Phu nhân dọn một tiệc rượu tẩy trần, nhưng thái sư không cho mời ai. Đức ông đang để tâm đến việc dẹp cho êm Trần Liễu mà không kinh động đến thiên hạ.
Rượu được vài tuần, phu nhân mới lựa lời hỏi:
- Vậy là ông đoán đúng hướng đi của nhà vua. Chả trách người ta bảo ông xét công việc như thần.
Trần Thủ Độ vẫn lặng yên suy nghĩ.
Phu nhân lại hỏi:
- Quan ông tới đó hoàng thượng có chịu về ngay không?
“Hừm” một tiếng, Trần Thủ Độ nói:
- Không định về. Nhà vua muốn ở lại Yên Tử để làm Phật. Thái sư bật cười khách khách. Điệu cười tỉnh táo nghe như có cái hồn ma quái. Dứt tiếng cười, ông lại nói: - Bọn nhãi ranh thời nay có cái bệnh thích đi vào cõi bất tử!
Nhìn phu nhân với vẻ cảm thông, Trần Thủ Độ nói như là khuyên nhủ:
- Nhà vua đã trở lại điện Thiên An rồi. Mọi việc đâu lại vào đấy như cũ. Bà xem lựa lời an ủi nhà vua. Dù là vua, nhưng nó vẫn thích được an ủi. Mẹ nó mất sớm. Nó khao khát tình mẫu tử. Bà khéo chiều con, việc trong nhà nên làm thế nào bà cứ làm, để tôi còn rảnh tay lo việ bên ngoài. Con Thuận Thiên thế nào? Vẫn ở bên ấy chờ hoàng thượng, hay lại bỏ về bên này rồi?
Phu nhân nhìn chồng với vẻ biết ơn. Bà nói:
- Tôi đã hai ba lần đến tìm con Chiêu Thánh, nó đều lánh mặt không gặp. Tội nghiệp, tôi thương con bé quá.
- Ơ hay, tôi đã bảo cứ để cho nó ở tạm đấy. Gần nơi thờ phụng cha nó, nó yên được cái tâm. Với nó lúc này không xẵng được. Phải lựa để cho nó hồi cái tâm lại, không thì con bé điên mất. Nó giận bà lắm đấy. Nó cũng căm ghét cả tôi nữa. Thôi đừng chấp với trẻ nhỏ làm gì. À, nhưng tôi muốn hỏi bà về con Thuận Thiên kia mà.
- Vâng, con Thuận Thiên thì nói làm gì. Chịu rồi. Cũng hai ba lần cô ấy bỏ về bên này khóc lóc. Tôi giảng giải, nó đã nghe ra. Nó là một đứa con có hiếu. Mấy lại hồi ta ép nó phải lấy lẽ Phụng càn vương1 nó cứ ca cẩm mãi. Bây giờ ông biết nó lo cái gì không. Nó lo đức vua ghét bỏ ruồng rẫy nó.
- Ôi thôi, cái phần ấy thuộc về mẹ con bà. Trần Thủ Độ có ý không muốn nghe tiếp câu chuyện nữa.
Ngay đêm ấy, thái sư sai người đem hỏa lệnh tới châu Hồng, và vùng Bắc Giang thượng hạ, điều quân các lộ, chẹn đường rút của Trần Liễu ở phía bắc, phía đông.
Lại sai quân ở lộ Trường Yên chẹn phía Nam. Trần Thủ Độ quyết khóa chặt đội quân của Trần Liễu, không cho tiến lui nửa bước. Ông cũng định phen này phải lột da Trần Liễu, để cho thằng cháu bất trị này biết tay ông.
Điều quân các ngả về vây chặt quân Trần Liễu xong đâu đấy, Trần Thủ Độ cho vời Lê Tần vào trong trướng, ông nói:
- Ta có lời khen ngợi tướng quân. Đất nước sẽ còn phải trông cậy ở những người như tướng quân nhiều lắm.
- Bẩm đức ông, tiểu tướng còn ít am tường về binh pháp.
- Cứ làm rồi khắc biết. Tướng quân còn trẻ, nếu có chí lo gì việc không thông hiểu. Nhưng thiếu gì kẻ lầu thông binh pháp, nghe họ nói về kế sách cướp lương, đánh thành, diệt viện, dụng gián, phản gián dễ như trở bàn tay. Tưởng như phải liệt xếp họ vào hàng những danh tướng cổ kim. Ấy vậy mà cứ hễ cầm quân ra trận là thua, vì không bao giờ lừa được địch, dù chỉ là một mẹo nhỏ.
- Bẩm đức ông, Lê Tần hỏi – Bí quyết của nghề làm tướng là ở chỗ nào?
Trần Thủ Độ cười khẩy:
- Tướng quân thừa biết. Làm gì có bí quyết. Người ta đã viết sách dạy đến từng việc nhỏ nhất của người cầm quân. Vậy mà tướng giỏi qua các đời, còn thưa vắng lắm; tướng quân có biết vì sao không? Là vì người làm tướng mà chỉ có dũng không thôi, là tướng ngu, hùng hục như trâu thúc đầu vào đá. Người làm tướng lại chỉ có trí không thôi là tướng hèn, suốt đời ba hoa cái lỗ miệng, chứ chẳng dám làm một việc gì. Loại đó, binh sĩ thường tôn làm bậc tướng đánh giặc mồm.
Bẩm thái sư, nếu có cả trí và dũng thì đã đủ chưa? Lê Tần mạnh dạn hỏi lại.
- Chưa đủ. Trần Thủ Độ khoan thai nói – Có cả trí và dũng mới chỉ đảm bảo cho viên tướng ấy không thua, chứ khó thắng, đại sự khó thành. Vì sao vậy? Là bởi nếu chỉ có trí và dũng thôi, người làm tướng dễ khắc bạc. Mà khắc bạc thì không được lòng binh sĩ. Đã không được lòng binh sĩ thì sao họ có thể tận tâm, có thể xả thân cho nghĩa lớn. Thành thử, một tướng giỏi phải hội đủ ba điều: nhân - trí - dũng. Trong đó nhân là điều quan yếu nhất.
Lê Tần định liều hỏi thêm một điều nữa cho rõ nhưng lại ngần ngại. Đoán biết ý Lê Tần, thái sư nói:
- Nếu có điều gì băn khoăn, tướng quân cứ hỏi. Ta không bao giờ để tâm đến những lời nói thẳng.
Được cổ vũ, Lê Tần định liều hỏi thêm một điều gì nữa cho rõ nhưng lại ngần ngại. Đoán biết ý Lê Tần, thái sư nói:
Nếu còn điều gì băn khoăn, tướng quân cứ hỏi. Ta không bao giờ để tâm đến những lời nói thẳng.
Được cổ vũ, Lê Tần mạnh dạn:
- Bẩm ….như đức ông đã gọi là đủ cả nhân - trí - dũng chưa?
Chưa. Thái sư cười vui. Ta chưa đủ. Trí và dũng ở ta còn tạm được. Chứ nhân, ta còn thiếu. Còn phải tu chính nhiều lắm mới đạt tới cõi nhân.
Lê Tần buông một tiếng thở dài:
- Khó thật! Nghề làm tướng thật là khó.
Chợt nhớ mục đích của mình tới gặp thái sư là để hỏi cho rõ đối sách với Hoài vương Liễu, Lê Tần bèn thưa:
- Bẩm đức ông, tới lúc này chắc Hoài Vương tự biết không đủ lực chống lại triều đình, sao đức ông không nới rộng vòng vây để Vương rút cho êm thuận?
Trần Thủ Độ cau vầng trán, khiến cho cặp lông mi xếch hẳn lên, mặt đỏ phừng phừng, ông dằn giọng nói:
- Các việc xảy ra trong điện Thiên An chắc tướng quân đã rõ. Việc ấy ta có lỗi. Đó là việc trong nhà. Nếu không thuận, Liễu cự lại ta. Đằng này Liễu bậy, biến việc nhà thành việc nước. Dẫu quốc vương cũng không được phép làm thế. Liễu đem quân áp sát kinh sư, là Liễu chống lại triều đình chớ đâu phải chống lại riêng ta. Thành thử, ta là tướng của triều đình, ta phải dẹp. Không. Không thể cho qua việc này được. Nếu dung túng như vậy, thì đâu còn là phép nước nữa.
Lê Tần thấy thái sư đang giận Hoài vương đến sôi máu, trong lòng cũng muốn giàn xếp việc này cho Trần Liễu nhẹ tội. Tần nói:
- Bẩm thái sư, cũng có phần là do triều đình cho các vương hầu được lập binh riêng… Lê tần không dám nói hết ý.
- Vậy thì tội của nó càng nặng. Nhà nước cho lập binh riêng là để các nhà quản lý, vừa làm ruộng vừa tập luyện cho tiện. Bớt phần đóng góp của dân. Dân càng sốt sắng cả việc nông lẫn việc binh. Khuyến khích như vậy, là phòng nước có hoạ xâm lăng, thì dùng đến. Chớ đâu phải cho các vương hầu lập thân binh, dân binh để làm loạn. Xin thề với tướng quân, nếu ta không lột da Hoài vương Liễu chuyến này để làm gương cho kẻ khác, thời ta sẽ ném bộ hình luật san định năm Canh dần (1230) vào lửa.
Cảnh ngộ của Hoài vương Liễu lúc này thật bi thảm. Gần một vạn quân ô hợp nằm chết dí ở ngoài sông Cái. Tiến lên nửa bước không được, lùi một bước cũng không xong. Đã hơn một tuần qua đi, tình trạng cứ mỗi ngày một xấu thêm. Nhất là lương thực cho binh linh. Cứ thế này kéo dài thêm một tuần nữa, binh lính đến chết đói mất. Nếu không, cũng phải giết thịt lẫn nhau mà ăn.
Hoài vương là một người thiển cận. Nghĩ gì lập tức làm ngay mà không xét đến hậu quả. Liễu thấy nhà vua bỏ kinh sư ra đi. Lại thái sư thống quốc cũng đi nốt. Tưởng đâu việc phòng bị sẽ sơ hở. Chỉ cần đem một đội binh nhỏ, là chiếm ngay được khu nội điện. Và tự lập làm vua. Ngôi quân trưởng trả về dòng đích. Thế là hợp lẽ.
Nhưng không ngờ, việc ra khỏi kinh thành của thái sư lại là một cái bẫy. Tả hữu đang cùng Hoài vương tính kế thoát thân. Liễu cũng tự biết, nếu ông chú đã ra tay, tức là sấm sét giáng xuống. Tới lúc này, không còn có thể nói chuyện gì với ông ta được nữa. Chỉ có hai con đường: một là quyết sống mái một trận, muốn ra sao thì ra. Hai là, tự trói mình ra hàng. Cân nhắc mãi, Liễu thấy cả hai đường dẫn tới chỗ chết. Nhất định ông chú sẽ không tha, không cho hàng.
Viên tì tướng hiến kế:
- Người duy nhất có thể cứu được chúa công lúc này là nhà vua. Tại sao chúa công lại không cầu cứu đức vua. Nhà vua là một người khoan hậu, nỡ nào lại đi giết anh em trong nhà.
Trần Liễu “à” lên một tiếng như người ngủ mê vừa sực tỉnh. Chợt lại thấy khó, Liễu nói:
- Bốn mặt quân triều đình bủa vây không còn một khe hở. Có mọc cánh cũng chưa dễ gì bay đi được. Mà dẫu có thoát, chưa chắc đã lọt được vào điện Thiên An.
Viên tì tướng lại nói:
- Tôi có một kế có thể dùng được. Xin chúa công thử xét.
- Người nói mau ta nghe.
- Trong quân tôi có một tên vốn làm nghề chài lưới, lặn cực giỏi. Y có thể ở lâu dưới nước tới nửa ngày. Nhà nó ở ngay phường Yên Hoa, giáp với hoàng thành. Nó lại có ông bác ruột làm chân giám mã cho nhà vua. Tôi nghĩ, chúa công nên có một bức biểu cho đức vua. Tôi sẽ sai nó, nội trong đêm nay phải ngầm đi dưới nước, lọt được vào hồ Dâm Đàm. Rồi từ hồ Dâm Đàm nó tìm đường về nhà, không phải là chuyện khó. Nó sẽ đưa lá thư của chúa công, nhờ ông bác chuyển cho nhà vua. Việc hẹn hò thế nào tuỳ ý chúa công. Tình thế gấp lắm rồi đấy. Nếu không khéo thì chết cả lũ.
Trần Liễu thấy không còn diệu kế nào khác, bèn chấp thuận. Ông nói nhiều đến tình máu mủ ruột rà. Nỗi thác cô lại nhằm vào ông chú họ, tính tình khắc nghiệt, thô bạo. Nhất là việc ép duyên. Việc chia uyên rẽ thuý này làm cho tình cốt nhục phải tương tàn. Liễu nhắc khéo: “Hiền đệ phải lo xa. Phải có kế sách phòng bị ngay từ bây giờ. Kẻo mai đây …”
Hẹn ngày giờ, địa điểm và nhận dạng xong, Trần Liễu hạ bút viết: “Chúc Thánh thượng vạn an. Chúng thần khóc chờ bệ hạ rỏ máu mắt!”.
Quẳng bút ra, thở phào, Trần Liễu tự lấy làm bằng lòng với lời lẽ trong thư. Ông biết rõ người em của mình lắm. Bây giờ chỉ còn lo làm sao thư đến được tay Thái tôn, chứ không lo nhà vua bỏ ông. Nhìn viên tì tướng giây lâu, Liễu nói:
- Số phận ta với tướng quân là tùy thuộc ở người đưa bức thư này. Liệu tướng quân có tin rằng tên lính kia không phản lại chúng ta không? Nếu thay vì nhờ người giám mã, mà nó tự đem đến phủ thái sư thì sao?
Sau vài giây đắn đo, viên tì tướng nói:
- Bẩm vương, tôi không dám đoan chắc, vì lòng dạ con người lường sao hết được. Nhưng theo tôi nghĩ, lúc này cứ ngồi vẽ cọp ra mà sợ, thì chi bằng tự trói tay xin hàng là xong. Sự tráo trở là có đấy, nhưng tôi thiển nghĩ, nó thường xảy ra ở các bậc quyền cao chức trọng, hay tính toán đến sự mất còn. Chứ tên lính tốt kia, ở với vương hay ở với thái sư, thì nó vẫn là tên lính tốt, có gì mà nó phải so đo tính toán?
Liễu dằn giọng:
- Thôi thì ta cũng liều với số phận …
Đọc thư xong, Thái tôn sững sờ. Nhà vua không còn giận Liễu nữa, mà chỉ thấy thương.
Nhà vua băn khoăn: “Bốn mặt quân bủa, làm cách nào huynh thoát khỏi trùng vây mà đến được nơi huynh hẹn. Lại nữa từ bữa ta ở Yên Tử về tới nay, nghe Khuê Kình nói, thái sư ngầm cho người giám sát ta. Hoặc là sợ ta lại bỏ đi. Hoặc là sợ ta về hùa với huynh trưởng chống lại Thái sư. Ôi, cái thân ta, trên đe dưới búa!”
Nhưng rồi nhà vua quyết: Tự ta sẽ làm việc này. Thân hoàng đế mà không cứu mạng được cho anh mình, còn sống làm gì nữa. Nói rồi Thái tôn xăm xăm đi đến cung phu nhân.
Thấy nhà vua đến đột ngột, phu nhân đon đả hỏi:
- Hoàng thượng đến thăm ta hay có việc gì vậy? Thái tôn hỏi luôn:
- Thưa lệnh bà, quốc phụ có nhà hay ở bên cung Thủy Tĩnh?
Nét mặt phu nhân thay đổi hẳn. Giọng bà thì thào:
- Không biết có việc gì cơ mật, mà mấy bữa nay ông ấy cứ sùng sục suốt ngày đêm. Đảo qua về nhà một lát, lại đi ngay. Nhiều khi bỏ cả ăn. Ta xem, ông ấy có điều gì uất hận lắm. Sợ chú cháu lại bất hoà chăng? Không có chuyện gì chứ, phải không con? Bà thở dài – Mà chẳng biết anh cả dạo này đi đâu. Đã mấy lần ta sang bên phủ Hoài vương, thấy nói vương về thái ấp, chưa lên. Ta cũng cố khuyên can ông ấy quên các chuyện vặt đi, để tình chú cháu êm hoà. Giời ơi, sao ruột tôi cứ nóng sôi lên thế này. Lại nhìn sâu vào mắt nhà vua, phu nhân gặng hỏi:
- Có chuyện gì nguy ngập không con? Ta linh cảm … Ôi khốn khổ cái thân ta, suốt cuộc đời chưa lúc nào được yên ổn thân tâm. Nước mắt bà nhểu ra.
Thái tôn lựa lời để an ủi phu nhân:
- Thưa lệnh bà. Tôi đến đây là vì việc lệnh bà đang băn khoăn lo lắng. Hoài vương đang bị quốc phụ vây chặt ở ngoài sông Cái. Tính mệnh của vương chỉ còn trong phút chốc. Lệnh bà chưa hay biết thật sao?
- Giời ơi, lại còn đến nông nỗi này nữa ư? Phu nhân nói chẳng ra lời - Vừa thoát được cái hoạ nội chiến, lại đến cảnh chú cháu trong nhà giết nhau!
- Chưa. Chưa giết nhau đâu. Nhưng nếu không ngăn lại kịp thì sẽ giết nhau. Thái tôn nói với vẻ đau lòng - Thưa lệnh bà, nhà vua nói tiếp - Có một việc, tôi tha thiết nhờ lệnh bà hãy giúp tôi một tay. May ra tôi có thể hoá giải được nỗi lo của lệnh bà, và của chính tôi nữa. Ngày mai, tôi có việc phải đi khỏi kinh thành. Chỉ xin lệnh bà giữ dùm thái sư ở nhà từ giờ ngọ qua hết giờ mùi. Được như thế, việc cứu Hoài vương mới thực sự êm xuôi.
- Nhà vua nói thật, hay lại kiếm cớ xuất gia? Vương thượng ơi, ta van con, lúc này còn phải lo cứu lấy Hoài vương đã. Ôi ta sợ cảnh đầu rơi máu chảy lắm rồi.
- Xin lệnh bà yên tâm. Tôi đâu phải kẻ lòng lang dạ sói, chỉ biết sống lấy một mình.
Suy ngẫm một lát, phu nhân lại nói:
- Ta sẽ nghĩ kế để giữ ông ấy lại nhà. Nhưng con biết tính chú con rồi đấy. Phải lựa lời, và nhớ dặn Liễu đừng có căng với chú. Tính Hoài vương cứng lắm chứ không được như con đâu. Lúc này, cương lên là hỏng việc. Thôi con đi đi. Các việc khác, ta khắc lo được.
Sớm hôm sau, nhà vua đem theo thân vệ tướng quân Trần Khuê Kình xuống lâu thuyền, để làm một cuộc nhàn du trên mặt sông Cái. Khuê Kình đã được lệnh sửa soạn thuyền bè và các đồ ăn uống cần thiết trong mười ngày. Lần này nhà vua đi trên chiếc Kim Phượng nho nhỏ. Chỉ có vài người tháp tùng đức vua, cùng hai chục tay chèo trải cứng cáp. Để tránh vùng hạ lưu gần kinh sư đang có biến, nhà vua cho thuyền ngược thượng lưu.
Mặc dù Khuê Kình là người thân cận, nhưng nhà vua cũng không hé lộ cho biết một điều gì trong chuyến đi bất chợt này.
Trong khi Thái tôn làm một cuộc nhàn du ngược sông Cái, thì thái sư thống quốc lại về nằm khàn ở nhà. Phu nhân cũng chẳng phải mất công bày đặt trò này chuyện khác để kìm chân thái sư.
Ngay từ sáng sớm, Trần Thủ Độ đã nói với phu nhân:
- Đầu óc căng thẳng mệt mỏi quá. Bữa nay tôi nghỉ ở nhà. Bà xem nấu cho tôi một bát cháo lươn.
Phu nhân đã mừng thầm. Bà cho rằng phúc đức của nhà Trần còn vượng, nên trời không nỡ để cho người trong họ tàn sát lẫn nhau. Bà thầm khẩn tổ tiên nội ngoại phù hộ độ trì cho chồng bà thuần tính lại. Lúc đi ngang qua nhà bếp, bà còn giục bọn gia nhân nấu xong sớm để cho ông ăn, ông còn đi nghỉû. Bà thắp ba nén hương lên bàn thờ Thiên2! Bà xin Trời, Phật phù hộ cho chồng bà ngủ thật say từ giờ Ngọ, qua giờ Mùi tới tận giờ Thân để cho các cháu bà thu xếp mọi việc xong xuôi.
Khoảng đầu giờ tị, đám nội nhân đã làm xong các món ăn dâng thái sư. Đủ các kiểu nấu về lươn. Nào lươn om củ chuối. Lươn tần với nước hầm gà, hạt sen, nấm hương, hoài sơn. Thịt lươn lóc ra ướp hành, tiêu, bóp nhuyễn với lòng đỏ trứng gà rán nhỏ lửa. Và cuối cùng là cháo lươn. Khác với mọi bữa, thái sư không uống một giọt rượu nào. Bữa nay, thái sư uống hết một nậm rượu thạch xương bồ. Nhìn chồng ăn uống ngon lành, phu nhân thấy lòng ấm lại. Bà tự nhủ: “Có nhẽ lâu lắm, ông ấy mới lại được ăn một bữa cơm thư thái”. Bà trách mình ít săn sóc tới ông. Đúng là ông ấy thích ăn lươn và một số đồ bể. Nhưng bà cứ phó mặc cho đám nội nhân. Ăn uống xong, Trần Thủ Độ lăn ra ngủ. ÔÂng ngáy, tiếng ngáy ran như sấm chuyển. Nghe tiếng ngáy của chồng, phu nhân hết đỗi yên tâm. Bà chắc là Trời, Phật đã chứng nghiệm. Cứ điệu ngáy này - Bà nhẩm tính - Ông ấy phải ngủ qua giờ Tuất chứ giờ Mùi giờ Thân đã dậy làm sao được. Tiếng ngáy lúc đầu nghe lọc khọc khó chịu. Nhưng nghe lâu rồi quen. Như một nhịp ru toàn vần trắc. Quen tai, bà ríp mắt lại. Phu nhân vào phòng trong, và bà thiếp đi lúc nào không biết. Cũng khoảng thái sư vào bữa ăn trưa, Thái tôn khẽ vỗ vai Khuê Kình nói:
- Khanh cho thuyền quay lại. Ta không muốn đi nữa.
Khuê Kình răm rắp làm theo. Xuôi nước thuyền đi nhanh như chạy. Trước đây, Khuê Kình cứ tưởng Thái tôn là người cởi mở, nhân hậu, dễ gần. Nhưng từ mấy hôm nay sự thể lại khác, Khuê Kình có cảm giác, tâm sự nhà vua kín như một khúc gỗ. Thật là một con người khó hiểu. Chợt nhà vua đứng thẳng lên, bóng lùn tịt xuống dưới chân. Thái tôn tự biết lúc này đã chính ngọ. Thuyền đang đi vào điểm hẹn. Nhà vua bèn gọi thân vệ tướng quân lên mui thuyền, hỏi:
- Khanh có biết hôm nay ta đi vì việc gì không?
- Tâu bệ hạ, thần chỉ thấy bứt rứt ở trong lòng. Bởi không biết bệ hạ đi đâu, làm gì. Hình như bệ hạ đang lo tính một chuyện gì đấy. Thần chỉ cảm được chứ không thấy được.
- Đến nước này, ta cũng chẳng giấu khanh làm gì nữa. Số là huynh trưởng ta khởi binh làm loạn phía ngoài sông Cái, khanh biết cả rồi chứ?
- Dạ, biết. Không cứ gì hạ thần, mà người trong nước đều biết cả.
- Hiện thời thái sư vây ráo riết lắm. Tính mệnh của huynh trưởng muôn chết một sống. Huynh có đưa thư cầu hoà. Nhờ ta dàn xếp. Huynh hẹn từ giờ ngọ đến giờ mùi, sẽ đón ta trên khúc sông này. Huynh đi bằng chiếc thuyền nan nhỏ, giả làm người đánh cá. Huynh sẽ chờ ta trong chiếc lều vịt bên tả ngạn. Từ đây, khanh nhìn kỹ giúp ta, xem có thấy chiếc thuyền nan và cái lều vịt.
- Phụng mệnh! Khuê Kình đáp gọn lỏn và căng mắt nhìn về hai bờ tả hữu dòng sông.
Phủ thái sư yên tĩnh lạ lùng. Chỉ có tiếng ngáy vang vọng. Tiếng ngáy cưa miết vào không gian. Bỗng im bặt. Trời đầu hạ, cao vòi vọi. Nắng óng vàng như mật. Thái sư bừng tỉnh. Ông đưa mắt nhìn khắp nhà không thấy ai. Vội nhỏm dậy, thuận tay với thanh trường kiếm treo giá đeo vào người. Thái sư đi thẳng ra cổng ngoài. Ở đó đã có một mã phu với con tía mật đang chờ. Thái sư thoắt đã nhảy lên mình ngựa ra roi phi nước đại. Ra tới bờ sông Cái, sẵn có một đội thuyền đang chờ. Thái sư vừa leo lên thì cả đoàn thuyền hối hả lao đi. Ngồi trên thuyền, thái sư thầm khen Lê Tần là một tướng giỏi. Y điều hành công việc đâu vào đấy. Thuỷ, bộ phận minh. Quân cơ nghiêm chỉnh. Đi đứng kỷ cương. Tiến lui nhịp nhàng. Thật chẳng khác gì một viên đại tướng đã dạn dầy chiến trận. Thái sư vẫn áy náy, chưa có dịp nào thuận tiện, để đưa Lê Tần vào cương vị cao hơn, cho xứng với tài đức của Lê.
Trần Phủ Độ nhắc viên tì tướng phải quan sát thật kỹ phía thượng lưu, thấy dấu hiệu gì khả nghi phải báo ngay cho ông. Chẳng mấy chốc, quân vào bẩm: “Đã trông thấy thuyền ngự”. Thái sư lấy làm hài lòng, bảo tả hữu truyền cho ba quân phải đi nhanh về phía thuyền ngự.
Thuyền thái sư và thuyền ngự đi ngược chiều, nên khoảng cách thu ngắn lại rất nhanh. Có người đã nhìn thấy cánh thuyền nan, bơi từ phía lều vịt bên bờ tả ngạn, về phía thuyền ngự. Trần Phủ Độ đứng oai nghiêm trước mũi thuyền. Ông ra lệnh phải theo sát chiếc thuyền con, không cho trốn chạy. Chỉ còn non một dặm nữa là tới thuyền ngự. Nhà vua cho dừng thuyền lại chờ chiếc thuyền nan, chứ không đi về phía hạ lưu nữa. Tới lúc chỉ còn vài chục trượng thì chiếc thuyền nan đã áp sát thuyền ngự. Một người dong dỏng cao, đội nón lá, vận quần áo dân chài leo lên thuyền ngự. Vừa lúc thuyền của Trần Thủ Độ cũng áp sát thuyền vua. Ông hô lớn:
- Giết chết thằng giặc Liễu! Vừa nói, Trần Thủ Độ vừa rút kiếm nhảy lên thuyền vua, toan xông vào chém Liễu.
Thái tôn vội đẩy Trần Liễu vào trong khoang, rồi lấy thân mình che cửa, đỡ cho Liễu. Vua hổn hển nói với thái sư:
- Thưa chú, Phụng càn vương đến hàng đó.
Thủ Độ mặt đỏ phừng phừng đầy căm tức, quẳng thanh kiếm xuống sông, mắng:
- “Ta không phải con chó săn của anh em nhà ngươi. Các ngươi dám cả gan khinh nhờn phép nước”.
Thái tôn trong lòng chưa hết lo sợ. Vội nói giải hoà cho thái sư nguôi giận. Nhà vua hứa:
- Cháu sẽ đuổi Liễu về ấp Yên Phụ. Và không cho tham gia chính sự. Không cho lập các đội dân binh nữa.
Trần Thủ Độ vẫn bừng bừng lửa giận, không nói một lời nào. ÔÂng trở lại thuyền mình và cho quân lui về kinh sư.
Trần Liễu đã về hàng. Đại quân của Liễu tự tan. Trần Thủ Độ cho đón bắt các ngả, giết không biết bao nhiêu mà kể.
Từ đấy Liễu an phận thủ thường nơi thôn ấp, chứ không dám hầm hè tranh đoạt gì nữa.
==============.
1. Chức quan của Trần Liễu dưới thời Lý Huệ tôn.
2. Bàn thờ lộ ngoài trời. Thờ thần Trời.