không khí tâm linh do sự tham thiền tạo nên.
- Chừng đó kết quả ra sao?
- Kinh nghiệm sẽ giúp cho anh nhận thấy rằng quan niệm của anh về cuộc đời hoặc về nhân tâm, thế sự, sẽ thay đổi lần lần.
- Như vậy, phải chăng ý kiến của Ngài ít nhất cũng khác những người Yogi về điểm này?
Tôn Sư không muốn trả lời trực tiếp về điểm đó.
- Chính sự ích kỷ cá nhân nó làm cho con người bị trói buộc với thế gian. Vậy con người hãy tự giải thoát khỏi sự ích kỷ đó. Sự dứt bỏ thật sự chính là sự trừ diệt cái bản ngã vì bản ngã của ta vốn là một điều hư vọng và phỉnh lừa.
- Nhưng làm sao có thể trừ diệt được sự ích kỷ khi người ta còn phải sống ở thế gian?
- Vốn không có sự mâu thuẫn giữa đời sống thế gian và sự Minh Triết.
- Phải chăng Tôn Sư muốn nói rằng người ta vẫn có thể tiếp tục làm công việc của mình ở thế gian và đạt được sự minh triết?
- Tại sao không? Nhưng trong trường hợp đó, không phải cái phàm ngã của con người nó tiếp tục sự sinh hoạt hàng ngày nữa vì tâm thức của y đã lần chuyển qua một địa hạt tâm linh ngoài vòng chật hẹp nhỏ nhen của thế tình.
- Tôi thấy điều đó có sự khó khăn, sự sinh hoạt hàng ngày có thể dành cho ta bao nhiêu thì giờ để tham thiền?
Đức Maharichi không băn khoăn vì câu hỏi tầm thường đó:
- Dành một thời giờ riêng cho sự tham thiền là việc làm của kẻ sơ cơ. Người đã tiến bộ ít nhiều trên đường tìm Chân Lý sẽ tìm thấy sự an lạc nó là điều thường có đối với chúng tôi, dầu cho y đang bận rộn công việc. Trong khi hai tay của người ấy hoạt động, thì trí óc của y bay bổng trên những cõi giới siêu linh.
- Nhưng phải chăng điều đó không phải là pháp môn Yoga nữa?
- Người Yogi cố gắng đưa tâm trí của y đến mục đích cũng ví như kẻ chăn bò mộng đi trước mặt y, nhưng người chăn bò trước hết phải dụ dỗ con bò với một nắm rơm lúa.
- Tôn Sư muốn nói chi?
- Anh hãy tự đặt câu hỏi: Tôi là ai? Sự tìm kiếm này sẽ giúp cho anh khám phá, xuyên qua những hang, ngách của tâm thức những gì ẩn dấu đằng sau tâm trí của con người. Khi anh giải quyết được vấn đề căn bản này, anh sẽ giải quyết được tất cả những vấn đề khác.
Tôi cố tìm hiểu câu nói đó. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy ở đằng xa, ngọn Đồi Thiêng dưới ánh nắng ban mai. Đức Maharichi nói tiếp:
- Tôi sẽ nói rõ hơn. Tất cả mọi chúng sinh đều đi tìm hạnh phúc, một cái hạnh phúc thật sự mà họ có thể nắm lấy được và không bao giờ dứt. Cái bản năng đó rất chính đáng. Nhưng anh có khi nào để ý đến sự kiện này là chính họ tự thương yêu mình trước nhất?
- Và sau đó?
- Anh hãy so sánh việc sau này với điều tôi vừa kể trên. Muốn đạt được hạnh phúc, họ cần một phương tiện, có người chọn ly rượu mạnh, có người chọn ái tình, có người thì chọn tôn giáo. Anh thấy chăng, bản tánh thật sự của con người là như thế.
- Tôi không thấy rõ ...
Ngài nói tiếp:
- Bản tánh chân thật của con người, tức là hạnh phúc vậy. Hạnh phúc vốn sẵn có nơi Chân Ngã. Sự tìm kiếm hạnh phúc, chính là sự tìm kiếm Chân Ngã, nhưng một cách vô ý thức. Chân Ngã vốn bất diệt, cho nên người nào đã tìm thấy nó rồi, thì đồng thời cũng tìm thấy một cái hạnh phúc trường cửu, vô tận.
- Nhưng có biết bao nhiêu sự đau khổ trên thế gian!
- Lẽ tất nhiên, đó là bởi vì thế gian không hề biết cái bản tánh chân thật của nó. Tuy nhiên, tất cả mọi người, dầu có ý thức hay không, cũng đều đang đi tìm hạnh phúc.
- Kể cả những kẻ khốn cùng, những kẻ tàn bạo, sát nhân?
- Đúng vậy, nhưng họ lầm lạc vì họ tưởng rằng họ có thể tìm thấy bí quyết của hạnh phúc trong những tội lỗi của họ. Cái hoài bão đó là do bản năng thúc đẩy, nhưng vì họ tìm hạnh phúc trong những hành vi bất chính. Sự sai lầm của họ rất là tai hại, vì con người gieo nhân nào phải gặt quả nấy.
- Như vậy, phải chăng nếu chúng ta thực hiện được Chân Ngã của mình thì chúng ta sẽ đạt được hạnh phúc trường cửu?
Tôn Sư gật đầu cho là phải. Xuyên qua cửa sổ, một tia nắng chiếu vàng gương mặt đức Maharichi. Vầng trán Ngài phản ảnh sự an tịnh bên trong, vành môi rõ rệt biểu lộ một sự ung dung tự tại hoàn toàn, đôi mắt Ngài phản chiếu một sự an lạc tuyệt vời. Không có gì trong cái phong độ của Ngài tương phản với những lời Ngài nói.
Những lời nói của Ngài có bao hàm điều gì khác hơn là cái ý nghĩa hình như đơn giản đó chăng? Người thông ngôn đã dịch lại đúng y nguyên văn, nhưng ngoài ra còn có cái gì sâu xa hơn nữa mà y không dịch hết ý chăng? Cái đó, chính tôi phải tự khám phá lấy. Đức Tôn Sư nói không phải như một triết gia, hoặc một nhà biện thuyết, mà lời nói của Ngài phát tự đáy lòng. Hay là Ngài chỉ bày tỏ cái kinh nghiệm quý báu riêng của Ngài chăng?
Tôi hỏi Ngài:
- Sự tìm Chân Ngã có dễ thực hành hay chăng?
- Tự nhiên là dễ. Sự quán xét nội tâm có thể đi ngược trở lại đến chỗ mà Phàm Ngã lần lần tiêu tan.
- Chừng đó thì còn lại cái gì? Con người sẽ rơi vào một trạng thái vô ý thức, hay đần độn chăng?
- Không bao giờ. Chừng đó con người sẽ đạt tới một trạng thái tâm thức bất diệt, và một sự minh triết do bởi sự thức tỉnh của Chân Ngã, tức là cái bản tính chân thật của con người.
- Và cái ý thức về bản ngã phải chăng cũng là do cái bản tánh chân thật đó mà ra?
- Cái ý thức về bản ngã thuộc về Phàm ngã của con người; nó thuộc về phần xác thể và trí óc. Khi con người lần đầu tiên nhận thức được Chân Ngã, thì có một cái gì xuất hiện từ những chỗ thâm sâu bí ẩn của tâm hồn và xâm chiếm lấy y. Cái đó vốn là một cái gì trường tồn, vô tận và thiêng liêng. Người ta gọi nó bằng nhiều danh từ khác nhau, chẳng hạn như Cõi Trời, Linh Hồn, Niết Bàn, người Ấn Độ Giáo gọi là Giải Thoát, anh cũng có thể gọi nó là gì tùy ý. Dầu sao, khi điều đó xảy ra, thì con người không phải là mất, mà y tự tìm thấy.
Câu sau này làm tôi nhớ lại những lời nói của đức Jésus, đến ngày nay vẫn còn là một điều bí hiểm đối với nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo: "Kẻ nào tham sống, thì sẽ chết, kẻ nào ghét sống thì sẽ gìn giữ được sự sống toàn vẹn." (Celui qui aime sa vie la perdra, et celui qui hait sa vie la conservera.)
Sự tương hợp giữa hai ý tưởng đó thật là rõ rệt, và nhà Hiền Triết Ấn Độ này đã đạt tới cái chân lý đó bằng sự thiền định suy tư, mà không cần đến sự dẫn chứng với câu nói của đức Jésus. Đức Tôn Sư nói tiếp:
- Ngày nào mà con người vẫn chưa bước vào con đường đó thì sự nghi ngờ băn khoăn sẽ còn theo sát một bên y.
Các bậc vua chúa, các nhà chánh trị tưởng rằng họ cai trị thế gian, nhưng nếu họ tự xét mình, họ sẽ phải thú nhận rằng họ chưa biết tự trị lấy mình. Cái quyền năng thật sự là ở trong tay người nào đã tiến sâu vào những chỗ bí ẩn thâm sâu của linh hồn.
Các nhà bác học Âu Tây cặm cụi suốt đời để sưu tầm học hỏi và hiểu biết, sẽ phải cúi đầu khi người ta hỏi họ đã giải quyết được các vấn đề bí hiểm của đời người, và đã tự biết mình hay chưa? Như vậy, tìm biết sự vật bên ngoài thế gian có ích gì, nếu chúng ta không biết gì cả về sự diễn biến trong người chúng ta và không biết rằng chúng ta là ai? Chúng ta thường trốn tránh không muốn nghĩ đến điều đó. Tuy nhiên, có cái học nào là đáng cho chúng ta chú trọng hơn nữa?
- Phải chăng vì đó là một công việc rất khó, hầu như quá sức của con người?
Câu hỏi của tôi làm cho Ngài hơi nhún vai:
- Phải thử rồi mới biết. Sự khó khăn không phải là quá lớn lao như anh tưởng.
- Đối với người Âu như chúng tôi, là những người hoạt động và thực tế, thì sự quán xét nội tâm một cách vô tư đó thật là ...
Tôi còn do dự, không biết phải kết thúc câu nói ra sao, Ngài đã nói tiếp:
- Sự hiểu biết chân lý là một hoạt động tâm linh, dầu cho đối với người Ấn hay người Âu cũng vậy. Tôi nhìn nhận rằng nó không phải dễ dàng đối với người còn hoạt động ở thế gian, nhưng trong trường hợp nào cũng vậy, người ta có thể thành công. Điều cần thiết là tạo nên, bằng phương pháp tham thiền, một nguồn sinh hoạt tâm linh mà sau đó người ta chỉ cần duy trì, gìn giữ bằng thói quen và sự thực hành. Khi anh ngẫm nghĩ về câu hỏi: "Tôi là ai?" khi anh bắt đầu hiểu rằng cái xác thân, hay những dục vọng, không phải thật là ta, thì chừng đó anh sẽ có một thái độ rõ rệt đối với chính mình. Do đó, câu trả lời sẽ xuất hiện tự những chỗ thâm sâu cùng tột của bản thể, nó sẽ hiện ra như một cái phần thưởng, như một sự thực hiện thâm trầm và sâu sắc. Anh hãy tự biết mình, và chừng đó chân lý sẽ chói rạng trong tâm hồn anh như một tia sáng mặt trời. Tâm trí anh sẽ tìm thấy sự yên tịnh, một nguồn an lạc vô biên sẽ tràn ngập cõi lòng anh bởi vì thực hiện Chân Ngã tức là tìm thấy Hạnh Phúc. Hai danh từ đó, Chân Ngã và Hạnh Phúc, vốn đồng nghĩa. Tất cả những sự nghi ngờ của anh sẽ tiêu tan, khi mà anh đạt tới sự thực hiện Chân Ngã một cách trực tiếp.
Nói đến đây, đức Tôn Sư quay đầu lại và nhìn thẳng về một điểm ở đằng xa, ở phía tường bên kia. Tôi hiểu rằng cuộc đàm thoại đã chấm dứt, và Ngài nói như thế đã đủ. Tôi cũng lấy làm hài lòng vì đã được yết kiến Ngài thêm một lần nữa.
Thời gian thắm thoát trôi qua, và ngày vĩnh biệt đức Tôn Sư đã đến. Chiều hôm ấy, tôi bước vào nhà Tịnh Xá, hai giờ trước khi cỗ xe bò đến để chở tôi lên đường và từ giã nõi đạo viện êm đềm ở chốn rừng hoang u tịch này.
Không khí trong phòng phảng phất mùi hương trầm thơm ngát. Ðức Maharichi ngồi bán dà trên divan, chăm chú nhìn tôi, không nói một lời. Tôi nhận thấy bên cạnh Ngài cái vò nước bằng đất nung và cây gậy trúc. Đó là tất cả vật sở hữu của Ngài trên mặt đất, nó là sự trả lời hùng biện cho cái bản năng chiếm hữu, cho sự khao khát của cải của người thế gian.
Bỗng nhiên đôi mắt mở lớn của Ngài lại đứng tròng, toàn thân Ngài lại trở nên ngay ngắn như pho tượng, đầu Ngài, hơi thở lắc lư qua lại vài cái trước khi ngừng hẳn. Trong vài phút, đức Maharichi lại chìm đắm trong cơn nhập định mà tôi đã thấy khi mới đến. Có người bước lại một bên tôi và kề tai nói nhỏ:
- Đức Maharichi đang nhập định. Chúng ta không nên nói chuyện.
Chung quanh mọi người đều im lặng, sự im lặng càng trở nên thâm trầm với giờ phút trôi qua. Tôi tự thả trôi theo một sự sùng kính thiêng liêng nó xâm chiếm lấy tôi một cách khó cưỡng lại được, chẳng khác nào như con ong bị hấp dẫn bởi mùi hương của cái hoa. Một mãnh lực vô hình, huyền bí phảng phất trong không khí của gian phòng và tôi không còn nghi ngờ gì nữa rằng nguồn mãnh lực đó là từ đức Maharichi tỏa ra. Đôi mắt Ngài chiếu sáng một cách đặc biệt.
Tôi cảm thấy trong mình tôi có những cảm giác lạ lùng. Cặp mắt sáng rực như tia lửa của Ngài dường như soi thấu vào những chỗ bí ẩn nhất của tâm hồn tôi. Tôi nhận định rằng Ngài nhìn thấy rõ hết tất cả những gì của tôi: Tư tưởng, tình cảm, dục vọng và tôi hoàn toàn bất lực trước quyền năng của Ngài. Trước hết tôi cảm thấy khó chịu, vì tôi biết rằng không có gì trong cuộc đời dĩ vãng của tôi mà Ngài không nhìn thấy, và tôi không thể dấu diếm che đậy cuộc đời quá khứ của tôi, nhưng tôi cảm thấy một cách mơ màng rằng sự quan sát tỉ mỉ đó sẽ có nhiều ích lợi cho tôi trong tương lai.
Và như vậy, tất cả những sự yếu đuối lầm lạc của tôi trong dĩ vãng, tất cả những ưu điểm và khuyết điểm của tôi đều biểu hiện rõ ràng trước cặp mắt của Ngài. Nhưng đồng thời, tôi cũng được an tâm, vì như thế chắc Ngài cũng sẽ thấy luôn cả tấm lòng mộ Đạo của tôi, nó thúc giục tôi từ giã quê hương, gia đình, lánh xa cuộc đời phồn hoa tục lụy và lao mình vào chốn rừng sâu núi thẳm để tìm những người như Ngài.
Lần lần tôi cảm giác được rõ ràng cái luồng thần giao cách cảm giữa đôi mắt đứng tròng của Ngài và cái nhìn non nớt của tôi, nó như dẫn dụ và mời mọc tâm hồn tôi hãy cùng chia sẻ cái trạng thái an tịnh vô biên và trường cửu của Ngài. Cái niềm an tịnh lạ lùng đó cũng đi kèm với một cái cảm giác nhẹ nhàng lâng lâng và an lạc tuyệt vời không có gì sánh kịp. Thời gian dường như ngừng lại. Tâm hồn của tôi đã trút được cái gánh nặng của những điều thắc mắc ưu phiền. Dường như kể từ nay, tôi đã vĩnh viễn được che chở, không còn bị những nỗi đắng cay của sự thất bại, và nỗi đau buồn của những dục vọng không được thỏa mãn.
Tôi nhận định một cách thâm sâu rằng cái bản năng nó bắt buộc con người hãy ngẩng mặt lên và hãy hy vọng trong sự tuyệt vọng, nó nâng đỡ con người trong những giờ phút tối tăm đau khổ, là một cái bản năng không bao giờ lầm lạc, vì nó vốn thuộc về tánh chất thiêng liêng. Trong cái im lặng thần tiên đó, mà đồng hồ ngừng chạy, thời gian ngừng trôi, mà những đau khổ và lầm lạc của dĩ vãng đã lùi lại vào đúng chỗ của nó, thì hình như toàn thân của tôi hỗn hợp làm một với đức Tôn Sư, hình như tôi đã cảm được sự minh triết đến mức tột độ, và cái nhìn sáng rực của Ngài có cái quyền năng giống như một chiếc đũa thần nó gợi cho ta thoáng thấy một cõi giới siêu linh đầy những sự huy hoàng huyền diệu bất ngờ.
Đã bao lần tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy những đệ tử của Ngài trong nhiều năm sống tại Đạo viện, hàng ngày vẫn cứ đến ngồi dưới chân đức Tôn Sư, cũng chẳng nghe được bao nhiêu lời dạy bảo của Ngài, mà tự bằng lòng với cuộc đời trầm lặng như thế, không có một sự hoạt động nào bên ngoài để tự nâng đỡ hay giải trí. Bây giờ tôi mới bắt đầu hiểu một cách trực tiếp, do kinh nghiệm cá nhân của tôi, rằng mỗi ngày trôi qua đều đem lại cho họ một cái phần thưởng tuyệt diệu.
Sau nhiều giờ ngồi tịnh tâm trong gian phòng im lặng như tờ, có người lẳng lặng đứng dậy và rón rén nhẹ bước đi ra. Một người khác cũng đứng dậy, rồi một người nữa, và trong giây lát, chỉ còn có một mình tôi ngồi đối diện với đức Maharichi. Khi đó, kỳ lạ thay, đôi mắt của Ngài cử động, Ngài thu tầm nhãn quang lại giữa đôi mi hé mở.
Tôi cảm thấy dường như thân mình tôi trở nên nhẹ nhàng và cùng với Ngài bay bổng trong không gian vô tận. Đó là một giờ phút quyết liệt. Nhưng tôi do dự, và sau cùng tôi phải gián đoạn trước tiên cái giây phút huyền diệu đó, và tức khắc tôi đã trở về với thể xác của tôi. Cả Tôn Sư và tôi, không ai nói một lời nào. Tôi bèn thu thập tinh thần, nhìn đồng hồ trên vách và lẳng lặng đứng dậy, giờ lên đường đã sắp đến.
Tôi cúi đầu từ giã đức Tôn Sư, Ngài cũng nghiêng đầu đáp lại. Tôi thốt ra vài lời cảm ơn, Ngài nhận lãnh mà không nói gì. Tôi còn do dự bước chân trên ngưỡng cửa nhưng bên ngoài, tiếng reo của chiếc lục lạc đồng trên cỗ xe bò đã vọng đến tai tôi, và tôi chắp hai tay lại một lần cuối cùng để chào vĩnh biệt. Chúng tôi từ giã nhau như thế đó.