Đêm đầu hạ mà trời nóng khácthường. Thái sư Trần Thủ Độ với tay châm ngọn bấc nhỏ, trong cái đĩa đèn dầu lạc, rồi khẽ thổi tắt ngọn bạch lạp, đang toả ra sức nóng nung đốt thêm bầu không khí oi nồng. Trong gian phòng rộng rãi ở cung Thuỷ Tĩnh này, ông đã cho dẹp bỏ bớt các đồ trần thiết, đắt tiền mà rườm rà, gây ra sự vướng víu cho tầm nhìn thoáng đạt của ông. Như các loại hoành phi, câu đối, đại tự, bình phong cùng các đôn sứ, độc bình của Trung Hoa. Và chỉ giữ lại vài bức tranh phong cảnh treo loáng thoáng đó đây.
Đối mặt với ông là bộ Hình thư(1) đóng dồn vào làm bốn cuốn, bìa bồi phất cậy màu nâu cháy(2). Ông đang đọc thiên tội đồ. Trước đó, ông cũng đọc kỹ thiên tô thuế.
Ông thầm khen: “Chính lệnh nhà Lý khoan mà nghiêm. Nhất loạt tô thuế đều khoan giảm. Mọi việc qui định chặt chẽ, rõ ràng. Ví như việc thu thuế khoá thường năm. Luật cho phép phần phụ thu bằng một phần mười chính tang, để nôïp cho nhà nước. Phần phụ thu đó các quan được dùng vào việc hoành đầu(3), và chi dụng cho những người trực tiếp làm trong vụ thuế. Kẻ nào lấy quyền thế lạm thu, thì ghép vào tội ăn trộm mà xử. Luật còn khuyến khích dân gian giám sát quan lại cho chặt chẽ. Ví như người nào biết mà cáo giác việc hà lạm đó lên quan trên, thì tha phú dịch cho cả nhà trong ba năm. Nếu người ở kinh thành biết mà cáo giác, thì thưởng cho toàn bộ số vật đã cáo giác ra ấy…”.
Trần Thủ Độ đọc đi đọc lại mãi thấy thiên căn bản, rồi ông lại tự hỏi: “Pháp luật nhân chính thế này, mà sao mấy đời gần đây nhà Lý để cho kỷ cương rối loạn?”. Suy ngẫm giây lâu ông tự đáp: “Luật lệ gì cũng đều do nơi con người làm ra, và cũng lại do con người thi hành. Sự rối rắm gốc ở những người cầm cân nảy mực không nghiêm. Cứ xem cách ăn chơi phóng đãng của cha con Huệ tôn đủ rõ sự mục nát khơi nguồn từ đâu”.
Oi quá! Nhìn qua khuôn cửa sổ ngỏ, ông thấy mảnh trời bàng bạc, cây cối đứng im phăng phắc. Thi thoảng có mùi hương sen ở đâu đó. Trần Thủ Độ buông sách đi ra phía hồ sen. Mảnh trăng muộn treo chếch trên nền trời sáng nhạt. Những đọt lá sen đầu hạ đội bùn lấp ló trên mặt nước, nom từa tựa những bàn tay cum cúp đang ve vẫy. Không khí mát lành. Thái sư lấy hai tay vọc nước hồ, vã lên đầu, lên mặt. Nước mát lạnh vừa có vị ngòn ngọt của một thứ nước mưa ngấu, vừa có hương thơm của mầm sen đan quyện. Trần Thủ Độ thấy trong người khoan khoái. Ông đi dạo quanh hồ. Chợt đâu đó có một tiếng gà gáy vang lên xé tan bức màn đêm tĩnh lặng. Rồi như một sự lây lan, khắp kinh thành tiếng gà gáy râm ran, kéo dài một lúc có dễ gần nhai tàn miếng trầu vẫn còn eo óc. Tiếng gà gáy làm Trần Thủ Độ giật mình, vì ông sực nhớ tới đêm đã khuya. Ông bước rảo về thư phòng, đã thấy công chúa(4) khêu to đĩa đèn, đứng tựa bên án với vẻ băn khoăn. Ông bèn lên tiếng:
- Ơ hay, sao giờ này bà còn chưa đi nghỉ?
- Tôi đã ngủ được một giấc dài. Nghe tiếng gà gáy giật mình tưởng trời đã sáng. Cửa để ngỏ. Biết ông vẫn chưa về nghỉ, tôi liền chạy sang đây. Không thấy ông, đang phân vân, thì ông đã tới.
- Hoá ra lũ gà trống nó làm bà mất giấc ngủ. Để mai tôi nói quan đại an phủ sứ, cấm các nhà trong kinh thành, không được nuôi gà trống.
Phu nhân kinh ngạc, mắt trợn tròn, miệng há ra, miếng bã trầu rơi nhẹ xuống thềm. Bà nói:
- Thái sư ơi, tôi mong rằng đây chỉ một lời nói vui trong đêm tối không có ai biết, ngoài tôi với ông ra.
Trần Thủ Độ nhếch miệng cười, khẽ đặt bàn tay lên bờ vai phu nhân, ông nói:
- Vì bà, tôi có thể làm được mọi việc.
Phu nhân quay lại nhìn thẳng vào mắt thái sư, nói với vẻ hơi dằn dỗi:
- Nếu vì tôi, quan thái sư “có thể làm được mọi việc”, xin thái sư gia ân cho tôi thêm một chữ “thiện” nữa ở cuối có được không?
- Vậy là bà cho tôi ra lệnh cấm nuôi gà trống, là một việc ác. Bà không thể chấp nhận.
- Vâng, thưa thái sư, đó là việc đại ác.
Trần Thủ Độ khẽ vuốt vuốt hai bờ vai phu nhân, lại hỏi:
- Nếu tôi có ra lệnh cấm nuôi gà trống là cốt giữ cho mọi người, trong đó có bà được giấc ngủ yên lành, can chi bà lại bảo đó là việc đại ác?
Phu nhân khẽ gỡ hai tay chồng ra, bà nói giọng nghiêm trang:
- Từ ngày họ Trần dấy nghiệp, một tay ông nắm giữ binh quyền, đã làm nên bao sự tích lẫy lừng, anh kiệt, có thể sánh ngang các bậc tiên thánh. Duy có những việc quái kiệt, ông chưa từng làm, phải chăng là việc đầu tiên?
Trần Thủ Độ nắm lấy tay phu nhân, cảm động nói:
- Ta thử lòng bà đó. May thay bà là một người có cái tâm tốt. Ta trăm công ngàn việc, có thể có những điều ta làm là gây được mầm thiện cho thiên hạ. Lại có những điều nhen nhóm cái ác mà ta không tự thấy. Vậy từ nay, nếu có điều gì từ trong nhà tới triều đình, bà thấy nó trái với đạo thường, bà cứ nói ta hay. Vẫn biết nơi triều chính, phải dựa vào bá quan, lại có cả gián quan, nhưng mấy ai dám nói trái ý bề trên. Thành thử mọi việc ta cứ phải so đo cân nhắc mãi, đôi khi thành chậm trễ.
- Ông ạ, phu nhân nói giọng ngậm ngùi, trong những năm chiến tranh, ngay cả hoàng gia, hoàng tộc ta, cũng lắm phen lao đao. Không những của nả bị hao tổn, mà tính mạng đôi khi cũng khó toàn. Ấy là trong tay ta còn có kho tiền, kho của, có kẻ hầu người hạ, có quân canh bảo vệ. Suy ra số phận của người dân xiết bao cực nhục. Bây giờ, thái bình rồi, ông lo sao cho dân có bát ăn, không còn nạn trộm cướp, hào dịch áp chế họ nữa. Muốn thế, chính lệnh phải nghiêm, tô thuế khoan giảm. Phải làm thế nào cho từ kẻ sĩ đến bọn ngư, tiều, canh, mục(5) đều được ơn mưa móc của họ Trần, thì người ta mới không nghĩ về vua cũ nữa. Nhưng thôi, phu nhân sực nhớ, khuya lắm rồi, ông cũng nên đi nghỉ thôi.
Trần Thủ Độ lắc đầu:
- Không được, có lẽ đêm nay tôi phải thức trắng. Công việc bề bộn lắm.
- Ô hay, cả những năm tranh chiến cam go, Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn luôn uy hiếp triều đình, chưa bao giờ tôi thấy ông phải thức trắng đêm liền như dạo này. An hoà rồi, ông cũng phải nghỉ ngơi chứ?
- Để làm được cái việc thường tình như bà nói: lo cho người dân có bát ăn, rồi từ kẻ sĩ đến bọn ngư, tiều, canh, mục đều được đội ơn mưa móc… Chao ôi, đó là việc cực khó bà ơi. Từ bữa giang sơn thu về một mối tới nay, tôi lo lắm. Nhiều lúc tưởng như mình không đủ sức. Bọn nho sĩ cao đạo, còn viện lý này lý nọ để biện minh với họ được. Chứ với người dân thì mọi việc đều đơn giản lắm. Họ chỉ biết nhà Lý hơn, hay nhà Trần hơn, là ở nơi bữa ăn thường ngày của họ. Cái gốc của sự lo của tôi là ở đấy.
- Nhưng lo thì ông phải đốc thúc người ta làm. Chứ đêm nào ông cũng thức trắng với dăm ba cuốn sách kia, phỏng có ích gì. Vả chăng chữ nghĩa ông có được là bao.
Trần Thủ Độ cười hì hì, nom ông dễ thương quá. Nắm lấy hai tay phu nhân khẽ lắc lắc, ông nói:
- Vậy là bà lại chê tôi ít học chứ gì?
- Tôi đâu dám chê ông. Chẳng qua thấy ông đêm nào cũng đánh vật với cuốn sách. Có phải ông đang tìm phép lạ?
- Từ nay tôi còn phải đánh vật mãi với cái đám sách ấy đấy. Bà bảo tôi phải đốc thúc cho họ làm, biết làm mà còn phải biết lo nữa, bà ạ. Việc làm ăn khác với việc đánh giặc nhiều lắm. Mỗi việc đều có cái dễ, cái khó của nó. Nếu dân làm nhiều mà không có luật pháp bảo vệ cho họ, dẫu có thoát khỏi bọn trộm cướp, cũng lại rơi vào bọn quan lại tham nhũng hết. Phép lạ tôi đang tìm là ở chỗ đó. Làm gì cũng phải xem trước ngắm sau. Tôi đang cho Ngự sử đài san định một bộ hình luật. Tôi nghĩ luật triều ta làm, phải phù hợp với triều đại ta đang sống. Nhưng nó phải thuận tiện cho dân. Bởi thế, phải xem xét, các triều trước có điều gì hay mình phải giữ, phải học. Điều gì dở thì bỏ. Cái gì trước kia chưa có, bây giờ phải thêm vào.
- Ôi, đó là việc của triều đình. Tôi là đàn bà không can dự vào chính lệnh.
Như chợt nhớ ra điều gì, Trần Thủ Độ vội hỏi:
- Mấy bữa nay bấn quá, tôi không ghé chỗ nhà học đường nữa, bà thấy thằng bé nó có chịu học không?
- Vậy chớ ông hỏi thằng bé nào?
- Thì chẳng phải thằng Cảnh còn ai. Cả con vợ nó nữa, có chịu học không?
- Giời đất ơi, ai lại gọi vua như thế bao giờ.
Trần Thủ Độ cười vui, nói lấp:
- Vua chúa gì thì nó cũng là con, là cháu mình, nó còn nhỏ dại, phải nghiêm khắc răn đe.
Phu nhân cười rung cả hai vai:
- Chịu khó lắm. Ông thầy khen cả hai đứa cùng sáng dạ. Nhưng con Chiêu Thánh mảnh sức, cứ hay kêu mệt.
- Chúng nó có hoà thuận với nhau không?
- Trẻ nhỏ nó đã biết cái gì mà chẳng hoà thuận. Vậy thôi ông về nghỉ cái đã. Phu nhân lại giục.
- Sắp sáng rồi. Bà biết tính tôi đấy. Đã ngủ là ngủ như chết. Hôm nay thiết triều có nhiều việc lớn phải bàn. Bà cứ về nghỉ đi. Nói rồi Trần Thủ Độ nắm tay vợ tiễn ra khỏi bậc tam cấp.
Trở lại thư phòng, ông dẹp mấy cuốn sách lại, thổi tắt đĩa đèn. Ông ngồi đó suy nghĩ về mấy việc cần làm sắp tới. Đại loại như việc nhất loạt giảm tô thuế cho cả nước. Những vùng chiến tranh tàn phá nặng nề thì xá hẳn tô, thuế trong ba năm. Những ruộng hoang, hoá, dân tự khai phá cấy trồng, cho làm chủ đất ấy, lại cũng được xá thuế năm năm. Nhưng trước hết, phải làm một tuần cầu siêu cực lớn trong cả nước. Chiêu minh cho những ai bỏ mình vì nghĩa lớn, và cả những linh hồn chết oan, chết uổng. Những chiến trận ông đã trải, những cảnh chết chóc đẫm máu như hiển hiện trong óc não ông. Rồi những người ông sai giết. Những làng mạc, những nơi quân địch đồn trú, ông ra lệnh đốt phá. Ngọn lửa như còn bừng cháy trong mắt ông. Biết bao nhiêu tội ác, ông có phần trách nhiệm. Có một cái gì đấy nhói đau nơi lồng ngực ông. Chợt dâng trong ông lòng thương xót, và cả sự hối hận. Dường như lương tâm ông đang thức tỉnh.
Phương đông đã ửng hồng.
==================.
1. Hình thư là bộ luật ban hành từ năm Nhâm Ngọ (1042) đời Lý Thái tôn, xem như là bộ luật sớm nhất trong lịch sử luật hình của nước ta. Nhờ có luật này mà xử mọi việc kiện tụng, tranh chấp được rõ ràng, công minh, dân lấy làm tiện. Vì thế mới đổi niên hiệu là Minh đạo (con đường sáng).
2. Ngày xưa để giữ sách được lâu bền, người ta bồi bìa bằng giấy bản nhiều lớp, rồi quét nước bằng quả cậy xanh giã nhỏ lấy chất nhựa phơi tẩm nhiều lần. Bìa đó để cả trăm năm vẫn tốt.
3. Hoành đầu: tiền chi dùng việc giấy, mực.
4. Ám chỉ Huệ hậu Trần Thị Dung, sau khi Lý Huệ tôn chết, bị giáng xuống làm Thiên cực công chúa, rồi gả cho Trần Thủ Độ.
5. Bốn lớp dân và cũng là bốn nghề căn bản của xã hội nông nghiệp cổ xưa: người làm nghề sông nước, người làm nghề rừng, người làm ruộng, người chăn nuôi.