Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Hồi Ký, Tuỳ Bút >> HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÁNH NIỆM

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 17606 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Bhante Henepola Gunaratana & Jeanne Malmgren

Chương 23

Sau đám tang mẹ, tôi ở lại Tích Lan khoảng một tháng.
   Bảy ngày sau ngày Mẹ mất, theo truyền thống chúng tôi tổ chức một nghi lễ cầu siêu cho bà.  Một số vị sư đến nhà chúng tôi để tụng niệm cho mẹ tôi, rồi thọ trai do chúng tôi cúng dường hồi hướng cho mẹ.  Đêm trước đó, thì có một vị sư đến nhà, thuyếp pháp chỉ riêng cho chúng tôi.
   Sau đó tôi bỏ ra khoảng vài tuần thăm viếng bạn bè và các chùa nơi tôi đã từng sống trước đây.
   Trên đường trở lại Mỹ, tôi đã có thêm khá nhiều con dấu đóng trên hộ chiếu của mình.  Tôi dừng chân ở Ấn Độ, Nepal, Liên bang Xô Viết, Hy Lạp, Ý, Pháp, Đức, Bỉ, và Anh.
  Trong tất cả các quốc gia này, Nga có lẽ  là nơi thú vị nhất. Đó là chuyến viếng thăm Nga đầu tiên của tôi.
   Ở phi trường Moscow, Stanley Liyanapatirana, một người Sinhala làm việc ở tòa đại sứ Tích Lan  đón tôi.  Ông là người đã giúp tôi lấy visa để vào Liên Bang Xô Viết.
   Hôm sau tôi đến phòng du lịch trong khách sạn, hỏi thăm cách lấy tour đến Leningrad.  Người phụ nữ ngồi sau bàn giấy yêu cầu tôi để lại hộ chiếu và bảo tôi hôm sau trở lại.
   Hôm sau khi tôi trở lại như đã hẹn, cô trả hộ chiếu cho tôi, rồi bảo tôi đón taxi nào đó bên ngoài khách sạn.  Cô đưa cho tôi một số xe taxi.  Tôi tìm được chiếc taxi, nhưng không có bác tài xế nào ở đó.  Vì thế tôi leo lên ngồi vào băng sau, nghĩ rằng tôi sẽ đợi bác tài đến.
   Bỗng nhiên một người đàn ông to lớn, đến mở mạnh cửa xe.  Trước khi tôi có thể nói gì, ông đã chồm vào băng sau, tóm lấy sợi dây đeo máy chụp hình của tôi.  Không kịp suy nghĩ gì, chỉ phản ứng theo bản năng, tôi giựt cái dây lại và giữ chặt nó.
   "Không!  Không!" tôi la lên.
   Anh ta không nói gì, chỉ tiếp tục dằn lấy túi xách của tôi.  Anh ta to lớn hơn tôi nhiều và tôi biết trước sau gì anh ta cũng thắng, nếu tôi không làm một điều gì đó.
   Vẫn không thả chiếc túi đựng máy ảnh ra, tôi giơ cùi chỏ lên, dùng hết sức lực tống thẳng vào mũi anh ta.  Tôi nghĩ là mục tiêu của tôi rất chính xác, anh ta la oái, buông tay, chạy đi.
   Vâng, rõ ràng là tôi đã phạm một trong 227 giới luật của người tu sĩ ngày hôm đó.  Một tu sĩ không bao giờ được dùng vũ lực trong bất cứ trường hợp nào, dầu là để tự vệ.  Lý ra tôi phải buông tay để cho anh ta lấy chiếc máy ảnh, nhưng tôi quá bám víu vào nó, khiến tôi hành động không chánh niệm.  Có phim ở trong máy, những bức ảnh tôi đã chụp khắp châu Âu.  Tôi chỉ muốn cho bạn bè xem chúng, và đó là tất cả những gì tôi nghĩ đến khi tôi phản ứng một  cách bản năng.
   Và như tất cả chúng ta đều biết, khi bản năng làm chủ, chánh niệm bị đẩy lùi.
   Khi tôi đang hoàn hồn từ việc vừa xảy ra, bác tài xế taxi xuất hiện.
   "Ông là ngài Gunaratana?" anh ta hỏi.
   "Vâng," tôi trả lời.
 
 Anh ta bước lên xe, không nói thêm một lời nào nữa, chở tôi ra ga.  Ngay khi tôi vừa ra khỏi taxi ở ga xe lửa, một người đàn ông xuất hiện trên vỉa hè, đến cạnh tôi.
   "Ông là ngài Gunaratana?" ông ta hỏi.
   "Vâng," tôi trả lời.
   "Xin vui lòng đi theo tôi."
    Ông ta đưa tôi đến cửa xe lửa, chào lễ phép rồi biến mất.
   "Ông là ngài Gunaratana?" người soát vé tàu hỏi.
   "Vâng,”
   “Xin vui lòng theo tôi."
   Anh ta dẫn tôi đến một toa xe có giường nằm.  Dĩ nhiên, việc bị chuyền tay từ người này đến người khác, mà tất cả đều không mỉm cười, là điều khá buồn cười, nhưng tôi đủ biết trong chiến tranh lạnh -thời kỳ Liên Bang Xô Viết, tốt hơn là không nên khôi  hài về chuyện đó.
   Sáng hôm sau, chúng tôi đến Leningrad.  Khi tôi vừa ra khỏi toa xe, một phụ nữ trẻ đang đợi.
   Ông là ngài Gunaratana?"
   "Vâng."
   "Xin vui lòng theo tôi."
   Cô giúp tôi xuống tàu và đưa tôi đến một tiệm ăn gần đó. Cô đưa tôi đến một bàn ăn đặc biệt, kéo ghế mời tôi ngồi.
   Khi người bồi bàn đến, anh ta cũng hỏi: "Ông là ngài Gunaratana?"
   "Vâng.”
   Anh ta mang đến cho tôi bữa điểm tâm gồm có hai cái trứng, bánh mì nướng, bơ, mứt và trà.  Tôi ăn một mình và khi tôi dùng xong bữa, lại một người đàn ông khác đến cạnh bàn tôi.
   "Ông là ngài Gunaratana?"
   "Vâng."
   "Xin đi theo tôi."
   Người đàn ông đó dẫn tôi đến một chiếc xe buýt chở tour đang chờ bên ngoài tiệm ăn.  Tôi lên xe và người lái xe buýt hỏi: "Ông là ngài Gunaratana?"
   "Vâng."
   Và thế là cuối cùng tôi được tham dự tour đi Leningrad.
   Sau khi trở về chùa ở Washington mùa xuân năm 1977, tôi lại theo học các lớp ở trường đại học American.  Tôi đang học năm thứ hai chương trình Thạc sĩ.  Tiến sĩ Rodier, cố vấn của tôi trong nhiều năm, đã nói rõ rằng ông muốn tôi tiếp tục học đến tiến sĩ về Triết học.  Tôi cảm thấy rất phấn khởi và tự hào.  Vì thế tôi nộp đơn xin một học bổng khác nữa và được chấp nhận ngay.  Con đường học hành vá víu của tôi, bắt đầu từ nhiều năm trước ở một làng vùng quê Henepola đã mang tôi lên đến những trình độ học vấn cao nhất trong hệ thống giáo dục của Mỹ.  Tôi thật khó lòng tin điều đó.
   Trong lúc đó, chùa chúng tôi cũng phát triển lên.  Gần mười năm kể từ lúc tôi đến đó, con số hội viên đã nhân lên hàng trăm lần.  Những buổi lễ cầu nguyện và những lớp học thiền rất nổi tiếng đều có cả hai: người Mỹ và người Sinhala tham dự.  Tôi được yêu cầu dạy một lớp thiền mỗi tuần hai lần cho nhân viên Ngân hàng Thế giới (World Bank).
   Tôi cũng bắt đầu nhận được ngày càng nhiều những lời mời đến dạy các khóa an cư tu thiền khắp nước Mỹ. Đó là vào cuối những năm 1970, khi các trung tâm dạy thiền bắt đầu mọc lên ở khắp nơi.  Một nơi, ở New Mexico, đã mời tôi đến lần đầu tiên vào năm 1976.  Tôi chưa bao giờ đến đó và cũng không biết những người tổ chức, nhưng tôi chấp nhận lời mời của họ.
 
   Nơi đó thật tuyệt đẹp, cao trên núi.  Người ta dành cho tôi một cabin nhỏ, riêng biệt để ở, mà phải leo dốc mới lên tới; và hơi xa những tòa nhà khác.  Dường như để tôi được tha hồ ngắm vẻ đẹp của một hồ nước cạnh bên, nhà vệ sinh của cabin tôi nằm ở phía ngoài, và không có gì ngăn che.  Tôi hơi do dự trước sự sắp đặt này, nhưng vì cabin của tôi khá tách biệt, tôi đã nghĩ chắc sẽ không có vấn đề gì.
   Sáng hôm sau, trong lúc đang trả lời tiếng gọi của thiên nhiên, tôi bị sốc khi thấy ba phụ nữ trẻ bỗng nhiên xuất hiện để xuống hồ tắm.  Họ ở cách tôi khoảng chừng mười lăm thước, ngay trong tầm nhìn của tôi.  Tuy nhiên, hình như họ không thấy tôi.
   Họ cởi bỏ y phục một cách tự nhiên, rồi đứng trên một hòn đá để sưởi ấm trước khi nhảy vào hồ.  Tôi thật xấu hổ, kinh hoàng.  Tôi đã là một tu sĩ độc thân từ năm mười hai tuổi và chưa từng bao giờ thấy một phụ nữ khỏa thân trong đời!
   Ngay sau khi đi toilet xong, tôi vội vã tìm vị quản lý của trung tâm.
   "Thật không thích hợp chút nào," tôi nói.  "Tôi cần phải dời khỏi cabin đó ngay lập tức."
   Ông ta xin lỗi rối rít.  Tôi được dời đến một cabin khác, có nhà tắm riêng biệt.
   Năm sau, khi tôi lại về trung tâm đó để hướng dẫn một khóa tu thiền mười ngày khác.  Cabin tôi ở có phòng tắm ở bên ngoài.  Trên mái có những ống dẫn màu đen cuộn tròn, dùng ánh nắng mặt trời làm nhiệt và một tấm màn treo ở lối vào.  Ngượng ngùng vì sự kiện nhà vệ sinh năm trước, người quản lý lần này đã biết cẩn thận để giữ cho tôi được kín đáo.  Ông ta hỏi mỗi ngày tôi đi tắm lúc mấy giờ và ông treo một tấm giấy trên tường phòng tắm, nói rằng:  “Bhante G. tắm vào buổi trưa.  Xin vui lòng không làm phiền.”
   Ngày hôm sau, tôi đang ở trong phòng tắm lúc 12 giờ, bỗng nhiên một phụ nữ trẻ bước vào, trên người không mảnh vải.  Cô ta nói rằng cô muốn hỏi tôi một câu về Pháp.
   Tôi giận điên lên.  Tôi la lên, "Cô có thể hỏi lúc tôi giảng Pháp tối nay!  Không phải ở đây!"
   Cô ta dội ngược ra, mặt đỏ bừng.
   Tôi hy vọng đó là lần cuối cùng tôi phải đối phó với các cô gái trẻ khỏa thân.  Nhưng đó là thời kỳ của tình yêu cho không.
   Năm sau nữa, khi tôi trở lại trung tâm, viên quản lý tội nghiệp đã dành cho tôi một chiếc cabin riêng biệt nhất trong khuôn viên.  Từ khu trung tâm phải đi mất vài phút mới đến được.  Sẽ không còn ai làm phiền sư ở đó, ông ta trấn an tôi.
   Mấy đêm sau đó, khi tôi trở về cabin lúc 10 giờ đêm, sau thời khóa tu thiền cuối cùng của buổi tối.  Trước mắt tôi trong khu rừng tối tăm, tôi có thể thấy ánh sáng chiếu rọi từ cửa sổ phòng cabin của tôi.
   "Thật tử tế," tôi nghĩ.  "Chắc là nhân viên nào đó đã đốt đèn để tôi không phải về nhà trong bóng tối."
   Khi bước vào bên trong cabin, tôi đã gặp người đốt đèn.  Một phụ nữ đang nằm trong giường của tôi.  Cô ta rất trẻ, rất đẹp và rất trần truồng.
   "Ra ngay!" tôi lắp bắp.
   Cô ta không nói một lời nào, chỉ nằm đó mỉm cười.  Rõ ràng cô nghĩ rằng tôi đang đùa.
   "Tôi không đùa," tôi nói.  "Nếu cô không đi ra ngay lập tức, tôi sẽ đi gọi người quản lý."  Tôi quay lưng chuẩn bị bước đi.
   Tôi nghĩ lúc đó cô nhận ra rằng: Tôi không phải là một trong “những” loại guru (thầy) đó.  Cô ta nhảy ra, khóc và túm lấy quần áo chạy ra khỏi cửa.
   Trong mỗi trường hợp trên, bạn có thể nghĩ rằng tôi hoàn toàn bị chế ngự bởi lòng ham muốn, hay ít nhất cũng cảm thấy một chút tình dục bị khơi đọng.  Nhưng tôi có thể chân thành nói rằng tôi rất ngượng ngùng, và rất giận dữ; và hai cảm giác này hoàn toàn chế ngự tâm tôi.
   Đối với tôi, bất cứ người nào cố gắng  quyến rũ tôi là đã không tôn trọng tôi với tư cách là người tu và là người thầy. Đó là cái tát vào truyền thống 2500 năm và một sự sỉ nhục lớn đối với những lời dạy của Đức Phật.  Có thể nghe khó tin, nhưng tôi không cảm thấy lời nguyện sống độc thân của mình là khó giữ.  Là người tu sĩ, đó là sự lựa chọn của tôi để sống như thế.  Đó là cách sống của tôi từ khi còn là một cậu bé trai.  Vì thế tôi sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện sửa đổi nó.
 
   Năm 1980, tôi đạt được học vị tiến sĩ về Triết học.  Vào ngày ra trường, tôi rất ngạc nhiên thấy khoảng hai mươi người bạn Sinhala ở trong đám khán giả.  Bhante," một người trong họ nói, "làm sao sư tìm ra được thời gian để lấy bằng tiến sĩ?"
   Tôi cười vì câu hỏi ấy của anh thật đúng.  Khi người ta viếng chùa, họ thường thấy tôi cắt cỏ, thuyết pháp hay là sửa chữa nhà cửa. Tôi làm việc suốt ngày.
   Nhưng tôi còn một công việc khác nữa, và lúc nào cũng thế, là được làm người sinh viên.  Tôi không bao giờ nghĩ người ta có thể ‘hoàn tất’ sự học của mình, chỉ vì họ đã được những học vị.  Tôi nghĩ rằng sự học của chúng ta vẫn còn tiếp tục và tiếp tục mãi, nếu chúng ta để ý đến điều đó.  Tất cả chúng ta đều là những người tu học cho đến khi ta đạt được giác ngộ.
   Thật ra, khi so sánh với những cấp bậc cao siêu trong các chứng ngộ tâm linh mà Đức Phật đã diễn tả, thì chúng ta, những học giả “thế tục" không xứng đáng để được gọi là học giả.  Đúng ra, chúng ta còn đang ở trình độ mẫu giáo.
   Một học giả thực sự, theo Đức Phật, là người đã đạt được đến ngưỡng cửa quả Dự Lưu.  Cái gì là “dòng chảy”?  Bất cứ ai đã tìm hiểu chút ít về Phật giáo, đều biết về Bát chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định.
   Bát chánh đạo là nền tảng cho việc tu tập theo con đường tâm linh của Đức Phật, những điều mà mỗi chúng ta đều có thể thực hành mỗi ngày.  Nhưng đó chỉ là sự bắt đầu, vì không kể là chúng ta đã thực tập tinh tấn thế nào để hoàn thiện các loại thiện xảo này, chúng ta vẫn còn tâm nghi ngờ.  Chúng ta có thể thực hành tâm rộng lượng, lòng từ bi, và lòng chân thật.  Chúng ta có thể nói nhỏ nhẹ và dịu dàng.  Chúng ta có thể chánh niệm và chánh định.  Nhưng tất cả đều chịu ảnh hưởng của vô thường –tâm nghi hoặc có thể len lỏi vào khi chúng ta đang bị căng thẳng hay vào bất cứ lúc nào khác.
   Một cấp bậc cao hơn của việc thực tập được gọi là Bát chánh đạo siêu việt.  Đây là “dòng chảy” được nhắc đến trong câu nói về quả Dự lưu.  Đó là cấp bậc nơi mọi nghi ngờ đều được rũ sạch, nơi hành giả biết chắc chắn về chân lý của Tam Bảo.
   Ở thời điểm của quả Dự lưu, hành giả bắt đầu chuyển động dọc theo một con đường, đưa họ lên một cấp bậc chứng ngộ cao hơn, và cao hơn nữa.  Khi hành giả cuối cùng buông bỏ được niềm tin vào một cái ngã thường hằng, là họ đạt được quả Dự lưu.  Bạn có thể nói rằng họ đã vượt qua được kỳ thi vào Bát chánh đạo siêu việt.  Họ sẽ,  hoặc là đạt được giác ngộ trong kiếp này, hay họ sẽ tái sinh không hơn bảy lần, trên thế giới này hoặc là ở cõi trời.
   Sau khi tâm nghi ngờ đã được buông bỏ, các kiết sử khác cần được buông bỏ tiếp theo là lòng sân hận và sự bám víu vào các dục lạc -nói một cách khác, là sân và tham.  Sau khi hành giả đã chiến thắng được những uế nhiễm này, họ sẽ được gọi là Nhất lai, là người sẽ tái sinh chỉ một lần nữa.  Khi chướng ngại thứ hai đã được buông bỏ, người ấy sẽ trở thành một vị bất hoàn.
   Ngay như thế, ở giai đoạn chứng ngộ tột cùng này, vẫn còn năm kiết sử khác cần được chế ngự.  Đó là lòng ước muốn được hiện hữu trong sắc giới, lòng ước muốn được hiện hữu trong cõi vô sắc giới, mạn, trạo cử và vô minh.  Vị Bất hoàn đã đạt đến một tầng cao trong Bát chánh đạo siêu việt, nhưng vẫn chưa hoàn toàn đạt được tiến sĩ tâm linh, sự thành tựu rốt ráo.
   Sự chứng ngộ xảy ra khi năm kiết sử cuối cùng bị tan rã.  Vào thời điểm đó, hành giả cuối cùng đạt được quả của con đường đạo: trở thành một vị A la hán,  một chúng sinh hoàn toàn giác ngộ.
   Lúc đó và chỉ lúc đó thì sự học hỏi mới được coi là viên mãn.
 
   Sau khi vừa đạt được bằng tiền sĩ “thế tục”, tôi càng được nhiều nơi yêu cầu đến giảng dạy.  Một vài đại học mời tôi vào ban giảng huấn: như Georgetown, Maryland, American, và Bucknell.  Tôi không nhận lời bất cứ nơi nào vì trách nhiệm đầu tiên của tôi là với chùa, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn dạy những lớp về Phật giáo ở phần lớn các đại học này trong mười năm như thế.
   Bắt đầu từ cuối những năm 1970, một số sư người Sinhala đến sống ở chùa Washington và ngôi nhà lớn trên đường số Mười Sáu trở thành một nơi rộn rịp, ồn ào.  Lúc đó thì chúng tôi đã có gần ba ngàn thành viên bao gồm những người Mỹ và Á châu như: Sinhala, Thái, Burma, Campuchia, Lào, và đôi khi người Đại Hàn nữa.  Những lớp học hàng tuần và các khóa lễ đều đầy, và Phật tử mỗi ngày ghé vào chùa bất cứ lúc nào để thiền hay viếng chùa.  Chuông điện thoại luôn reo không ngừng.
   Vào khoảng thời gian đó, có một thanh niên trẻ nhiệt tình tên Matthew Flickstein bắt đầu đến chùa thường xuyên.  Anh ta là một nhà tư vấn tâm lý ở Maryland, có một vợ và hai con. Anh cũng rất nghiêm chỉnh trong vấn đề học thiền. Anh thường hỏi tôi rất nhiều câu hỏi.  Nhưng vì công việc ở chùa ngập đầu nên tôi khó dành được thời gian trọn vẹn, không bị quấy rầy để giúp Matt.
   Vì thế Matt bắt đầu chở tôi đến các nhà nghỉ, như một cách để chúng tôi có được những thời gian như thế. Anh thường mướn một phòng để chúng tôi có thể ở đó vài giờ, tọa thiền và trao đổi về các kinh nghiệm hành thiền.  Chúng tôi bắt đầu với phương pháp anapanasati, hay quán niệm hơi thở.
 
   Mỗi lần chúng tôi thở vào hay thở ra, tôi bảo với Matt, chúng ta có thể kinh nghiệm được sự vô thường.  Trước hết, chúng ta bắt đầu cảm nhận nhu cầu thở vào.  Một sự căng thẳng nhẹ nhàng trong lồng ngực tăng lên dần khi lượng oxy được đẩy ra sâu hơn và sâu hơn nữa cho đến khi chúng ta bắt buộc phải thở vào.  Rồi giữ hơi thở lại.  Nhưng không duy trì được lâu.  Vì không lâu sau sự khó chịu gây ra do lồng ngực căng đầy sẽ khiến chúng ta phải thở ra. Ngay trong một chu kỳ của hơi thở vào ra, đã bao trùm cả khổ đau và hạnh phúc.  Chúng ta hoàn toàn không thể làm chủ nó.
   Nhận ra được sự chuyển đổi không ngừng này là tấm vé đưa ta đến giải thoát.  Chúng ta sẵn sàng để chấp nhận hạnh phúc hay đau khổ, bất cứ điều gì phát sinh.  Khi hạnh phúc thay đổi -không thể tránh khỏi, ta không bị sốc vì ta biết rằng đó là vô thường.  Và khi đau khổ phát sinh, ta không nản lòng vì ta biết rằng điều đó cũng vô thường.  Ta có thể chấp nhận cả hai, mà không để thứ nào làm chủ được ta.
 
   Tôi rất thích thời gian tu tập với Matt, một sự xả hơi khỏi chùa từ những buổi học không định trước này và anh ta cũng rất thích được hướng dẫn riêng.  Một tình bạn đã nẩy nở giữa chúng tôi.
   Một ngày vào năm 1979, tôi nói với anh, "Matt, sư muốn xây một trung tâm thiền.  Ở một nơi nào đó tĩnh lặng, ở đồng quê.  Một lâm tự viện."
   Anh ta nhìn tôi mắt sáng lên.
   "Thật chứ?  Sư nói thật chứ?”
   “Thật.  Sư không đùa.  Vấn đề duy nhất là, sư không có đủ tiền hay đủ người để hỗ trợ một nơi như thế.”
   “Con có thể giúp,” Matt nói ngay.
   Sau đó, chúng tôi không nói gì thêm về việc này.  Tôi nghĩ cả hai đều biết rằng đó là một giấc mộng lớn và cần phải có thời gian để đưa đến kết quả.  Chúng tôi cần phải suy tư về nó nhiều hơn một chút.  Nhưng Matt là một người rất năng động, người luôn muốn mọi việc xảy ra ngay bây giờ hơn là sau này.  Anh ta không thể đợi lâu như thế.
   Vài tháng sau, một buổi chiều kia, anh lái xe đưa tôi đi đâu đó và anh bỗng nói: "Bhante, ngôi lâm tự viện đó thế nào rồi?  Sư vẫn còn nghĩ đến nó chứ?”
   "Dĩ nhiên rồi," tôi trả lời.
   "Vậy thì tại sao Sư không tiến hành đi?"
   "Vì trước mắt, chúng ta vẫn chưa có những điều kiện tối thiểu.  Chúng ta không có đủ tiền hay nhân sự, mà chúng ta cũng chưa có chỗ nào cả."
   "Bhante," Matt nói, giọng đầy nôn nóng, "giờ chính là thời điểm đó.  Cuộc đời quá ngắn ngủi, chúng ta phải bắt tay vào việc ngay."
   Một nụ cười ranh mãnh ở khóe môi anh.
   "Nếu sư không sẵn sàng để xây trung tâm đó, con phải đi tìm một vị thiền sư khác thôi," anh nói.
   Tôi mỉm cười.
   “OK.  Hãy bắt đầu.”

<< Chương 22 | Chương 24 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 718

Return to top