Chuyến xe lửa của tôi vọt lên chiếc cầu sắt lớn bắc ngang qua sông Hằng cổ kính và thiêng liêng, phát ra những tiếng động ầm ầm càng biểu lộ thêm một bằng chứng xâm lăng của thế hệ cơ giới tân tiến đối với một xã hội cổ xưa và bảo thủ. Con sông Hằng linh thánh chắc sẽ không còn linh thánh được bao lâu nữa khi mà những người ngoại chủng vô tín ngưỡng bắt đầu phóng những đoàn hỏa xa gầm thét như sống động vượt ngang dòng nước xám xanh và yên lặng của nó. Thành Ba Nại La! Sử Ấn Độ chép rằng Ba Nại La là một thành phố đã có từ mười hai thế kỷ trước Tây lịch kỷ nguyên. Người Ấn Độ coi thành phố này như một nơi Thánh Ðịa. Giàu hay nghèo, sang hay hèn, tất cả mọi người ở khắp mọi nơi trong xứ đều chiêm ngưỡng Thánh Địa Ba Nại La, và cố gắng đi đến đây ít nhất là một lần trong một đời người để được tẩm mình trong bầu không khí linh thiêng. Những kẻ đau ốm, hấp hối cũng tìm mọi phương tiện để có mặt ở nơi đây trong những ngày cuối cùng của họ, vì họ tin rằng chết ở đất Thánh sẽ được vĩnh viễn thăng lên cõi Thiên Đàng và thoát khỏi vòng Luân Hồi Sinh Tử. Qua ngày hôm sau, tôi đi thẩn thờ qua các đường phố nhỏ hẹp trong thành phố để tìm nhà của một vị pháp sư, mà một người đệ tử ở Bombay đã cho tôi địa chỉ. Tôi đi qua những con đường chật hẹp đến nỗi một chiếc xe không thể chui lọt vào. Tôi đi lần theo những phố xá buôn bán đông đảo tấp nập, tại đây người ta thấy nhiều sắc dân đủ mọi chủng tộc và đủ mọi hạng người trong xã hội chen chúc lẫn nhau. Khu vực này gồm có nhiều đường quanh co khúc khủyu, đi vào đây người ta có cảm giác như đi lạc vào một Mê Hồn Trận. Thêm vào đám rừng người hỗn tạp đó là những con chó hoang chạy rong và những bầy ruồi nhặng bu ở các quầy hàng. Có những bà lão tóc bạc da mồi, mắt lòa chân chậm, những thiếu phụ còn trẻ, gương mặt nõn nà, mặc những chiếc Sari màu mè sặc sỡ, những người đi hành hương tay lần chuỗi bồ đề, miệng lầm thầm tụng niệm những câu chân ngôn mà họ lập đi lập lại có lẽ đến năm chục ngàn lần. Những tu sĩ khổ hạnh khoác bộ áo vàng, chống gậy lê bước đi chậm rãi, nét mặt trầm tư, và còn bao nhiêu nhân vật khác nữa, tất cả đều cùng chen chúc nhau trên những con đường nhỏ hẹp từ khu mê lộ này đưa xuống tận bờ sông Hằng. Tôi đi lần theo một khu phố náo nhiệt ồn ào, màu sắc rực rỡ. Vừa qua một khúc quanh, tôi đã đứng trước cổng ngôi Đền Vàng, là một ngôi đền rất được sùng thượng trong các giới tôn giáo chính thống ở Ấn Độ. Có những người tu sĩ hành khất bôi tro đầy mình, ngồi xếp thành hàng ở ngoài cổng đền. Những người hành hương ra vào tấp nập không dứt, có người đem những tràng hoa vào đền, màu hoa tươi sặc sỡ coi rất vui mắt. Những người từ trong đền bước ra kính cẩn cúi đầu rạp xuống, lấy trán đụng vào bực thềm đá trước cổng rồi mới ra đi. Hai mái bầu tròn, làm bằng vàng khối rất dày, chói lòa dưới ánh nắng mặt trời. Những con két kêu vang bu lại rất đông trên một ngọn tháp gần bên. Ngôi Đền Vàng này thờ thần Shiva, một vị Thần tối cao của Ấn Giáo. Tôi vẫn tiến bước, đến gần ngưỡng cửa của một ngôi đền khác và nhìn xem người ta đang lễ Thần Krishna. Người ta đốt chất long não trước một tượng Thần bằng vàng, tiếng chuông trong đền ngân không dứt, tiếng tù và thổi vang tai. Một vị sư tăng gầy gò khắc khổ bước ra và nhìn tôi với cặp mắt dò xét. Tôi liền bước đi chỗ khác. Tôi đi xuyên qua những con đường tối tăm, chật hẹp, để tìm nhà vị pháp sư. Sau cùng, tôi đến một con đường có những tòa nhà to lớn đồ sộ, trước nhà có sân rộng rãi khoảng khoát. Tôi tiến đến một cửa cổng bên ngoài có một tấm bia đá khắc chữ "Vishudha" Tôi bước vào cổng, vì đây là ngôi nhà mà tôi tìm kiếm, và tiến đến gần một người ngồi ở ngoài hàng ba. Đó là một thanh niên có vẻ mặt thông minh lanh lợi. Tôi hỏi thăm vị Pháp Sư và được đưa vào trong nhà. Trong một gian phòng rộng rãi, tôi thấy có một nhóm người Ấn Độ ăn mặc chỉnh tề, ngồi xếp bằng theo hình bán nguyệt dưới sàn gạch. Một vị trưởng lão có một chòm râu bạc ngồi dựa trên một chiếc divan ở chỗ cuối phòng. Hình dáng khả kính và chỗ ngồi danh dự của người này cũng đủ cho tôi biết rằng đây là người mà tôi tìm kiếm. Tôi chắp tay chào theo kiểu Ấn Độ, hai lòng bàn tay giao nhau đưa lên trước trán, và nói Shànti (chúc Thầy bình an). Tôi tự giới thiệu là một nhà văn đi du lịch ở Ấn Độ để học hỏi về môn Triết học và Đạo học của xứ này. Tôi cũng biết rõ là người đệ tử mà tôi đã gặp, có giải thích cho tôi biết rằng Thầy y không bao giờ biểu diễn những quyền năng ở nơi công cộng, và dầu cho ở chỗ kín đáo trong tư thất, người cũng không phô trương những quyền năng đó trước mặt những người ngoại quốc. Tuy nhiên, vì lẽ tôi có một sự thích thú sâu xa đối với nền minh triết cổ truyền của họ, tôi yêu cầu họ thông cảm và đối xử với tôi như là một trường hợp ngoại lệ. Những vị đệ tử giương mắt nhìn nhau, và day lại nhìn Thầy họ, như để chờ đợi câu trả lời. Vishudha có lẽ đã trên bảy mươi tuổi, người có một sống mũi ngắn và một bộ râu dài, đôi mắt lớn và sâu sắc. Trên cổ có đeo một sợi dây Thánh, biểu hiện của giai cấp Bà La Môn. Người phóng tầm nhãn quang nhìn thẳng vào tôi, chẳng khác nào tôi là một vật thí nghiệm dưới một ống kính phóng đại. Tôi cảm thấy có một cái gì lạ lùng nó là thức động đến tâm hồn tôi, quả thật một mãnh lực huyền bí dường như phảng phất trong gian phòng này. Sau cùng, vị Pháp Sư thốt ra vài lời bằng tiếng Bengali với một người đệ tử, người này bèn day lại và cho tôi biết rằng Thầy y bằng lòng tiếp kiến tôi, nếu tôi dắt theo bác sĩ Kavir, giám đốc trường Phạn ngữ của chánh phủ, để làm thông ngôn. Bác sĩ Kavir vừa biết tiếng Anh thành thạo, vừa là đệ tử thâm niên của pháp sư Vishudha, và sẽ là một người thông ngôn lý tưởng cho chúng tôi. Pháp sư nói: - Anh hãy đến vào lúc chiều mai. Tôi sẽ đợi anh vào lúc bốn giờ. Tôi đành phải ra về. Ra đến đường cái, tôi gọi một chiếc xe ngựa để đi đến trường Phạn ngữ nhưng ông Giám Ðốc không có ở đó, có người nói chắc ông ta đã về nhà, tôi bèn ra xe đi thêm một chặng đường gần hết nửa tiếng đồng hồ nữa. Sau cùng tôi gặp ông ta ở một ngôi nhà cao hai tầng. Bác sĩ Kavir ngồi trên lầu, giữa những chồng sách và giấy tờ chất cao như núi ở chung quanh. Ông ta có một gương mặt sáng sủa và thông minh của một nhà học giả. Tôi nói lý do cuộc thăm viếng của tôi, người hơi do dự, nhưng sau cùng người bằng lòng cùng đi với tôi ngày hôm sau. Sau khi đã hẹn chắc tôi bèn kiếu từ. Tôi đi thẳng xuống bờ sông Hằng, bước lên bực thang bằng đá xây thành một dãy dài và cao đến mấy trăm nấc dọc theo bờ sông để cho những người hành hương bước xuống sông tắm. Trải qua nhiều thế kỷ, những bực đá này cũng đã chịu sự tàn phá của thời gian, nhiều nơi đã sụp đổ và loang lổ. Có những ngọn tháp đã ngả nghiêng và sụp xuống nước. Những đền đài dinh thự nguy nga đồ sộ ở ven bờ sông chen chúc lẫn nhau cái cao cái thấp dường như tranh nhau một chỗ đứng danh dự trên bờ sông Hằng linh thiêng. Người Ấn Độ rất mực tôn sùng và tượng trưng sông Hằng như một vị Nữ Thần đem lại nguồn sống cho vùng đồng bằng phì nhiêu của miền Bắc Ấn. Những tu sĩ, tăng lữ, và người hành hương đều có mặt ở khắp nơi. Tôi nhận thấy có vài nhà bác học Ấn đang dạy học trò trong những gian phòng nhỏ và lộ thiên, thầy ngồi giữa trên những tấm nệm, học trò ngồi xếp bằng dưới đất ở chung quanh, đang cố gắng thâu thập những giáo lý từ nghìn đời của tôn giáo họ. Một nhà tu khổ hạnh râu ria xồm xoàm làm cho tôi chú ý. Hỏi thăm người chung quanh thì nghe nói y đã lăn mình dưới đất đến bốn trăm dặm đường trường, không quản bụi bặm chông gai, mưa nắng dãi dầu, để đến Thánh Địa Ba Nại La, thật là một cách đi hành hương lạ lùng và hy hữu, có một không hai ở trên đời này. Ở một góc kia, tôi gặp một nhân vật khác có cái hình dáng kỳ dị: Y đã đưa một cánh tay thẳng lên trời từ nhiều năm nay. Những gân cốt trên cánh tay đã rã rời khô kiệt, còn các bắp thịt thì đã khô và teo lại, da cũng khô như tờ giấy. Làm sao có thể giải thích được những cuộc biểu diễn vô lý và kém mỹ thuật này, nếu không phải là mặt trời vùng nhiệt đới đã làm cho họ bị loạn trí hay loạn thần kinh? Rất có thể rằng sự sống dưới một khí hậu năm mươi độ trong bóng mát đã làm đảo lộn mọi sự thăng bằng trí não của một dân tộc vốn sẵn có máu cuồng tín từ trong huyết quản. Qua ngày hôm sau, đúng bốn giờ chiều, bác sĩ Kavir và tôi cùng đến nhà vị pháp sư, bước vào gian phòng lớn và lễ phép chào vị chủ nhân. Có độ sáu người đệ tử cũng đang có mặt tại đó. Pháp sư Vishudha mời tôi ngồi xích lại gần, tôi bèn ngồi xếp bằng cách giường độ vài thước. Người hỏi tôi: - Anh có muốn xem một vài pháp thuật của tôi chăng? Tôi mừng rỡ đáp: - Nếu pháp sư vui lòng cho xem, thì thật là vô cùng hân hạnh. - Vậy anh hãy đưa cho tôi cái khăn tay của anh. Nếu khăn bằng lụa thì càng hay. Tùy ý anh muốn có một loại hương thơm nào, thì mùi hương đó sẽ được đem đến cho anh chỉ bằng một cái kính phóng đại và ánh sáng mặt trời dùng làm phương tiện. Cũng may trong lúc đó tôi có mang theo một chiếc khăn tay bằng lụa, tôi liền đưa cho vị pháp sư. Người lấy ra một cái kính phóng đại nhỏ và giải thích rằng người muốn thâu ánh sáng mặt trời, nhưng vì vị trí của mặt trời trong lúc đó bị mái nhà che khuất nên không thể thâu một cách trực tiếp. Tuy nhiên, người có thể vượt qua sự chướng ngại đó bằng cách cho một người đệ tử ra đứng ngoài sân, người này sẽ dùng một mảnh kính thường và rọi ánh nắng vào phòng xuyên qua một cửa sổ. Vishudha tuyên bố: - Bây giờ tôi sẽ thâu mùi hương ở trong không khí. Anh muốn thứ hương thơm nào? - Tôi muốn có mùi hoa lài. Y cầm cái khăn tay của tôi bên tay trái, và tay mặt cầm cái kính phóng đại đưa lên. Trong khoảng hai giây đồng hồ, một tia nắng rọi lên góc chiếc khăn lụa. Kế đó, người bỏ kính ra và đưa cái khăn cho tôi. Tôi đưa lên mũi ngửi, thì rõ ràng là mùi thơm nồng của hoa lài đượm trên một góc của chiếc khăn. Tôi xem kỹ cái khăn nhưng không thấy có dấu ướt và không có bằng chứng gì chỉ rằng một thứ dầu thơm lỏng đã được nhểu lên đó. Tôi rất ngạc nhiên và nhìn vị pháp sư với một vẻ hoài nghi. Người đề nghị biểu diễn lại một lần nữa. Lần thứ hai, tôi chọn mùi hoa hường. Tôi chăm chú nhìn cuộc thí nghiệm lần này. Tôi dò xét tỉ mỉ mọi cử chỉ của y, và những gì xảy ra ở chung quanh. Tôi quan sát hai bàn tay và chiếc áo trắng của người đang mặc với cặp mắt tò mò, nhưng không thấy có gì khả nghi. Người lập lại cuộc biểu diễn như lần trước, và tạo nên cái mùi hoa hường thõm phức ở một góc khác của cái khăn. Lần thứ ba tôi chọn mùi hoa tím. Lần này người cũng thành công như những lần trước. Vishudha có vẻ rất thản nhiên với sự thành công này. Người coi cái trò biểu diễn này dường như một việc tầm thường xảy ra hàng ngày, không hề nở một nụ cười. Thình lình người tuyên bố: - Bây giờ đến lượt tôi chọn mùi hương. Tôi sẽ tạo nên mùi hương của một thứ hoa chỉ mọc ở bên xứ Tây Tạng. Người thâu ánh nắng mặt trời lên góc cuối cùng của chiếc khăn tay. Lần này người tạo ra một mùi thơm thứ tư, mà tôi không biết là mùi hoa gì. Hơi ngạc nhiên, tôi bèn đút chiếc khăn tay của tôi vào túi. Việc này có lẽ dường như là một phép lạ. Hay là người dấu những loại dầu thơm này trong người chăng? Hoặc trong áo chăng? Nếu như thế, thì chắc người phải dấu tất cả một lô rất nhiều thứ dầu thơm, bởi vì y không thể biết tôi sẽ chọn thứ mùi hoa nào. Chiếc áo dài đang mặc không thể nào chứa đựng hết cả một lô đủ những dầu thơm cần thiết, vả lại người không hề đút tay vào áo một lần nào. Tôi xin người cho tôi xem cái kính phóng đại. Đó chỉ là một loại kính phóng đại thường, lồng trong một cái khung thép tròn với một cái bàn nhỏ cũng bằng thép. Tôi không thấy có gì khả nghi, ngoài ra, không phải chỉ có một mình tôi dò xét từng cử chỉ của vị Pháp Sư. Chung quanh người còn có khoảng sáu người đệ tử. Vị bác sĩ đã cho tôi biết rằng tất cả đều là những người có địa vị, có học thức rộng và chức nghiệp cao. Người dùng thuật thôi miên chăng? Điều này có thể thử biết được, khi về nhà, tôi sẽ đưa cái khăn cho những người khác xem. Vishudha còn định cho tôi xem một phép thuật khác kỳ diệu hơn, tuy rằng phép thuật này người ít khi nào biểu diễn cho người khác xem, người cho biết thêm rằng, để biểu diễn cái trò thứ hai này sẽ cần có ánh mặt trời nắng gắt. Khi đó mặt trời đã sắp lặn và trời sắp tối. Tôi phải đến lần sau vào lúc giữa trưa của một ngày cuối tuần, người sẽ trổ phép thuật làm cho một sinh vật đã chết tạm thời sống lại được. Tôi bèn kiếu từ và trở về nhà, tôi đưa cái khăn tay cho ba người xem. Mỗi người đều nhận thấy rằng nó vẫn còn tiết ra những mùi thơm nồng nặc. Như vậy, không có thể nói rằng tôi đã bị thôi miên. Và tôi cũng không thể coi cuộc biểu diễn vừa qua như một trò quỷ thuật. Tôi trở lại nhà vị pháp sư lần nữa. Người cho tôi biết rằng người có thể làm cho một sinh vật đã chết phục hồi sự sống trở lại được, nhưng chỉ có loài vật nhỏ mà thôi, và thường thì thí nghiệm với một loại chim. Một con chim sẻ được bóp cổ chết và đặt trước mặt chúng tôi độ một tiếng đồng hồ, để cho chúng tôi thấy rõ là nó đã chết thật. Đôi mắt của nó không còn chớp, toàn thân nó đã cứng đơ không chút cử động, tôi không thấy dấu hiệu gì chỉ rằng nó còn sống. Vị pháp sư lấy kính phóng đại và rọi một tia nắng mặt trời vào một mắt của con chim. Vài phút trôi qua, không có sự gì xảy ra. Pháp sư chăm chú làm việc, người mở đôi mắt lớn và tập trung nhãn lực vào con chim, nét mặt lạnh lùng và cương nghị. Thình lình, người mở miệng thốt ra những câu thần chú kỳ dị bằng một thứ tiếng nghe rất lạ tai. Sau đó một lát, thân mình con chim đã bắt đầu giật vài cái. Kế đó, cánh và lông của nó hơi giương lên, nó bắt đầu đập hai cánh, đứng dậy trên hai chân và nhảy vài cái trên sàn gạch. Nó đã sống lại, không còn nghi ngờ gì nữa. Trong giai đoạn kế đó, con chim sẻ đã có đủ sức bay bổng và tìm chỗ cao để đậu. Thật là một chuyện khó tin đến nỗi tôi phải thâu thập tinh thần để biết chắc rằng tôi đang thức tỉnh chứ không nằm mơ. Cuộc thí nghiệm diễn ra độ nữa giờ. Thình lình tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy con chim ngã xuống không cựa quậy ở ngay trước mặt chúng tôi. Tôi nhìn kỹ thì thấy nó không thở nữa và đã chết thật. Tôi hỏi: - Pháp sư có thể kéo dài sự sống của nó lâu hơn nữa được không? Người đáp: - Đó là tất cả những gì tôi có thể cho anh xem trong buổi hôm nay. Vị bác sĩ kề tai nói nhỏ với tôi rằng pháp sư sẽ còn biểu diễn những phép thuật lạ lùng hơn nữa, nhưng chúng ta không nên lạm dụng lòng tốt của người trong lúc này, pháp sư không phải là một nhà làm trò ảo thuật, và tôi hãy thỏa mãn với những gì tôi đã thấy. Điều này càng làm cho câu chuyện trở nên bí mật thêm đối với tôi, và rốt cuộc tôi chẳng hiểu được gì cả. Tôi cũng được biết rằng pháp sư có thể làm xuất hiện những chùm nho tươi từ trong khoảng không, và làm những viên kẹo ngọt với hai tay không mà thôi. Người chỉ cần nắm trong lòng bàn tay một cái hoa đã héo, cũng đủ làm cho nó tươi tốt thơm tho trở lại như cũ. Vị pháp sư có cái bí quyết như thế nào? Tôi thử tìm hiểu vấn đề này, nhưng vẫn không tìm ra được câu giải đáp. Sự bí mật vẫn còn đó ở sau cái trán vồ và bí hiểm của vị pháp sư thành Ba Nại La. Người chưa hề tiết lộ sự bí mật đó cho ai, chí đến người đệ tử thân tín nhất. Sau một cuộc điều tra kín đáo về cuộc đời của người, tôi đã thu thập được những chi tiết như sau: Người sinh ở tỉnh Bengale, năm mười ba tuổi bị rắn độc cắn sắp chết. Người mẹ đã tuyệt vọng và muốn cho người đến trút linh hồn ở bờ sông Hằng, bởi vì đối với người Ấn Độ, thì không có cái chết nào tốt đẹp và thiêng liêng hơn nữa. Người ta trầm mình y xuống sông trong khi tất cả gia quyến đều tề tựu trên bờ sông để làm lễ tống táng. Sự mầu nhiệm xảy ra khi đó. Mỗi khi xác y bị trầm mình xuống sông, thì nước sông lại rút xuống dường như sông Hằng từ chối không chịu nhận lãnh xác đứa trẻ trong dòng nước chảy xiết. Trong khi đó, một người đạo sĩ ngồi trên bờ nhìn thấy việc xảy ra như thế, liền đứng dậy và tiên đoán rằng đứa trẻ này sẽ có một định mệnh lớn lao, vì nó sẽ trở nên một người Yogi. Người đạo sĩ liền thoa vết thương của đứa trẻ với một vài loại cỏ thuốc, và liền ra đi. Một tuần lễ sau, người trở lại và nói cho cha mẹ đứa trẻ biết rằng nó đã bình phục. Quả nhiên đứa trẻ hết bịnh và mạnh khỏe như xưa. Nhưng trong tuần lễ đó, một chuyện lạ đã xảy ra: Tánh tình đứa trẻ bỗng nhiên thay đổi, người chán ngán cảnh sống trong gia đình, và chỉ muốn bỏ nhà ra đi để trở thành một đạo sĩ. Vài năm sau, sau khi đã dày vò mẹ người về ý nghĩ này, người được mẹ ưng thuận cho. Người bèn ra đi để tìm Thầy học Đạo. Người thẳng đường đi sang Tây Tạng để hy vọng tìm một danh sư trong số những nhà đạo sĩ ẩn dật ở xứ này. Người Ấn Độ vẫn luôn tin tưởng rằng người học đạo chỉ có thể tiến mau trên đường tu luyện bằng cách trở nên đệ tử của một vị danh sư đã có kinh nghiệm trên con đường này. Người thiếu niên Begali sau khi đã tìm tòi lục lạo khắp các nơi non cao động cả, đương đầu với những cơn bão tuyết dữ dội trên miền sõn cước tuyết phủ quanh năm đành chịu thất vọng trở về tay không. Nhiều năm đã trôi qua mà không làm giảm sút lòng nhiệt thành của người. Người bèn ra đi lần nữa và lần này, đi băng qua những vùng sa mạc bao la ở miền Nam xứ Tây Tạng. Tại đây, trong một chòi tranh ẩn khuất trong động đá của miền núi non hẻo lánh hoang vu mà chân người không hề đi đến, người đã gặp vị danh sư vẫn hằng tìm kiếm. Đến đây tôi nghe một chuyện mà lúc khác có lẽ tôi đã bật cười, nhưng lúc này tôi chỉ nghe mà không phản đối. Người ta quả quyết với tôi rằng vị danh sư Tây Tạng này đã có trên một ngàn hai trăm tuổi. Họ nói điều này một cách tự nhiên và bình thản cũng như chúng ta nói rằng một người kia đã bốn mươi tuổi. Đây là lần thứ ba mà tôi nghe nói về những người sống lâu. Brama đã từng quả quyết với tôi rằng sư phụ ở xứ Nepal đã trên bốn trăm tuổi. Một vị tu sĩ khác mà tôi gặp ở miền Tây một ngày kia có cho tôi biết rằng có một ngàn tuổi, và già đến nỗi hai mí mắt trên của ông ta lâu ngày chảy xệ xuống che lấp cả đôi mắt. Tôi đã gạt bỏ những chuyện trên đây như là những chuyện hoang đường, thì hôm nay người ta lại thuật cho tôi nghe một câu chuyện tương tự, và tin tưởng rằng những vị đạo sĩ già nọ đã tìm ra được thuốc trường sinh. Vị danh sư Tây Tạng liền truyền dạy cho chàng thanh niên Vishudha học pháp môn Hatha Yoga. Dưới sự chỉ dẫn của Thầy, người thanh niên này lần lần tập luyện và phát triển những khả năng thể xác và tinh thần đến một mực độ phi thường. Trong mười hai năm, không quản thời tiết khắc nghiệt trên miền núi ở Tây Tạng, người gắng công tập luyện dưới sự dìu dắt của vị danh sư đã nắm được cái bí quyết của thuật trường sinh. Sau thời kỳ huấn luyện, người được Thầy cho xuống núi trở về quê nhà, và đến lượt người trở nên một danh sư của pháp môn Yoga. Người lưu trú một thời gian ở tỉnh Puri và có một biệt thự ở tại đây. Những đệ tử của người đều thuộc về thành phần thượng lưu trong xã hội, gồm những tay phú thương, nghiệp chủ, công chức cao cấp, trong số đó có cả một vị vương tước (Rajah). Nếu tôi không lầm thì hình như người ta không khuyến khích sự nhập môn của những kẻ bạch đinh tay trắng. Thình lình tôi buộc miệng hỏi: - Pháp sư làm những phép thuật ấy bằng cách nào?
Vishudha thản nhiên đáp: - Những điều anh đã thấy không phải là thuật Yoga, mà là thuộc về một khoa học huyền bí gọi là khoa Thái Dương Học. Mục đích chính của khoa Yoga là phát triển ý chí và tinh thần, chứ không có dính dáng gì đến khoa Thái Dương Học. Khoa này gồm có những bí thuật mà sự thực hành không cần bắt buộc phải trải qua một sự huấn luyện đặc biệt nào. Người ta có thể học khoa này bằng những phương tiện giống như bất cứ ngành khoa học nào của Tây phương. Báv sĩ Kavir giải thích cho tôi biết rằng khoa học này cũng gần giống như khoa điện học hay khoa từ điển. Tôi không hiểu được bao nhiêu, thì vị pháp sư lại nói rõ thêm: - Khoa Thái Dương Học của Tây Tạng thật ra không phải là mới lạ gì. Những nhà đạo sĩ Ấn Độ đã từng biết nó từ những thời đại quá khứ xa xăm nhất, nhưng ngày nay, nó đã bị mai một và thất truyền. Những tia nắng mặt trời có chứa đựng những nguồn sinh lực rất mạnh. Nếu anh có thể chọn lọc và cô lập những nguồn sinh lực đó, anh sẽ làm được những phép thuật mà tôi đã làm. Trong ánh sáng mặt trời, cũng có những mãnh lực thuộc chất dĩ thái, mà người nào biết cách sử dụng sẽ làm được những điều phi thường. - Pháp Sư có dạy khoa này cho các đệ tử chăng? - Chưa, nhưng tôi đang chuẩn bị việc đó, tôi sẽ chọn lựa vài người đệ tử để truyền dạy những bí thuật của tôi. Hiện thời chúng tôi đang bận xây cất một phòng thí nghiệm lớn để làm giảng đường dạy về khoa này. - Nhưng hiện giờ Pháp Sư dạy về môn gì? - Pháp môn Yoga. Trong phòng chỉ có vài ba người đệ tử còn ở lại, những người khác đã lần lượt kiếu từ. Bác sĩ Kavir ngồi bên cạnh tôi và chăm chú nhìn Thầy một cách tôn kính. Vishudha nhìn tôi và day mặt qua chỗ khác, gương mặt của người có một vẻ tôn nghiêm khác thường. Tôi thử tìm cách cảm thông với cái nét mặt nghiêm nghị đó, nhưng vô hiệu quả. Tâm hồn của người vẫn khép chặt đối với một người Âu như tôi, chẳng khác nào như Thánh Ðiện thâm nghiêm của ngôi Đền Vàng ở Ba Nại La! Con ngươi của người toát ra một mãnh lực thần bí của phương Ðông, và tôi cảm thấy rõ rệt rằng từ khi mới gặp nhau lần đầu, người ta đã dựng lên một bức rào cách biệt vô hình mà tôi không thể vượt qua. Những cuộc biểu diễn phép thuật mà người đã làm cho tôi xem chẳng qua chỉ là một phép xã giao lịch sự bề ngoài: ở đây không phải là chỗ của những kẻ tò mò và những người đệ tử Âu Tây. Bỗng nhiên, Pháp Sư thốt ra mấy lời thật là bất ngờ đối với tôi: - Tôi không truyền pháp cho anh nếu không có sự chuẩn y của Tôn Sư tôi. Ðó là điều kiện cần thiết hơn hết. Người đã đọc được tư tưởng của tôi chăng, hay là người muốn nói gì? Tôi không hề xin làm đệ tử của pháp sư bao giờ. Tôi cũng không hề có ý muốn làm đệ tử bất cứ người nào. Vả lại, tôi cũng biết rằng một sự yêu cầu như thế chắc chắn là sẽ bị từ chối. Tôi bèn hỏi: - Nhưng làm sao ông có thể tiếp xúc với lệnh Tôn Sư trong khi người ở cách xa như thế? - Chúng tôi vẫn giao tiếp thường xuyên với nhau bằng tư tưởng. Tôi nghe rõ, nhưng tôi không tin tưởng cho lắm. Một câu hỏi khác đến trên môi của tôi: - Thưa Pháp Sư, làm sao có được sự Bằng An? - Nếu không thực hành pháp môn Yoga, thì làm sao có được sự Bằng An. - Tôi nghe nói rằng Yoga là một môn học rất khó nếu không có Thầy dìu dắt. Nhưng tìm Thầy cũng là một việc không phải là điều dễ. Pháp Sư thản nhiên đáp: - Nếu người đệ tử sẵn sàng thì Thầy sẽ xuất hiện. Tôi tỏ sự nghi ngờ về điểm này. Người nói tiếp: - Anh hãy tự chuẩn bị sẵn sàng, sau đó, dầu là anh ở đâu, Thầy sẽ có ở đó, nếu không phải bằng thể xác thì tất là người sẽ hiện ra trong tâm giới của anh. - Nhưng trong trường hợp sau này, tôi phải làm sao? - Anh hãy dành riêng mỗi ngày một ít thời giờ để tập lấy thế ngồi rất giản dị mà tôi sẽ làm cho anh xem. Đồng thời, anh hãy tập chế ngự tánh nóng giận, giảm bớt những xúc cảm và thất tình lục dục. Vishudha biểu diễn cho tôi xem thế Liên Hoa tọa bộ mà tôi đã quen thuộc. Điều mà tôi không hiểu là người nói rằng nó rất giản dị. Tôi nói: - Đối với một người Âu đã lớn tuổi, tôi nhận thấy rằng thế ngồi này rất khó thực hành. - Chỉ khó khi mới bắt đầu mà thôi, anh hãy thử tập mỗi buổi sớm mai và chiều, rồi anh sẽ thấy dễ lần lần. Điều quan trọng là hãy chọn lấy một giờ khắc nhất định rồi cố gắng giữ đúng giờ mỗi ngày. Lúc đầu, tập năm phút cũng đủ, sau một tháng anh hãy tập ngồi mười phút, sau ba tháng ngồi hai mươi phút và cứ tiếp tục như thế. Xương sống phải giữ cho thẳng. Phép ngồi này sẽ giúp cho anh có được sự thăng bằng thoải mái của thể xác, rồi sau đó anh sẽ cảm thấy thần trí được yên ổn vững vàng. - Chắc là Pháp Sư dạy môn Hatha Yoga (luyện xác thân)? - Đúng thế, nhưng anh đừng tưởng rằng môn Raja Yoga (luyện tinh thần) là cao hơn. Thể chất và tâm linh là hai khía cạnh khác nhau trong con người và cần phải luyện tập hết cả hai. Xác thể ảnh hưởng đến tinh thần, và tinh thần cũng ảnh hưởng đến thể xác. Về phương diện thực hành, cần phải phát triển hết cả hai khía cạnh đó. Tôi cảm thấy rằng tôi không còn lãnh hội được thêm điều gì nữa. Cuộc đàm thoại thiếu hào hứng, và tôi định kiếu từ, nhưng tôi còn hỏi thêm một câu cuối cùng: - Pháp Sư đã khám phá ra thế nào là mục đích của đời người chăng? Các đệ tử liền quên sự nghiêm trang của họ trong một lúc và mỉm cười về sự quá đơn sơ của tôi. Phải là một người Ấn vô tín ngưỡng và không biết gì cả mới đưa ra một câu hỏi như thế. Phải chăng tất cả những Thánh Kinh Ấn Độ đều nói rằng Thượng Đế nắm toàn cõi thế gian trong tay Ngài và điều khiển nó theo mục đích và ý muốn của Ngài? Pháp Sư không đáp lại, nhưng đưa mắt nhìn bác sĩ Kavir, người này liền trả lời: - Tự nhiên là đời người có mục đích, đó là đạt tới sự Toàn Thiện, tức là hợp nhất với Thượng Đế. Tiếp theo đó là một sự im lặng hoàn toàn. Vishudha lật những trang của một quyển sách lớn viết bằng chữ Bengali. Những đệ tử ngồi yên lặng, dường như đã ngủ hay ngồi thiền. Một mãnh lực vô hình có một ảnh hưởng lạ lùng đã xâm chiếm lấy tôi, tôi cảm thấy rằng nếu tôi ngồi nán lại thêm ít lâu nữa, có lẽ tôi sẽ ngủ gật, hay là rơi vào một cơn nhập định. Tôi bèn thu thập tinh thần, ngỏ lời cảm ơn Pháp Sư và đứng dậy kiếu từ. Một lần nữa, tôi lại đi bách bộ qua những con đường nhỏ hẹp cong queo của thành phố Ba Nại La màu sắc rực rỡ, trung tâm tôn giáo cổ kính và thiêng liêng hấp dẫn đủ mọi hạng người trong xã hội. Nếu ở đây người hành hương sùng tín, thì người ta cũng thấy không ít những kẻ bất lương, côn đồ và du đảng, không kể những kẻ sống cuộc đời ký sinh, ăn bám ở các đền chùa hoặc sống nhờ của bố thí của khách thập phương. Tiếng chuông đền ngân vang, báo hiệu những cuộc lễ về đêm. Màn đêm rủ xuống rất mau chóng dưới một vòm trời xám ngắt. Mặt trời lặn đem đến một tiếng vọng khác: Từ trên đài cao của một ngôi đền Hồi Giáo, các giáo sĩ ngân vang những lời kêu gọi tín đồ cầu nguyện giờ chiều. Tôi ngồi trên bờ sông Hằng linh thiêng nhìn theo cảnh vật và lắng tai nghe theo ngọn gió chiều thổi vi vu xuyên qua các ngọn cây. Một người hành khất bôi tro đầy mình tiến đến gần tôi. Đây chắc là một người hành hương thuộc về một loại đặc biệt, vì tôi nhận thấy trong cặp mắt của y chiếu một tia sáng lạ thường không phải là của trần gian. Tôi vẫn chưa hiểu rõ tất cả những gì là huyền bí ở cái xứ ngàn năm văn vật này. Tôi vừa móc túi vừa tự hỏi rằng không biết cái hố sâu cách biệt giữa tôi với y có thể lấp bằng được chăng? Y nhận lấy của bố thí của tôi với một vẻ thản nhiên, đưa hai bàn tay lên trán để chào rồi rút lui. Tôi nghĩ đến vị pháp sư có phép thuật rút hương thơm trong không khí và phục hồi được sự sống cho con chim đã chết. Sự giải thích về khoa Thái Dương Học của người không đủ thuyết phục được tôi. Lẽ tất nhiên, người ta không thể cho rằng khoa học hiện đại đã biết hết tất cả về ánh sáng mặt trời và những khả năng tiềm tàng của nó, nhưng điều này cũng chỉ lùi thêm một bước trong việc làm sáng tỏ vấn đề. Tôi có nghe nói về hai người Yogi cũng đã rút hương thơm trong không khí như Pháp Sư Vishudha. Cả hai đều đã qua đời vào cuối thế kỷ trước, nhưng tôi có thể tin được chuyện này. Trong cả hai trường hợp, đều có một chất dầu xuất hiện trên lòng bàn tay của người Yogi, hình như là từ trong thân mình họ bài tiết ra, cũng như chất mồ hôi. Chất dầu này có khi khá đặc để có thể tỏa hương thơm ra khắp phòng. Cái đó cũng chính là cái quyền năng của Vishudha, thì chắc là y đã chuyển hương thơm từ bàn tay của y sang chiếc khăn trong khi y cầm cái kính phóng đại. Nếu như thế, thì việc thâu ánh nắng mặt trời chỉ là một cái mẹo để che mắt người đời. Có một việc xác nhận giả thuyết này, là vị Pháp Sư chưa truyền cái bí thuật này lại cho ai. Nếu vấn đề dùng kính phóng đại để thâu ánh nắng chỉ là một sự phỉnh lừa thì vị Pháp Sư đã dùng phương pháp nào? Có lẽ đó là phép thuật Yoga chăng? Nhưng đây không phải là việc của tôi. Tôi chỉ có phận sự trình bày những sự việc mà tôi đã thấy, chứ không phải là giải thích căn nguyên của mọi vấn đề. Đây là một khía cạnh bí ẩn của đời sống ở Ấn Độ, nó vẫn khép chặt đối với chúng ta, vì dẫu cho vị pháp sư hay một vị đệ tử nào đó sẵn lòng biểu diễn trước công chúng và kêu gọi sự chú ý của các nhà bác học, thì sự bí mật kia cũng vẫn còn đó. Đó là tất cả những gì người ta có thể nói trong lúc này. Nhưng còn chuyện kia: Bằng cách nào y đã phục hồi sự sống cho con chim đã chết? Những chuyện về khả năng kéo dài sự sống tùy theo ý muốn của người Yogi có thật không? Phải chăng ở phương Ðông có những người đã tìm ra cái bí quyết trường sinh bất tử? Tôi đành phải bỏ qua những câu hỏi đó và không màng tìm câu giải đáp. Chiều nay, nhìn không gian bao la vô tận, lòng tôi nao nao bồi hồi. Dưới vòm trời đầy sao, mà đêm nhiệt đới càng làm tăng thêm phần tỏ rạng, tôi nhìn xem những tòa đền đài cung điện, dinh thự chùa chiền ở chung quanh cùng với bao nhiêu người đồng loại của tôi đang sống trong đó, mà tự hỏi không biết có mãnh lực vô hình huyền bí nào làm vận chuyển tất cả những thứ ấy trong sự sinh hoạt thường xuyên hàng ngày? Những vật tầm thường nhất đêm nay cũng đượm lấy một màu sắc huyền ảo, những hình người ẩn hiện chập chờn như những bóng ma, những chiếc thuyền câu lấp lánh ánh đèn dầu lướt nhẹ trên sông trong đêm tối, cảnh vật mơ huyền dưới ánh sao khi mờ khi tỏ làm cho người ta có cảm giác thoát ly ra khỏi cảnh đời thực tế để lọt vào cõi mộng. Tư tưởng triết học Ấn Độ cho rằng thế gian chỉ là một trò hư ảo, đã xâm chiếm lấy tâm hồn tôi đêm nay, và càng gây cho tôi cái cảm giác lâng lâng thoát tục. Phải chăng từ nay tôi đã sẵn sàng bước vào một kinh nghiệm lạ lùng nhất trên địa hạt tâm linh như có người đã tiên đoán? Trong lúc đó, cái âm điệu mơ buồn của một bài ca Ấn Độ do anh lái đò cất tiếng hát văng vẳng trên dòng sông, kéo tôi ra khỏi giấc mơ thoát trần, và lại đưa tôi trở về cái trò hỗn tạp pha lẫn những thú vui giả tạm và những đau khổ bất ngờ mà người ta gọi là Cuộc Đời!