Một hôm, tôi nghe nói có một người tu sĩ nổi tiếng đang ở vùng ngoại ô, cách thành phố Madras chừng nửa dặm. Người này thích ẩn dật, tránh tất cả mọi người và ít người được biết. Điều này khêu gợi sự tò mò của tôi, tôi bèn quyết định xin vào yết kiến.
Nhà của người tu sĩ ẩn khuất sau một hàng rào tre dựng lên thành hình vuông ở chính giữa một khoảng đồng. Người dẫn đường cho tôi chỉ vào một cái hàng rào và nói:
- Tôi nghe nói rằng người Yogi nhập định suốt ngày. Dầu cho chúng ta có la làng và đập cửa hàng rào, y cũng không nghe; và nếu y nghe được thì y sẽ cho chúng ta là những kẻ mất dạy.
Một cánh cửa thô sõ khép chặt hàng rào và được khóa lại rất chắc. Ở phía trong không ai nghe một tiếng động. Chúng tôi đi vòng chung quanh hàng rào và gặp một đứa trẻ nhỏ nói rằng nó biết nhà người giữ cửa và sẵn lòng đưa chúng tôi đến nhà người ấy.
Người giữ cửa là một nô bộc của người Yogi, vợ y và một bầy con quấn quýt theo chân y. Chúng tôi tỏ ý muốn nhờ y mở cửa, nhưng y liền từ chối. Y nói rằng nhà tu sĩ tịnh khẩu không tiếp khách qua đường và chỉ muốn ở yên một mình. Người nhập định hình như suốt ngày, và sẽ lấy làm bực mình nếu có kẻ nào vô phước muốn đột nhập vào tịnh xá.
Tôi yêu cầu người nô bộc hãy đặc cách dành cho tôi một sự dễ dàng ngoại lệ, nhưng y vẫn cương quyết từ chối. Người bạn tôi bèn dùng thử những phương pháp mạnh bạo: Anh ta hăm dọa người giữ cửa bằng sự trừng phạt của chánh quyền địa phương, nếu y không làm chúng tôi được thỏa mãn. Tự nhiên, đó chỉ là một sự dọa nạt.
Chúng tôi trở lại cửa hàng rào và mở một ống khóa lớn bằng sắt. Người nô bộc cho biết rằng người tu sĩ không có tài sản gì nhiều, và không có đến một cái chìa khóa. Cửa hàng rào được khóa trái lại ở phía ngoài, và y không thể bước ra khỏi nhà nếu người nô bộc không đến mỗi ngày hai lần để mở cửa.
Chúng tôi còn nghe nói rằng người tu sĩ mắc nhập định suốt ngày, nhưng đến chiều y dùng một ít vật thực như bánh trái và một chén sữa. Có những buổi chiều, đồ vật thực để trước mặt y vẫn còn y nguyên. Đôi khi, trời tối đến, y bước chân ra khỏi nhà và thỉnh thoảng đi dạo chơi ngoài đồng.
Chúng tôi qua khỏi sân và đến trước một ngôi nhà xây bằng đá, kiểu tân thời. Người nô bộc lấy chìa khóa mở một cánh cửa nặng và rất chắc. Tôi lấy làm lạ về sự bế môn chặt chẽ như vậy đối với một người có tiếng là không sở hữu của cải hay tài sản. Người nô bộc bèn giải thích lý do:
- Cách đây mấy năm, người tu sĩ ở trong hàng rào tre, không có khóa trong khóa ngoài gì cả. Một hôm, một người say rượu đột nhập vào trong thấy người tu sĩ có một mình và không có tự vệ, bèn ra tay hành hung. Hắn nắm chòm râu người tu sĩ và đánh y bằng gậy với những lời chửi rủa. Cũng may trong lúc đó có vài người thanh niên đang đá banh trên miếng đất trống ở gần bên. Nghe tiếng động, họ bèn chạy vào nhà và giải cứu người tu sĩ thoát khỏi tay tên bợm rượu, khi đó một người trong bọn chạy đi báo động với hàng xóm. Người làng tựu đến nơi và định cho tên du côn kia một bài học, y suýt nữa bị ăn đòn một trận nhừ tử nếu không có sự can thiệp của người tu sĩ, người này vẻ mặt vẫn bình thản tự nhiên ngay từ khi bị hành hung. Người tu sĩ viết trên một mảnh giấy: "Nếu các anh đánh đập người này thì cũng như các anh đánh đập tôi. Hãy cho y ra về, vì tôi đã tha thứ cho y." Vì lời nói của người tu sĩ luôn luôn được tôn trọng, nên người say rượu được thả về, tuy rằng một cách tiếc rẻ.
Người nô bộc liếc nhìn vào trong nhà và yêu cầu chúng tôi đừng cử động vì người tu sĩ đang thiền định. Tôi cởi giày và để ngoài hàng ba theo phong tục bổn xứ. Lúc quay vào, tôi nhìn thấy trên vách tường có một tấm bia đá đề chữ Tamoul, người bạn tôi đọc: "Đây là am thất của nhà tu sĩ tịnh khẩu."
Gian phòng rộng rãi cao ráo và rất sạch sẽ. Ở chính giữa có một cái bục bằng cẩm thạch bề cao độ ba tấc, lót một tấm thảm bằng gấm Ba Tư, trên đó nhà tu sĩ ngồi im lặng, hoàn toàn bất động như một pho tượng đá.
Người có một thân mình dài và ngay ngắn, màu da nâu sậm. Người ngồi bán dà, bàn chân bên mặt đặt lên đùi bên trái, đầu, gáy và lưng thẳng. Tóc dài và đen bỏ xõa xuống tận vai, một bộ râu rậm và đen phủ đầy cằm; hai bàn tay đặt lên hai đầu gối. Vì người chỉ mặc có một cái chăn vấn ngang lưng, mình để trần, tôi nhận thấy thân mình đầy bắp thịt rắn chắc, biểu lộ một sức khỏe lành mạnh.
Gương mặt người lộ vẻ ung dung tự tại, đôi môi hình như sẵn sàng nở một nụ cười. Người này hẳn là đã giải thoát khỏi gánh nặng của cuộc đời thế gian mà chúng ta là những kẻ phàm tục bị bắt buộc phải mang lấy trên vai, mặc dù chúng ta nhận biết được sự phù du giả tạm của nó.
Mũi ngắn và thẳng, hai mắt mở lớn nhìn thẳng về phía trước, mí mắt không chớp. Toàn thân đều yên lặng, tuyệt nhiên không cử động.
Người dẫn đường của tôi cho biết nhà tu sĩ đang nhập định, tức là đắm chìm trong cái trạng thái hợp nhất với Đại Thể của Vũ Trụ. Trong trạng thái đó, người hành giả hòa hợp tâm thức mình với tâm thức của vạn vật, và tạm thời không còn ý thức được việc gì xảy ra ở chung quanh mình.
Tôi để ý nhìn kỹ người Yogi: Cơn thoát trần đại định đó quả có thật, không còn nghi ngờ gì nữa. Điều lạ lùng nhất là đôi mí mắt không chớp, mở suốt nhiều giờ mà không thấy mỏi. Cặp mắt mở lớn nhưng không nhìn vật gì; nếu tinh thần còn tỉnh táo thì chắc nó đã đi xa lắm, cách xa cõi trần gian tục lụy. Những hoạt động của cơ thể cũng tạm thời ngưng hẳn, trừ ra thỉnh thoảng có một giọt nước mắt chạy quanh theo gò má, mà nguyên nhân chắc hẳn là vì hai mí mắt không chớp đã lâu.
Một con thằn lằn từ trên trần nhà bò xuống, chạy lên tấm thảm gấm và từ từ bò lên bàn chân ngồi bán dà của người tu sĩ, nhưng tuyệt nhiên không có một cử động, chẳng khác nào như người bằng đá. Vài con ruồi đáp xuống và bò lên mặt người, nhưng hình như không còn cảm giác, chẳng khác như gương mặt bằng đồng. Hơi thở dịu dàng và đều, nhưng thoảng nhẹ, dường như không thể nhận ra được nữa. Tuy thế, đó là cái dấu hiệu duy nhất chứng tỏ rằng người còn sống.
Để tạm quên thời gian chờ đợi, tôi lấy máy ảnh đem theo chụp lấy vài tấm, nhưng trong gian phòng thiếu ánh sáng, tôi đành phải thôi.
Tôi nhìn đồng hồ: Hai giờ đã trôi qua từ khi chúng tôi bước vào. Toàn thân người tu sĩ vẫn trơ trơ, không có chút cử động. Tôi sẽ ở lại đây suốt ngày nếu cần, để đạt mục đích của tôi, là được yết kiến người tu sĩ lạ lùng này. Nhưng người nô bộc cho chúng tôi biết là chờ đợi vô ích, và nếu chúng tôi trở lại trong một hai ngày, có lẽ chúng tôi đành chịu thất vọng ra về, nhưng điều ấy càng làm tăng thêm sự tò mò của tôi.
Những ngày sau đó, tôi cố gắng dọ hỏi và thu thập tài liệu về người tu sĩ này. Những cuộc điều tra của tôi đòi hỏi sự nhẫn nại và óc phân biện sáng suốt của một thẩm sát viên. Cuộc điều tra bắt đầu bằng một buổi nói chuyện dài với người nô bộc, và kết thúc bằng việc phỏng vấn một viên thanh tra cảnh sát. Nhờ đó, tôi có thể chắp nối từng giai đoạn và ghi chép lại được ít nhất một phần nào tiểu sử của người tu sĩ.
Y đến ở trong vùng này đã được tám năm nay. Không ai biết y là ai, và từ đâu đến. Y đóng căn cứ trên khoảng đất trống gần bên miếng đất của nhà y ở bây giờ. Những kẻ tò mò đến gần định hỏi chuyện y nhưng đều ra về tay không.
Y không nói chuyện với ai, cũng không muốn nghe ai nói; không ai có thể cậy miệng y và bắt y khai khẩu. Thỉnh thoảng, y chỉ đưa ra một cái gáo dừa để xin cơm ăn. Y vẫn ngồi luôn ngày đêm trên khoảnh đất này, không có một mái che, không quản mưa nắng dãi dầu, gió sương, cát bụi, và côn trùng sâu bọ. Y dường như hoàn toàn rút lui ý thức ra khỏi ngoại cảnh, chỉ vận có một cái chăn, và luôn luôn giữ có một thế ngồi.
Tuy nhiên, vùng ngoại ô của một thành phố lớn như Madras không phải là nơi thuận tiện cho sự thiền định của một người tu sĩ ẩn độn và lánh đời. Một chỗ như thế có lẽ tạm được ở một nước Ấn Độ thời cổ, chứ còn người Yogi ở thời đại này thì phải ẩn mình trong rừng sâu núi thẳm, hay ít nhất cũng phải ở trong một gian phòng vắng vẻ tĩnh mịch.
Tại sao người ẩn sĩ lạ lùng này lại chọn một nơi tối kỵ cho sự tu hành như thế? Người ta đã tìm được lý do sau một chuyện không hay đã xảy đến cho y. Một hôm, một đám du côn nhìn thấy người tu sĩ này và liền dùng y làm cái đích cho sự nghịch ngợm của chúng. Mỗi ngày, chúng đến ném đá và rác rến vào người tu sĩ và buông lời chửi rủa. Người tu sĩ vẫn thản nhiên, mặc dầu y có thể sửa cho chúng một trận đích đáng. Nhưng y cũng không quở mắng chúng một lời, vì y đã có lập nguyện giữ tịnh khẩu. Việc ấy có thể kéo dài,nếu không có một người qua đường nhìn thấy bọn du đãng kia đang làm trò mất dạy. Người này thấy vậy lấy làm bất bình, bèn đi báo sở cảnh sát Madras, họ bèn giải tám đám tiểu quỷ sau khi đã quở mắng chúng một trận nặng nề.
Sau khi việc ấy xảy ra, một viên thanh tra cảnh sát bèn quyết định tìm ra lý lịch của người ẩn sĩ. Nhưng vì không tìm được người nào biết rõ lý lịch của y, nên viên cảnh sát không còn cách nào khác hơn là sử dụng công quyền để chất vấn chính người tu sĩ vậy. Sau rất nhiều do dự, người này mới viết những lời sau đây trên một tấm bảng đá: "Tôi là một đệ tử của Marakayar. Thầy tôi đã dạy tôi hãy đi xuyên qua các vùng đồng bằng và hãy đến tỉnh Madras. Chính Thầy tôi đã chỉ cho tôi tìm ra khoảnh đất này. Người bảo tôi hãy ở lại đây và tiếp tục thực hành pháp môn Yoga cho đến khi thành Đạo. Tôi đã từ bỏ cuộc đời thế gian và chỉ yêu cầu có một điều, là người ta hãy để tôi yên. Tôi không tìm một lợi lộc gì ở Madras, mà chỉ muốn theo con đường tu hành."
Viên thanh tra cảnh sát hài lòng về câu trả lời trên đây và nhận ra người này là một đạo sĩ thượng hạng, bèn hứa sẽ dành cho người mọi sự che chở. Y biết Marakayar là một vị đạo sĩ Hồi giáo nổi tiếng, vừa mới qua đời cách đây không bao lâu.
Tục ngữ có câu: Trong cái họa, ắt có ẩn cái phước. Vụ rắc rối kể trên thấu đến tai một người mộ đạo ở Madras, người này bèn hiến cho người tu sĩ không muốn làm trái lời Thầy dặn. Sau cùng, người mộ đạo kia mới tìm ra một giải pháp bằng cách xây một nhà tịnh thất trên miếng đất gần bên chỗ ở của người Yogi. Người này bằng lòng qua ở bên tịnh thất và từ đó mới có chỗ ẩn trú và nương dựa để dễ bề hành đạo.Cũng chính người hảo tâm ấy đã chỉ định một người nô bộc theo săn sóc người Yogi để cho y khỏi phải đi khuất thực. Không biết vị Tôn Sư Marakayar có tiên liệu trước rằng cõn thử thách dành cho người đệ tử này rốt cuộc sẽ kết thúc một cách tốt đẹp êm thắm như thế chăng?
Tôi cũng được biết rằng người tu sĩ không có đệ tử. Y không tìm kiếm cũng không thâu nhận một đệ tử nào cả. Y định tiến mau đến đích giải thoát bằng cách tu hành ẩn độn trong sự hoàn toàn cô đơn. Thái độ đó, theo quan niệm của người Âu, thì dường như ích kỷ. Tuy nhiên, thật cũng khó mà cho là ích kỷ, một người đã có lòng từ bi hỉ xả đối với một kẻ say rượu hành hung mình và không thèm trả thù đám tiểu quỷ đến hành hạ y.
Tôi đến lần thứ nhì để định phỏng vấn người tu sĩ tịnh khẩu, nhưng lần này có hai người cùng đi với tôi, một là người thông ngôn đã quen biết và người kia là Brama, người đạo sĩ bên bờ sông Adyar đã từng dạy cho tôi biết nhiều điều quý báu. Brama không thích tới lui chỗ thành thị, nhưng khi nghe tôi bày tỏ mục đích cuộc thăm viếng của tôi, liền bằng lòng đi theo tôi không chút do dự.
Gần đến hàng rào, chúng tôi gặp một người khách lạ cũng vừa xuống xe ngừng giữa đường, và đi bộ qua cánh đồng. Người này cũng muốn được vào yết kiến nhà tu sĩ. Y cho chúng tôi biết rằng y là em của bà Vương hậu xứ Gadwal, một tiểu quốc dưới sự bảo hộ của Quốc Vương xứ Hadetabad. Người này cũng cho biết y là một ân nhân che chở của người tu sĩ tịnh khẩu, và có góp phần trong việc trùng tu am thất của người Yogi. Y đến Madras có việc trong vài ngày, và trước khi ra về, y muốn đến viếng thăm nhà tu sĩ và xin người ban ân huệ. Còn cái ân huệ này có giá trị bao nhiêu, thì tôi được biết qua câu chuyện sau đây do người khách lạ thuật lại.
Một bà lớn trong triều xứ Gadwal có một đứa con bị một chứng bệnh hiểm nghèo. Bà ấy nghe tiếng đồn về nhà tu sĩ tịnh khẩu. Bà không do dự, liền đi tới Madras để thỉnh cầu người tu sĩ ban ân huệ, và cứu giùm đứa con bà. Người Yogi bằng lòng và đứa nhỏ khỏi bệnh một cách mầu nhiệm. Việc này đồn thấu đến tai bà Vương hậu, bà liền đến tận nơi để cảm ơn người tu sĩ. Bà Hoàng biếu cho y một túi bạc đựng sáu trăm rupee, nhưng y từ chối không nhận. Bà Hoàng khẩn khoản mời y nhận dùm, thì y yêu cầu rằng số bạc đó đem dùng để xây một cái hàng rào chung quanh tịnh thất để cho y khỏi bị quấy rầy trong lúc tham thiền. Bà Hoàng liền làm đúng theo lời.
Người nô bộc đưa chúng tôi vào cùng một lượt, nhưng chúng tôi lại thấy người tu sĩ ngồi nhập định cũng như lần trước. Chúng tôi lẳng lặng ngồi theo vòng bán nguyệt chung quanh người tu sĩ, trông chẳng khác nào như một pho tượng oai nghi hùng dũng đặt trên một phiến đá bằng cẩm thạch. Độ một tiếng rưỡi đồng hồ sau, chúng tôi nhìn thấy những dấu hiệu đầu tiên của sự hồi sinh. Hơi thở của người trở nên dài hơn và dễ nhận thấy hơn, hai mí mắt đã thấy chớp, tròng con mắt trở lại bình thường. Những bắp thịt đã co giãn trở lại, thân mình cũng trở lại dáng điệu tự nhiên.
Trong năm phút sau, sắc diện biểu lộ trong cặp mắt chỉ rằng người tu sĩ đã trở về với cõi tục và đã ý thức được mọi sự vật ở chung quanh. Y chăm chú nhìn người thông ngôn của tôi, day đầu nhìn về phía Brama và người khách lạ, sau cùng mới day về phía tôi. Tôi liền nắm ngay lấy cơ hội, và đặt dưới chân y một cây viết và một tờ giấy. Sau một lúc do dự, y cầm lấy những vật này và viết bằng một tuồng chữ Tamoul rất đẹp: "Hôm nọ có ai đến đây và định chụp ảnh?"
Tôi đành phải thú thật. Thật ra những bức ảnh hôm đó tôi chụp đều hư hết cả, vì thiếu ánh sáng. Người tu sĩ lại viết: "Lần sau, khi ông đến viếng các đạo sĩ đang xuất thần, xin đừng bao giờ làm phiền rộn họ như thế, vì ông có thể làm gián đoạn cơn thiền định của họ một cách phũ phàng. Đối với tôi, điều đó không quan trọng, tôi chỉ dặn ông như thế để lần sau ông có thể đến viếng những nhà đạo sĩ khác. Một sự gián đoạn như thế có thể rất hiểm nghèo đối với họ và ông sẽ bị nguyền rủa."
Quả thật tôi đã vi phạm vào một điều thiêng liêng bằng cách đột nhập vào nơi ẩn trú của người tu sĩ, và tôi bày tỏ sự hối tiếc.
Vị điện hạ của triều vua Gadwal lên tiếng kính chào và bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với người tu sĩ. Khi y đã xong, mới đến lượt tôi tiến lên và tự giới thiệu như một người ngoại quốc hâm mộ về nền Minh triết cổ truyền của Ấn Độ. Tôi nghe nói rằng xứ Ấn Độ ngày nay vẫn còn những bậc Hiền Triết đã đạt tới mức tối thượng của pháp môn Yoga và tôi đang đi tìm các bậc ấy. Tu Sĩ có thể giúp đỡ tôi phần nào trong việc sưu tầm này chăng?
Người Yogi vẫn ngồi yên như pho tượng, vẻ mặt thản nhiên không chút cử động. Mười phút trôi qua, tôi tự hỏi không biết y có nghe tôi hỏi chăng? Hay là tôi lại sắp bị thất vọng? Có lẽ đối với y, một người Âu chỉ là một kẻ quá thiên về vật chất, không có gì phải nói nhiều. Hay là y cũng còn hận tôi về cái tật ham chụp ảnh? Và phải chăng tôi đã đòi hỏi quá nhiều khi làm cho một người tu sĩ lánh đời như thế phải ngưng cơn thiền định để thỏa mãn tánh hiếu kỳ của một kẻ vô tín ngưỡng và nặng lòng trần tục? Dầu sao, đây cũng là một sự thất vọng chua cay.
Nhưng không, đó là tôi quá tưởng tượng. Người tu sĩ cầm cây viết chì và viết vài chữ trên tờ giấy. Tôi ngã tới trước để nhận lấy trên tay y và đưa cho người thông ngôn. Người này nói:
- Tôi không hiểu, vì chữ viết rất khó đọc.
- Vũ trụ thật là đầy những sự huyền bí.
Tôi nói đỡ lời cho y đừng băn khoăn nhưng tôi thấy những lời này làm nở một nụ cười hơi chua chát trên môi người tu sĩ. Y nói:
- Nếu ông không tự biết mình, làm sao ông có thể biết được Vũ trụ?
Bây giờ, y nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi cảm thấy đằng sau cái nhìn đó có cả một thế giới tư tưởng thầm kín, đầy những bí mật được giữ gìn một cách chặt chẽ.
- Tôi cũng vẫn còn hoang mang, và lời nói của tu sĩ cũng chưa giải đáp được sự thắc mắc của tôi, đó là tất cả những gì tôi có thể nói trong lúc đó.
- Như vậy, tại sao ông cứ đi tìm quanh quẩn như con ong đi kiếm từng giọt mật, trong khi cả một khối mật ngọt vốn luôn luôn có sẵn hầu kề một bên?
Tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên. Một câu trả lời như thế có lẽ là đầy đủ đối với một người Á Đông, và ý nghĩa bóng gió của nó có một thi vị đáng yêu, nhưng tôi không được thỏa mãn khi tôi muốn hỏi y về sự giải đáp cho những vấn đề thắc mắc của tôi.
- Nhưng tìm ở đâu, và phải đi đến đâu bây giờ?
- Hãy tìm ở tự nơi mình. Chân Lý vốn ở tự nơi ta chứ không ở đâu xa.
- Tôi tìm ở nơi tôi và chỉ thấy có sự vô minh.
- Sự vô minh chỉ có trong tư tưởng của ông mà thôi.
- Xin lỗi Thầy, những câu trả lời của Thầy chỉ làm tăng thêm sự hoang mang của tôi mà thôi.
Người tu sĩ bật cười một cách tự nhiên về sự thành thật của tôi. Y do dự một lúc và viết trên tập giấy: "Tư tưởng của ông đã đưa ông đến sự vô minh hiện tại. Bây giờ ông hãy quay trở về sự minh triết, tức là hãy tự biết mình. Tư tưởng con người cũng ví như một chiếc xe bò đưa người vào trong hang tối. Ông hãy quay ngược trở ra thì sẽ thấy lại ánh sáng."
Người tu sĩ thấy tôi bối rối thêm, bèn ra dấu đòi lại tập giấy, và sau khi ngừng một lúc, y viết:
- Việc gom tư tưởng đi ngược trở về nguyên bổn, đó là bí quyết của pháp môn Yoga. Bây giờ ông đã hiểu chưa?
Tôi thấy hơi rõ hơn một chút, nhưng vẫn chưa thấy một người khách vừa mới bước vào. Người này ngồi khít đằng sau lưng tôi, và tôi chỉ nhận biết được sự có mặt của y khi y nói nhỏ vào tai tôi những lời lạ lùng. Tôi đang ngẫm nghĩ về câu nói của người tu sĩ và hơi thất vọng về tính cách mập mờ khó hiểu của nó, thì tôi nghe sau lưng tôi có người nói nhỏ thì thầm một câu bí mật bằng một thứ tiếng Anh rất thạo:
- Thầy tôi sẽ nói cho ông nghe câu trả lời mà ông mong đợi.
Tôi quay đầu nhìn lại. Người mới đến là một người trạc độ bốn mươi tuổi, khoác áo màu vàng của người tu sĩ hành khất, nước da sậm như màu đồng đỏ, tác người cao lớn và vai rộng. Y có một cái mũi dài và lộ như mũi chim ưng, đôi mắt rất nhỏ dường như lúc nào cũng nhíu lên một cái cười dài bất tận. Y có vẻ như cười cợt và làm tôi khó chịu. Hơn nữa, thật là bất lịch sự mà nói chuyện riêng với người khác ở trước mặt nhà tu sĩ, nên tôi không nói chuyện với y và day mặt trở lại về phía người Yogi.
Một câu hỏi khác vừa hiện ra trong trí tôi, nhưng phải chăng nó quá táo bạo và dường như hỗn hào:
- Bạch Thầy, thế gian đau khổ đang kêu cứu. Những bậc Hiền giả như Thầy tại sao lại ẩn mình ở một nơi vắng vẻ và đành chịu mai một với đời?
Một nét chua chát hơi thoáng qua trên gương mặt thản nhiên của người tu sĩ:
- Nếu ông không tự biết mình, làm sao ông có thể tự hào biết được tôi? Thảo luận về những vấn đề tâm linh không có ích lợi bao nhiêu. Ông hãy tập luyện một cách kiên tâm bền chí, rồi ông sẽ tìm thấy sự giải đáp cho mọi vấn đề.
Tôi hỏi thêm một câu cuối cùng:
- Nhân loại đang khát khao tìm ánh sáng. Tôi cũng đang đi tìm để hy vọng chia sớt phần nào cho kẻ khác được nhờ. Vậy tôi phải làm sao?
- Khi ông thấy được Chân Lý, ông sẽ biết rằng ông sẽ làm gì để phụng sự nhân loại và chừng đó ông sẽ có không thiếu gì phương tiện. Nếu một cái hoa có chứa mật, tự nhiên con ong sẽ phân biệt được nó trong tất cả những cái hoa khác. Khi một người đã đạt được sự Minh triết và có sức mạnh tâm linh, y không cần đi tìm ai cả, những người khác sẽ tự họ đến tìm y. Ông hãy lo trau dồi Chân Ngã, đó là điều duy nhất cần phải làm, và không cần theo một giáo lý nào khác.
Nói đến đây, người tu sĩ ra hiệu cho biết rằng y muốn ngưng cuộc nói chuyện để trở lại cơn tham thiền. Tôi yêu cầu y ban cho tôi một ân huệ cuối cùng. Cặp mắt y dường như đắm chìm một lúc trong một cơn trầm tư mặc tưởng. Kế đó, y cầm viết chì viết trên tập giấy và trao cho tôi, trong đó y viết như sau: "Tôi rất vui lòng vì ông đã đến đây. Ông hãy nhận lấy món quà này của tôi để kỷ niệm ngày hội ngộ hôm nay."
Tôi chưa kịp hiểu ý nghĩa câu này, thì thình lình tôi cảm thấy một mãnh lực lạ lùng xâm chiếm lấy tôi. Cái mãnh lực ấy đi xuyên qua tủy xương sống, duỗi thẳng cái gáy và làm tôi ngẩng đầu lên. Nó làm tăng sức mạnh ý chí của tôi lên gấp trăm ngàn lần. Tôi cảm thấy một sự thúc giục bên trong nó bắt buộc tôi phải tự chinh phục lấy mình, và bắt thể xác tuân theo mệnh lệnh của ý chí để thực hiện những lý tưởng cao cả nhất. Tôi có linh cảm rằng những lý tưởng đó chỉ là những tiếng nói của Chân Ngã, và chân hạnh phúc không còn ở đâu nữa, nếu không phải là ở đó. Tôi có cảm giác một luồng từ điển vô hình từ người tu sĩ tỏa ra và được truyền thẳng vào người tôi do một phương pháp thần giao cách cảm bí mật nào đó. Phải chăng y đã dùng cách đó để cho tôi thấy một bằng chứng về cái quyền năng kỳ diệu của y?
Đôi mắt của người Yogi lại đứng tròng, và cái nhìn của đôi mắt đó lại mất hút trong cõi xa xăm nào. Toàn thân y lại cứng đờ như pho tượng sau khi y giữ lại cái thế ngồi quen thuộc như mọi khi. Y đã thả tâm hồn đi xa lắc, ngoài vòng hoạt động của tư tưởng đến tận những cõi giới thâm u huyền diệu của nội tâm, mà y yêu thích hơn là cõi thế gian này. Phải chăng đây là một người Yogi chân chính? Phải chăng y đang bước vào những cuộc thám hiểm huyền bí của nội tâm, khả dĩ đem lại một vài tia sáng cho nhân loại? Biết đâu?
Khi chúng tôi bước ra ngoài, Brama, người đạo sĩ trên bờ sông Adyar, quay lại tôi và nói với một giọng bình thản:
- Người Yogi này đã đạt tới một trình độ rất cao, tuy rằng y chưa đạt đến mức tột đỉnh. Y có những quyền năng thần bí, nhưng y còn đang gắng công tu luyện để tiến đến trình độ tâm linh siêu đẳng. Y có một thể xác kiện toàn, mà tôi cho là nhờ tập luyện môn Hatha Yoga đã lâu năm, nhưng y cũng đã tiến xa trên con đường luyện tinh thần theo pháp môn Raji Yoga. Tôi biết y trước đây đã lâu.
- Từ bao giờ?
- Tôi đã thấy y nhiều năm về trước ở giữa một cánh đồng, không có mái che. Tôi liền nhận ra ngay rằng y là một bạn đồng môn. Y cho tôi biết, bằng cách viết trên giấy, rằng hồi còn trẻ y có nhập ngũ trong quân đội. Sau khi giải ngũ, y cảm thấy chán nản cuộc đời và lui về ở ẩn nơi thanh vắng. Chính trong lúc đó, y gặp nhà đạo sĩ trứ danh Marakayar và trở nên đệ tử của vị này.
Bận về, chúng tôi đi ngang qua cánh đồng rồi mới trở ra đường cái. Tôi không thổ lộ với ai về cái kinh nghiệm bất ngờ và khó hiểu đã xảy đến với tôi trong tịnh thất khi nãy. Tôi cần phải suy nghĩ lại về vấn đề này trong khi cái âm hưởng của nó hãy còn vang dội chưa dứt trong tâm hồn tôi.
Tôi không còn gặp lại người tu sĩ một lần nào nữa. Y không muốn cho ai đột nhập vào cuộc đời vắng lặng của y, và tôi phải tôn trọng sự mong ước đó. Tôi để cho y tiếp tục những cơn thiền định cô đơn của y, hoàn toàn cách biệt với cuộc đời trần gian tục lụy. Y không hề có ý muốn lập môn phái, hay quy tụ một nhóm môn đồ, và dường như không có tham vọng gì khác hơn là sống một cuộc đời hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Y không có gì để nói thêm vào những gì y đã nói với tôi, và khinh thường sự nói năng hoạt bát hùng biện, mà chúng ta vẫn đề cao như một nghệ thuật và coi như một điều quan trọng thay.