Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Truyện Dài >> Tử tù tự sử lý nội bộ

  Cùng một tác giả


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 19197 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Tử tù tự sử lý nội bộ
Trần Thư

Chương 13
Và thời điểm ấy đứa con gái nhỏ của tôi mới qua tuổi lên mười. Khi còn học mẫu giáo nó thích múa hát như mọi đứa trẻ khác. Nhà tôi có một máy quay đĩa Liên xô và một ít đĩa nhạc cổ điển. Những lần tôi quay đĩa nó cũng thích ngồi nghe. Rồi một hôm, nghe xong bài Danuýp xanh, nó nói một câu làm tôi chú ý.
- Bố ơi, cái bài hát này nó cứ làm sao ấy. Nghe tức cả ngực!
Lúc ấy nó lên sáu, còn chưa biết phân biệt bản nhạc với bài hát.
Xin kể thêm là các cụ nhà tôi cũng thích nhạc. Tôi từng thấy cụ ông ngồi đàn nguyệt cho cụ bà gảy đàn thập lục. Thằng em ruột tôi tốt nghiệp phổ thông đã thi đỗ vào đại học âm nhạc, khoa sáng tác. Chỉ tiếc rằng vừa ra trường, bắt đầu có tác phẩm thì bị bom B52 chết. Còn tôi thì hồi mới lớn đam mê đủ mọi thứ nghệ thuật. Một kỳ nghỉ hè tôi ngốn phải ngót nghét trăm cuốn tiểu thuyết, đa số là tiếng Pháp, vì tiểu thuyết tiếng Việt không đủ cho tôi đọc. Và mỗi lần Nhà Hát Lớn có ban kịch Thế Lữ trình diễn thì trên chuồng gà không bao giờ vắng đôi dép cao su con hổ và chiếc áo dài thâm của tôi. Từng ôm đàn theo học ông Dương Thiệu Tước, từng vác giấy bút ra ga Hàng Cỏ ngồi hàng buổi làm ký họa và đang học dở dang năm dự bị của trường Mỹ Thuật Hà Nội. Rốt cục đi theo cách mạng lại hóa ra là anh lính chiến. Và suốt cuộc đời lính chiến thỉnh thoảng vẫn cứ ngẩn ngơ. Đến mãi tận bây giờ, tròn bảy mươi tuổi đời, trong bụng ôm một khối ung thư có thể vỡ ra lúc nào không biết, mới hối hả ngồi tỉa tót câu văn giối già, trả cái nợ thời trẻ, kể chuyện về những sự đời vô lý. Cứ viết, chẳng biết có kịp không, và có nên cơm cháo gì không.
Thế cho nên khi cảm thấy con bé nhà tôi có máu âm nhạc, tôi nộp đơn luôn cho nó thi năng khiếu vào trường Âm Nhạc Việt nam khi nó vừa hết mẫu giáo. Thi không có chuẩn bị, một nốt nhạc bẻ đôi không biết. Cứ thi đại.
ở trường thi ra, tôi hỏi thi như thế nào thì nó kể.
- Có nhiều cô chú lắm, một chú bấm bấm vào cái đàn gì to bằng cái tủ và bảo con la la.
-Có phải la la nhiều không?
- Nhiều. Lúc đầu chú ấy bấm một tiếng thôi, xong rồi thì là hai ba tiếng, xong rồi thì là bấm dài ơi là dài.
- Thế con làm như thế nào?
- Con cứ nghe, xong rồi con la la.
- Rồi sao nữa?
- Chú ấy bảo xong rồi, đi ra.
Tôi cười, nghĩ bụng: Khó nhằn lắm. Trẻ thì rất đông mà lấy thì rất ít. Trong số trẻ có mặt, tôi thấy một thằng bé đi thi mang theo một cây sáo trúc. Bố nó là một nghệ nhân thổi sáo, đã dầy công tu luyện cho nó từ lúc nó còn bé tí. Khi từ trong phòng thi bỗng bay ra tiếng sáo của nó, mọi người đang đứng chờ ở sân, đều chạy xô đến bên cửa sổ ngó vào. Các thầy đang chấm thi ở các phòng bên cũng chạy bổ sang, sửng sốt. Con cái nhà người ta đi thi như thế chứ! Con nhà mình thì la la như đứa dở hơi!
Hôm trường công bố kết quả, tôi đi xem cho phải phép, không hy vọng. Không ngờ nó trúng.
Nó được phân học ác-coóc. Con gái học ác-coóc thì hơi mệt nhưng mình không phải là con nhà nòi, cũng không phải con ông cháu cha, len chân được vào cái trường quý tộc ấy đã là khá lắm rồi. Tôi sẽ cho nó theo học đến cùng, đến đại học sẽ thi vào khoa sáng tác như chú nó.
Rồi từ đó, tuần hai buổi bố con đèo nhau đi học, bố đạp xe, tự hào vì sau lưng mình có đứa con gái bé tí tẹo đeo chiếc ác-coóc nặng trĩu vai. Hết buổi học lại đón con về thả ở sân tòa soạn cho chơi. Về nhà, tôi huy động tất cả vốn hiểu biết của tôi về nhạc kèm cho nó tập, và tự tôi cũng tập. ít lâu sau nó đã có vài bài tủ.
Năm ấy, nhân dịp ngày kỷ niệm thành lập quân đội, trường Trưng Vương mời tôi đến kể chuyện chiến đấu cho các em. Tôi đã lôi cả con bé đi theo để bố kể chuyện xong thì con đàn một bài cho vui. Khoe mà! Nó kéo bài Làng Tôi của Văn Cao và một bài dân ca Ba Lan, hai bài của chương trình lớp 1. Hoan hô nhiệt liệt. Cô hiệu trưởng chạy lên ôm hôn nó và tặng nó bó hoa tướng. May mắn sao không ai yêu cầu biểu diễn thêm: hết tủ rồi! Người ta hoan hô không phải vì nó đàn hay mà vì hồi ấy trẻ con chơi nhạc là của lạ, cũng như người đi xe máy ở Hà Nội lúc bấy giờ có thể đếm trên đầu ngón tay.
Bố con đèo nhau ra về hỉ hả lắm. Lần lên sân khấu đầu tiên trong đời nó thế là đã thành công mĩ mãn.
Rồi trường đi sơ tán tránh máy bay. Bắc Giang, Vân Đình... Đi thăm, tiếp tế. Rồi lần thì nó bị chó cắn phải tiêm mười một mũi vào bụng. Lần thì nó bị cảm cúm, chú y tá nhà trường cho uống aspirin vào lúc đói, bị chảy máu ruột phải đưa xe về Hà Nội cấp cứu. Bệnh viện ở Hà Nội lúc ấy chưa có chế độ cho người nhà vào chăm sóc bệnh nhân, kể cả bệnh viện nhi. Đến giờ nó cứ tự động vác bát đi ăn và tự đến phòng thuốc đưa tay cho cô y tá tiêm. Một lần tôi đến Bắc Giang thăm nó, được nghe nó kể bị ghẻ lở đầy người, mấy đứa rủ nhau đi tìm lá về đun nước tắm rồi lấy kim chọc mụn ghẻ cho nhau. Như bộ đội chúng tôi ngày xưa vậy. Mình nghe nó kể thì xót, còn nó thì kể như chuyện vui. Tôi chỉ còn biết bảo nó:
- Chịu khó một tí con ạ, cố mà học.
Rồi một hôm, vào lúc nó đang học năm thứ năm, tôi nhận được giấy báo đến gặp bà hiệu phó nhà trường tại nhà riêng của bà tại Hà Nội. Tôi đến và được bà báo cho biết trường cho con bé nhà tôi thôi học. Lý do: nó hay đọc chuyện, và đọc xong lại kể cho các bạn nghe, và nó kể rất hay nên các bạn nó sao nhãng cả học tập. Rồi dường như thấy lý do đó không vững, bà ta nói thêm: vả lại cháu nó cũng yếu, sợ không học được. Không nó khỏe, và tôi đã gặp thầy dạy nó, ông ta bảo nó học được. Khiếu nại với bà không xong, tôi nhờ một anh bạn giới thiệu đến gặp ông vụ phó Vụ Đào tạo của Bộ Văn Hóa. Nghe tôi trình bày, ông lấy làm ngạc nhiên:
- Sao đã mất công đào tạo cháu bốn năm rồi lại cho về như thế?
Ông sốt sắng hứa sẽ can thiệp và hẹn ngày tôi đến lại. Tới hẹn tôi đến thì bao nhiêu nhiệt tình của ông đã biến đâu mất sạch. Ông bảo: nhà trường đã quyết định như vậy rồi thì chẳng còn làm thế nào được.
Cho đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao nó lại bị đuổi học. Nếu nó có lỗi gì nặng đáng bị đuổi thì bà hiệu phó kia sợ gì mà không nói độp vào mặt tôi để chứng minh chủ trương đuổi nó là đúng. Vậy là có lý do gì khác. Đuổi nó để lấy chỗ cho một người được gửi gắm hay một con ông cháu cha nào chăng? Không rõ. Hay vì bố nó là phần tử nghi vấn? Chẳng có lẽ. Chỉ biết rằng như vậy là một giấc mộng đẹp như bong bóng xà phòng đã tan vỡ như một bong bóng xà phòng.
Nó bị đuổi học ở trường nhạc ít lâu thì tôi bị bắt. Vợ tôi vào thăm kể truyện nó đi học văn hóa bị bạn nào chơi ác dán trộm vào lưng nó tờ giấy có mấy chữ con việt gian đeo một lúc lâu thấy ai nhìn mình cũng cười mới biết. Về nhà nó kể, khóc sưng cả mắt. Suốt mấy năm phổ thông còn lại, biết thân biết phận, nó phấn đấu để được vào đoàn, ra sức học và lăn lộn mọi công tác xã hội của trường. Bạn bè thông cảm muốn kết nạp nó lắm, nhưng ai cho kết nạp. Tốt nghiệp phổ thông xong, nó nộp đơn thi vào đại học tổng hợp văn, không được học nhạc thì học văn vậy. Vì nó cũng rất thích văn, đã thử viết truyện ngắn, làm thơ, và mỗi lần trường diễn kịch đều nhảy lên sân khấu thủ một vai. Và như bạn đọc đã thấy, từ bé nó đã tài kể chuyện đến nỗi bị đuổi học.
Khổ thân nó, ai để cho vào học mà thi! Nếu tôi ở nhà thì tôi sẽ thuyết phục được nó, còn mẹ nó thì không can nổi: nó cứ nhất định tin rằng một khi nó mong muốn mãnh liệt như thế thì không có chú nào nỡ gạn bỏ nó, nhất là nếu nó đỗ điểm cao. Nó đã đỗ điểm cao thật, được ban tuyển sinh xếp vào danh sách cho đi học Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Danh sách đưa lên trên thì nó bị gạt: lý lịch xấu. Không những không được đi Cộng Hòa Dân Chủ Đức, mà còn không được nhận vào học ở Đại học tổng hợp. Nó đã lộn cổ rơi từ trên trời rơi xuống. Rơi tự do.
Hồi ấy trong giới học sinh có câu vè:
Nhất Y. Nhì Dược. Tạm được Bách khoa. Sư phạm bỏ xó.
Đối với con cái bọn xét lại thì cả cái thứ nhất, thứ nhì, đến cái tạm được lẫn cái vứt đi đều là những chỗ chúng bị cấm cửa. Chúng bị cấm cửa toàn bộ những trường dạy khoa học xã hội và các trường trọng điểm của khoa học tự nhiên.
Học văn chúng có thể làm văn thơ phản động. Học sư phạm chúng có thể lợi dụng bục giảng nhà trường làm hư hỏng học sinh. Học ngoại ngữ chúng có thể làm gián điệp. Học dược chúng có thể bổ thuốc độc vào thuốc men. Học địa chất chúng có thể nắm được tiềm lực quốc gia, và đi lang thang khắp đất nước, chúng có thể gây cơ sở lập chiến khu. Học kiến trúc chúng có thể phá hoại các công trình xây dựng Học lý hóa chúng có thể sản xuất bom. v.v... và v.v...
Dành cho chúng còn mấy trường: nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thể dục thể thao, học thì học chẳng học thì đừng.
Thế là đỗ hẳn hoi mà nó phải ở nhà đan len. Năm sau người ta cứu vớt nó, xếp cho nó vào trường Đại Học Xây Dựng vừa học vừa làm, mới mở thí điểm khóa đầu. Một năm học lý thuyết vài tháng, còn lại là ra công trường gánh gạch, đẩy xe bò, đánh vôi, đánh vữa. Nhà trường tuyên bố thẳng thừng: học trường này chỉ có hai loại người, một loại là lý lịch tốt mà học dốt loại thứ hai học giỏi mà lý lịch xấu, các anh các chị biết thân thì liệu mà phấn đấu.
Công trường làm thông tầm, đến trưa mấy đứa con gái lại rủ nhau vác cà mèn cơm nguội rúc vào giữa mấy đống gạch ngồi ăn và nghỉ trưa một tí: mùa hè là để tránh nắng, mùa đông để tránh gió, mùa nào thì cũng để tránh sự trêu chọc cợt nhả của đám thanh niên công trường. Nó kể: mùa hè nắng chang chang, đứng trên cầu vôi, hoa mắt chóng mặt tưởng như muốn nhào xuống hố. Người ta đã coi nó là không đủ sức để học nhạc nhưng đủ sức để làm công việc phu hồ.
Học đến năm thứ ba thì bị khái huyết, nó đành phải bỏ. Thế là mất toi ba năm nữa, thành bốn. Bốn năm của cái tuổi ước mơ và hy vọng. Nhưng nó còn đủ nhiệt tình, nói cho đúng hơn là đủ sự bướng bỉnh để thua keo này bày keo khác, cho tròn quá tam ba bận. Năm sau nó lại thi vào một lớp đào tạo nữ hộ sinh. Lại đỗ. Đời học trò của nó thi đâu đỗ đấy, và đỗ điểm cao.
Nhưng người ta cũng lại không nhận nó vào học. Người ta nói con cái phản động đỡ đẻ cho nhân dân thì sẽ bóp chết con cái của nhân dân. May mắn là lúc ấy tôi đã ra tù. Chạy chọt, khiếu nại, kiện cáo lung tung, lên bộ Công An, lên Ban Tổ Chức Trung ương. Rốt cuộc người ta cũng thương tình để cho nó vào học. Cuộc đời nó quãy mai cuối cùng cũng thành được một cô y tá đỡ đẻ.
Nhưng đến đây thì nó không còn hoài bão gì nữa, chỉ cốt sao ngày hai buổi đến làm việc không để ai chê trách là được. Và đến đây hậu quả của mấy năm công trường càng rõ. Mấy đợt nằm bệnh viện lao. Vài ngày lại một lần nó ngồi gục đầu xuống cống hộc ra hàng bát máu. Đó cũng còn là hậu quả của một thời kỳ, khi tôi còn ở trong tù, mấy mẹ con phải lần lượt thay phiên đi bán máu nuôi nhau. Bán máu đến nỗi con gái đang thi mà người xanh rớt. Người ta xì xào: chắc là nó phá thai! Nhưng dẫu sao như thế vẫn còn là mừng lắm: bao nhiêu khát vọng tan tành, vậy mà nó không phát rồ phát dại, không buông thả, phá phách. Nếu nó rồ dại hoặc phá phách thì còn khổ chưa biết đến chừng nào.
Bây giờ nó đã có đứa con gái lên tám, học lớp ba, giống mẹ hồi bé như đúc. Trong một buổi sinh hoạt lớp, cô giáo bảo bạn nào có tiết mục thì lên bục trình bày cho cả lớp nghe. Con bé giơ tay xin lên... đọc Kiều. Đọc khoảng trăm câu, ý chừng mỏi mồm, vì phải đọc có diễn cảm, nó báo cáo cô:
- Thưa cô, con còn thuộc nữa, nhưng sợ dài quá, con xin phép cô đến đây con thôi.
Cô sợ quá, vội đồng ý ngay:
- Chị tra tấn cả lớp thế là quá đủ rồi!
- Học Kiều là nó thích chứ không ai bảo.
Tôi xem tờ lý lịch nó khai, thấy ở mục năng khiếu nó ghi: năng khiếu văn. Và, ở mục nguyện vọng: trở thành nhà văn.
Khiêm tốn thế thôi, trở thành nhà văn. Một lần tan giờ học, tôi đến đón nó muộn thì thấy nó ngồi một mình dưới đất, lưng tựa vào tường rào nhà trường, cuốn vở nháp kê lên đầu gối, đang mải mê viết truyện ngắn mini. Tôi kể chuyện lại cho mẹ nó nghe thì mẹ nó chỉ mỉm cười buồn rầu.
Tên con gái tôi là Nguyễn Thị Giáng Hương. Cái tên đó không nói gì với bạn đọc cả. Nhưng tôi nêu ra là vì nếu may mắn cuốn sách này có được bạn đọc chú ý đến, và đọc đến đoạn này bạn có chút thương cảm với một cuộc đời con trẻ sớm bị bứt ngọn một cách tàn nhẫn, thì âu đó cũng là một cách tôi được chuộc lỗi với nó vậy. Còn con nó, con bé đọc Kiều, tôi đã đặt tên là Cẩm Linh. Ông ngoại mang cái tiếng gián điệp Liên xô đã đặt tên cháu như thế để kỷ niệm một quãng đời khốn khổ. Cẩm Linh, âm Hán Việt của Kremlanh.
Ước gì hai ba chục năm nữa có một cuốn tiểu thuyết hay mang tên tác giả: Nguyễn Thị Cẩm Linh.
Được như thế thì cả hai bố con tôi, một người đã sang thế giới bên kia, một người nếu còn sống thì cũng đã già, sẽ mát lòng mát dạ.
Được như thế là nó đã cưỡng lại được số phận hộ cho mẹ và ông nó. Mẹ và ông nó đã chịu thua từ lâu rồi...
Hôm ấy là ngày 24-12 hôm trước của Nô-en 1967.
Từ sớm đã có báo động máy bay. Trẻ con nhà tôi đã đi sơ tán cả, ở nhà chỉ còn có hai vợ chồng. Hai chúng tôi nhảy xuống cái hố cá nhân ở mảnh sân con trước cửa nhà. Đứng nép hai người dưới cái hố cá nhân chật chội, nghe tiếng bom nổ, tôi nói:
- Ước gì một quả bom rơi xuống trúng hố cho chúng mình chết luôn. Có đôi.
Nghe tôi nói, vợ tôi mỉm cười buồn rầu. Vợ tôi hiểu tâm trạng của tôi là tâm trạng của một con thú bị săn đuổi không có đường chạy tháo thân.
Thế là sau đợt bắt bớ thứ nhất hồi tháng 7, đến tháng 10 đã diễn ra đợt bắt bớ thứ hai. Số người bị bắt bao nhiêu tôi không rõ, chỉ biết là nhiều hơn lần trước và trong đó có Kiến Giang. Bây giờ nhắc lại chuyện những ngày ấy, chị Lan, vợ anh Kiến Giang, đôi lúc vừa cười vừa nói:
- Hồi ấy anh Kiến Giang bị bắt rồi, tôi đi đường gặp anh Thư, anh ngoảnh đi tránh mặt tôi.
- Chẳng rõ chị nói vui hay trách móc? Tôi không nhớ chuyện ấy có hay không, nhưng tôi tin là có. Lúc ấy còn ai dám nhìn mặt ai! Lúc ấy tôi đã được tin Đảng coi đây là một chuyên án, và thành lập hẳn một ban chuyên án do ông Lê Đức Thọ làm trưởng ban, và gồm toàn những ủy viên Bộ Chính Trị, ủy viên Ban Bí thư, ủy viên Ban Chấp Hành Trung ương, bộ trưởng, thứ trưởng, đủ các ngành công an, quân đội, thanh tra, phụ nữ (vì có bắt phụ nữ), chỉ không có ngành luật pháp thôi. Đại để là một chiến dịch khủng bố đặt dưới sự chỉ huy của một Bộ Tư Lệnh chống xét lại quyền uy còn lớn hơn cả cái Bộ Tư Lệnh chống phong kiến của ông Hồ Viết Thắng hồi cải cách ruộng đất. Và sau mỗi đợt bắt bớ, ông Lê Đức Thọ lại đăng đàn ra một bản thông báo nội bộ để động viên dư luận trong Đảng. Những bản thông báo đánh số thứ tự như những thông báo chiến sự:
Thông báo số 1, Thông báo số 2... Nghe ghê cả người!
Những chuyện trên tôi biết được chỉ là do nghe ngóng chứ không được phổ biến cho điều gì hết. Cho đến đầu tháng 12, tôi bỗng được triệu tập đi nghe băng ghi âm các bản thông báo số 1 và số 2 nổi tiếng ấy.
Đến lúc ấy tôi mới biết số anh em bị bắt đã lên tới mười lăm người, trong đó có hai chị phụ nữ: chị Lan, vợ anh Phạm Viết, bị bắt sau chồng một tuần lễ, và một cô giáo trường phổ thông tôi không biết mặt. Và đến lúc ấy tôi mới được biết chúng tôi là một tổ chức chống Đảng, lật đổ, một tổ chức tụ tập lại theo lối ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, một tổ chức có tổ chức mà là không có tổ chức, không có tổ chức mà lại hóa ra là có tổ chức. Đó là phép biện chứng: nó mà lại không phải là nó, không phải là nó mà lại chính là nó.
Đại để có thể hiểu là một tổ chức không có hình thức tổ chức nào, không có tôn chỉ, mục đích, không có cương lĩnh, điều lệ, không có trên có dưới, không có chi bộ hoặc tổ, nhóm gì cả và cũng chẳng cần ai kết nạp ai, chỉ cần ai thấy mình là ngưu thì cứ việc tự động tìm đến với ngưu, ai thấy mình là mã thì đi tìm mã, rồi ngồi với nhau lúc nào tùy ý, bao nhiêu lâu tùy ý, và muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm. Anh em nào trong chúng tôi đã nghĩ ra cái kiểu tổ chức ấy quả thực là người có đầu óc sáng tạo.
Hình như sợ rằng cái gì cũng không có cả mà bảo là có tổ chức thì khó thuyết phục nên ông Thọ nói rằng tổ chức này cũng có một cái có thể coi như cương lĩnh. Đó là một tài liệu do anh Minh Việt, phó bí thư thành ủy kiêm phó chủ tịch Hà Nội, viết với đầu đề: Chủ nghĩa giáo điều ở Việt nam.
Thú thực tôi chưa hề biết trên đời này có một ông tên là Minh Việt làm cái chức vụ ấy, và cũng chưa được nghe ai nói về bản tài liệu của ông ta viết. Nhưng cương lĩnh là cương lĩnh, chứ tại sao lại có thể coi như cương lĩnh?
Sau này, mãn hạn tù, về Hà Nội tôi có nhờ anh em giới thiệu đến gặp anh Minh Việt để hỏi về bản cương lĩnh của anh. Anh nói:
- Cương lĩnh gì đâu, mình nghiên cứu tình hình thế giới và trong nước viết thành một bản đóng góp vào việc phê phán lý luận.
Về sau tôi mới biết ông anh là phó tiến sĩ triết học, có cái ham thích nghiên cứu lý luận. Một ham thích nguy hiểm.
Tôi ngỏ ý muốn mượn đọc, xem nó thế nào thì anh đáp:
- Làm gì còn! Có mỗi một bản viết tay, khi mình bị bắt họ tịch thu mất rồi còn gì.
Không có tổ chức mà là có tổ chức, không phải là cương lĩnh mà lại là cương lĩnh, cái phép biện chứng ấy nghe cũng hay hay, nhưng áp dụng vào pháp lý để buộc tội người thì mệt quá! Không giết người mà là giết người: tử hình.
Hai bản thông báo số 1 và số 2 đã gây cho tôi một ấn tượng rất nặng nề. Vì giọng nói đắc thắng và đầy đe dọa của ông Thọ. Tôi cũng không hiểu vì sao ông Thọ lại tỏ ra đắc thắng đến thế. Ông trung đoàn trưởng của tôi sau khi đưa được trung đoàn vượt qua sông Luộc đã giơ tay vẫy tôi với vẻ đắc thắng thì tôi hiểu được. Ông ta vừa làm được một việc tưởng không thể làm nổi. Còn việc bắt bớ chúng tôi thì dễ quá, muốn trừ khử cũng chẳng khó gì.
ở cuộc họp ra về, tôi đón đợi những điều xấu nhất. Tôi cảm thấy cái thòng lọng đang thít dần vào cổ tôi.
Tôi đã không phải đợi lâu. Chỉ mấy hôm sau, ông Mạc Ninh, thủ trưởng mới của tôi, gọi tôi đến, bảo:
- Anh Song Hào chỉ thị cho anh nghỉ làm việc một tuần để viết kiểm thảo. Nhận tội đi thì được khoan hồng, không nhận thì sẽ bị bắt. Trong thời gian viết kiểm thảo, anh không được trao đổi gì với ai. Tôi sẽ bố trí một buồng riêng cho anh ngồi viết.
Ông Mạc Ninh chỉ nói vắn tắt thế thôi. Chắc ông đã nhận được chỉ thị cụ thể hướng dẫn từng câu một cần nói gì với tôi. Không một lời giải thích, không một lời động viên, không một câu khuyên nhủ. Đối với kẻ thù người ta không khuyên nhủ. Người ta bức hàng hoặc tiêu diệt. Tôi đã nhận được của ông Song Hào một tối hậu thư bức hàng.
Tôi ngồi một tuần lễ, một mình một căn buồng rộng, suy nghĩ rất căng thẳng. Thế là cuộc đời tôi, cuộc đời vợ và ba đứa con nhỏ của tôi, tất cả sẽ phụ thuộc vào cái tuần lễ này đây, vào mấy tờ giấy đặt trước mặt tôi đây. Có lúc tôi nhìn anh em trong cơ quan mà thấy thèm: trong khi họ sống nhởn nhơ thì tôi ngồi lo bạc mặt. Tôi tự trách mình sao không thể sống đơn giản như người ta, ngày hai buổi đến cơ quan, việc tới tay thì làm, bảo viết gì thì viết nấy, bảo khen ai thì khen, bảo chửi ai thì chửi, tội vạ gì đến mình mà bận tâm đi rồi hứng lấy tai họa đổ lên đầu cả nhà mình. Chiều chiều về nhà trông thấy vợ lo lắng, tôi rất ân hận. Từ nửa năm nay, tức là khi bắt đầu bắt bớ, tôi không còn bụng dạ nào đi thăm con cái, phó mặc chúng cho vợ tôi . ở nơi sơ tán chắc chúng đang chạy nhảy, không thể ngờ cái gì đang treo lơ lửng trên đầu chúng.
Thiếu sót, khuyết điểm, sai lầm, dại dột, ngu ngốc, cái gì tôi cũng có cả và xin nhận. Nhưng tôi có tội gì với tổ quốc?
Có tổ chức mà là không có tổ chức, không có tổ chức mà là có tổ chức, chuyện đó là ông Thọ suy diễn ra hay là có anh em nào bị bắt đã nhận như vậy? Và tự mình nhận hay là bị ép cung? Nhưng dù anh em đó nhận kiểu như thế nào thì đó là việc của anh em ấy, không phải việc của tôi. Về điều này thì tôi không lo ngại gì. Nhưng có một chuyện làm tôi phải cắn bút khá lâu. Tôi có một anh bạn mà tôi xin phép không nêu tên ra ở đây vì chuyện của anh để anh nói thì tốt hơn. Anh bạn thường cho tôi mượn báo chí nước ngoài đọc, gồm báo Sự Thật của Đảng cộng sản Liên xô, báo Nhân Đạo của Đảng cộng sản Pháp, tập san Thông Tin của Cục Thông Tin Quốc Tế, một tổ chức chung của các đảng cộng sản thành lập sau Hội Nghị 81 Đảng. Thoạt đầu tôi tưởng là anh mượn ở thư viện cơ quan anh. Rồi tôi ngờ ngợ và một hôm hỏi thẳng báo lấy ở đâu. Anh trả lời lấy ở APN (thông tấn xã Liên xô, có chi nhánh ở Hà Nội). Té ra là thế! Anh còn cho biết thỉnh thoảng vẫn gặp các anh em Liên xô tại APN trao đổi với nhau về tình hình.
Trong sự việc này tôi có một thái độ nước đôi. Tôi nghĩ rằng trong lúc đảng ta đang trượt vào quỹ đạo nguy hiểm của Đảng cộng sản Trung quốc thì giúp cho Liên xô hiểu được tình hình để có chính sách thích hợp tranh thủ Đảng ta là một việc nên làm. Đảng đã từng dạy chúng tôi Liên xô là trung tâm, là người đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, là tổ quốc thứ hai của mỗi người cộng sản Việt nam. Và trong thời điểm nghiêm trọng này ta đang rất cần Liên xô giúp đỡ.
Nhưng trong tình hình lúc ấy, quan hệ với Liên xô là một việc nguy hiểm, tôi không có gan làm. Và thấy anh bạn tôi làm, tôi cũng rất ngại và khuyên anh nên rất thận trọng. Tôi không can. Can thì sợ mang tiếng là nhát, vả lại tôi biết can cũng chả được.
Rồi một lần đến chơi, anh bạn tôi bảo:
- Các đồng chí Liên xô yêu cầu ta góp ý kiến trong tình hình hiện nay Liên xô nên có chính sách gì đối với Việt nam.
Tôi trả lời:
- Liên xô nên tích cực giúp Việt nam chống Mỹ. Việc vận chuyển qua đường mòn Hồ Chí Minh rất khó khăn. Liên xô nên dùng uy tín của mình đặt vấn đề với chính phủ Xihanúc để họ cho phép đưa viện trợ vào miền Nam qua cảng Xihanúcvin.
ít lâu sau, anh bạn tôi đến, cho biết các đồng chí Liên xô trả lời: vấn đề tôi đề xuất Liên xô đã làm rồi.
Đầu đuôi câu chuyện làm gián điệp cho Liên xô mà sau này người ta buộc cho tôi là như vậy.
Nếu bắt quan hệ với Liên xô là điều tốt thì tôi chẳng có gì đáng vỗ ngực tự hào. Tôi chỉ là một anh nhát gan. Nếu đó là việc xấu thì tôi cũng chẳng phải là kẻ phản bội tổ quốc, tôi chỉ là một thằng ngu. Là ngu thì cùng lắm tôi cũng chỉ đáng bị khai trừ ra khỏi Đảng.
Việc này có nên khai ra không? Nghĩ đến giọng nói đầy hăm dọa của ông Thọ tôi rất ngại ngùng. Mình khai ra, dù là sự thật, nhưng ông ấy có tin không? Hơn nữa anh bạn tôi ở trong tù chối hay nhận như thế nào tôi không rõ, nhưng nếu anh ta không nhận, tôi ở ngoài, còn tự do, lại tố giác anh thì có coi được không? Tính đi tính lại, cuối cùng tôi không khai.
Nộp bản kiểm thảo rồi, tôi như ngồi trên lửa đốt.
Tôi đợi phản ứng của cấp trên. Cái lo âu còn ghê gớm hơn cái lo âu của đêm trên đê Sa Lung tôi đứng đợi tiểu đoàn trưởng Mạnh đi trinh sát mở đường: chúng tôi sẽ ra thoát khỏi vòng vây hay là bị tiêu diệt, xóa sổ? Một ngày, hai ngày, ba ngày, ngày nọ nối tiếp ngày kia, đầy một vẻ chết chóc. Tôi nghĩ rằng hôm trước của ngày tận thế chắc cũng như thế này mà thôi.
Rồi một buổi tan tầm, ông Mạc Ninh gọi tôi lại, bảo:
- Anh về chuẩn bị balô quần áo, chăn màn, sáng mai đến cơ quan đi lên chỗ sơ tán với tôi, mai có ô tô.
Tôi hồi hộp quá, cố phán đoán xem đó là tín hiệu gì. May ra tôi thoát chăng?
Tối hôm đó vợ tôi chuẩn bị cho tôi một ba lô đầy chăn màn, quần áo ấm. Sáng sớm lại chạy đi mua một đôi bánh mì cặp nhân đầy lên, đút cả vào ba lô. Vừa xong thì báo động máy bay. Đạn cao xạ ầm ầm.
Còi báo tan. Chúng tôi nhảy ở dưới hố lên, khóa cửa, lấy xe đạp đèo nhau lên cơ quan. Chia tay nhau trước cửa cơ quan, vợ tôi nói nhỏ:
- Anh đi, mau về.
Tôi cười gượng. Chúng tôi nhìn nhau nửa lo lắng, nửa hy vọng.
Sân cơ quan vắng tanh, chỉ có một mình ông Mạc Ninh chắp tay sau đít đi đi lại lại trên hành lang. Tôi thấy chợn chợn. Ông Mạc Ninh nói như có ý giải thích.
- Anh em đã đi trước cả rồi. Cậu hành chính chạy ra phố hộ tôi chút việc. Ta vào đây uống nước chờ xe.
Rồi ông kéo tôi vào buồng ông. Tôi ngồi tiếp chuyện ông, cố làm ra vẻ tự nhiên. Một lát lâu sau có tiếng commăngca đỗ xịch ngoài sân. Tôi chưa kịp định thần đã thấy xuất hiện hai viên thiếu úy trẻ tuổi nai nịt chỉnh tề, một người dừng lại trấn giữ cửa, người kia bước xộc vào. Tôi giật thót mình.
Viên thiếu úy thứ hai nói như ra lệnh:
- Anh đứng nghiêm nghe lệnh!
Anh ta rút trong sắc cốt ra một tờ giấy nhỏ bằng trang vở học trò, tuyên đọc:
Lệnh bắt giam.
Ra lệnh bắt: Tên phản cách mạng
Trần Thư.
Vì tội: có hành động nguy hại đến nền an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nơi giam: Hỏa Lò.
Ký tên
Đại Tá Kinh Chi. Cục Trưởng Cục Bảo Vệ
Lệnh vắn tắt một cách đanh thép, không có những câu thừa như căn cứ điều khoản bao nhiêu của bộ luật nào đó v.v... Bắt, thế thôi, không oong đơ (un deux) gì cả.
Tôi toát mồ hôi. Và không hiểu sao cuống lên lại thọc tay vào túi áo quân phục. Viên thiếu úy nhảy lùi phắt lại, đưa tay vào bao súng ngắn đeo bên sườn. Chắc anh ta tưởng tôi thò tay vào túi để lấy vũ khí chống lại? Thấy thế, tôi từ từ rút tay ra, buông xuôi. Và tự nhiên thấy trong lòng thanh thản lạ lùng.
Âu thế cũng là xong. Chứ sống như những ngày tháng vừa qua thì tôi không chịu nổi nữa rồi.
Tôi có cảm giác được giải thoát.
Cái cảm giác được giải thoát ấy nó mạnh đến nỗi khi hai cánh cổng nặng chịch của nhà tù Hỏa Lò mở ra cho chiếc xe chở tôi từ từ bò vào trong sân, tôi không có gì xao xuyến, lo âu. Chỉ một chút tò mò: cái nhà xăng tan nổi tiếng, cái nhà bốn phố, mà từ thủa nhỏ tôi đã bao lần đi dọc không phía này thì phía kia của bốn mặt tường sù sì lì lợm của nó và nhìn nó bằng con mắt rất nể, nó là thế này đây. Bao lần đi qua nhưng đây là lần đầu tiên bước chân vào.
Dẫu sao đây cũng mới chỉ là khu hỏi cung, nơi sinh hoạt và làm việc của cán bộ nhà tù, được ngăn cách khỏi khu giam người bằng một cái cổng không kém bề thế cái cổng ngoài đường. Tầng ngoài địa ngục. Cho nên nó chưa có vẻ gì ghê gớm. Có hai dãy nhà hai bên, có bồn cỏ, có hoa.
Người ta dẫn tôi vào một buồng rộng, trống trơn, chỉ kê độc một cái bàn gỗ. Một viên thượng úy trỏ cho tôi đứng vào một bên tường, và nói bằng giọng khu bốn pha bắc:
- Để balô xuống, cởi quần áo ra.
Tôi đặt balô xuống đất, rồi cởi quần áo ra: áo bông quân phục, áo len dài tay, áo len ngắn tay, sơ mi, quần. Đến đây tôi dừng lại và không thấy viên thượng úy bảo gì. Vậy là không phải cởi truồng. Một người mặc thường phục tiến đến bảo tôi há mồm, lật lưỡi, vãnh má hai bên. Khám mồm. Khám tai. Rồi sờ nắn tất cả những nơi trên thân thể tôi mà cái quần đùi bộ đội và cái áo may ô cộc tay của tôi còn che khuất. Không thấy bảo tôi chổng mông vành đít khám hậu môn.
Tôi chẳng sợ. Chưa bị bắt nghĩ đến bị bắt thì sợ lắm, bây giờ bị bắt rồi, và chấp nhận (vì cũng chẳng có cách nào khác) thì hết cái để sợ. (Rút kinh nghiệm, muốn duy trì ai trong sự sợ hãi thì không nên bắt, chỉ nên dọa bắt thôi). Tôi chỉ buồn. Buồn ngao ngán. Cái tình đồng chí người ta vẫn bảo là thiêng liêng cao cả mà lại đi đến nông nỗi này thì làm sao mà không ngao ngán?
Xong việc khám xét thân thể là việc khám xét đồ lề. Cái balô của tôi mà vợ tôi đã xếp cẩn thận, thứ nào ra thứ ấy cho dễ tìm, bị rũ tung ra đất cùng với đống quần áo tôi vừa cởi ra. Lần sờ từng túi, từng gấu quần gấu áo, từng đường chỉ may. Kiểm kê. Nhét đại tất cả trở lại vào balô. Và giải thích:
- Đồ lề của anh khi nào anh được về chúng tôi sẽ trả lại. Cả hai cái ổ bánh mì chúng tôi cũng sẽ tính tiền trả cho anh. Chúng tôi giữ bánh lại là để bảo vệ anh.
Bảo vệ tôi? Bảo vệ tôi khỏi bị vợ đầu độc thủ tiêu để đi lấy chồng khác, hoặc là đồng bọn của tôi hay tình báo Liên xô đầu độc để bịt đầu mối, hoặc là tôi tự đầu độc để trốn tránh đấu tranh. Không còn cách giải thích nào khác. Chẳng hiểu cái anh chàng thượng úy kia nói thật hay nói đùa?
Và nửa giờ sau, cánh cửa xà lim Hỏa Lò đã đóng sập vào sau lưng tôi, khép lại một quãng đời... Một quãng đời làm sao? Tôi nghĩ mãi một cụm từ để đánh giá quãng đời ấy: lương thiện, lãng mạn, ngây thơ, nhố nhăng, đáng tự hào, không có gì phải xấu hổ v.v...
Cuối cùng tôi chịu và đành đánh dấu ba cái chấm. Vì tất cả đều có, mỗi thứ một tí.
Tôi ở cái xà lim Hỏa Lò này sáu tháng, qua một mùa đông, một mùa xuân và nửa mùa hè, được hưởng mọi sắc thái thời tiết của nó. Mùa đông năm ấy đặc biệt giá rét và mùa hè đặc biệt nóng nực. Có lẽ không phải thời tiết năm ấy đặc biệt, mà là cái xà lim này nó đặc biệt. Không biết cơ chế của nó thế nào mà mùa hè thì nó hầm hập, mùa đông lạnh buốt, còn mùa xuân thì nó ướt dầm dề. Mọi diễn biến thời tiết bên ngoài thấm qua được bức tường dày và kín của nó đã được nhân lên.
Tôi không biết cái nhà tù Hỏa Lò này được xây dựng năm nào. Tôi nghĩ là vào quãng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 gì đó. Và từ khi ta tiếp quản, nó có lẽ được coi là di tích cần được bảo tồn cho nên vẫn nguyên vẹn đó, man rợ, già nua, mốc meo mùi văn minh thực dân cuối thế kỷ 19. Và nếu nó không nằm lù lù giữa thủ đô, nơi bây giờ giá mỗi mét đất lên tới hàng cây vàng, đem bán cho công ty nước ngoài ra khối của, thì có lẽ nó còn cứ nằm lì đó, trơ gan cùng tuế nguyệt, làm người lính lê dương già của nền chuyên chính vô sản. Cơ chế thị trường lợi hại thật! Bày được cả cái nhà xăng tan sừng sững này ra ngoại ô cứ nhẹ như không, chẳng khác gì Ngu Công dời núi. Nhất lại là một cái nhà xăng tan gắn liền với những tên tuổi như Hoàng Văn Thụ.
Nghe nói ngày xưa Tây dùng những xà lim này để giam tù án chém, tù trọng tội. Nó cũng được dùng làm xà lim kỷ luật. Người tù nào phạm kỷ luật của trại cần phải trừng trị thì bị tống vào ca sô. Ca sô chính là những xà lim này.
Bây giờ hình như cũng như vậy: tôi là phản cách mạng, còn anh bạn cùng xà lim là một anh thượng úy can tội bắn chết thủ trưởng.
Tôi không rõ Hỏa Lò có bao nhiêu xà lim, riêng ở khu tôi bị giam thì có tám cái, xếp hàng ngang như tám cái cũi kín mít, mỗi cũi giam hai người. Xà lim ngang dọc mỗi chiều khoảng hai mét, trần bê tông, cao khoảng năm mét để người tù không thể trèo lên được. Giường nằm là hai tấm bê tông xây gắn vào tường chạy hết chiều dọc của xà lim và giữa hai tấm để chừa ra một lối đi rộng khoảng sáu mươi phân. Chiều dài của mỗi tấm như vậy là dài hơn cái giường cá nhân một chút, vì ở cuối mỗi tấm còn có một cái cùm bằng gỗ lim nẹp sắt ăn hết chiều ngang của phản. Cùm có hai thớt khoét hai lỗ để đút hai chân vào. Thớt dưới gắn chặt vào phản, thớt trên có bản lề để đóng mở. Chốt là một thanh sắt tròn, to, xuyên qua tường để khóa từ bên ngoài.
Cửa ra vào rộng bằng đúng cái lối đi còn để lại giữa hai tấm phản bê tông, có cánh gỗ dày, và ở chỗ ngang tầm mắt có khoét một lỗ cửa con vuông mỗi chiều khoảng 15 phân. Cửa đóng ban ngày để người bị giam không nhìn được ra ngoài và ban đêm mở để quản giáo đi tuần tra bên ngoài có thể nhòm vào kiểm soát động tĩnh. Lỗ thông hơi duy nhất là một cửa sổ có chấn song sắt và lưới mắt cáo, kích thước khoảng 40 x 60 phân ở bức tường cuối xà lim, nằm ngang sát trần. Đứng ở dưới đất ngửa cổ nhìn lên thì thấy cái mái ngói chìa ra. Thêm cảnh trời mây thì trèo lên giường sẽ nhìn thấy được một cành bàng, và qua kẽ lá bàng, lốm đốm một màu trời. Cửa sổ ấy hướng bắc cho nên mùa hè thì không có gió, còn mùa đông thì nó như cái phễu hứng gió bấc. Kiến trúc của xà lim thì như vậy, còn trang bị nội thất của nó thì ngoài hai cái cùm tôi nói ở trên, chỉ còn hai cái bô vệ sinh đặt ở dưới gầm phản xi măng để ỉa đái ngay trong phòng giam.
Đã bước chân qua cái cửa xà lim này thì chỉ bước ra mỗi sáng một lần để đổ bô và rửa mặt trong vòng vài ba phút, mỗi tuần một lần để tắm rửa trong mươi lăm phút và những lần gọi đi hỏi cung. Còn lại thì cứ loanh quanh hai người trong bốn cái mét vuông ấy. Trong cuốn Viết Dưới Giá Treo Cổ Juliut Phuxic tả cuộc sống của mình trong xà lim nhà tù phát xít bằng câu chuyện đi bách bộ của ông: bước đi mười hai bước, bước về cũng mười hai bước. Tôi không nhớ con số của Phuxic là mười mấy, chỉ nhớ là trên mười, tôi tạm lấy con số mười hai cho nhỏ. Tôi cũng vậy, bước đi năm bước, bước về cũng năm bước. Cứ thế loay hoay như con chó trong cũi. Chó trong cũi còn nghênh ngáo nhìn được cảnh vật bên ngoài, còn tôi thì có bốn bức tường bưng lấy mắt.
Người bị giam trong các xà lim không được phép tiếp xúc trò chuyện với nhau, thậm chí không được trông thấy nhau, cho nên ra tắm rửa, đổ bô đều ra sân lần lượt từng xà lim một. Mảnh sân nhỏ vài mét vuông cũng có tường và hàng rào sắt vây kín, có cửa sắt để người đứng tắm rửa ngoài sân cũng bị khóa trái. Kiểu tù này hình như xưa kia Pháp gọi là tù cấm cố, bây giờ ta dùng chữ lịch sự hơn: giam biệt lập.
Sở dĩ tôi phải kể lể dài dòng như vậy là vì có ông bạn đại tá đến bây giờ, tức là sau một phần tư thế kỷ, còn hỏi tôi:
- Ông cứ nói là ông bị tù cho nó nặng nề ra, chứ chắc là người ta đưa ông đến một nơi nào đó ngồi đọc sách thoải mái chứ gì.
Phải, tôi được đưa đến một chỗ thoải mái như vậy đấy.
Cai quản dãy xà lim chúng tôi là một ông quản giáo già tên là gì tôi không biết chỉ biết anh em tù báo vụng cho nhau gọi ông ta là lão Giave. Thực ra cũng không thể nói được là lão ác. Trong sáu tháng nằm Hỏa Lò tôi chưa nghe thấy - nghe thôi chứ không thể nhìn thấy cái gì - chưa nghe thấy lão đánh ai bao giờ. Lão chỉ thi hành công vụ của lão một cách thẳng băng, không khoan nhượng mà thôi. Tính cách Giave (Javert) của lão chính là ở chỗ ấy. Lại thêm cái bộ mặt khó đăm đăm và giọng nói không bao giờ ôn tồn làm cho lão thành một con người rất mất cảm tình. Anh em tù khác có sợ lão không tôi không biết, còn tôi thì tôi sợ lão. Bởi mỗi lần cắt tóc cho tôi, đến tiết mục cạo râu, lão không bao giờ dùng dao kéo mà cứ cái tông đơ cùn lão rúc vào mũi tôi. Và vì lão vội, lúc nào cũng thấy lão vội, cho nên lão làm cứ phăng phăng. Tôi giật mình thon thót mỗi lần bị cái tông đơ đứt phựt một sợi ria cứa không đứt.
Lão lại càu nhàu:
- Làm cái gì thế, có muốn đứt mũi không?
Làm cái mả mẹ lão, thế thì bố ai giữ được không giật mình!
Chỉ đến khi lão ưỡn lưng đứng thẳng dậy tôi mới hoàn hồn, yên chí ít ra là đến lúc này cái mũi mình vẫn còn nguyên vẹn.
Nếu còn sống đến bây giờ thì lão phải ngót nghét chín chục. Chắc lão đã về chầu tổ rồi. Cầu trời cho lão an giấc ngàn thu.
Phụ trách hỏi cung tôi là ông Nhuận, họ và cấp bậc là gì tôi không rõ. Ông ta sẽ là người bừa đi bừa lại cho nhão nhuyễn, còn cày vỡ ban đầu chính là cái ông thượng úy xứ Nghệ đã có lòng tốt muốn bảo vệ tôi khi tịch thu bánh mì của tôi. Bây giờ ông ta lại tuyên bố một câu xanh rờn:
- Chúng tôi bắt anh vào đây là để bảo vệ anh.
Tôi xin cám ơn. Nhưng giá ông đừng bảo vệ tôi thì có lẽ tôi thích hơn.
Ông ta tên là Nhiên, nom dáng nông dân hơi đậm đậm, nhưng mặt mũi trắng trẻo, cái trắng trẻo của một người ngồi nhiều ở bàn giấy, và có lẽ kém tôi vài ba tuổi. Một hôm đang hỏi cung tôi, bỗng có tiếng tên lửa rơi nổ gần đâu đó, ông ta đã giật bắn mình, nhảy vội nép vào góc tường. Rồi thấy tôi vẫn ngồi im như thóc, ông ta hơi ngượng, quay trở lại bàn. Chẳng chê cười gì ông ta. Chẳng qua là ông làm một công việc nó không cho ông có dịp được nghe đạn rít mang tai, bom nổ quanh mình, nên không quen mà thôi. Vả lại, ông đang yêu đời, đang được đặt trước một cơ hội thăng tiến hiếm có, ngàn năm có một, còn tôi thì đang muốn chết. Lúc ấy tôi chỉ mong không phải là một mà là mười quả tên lửa rơi cả xuống giữa cái gian phòng này.
Thực ra cái gì cũng là quen cả. Như tôi quen ngồi vắt chân chữ ngũ, một thói quen bị vợ tôi phê bình nhiều lần mà không sửa được. Rồi đến cái tối ngày 24 tháng 12 ấy, ngay cái tối hôm tôi bị bắt, người ta đã điệu tôi đi lấy cung. Tôi được đưa đến một căn phòng rộng, cuối phòng kê một bộ bàn ghế làm việc có ông Nhiên đang ngồi cắm cúi xuống đống giấy tờ. Và trơ vơ giữa phòng là một cái ghế đẩu đặt cách xa bàn vài ba mét, để phân rõ ranh giới giữa hai người ngồi ở hai vị trí ấy. Bởi vì phân rõ ranh giới giữa bạn, thù và ta luôn luôn là tiêu điểm để đánh giá lập trường người cộng sản có kiên định hay không. Tôi đang như chim chích lạc vào rừng, chẳng kịp suy nghĩ gì, nên khi người ta chỉ cho ngồi vào ghế đẩu đó, tôi đã ngồi xuống và như một cái máy, vắt chân chữ ngũ, im lặng chờ. Tôi hiểu là ông Nhiên cố tình cho tôi đợi.
Lát sau, ông ta ngẩng đầu lên, thấy tôi ngồi kiểu ấy, xẵng giọng quát:
- Bỏ chân xuống!
Tôi hơi bị bất ngờ. Tôi chưa quen nghe ai ăn nói với mình kiểu xách mé như vậy. Chắc ông ta muốn bảo tôi: mày hãy quên cái lon thiếu tá của mày đi, bây giờ mày chỉ là một tên phản cách mạng, và ngồi trước mặt mày không phải là một thượng úy mà là người đại diện của chuyên chính vô sản, đừng có láo! Khốn nạn, tôi có định lếu láo gì đâu. Tôi đâu có nghĩ lôi thôi gì. Tôi chỉ quen ngồi vắt chân chữ ngũ mà thôi. Cũng như ông ta không quen nghe đạn nổ vậy. Nhưng cũng từ đó tôi bỏ được cái thói quen thô thiển ấy và học được một thói quen mới văn minh hơn: ngồi ngay ngắn, hai bàn tay xòe ra úp lên hai đầu gối, như các cụ ta ngồi chụp ảnh thờ.
Ông ta muốn trấn áp phủ đầu tôi.
Nhưng tôi nghĩ việc ấy là thừa. Bởi vì khi bước chân lên xe vào Hỏa Lò, tôi đã xác định sẽ trình bày hết sự thật, nói theo ngôn ngữ nhà tù mà lúc ấy tôi chưa thạo là thành khẩn khai báo hết. Tội gì không khai nhỉ! Tôi bị buộc tội là phản cách mạng, mà nếu tôi khai hết thì sẽ rõ ràng không phải như thế. Khai hết tức là chứng minh tôi là thế này chứ không phải thế kia. Khai hết chính là tôi tự bảo vệ vậy. Tôi có thể là bất cứ cái gì, xét lại, giao động, sợ Mỹ, vô tổ chức, vô kỷ luật, hợm hĩnh, hỗn, ngu... cái gì cũng được, nhưng phản cách mạng thì dứt khoát không. Đảng nhầm rồi. Thậm chí tôi còn nghĩ: khi tôi đã làm rõ được vấn đề thì Đảng phải xin lỗi tôi. Ôi anh bạn cả Cò ơi, tôi biết trời sinh ra anh ngớ ngẩn, nhưng không ngờ anh lại ngớ ngẩn đến thế! Nếu muốn, anh có thể đợi. Dẫu sao chờ đợi một điều gì tốt lành cũng là một niềm vui không mất tiền. Đợi cả đời càng được vui lâu.
Vậy là tôi quyết định khai hết, không sót điều gì. Tất nhiên là khai hết về mình. Còn về các anh em khác? Đến đây thì tôi phải tạ ơn trời đã sinh ra tôi không có tính tò mò, thóc mách, không hay thò mũi vào chuyện người khác, nếu không thì lúc này tôi sẽ phải đứng trước một sự lựa chọn khó khăn. Tất nhiên tôi biết rõ quan điểm của họ, vì khi gặp nhau chúng tôi thường chuyện trò về thế sự, hệt như các cụ lão thành bây giờ ngồi với nhau phê phán đủ chuyện vậy. Vả lại những anh em đó đã công khai bảo lưu quan điểm của mình trong thời Nghị Quyết 9, có gì mà phải dấu? Còn như họ có hành động gì không thì, nhờ ơn trời, tôi không biết. Trừ chuyện anh bạn đã quan hệ với thông tấn xã Novôxti (Novosti) như tôi đã kể ở phần trên cuốn sách này. Tôi xin anh bạn thông cảm, tôi không thể không khai ra, có thế tôi mới tự biện minh cho mình được. Vả lại, nếu bạn thấy việc mình làm là đúng và có gan làm thì tôi nghĩ nên có gan nhận.
Chính ý nghĩ rõ ràng và dứt khoát ấy đã làm cho tôi đi vào Hỏa Lò với một thái độ bình tĩnh, tự tin. Trên dọc đường xe đi, tôi ngồi kẹp giữa hai viên thiếu úy đeo sắc-cốt.
Đề nghị anh cho tôi xem tờ lệnh bắt.
Anh ta rút ra đưa và tôi cầm lấy với một vẻ thản nhiên, lướt mắt qua rồi thờ ơ trả lại. Đến lúc này cái tờ giấy ấy chẳng là gì đối với tôi cả.
Và tối hôm ấy, hỏi cung tôi xong, ông Nhiên bảo tôi trở về phòng giam. Tôi bước ra sân thì chẳng thấy ai dẫn mình đi cả. Quay lại thì phòng hỏi cung đã đóng. Trời đã khuya. Sân vắng tanh vắng ngắt. Chờ một lúc vẫn chẳng thấy ai, tôi lững thững qua cái cổng để mở, bước vào sân trong... Cũng vắng tanh. Tù nhân trong mấy san giam tập thể đã ngủ cả. Tôi hơi lạ, đứng giữa sân réo ầm lên:
- Có ai đấy không? Cho tôi về xà lim chứ!
Từ trong bóng tối lão Giave hiện ra. Thì ra là người ta thử tôi, thả lỏng để xem tôi hành động như thế nào, có tìm cách trốn không? Buồn cười thật, tội tình gì mà phải trốn? Và trốn đằng trời!
Thậm chí tôi còn lạc quan. Tôi cho rằng vấn đề của tôi chẳng có gì rắc rối, phức tạp, chỉ cần vài ngày trình bày là sẽ rõ hết, kể thêm thời gian xem xét xác minh nữa thì chỉ vài tuần lễ, cùng lắm vài tháng là xong. Vài tháng nằm Hỏa Lò thì sá gì.
Cho nên khi bước chân vào cái xà lim này, tôi thấy nó cũng chẳng có gì ghê gớm lắm, sống được. Và nhìn cái cùm ở cuối giường thấy lạ lạ, vui vui. Đảng bắt tôi vì tưởng tôi là phản cách mạng, vậy khi đã rõ tôi không phải là phản cách mạng thì tất nhiên Đảng sẽ cho tôi về, đó là ABC của phép lôgích (logic). Chính ông Nhiên đã giải thích cho tôi ngay trong buổi hỏi cung đầu tiên:
Đảng không muốn bắt các anh, nhưng để các anh ở ngoài thì các anh không chịu khai, phải đưa các anh vào đây để các anh khai.
Nghĩa là không phải nắm được chứng cứ rồi mới bắt, mà bắt để tìm chứng cứ trong lời khai.
ít lâu sau, ông Nhuận cũng nói:
- Anh khai xong thì sẽ được về.
Không lời hứa hẹn nào có thể rõ ràng, dễ hiểu và dứt khoát hơn. Làm sao tôi có thể không tin? Đây là Đảng chứ có phải ai đâu mà bảo sợ nói xong rồi nuốt lời? Không những thế, cả hai ông còn nói:
- Đảng không chủ trương giải quyết việc các anh bằng pháp luật mà bằng xử lý nội bộ.
Xưa nay ai cũng hiểu xử lý nội bộ là kiểm điểm, phê bình, cảnh cáo, thi hành kỷ luật các mức, mà mức cao nhất ghi trong điều lệ Đảng là khai trừ. Tôi cũng đã hiểu như vậy.
Xin đừng cho đó là những lời nói vô trách nhiệm của những cán bộ thừa hành. Anh Kiến Giang có kể với tôi rằng ngồi tù hết năm thứ ba, anh đã viết thư cho ông Lê Đức Thọ đề nghị được đưa ra tòa xét xử đàng hoàng để có án và biết mình còn phải ngồi tù bao lâu nữa cho yên tâm. Ông Thọ đã cử ông Thành, vụ trưởng Vụ Bảo Vệ của Ban Tổ Chức Trung ương xuống trại giam Ba Sao gặp Kiến Giang để trả lời:
- Anh Thọ rất quan tâm đến các anh và cứ giục tôi đi trả lời anh. Đấy anh xem, hôm nay mới là mồng bốn Tết mà tôi đã đi gặp anh rồi. Anh Thọ bảo tôi truyền đạt cho anh hai ý kiến. Thứ nhất, đây không phải là vấn đề pháp luật, đây là xử lý nội bộ. Anh có bị tù đâu, anh ở đây học tập, đọc sách. Thứ hai anh ngồi đây cũng là tham gia chống Mỹ cứu nước...
Kiến Giang bị bất ngờ quá, phì cười. Ông Thọ quả là một người thích đùa. Và đùa đến là dai.
ở một nhà nước pháp quyền khi chưa có kết luận của tòa án ghi thành văn bản án là một người có tội thì người đó được coi là vô tội. Luật pháp của ta bây giờ cũng đã thừa nhận điều đó. Nhưng hồi ấy Đảng là luật pháp, hay nói cho đúng hơn, ông Duẩn, ông Thọ là luật pháp. Thêm nữa, ông Thọ lại tuyên bố xử lý nội bộ thì tòa án nào, cơ quan tư pháp nào dám xía vào công việc nội bộ của Đảng? Thực ra có lập tòa án để xử thì kết quả cũng vẫn như vậy. Vì tòa án đâu có xử theo pháp luật, mà xử theo chỉ thị của Đảng. Và cho dù tòa án có xử theo đúng pháp luật đi nữa thì pháp luật ấy cũng lại do Đảng vạch ra theo ý mình, coi như ý trời. Đó là một cái vòng Kim Cô không cho bất cứ ai thoát được nếu đã bị đeo nó vào. Tên gọi hiện đại của cái vòng Kim Cô ấy là chuyên chính vô sản.
Gần đây trong bản thông báo ra ngày 20/3/1994 của Ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung ương có giải thích rằng sở dĩ không đưa chúng tôi ra tòa mà chỉ xử lý hành chính bằng biện pháp tập trung cải tạo là do tình hình trong nước và quan hệ quốc tế lúc ấy. Đúng là lúc ấy trong nước đang có chiến tranh và ta đang cần được Liên xô giúp đỡ nên không thể dằn mặt Liên xô đưa ra tòa xử một vụ án chống xét lại được. Nghe thì như có lý. Nhưng không phải. Chỉ là vin vào cớ ấy thôi. Vì nếu không có tình hình ấy thì cách giải quyết cũng vẫn như vậy. Tôi chẳng nói được điều gì mới mẻ khi khẳng định rằng ở Việt nam nói chung tù chính trị không bao giờ được xét xử, toàn là xử lý hành chính bằng biện pháp tập trung giáo dục cải tạo. Thế cho gọn nhẹ, đỡ phiền phức. Trừ trường hợp việc đưa ra xử là nhu cầu của tuyên truyền như trường hợp xử vắng mặt ông Hoàng Văn Hoan, hoặc cực chẳng đã, không thể trốn tránh, không thể đi đêm được. Nếu có thể đi đêm được thì bao giờ cũng đi đêm.
Đầu những năm 1960, nhà văn kiêm biên kịch Hoàng Công Khanh, nhà thơ Phùng Cung, anh Tuân Nguyễn, một cán bộ của Việt nam thông tấn xã đã bị bắt, người thì đi tù sáu năm vì bị coi là có tư tưởng chống Đảng, người thì chín năm vì là tác giả của truyện ngắn Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh, người thì tám năm vì mấy bài thơ khóc Dương Bạch Mai mà anh đã làm và ghi vào sổ tay chứ không đăng ở đâu cả. Cả anh Hoàng Công Khanh và anh Tuân Nguyễn đều kể với tôi rằng các anh bị bắt, bị tống giam, rồi mấy năm sau, được thả ra, thế thôi. Không bị thẩm vấn tra hỏi gì cả, và tất nhiên không có luận tội và kết tội. Năm 1979, thượng tướng Chu Văn Tấn, đặc đẳng công thần, người hùng của Cứu Quốc Quân Bắc Sơn, ủy viên Trung ương Đảng, bí thư Khu Uỷ kiêm chủ tịch khu tự trị Việt Bắc, bị bắt giam vì bị coi là thân Trung quốc và có âm mưu làm phản. Tất cả đều không xét xử. Khi ông Tấn bị bắt, đất nước đã hòa bình. Còn giữa ta và Trung quốc thì đã công khai vạch mặt chỉ trán nhau là kẻ thù nguy hiểm, thậm chí đã kéo ra biên giới bắn giết nhau một trận thoải mái, còn có gì phải giữ ý nữa đâu, vân vân và vân vân...

<< Chương 12 | Chương Kết >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 760

Return to top