Nước mắt rơi lã chã xuống tờ giấy bìa bên dưới, làm nhòe nét mực của cây bút lông mà tôi dùng để ghi hàng chữ "Mất tích. Mèo mướp màu xám, bàn chân màu trắng, đôi mắt màu xanh".
Linda - con mèo mất tích của tôi - rất thân thiết với tôi ngay từ ngày tôi nhận nuôi nó cách đây hai năm. Mặc dù bị tôi đặt cho cái tên con gái (chúng tôi đã sai lầm khi đoán giới tình của nó), nó chẳng thèm bận tâm tới điều đó. Cho đến hôm nay, khi chúng tôi tách nó ra khỏi gia đình nó ở South Carolina để mang về Virginia, nó tỏ ra chịu đựng được cái tên mới. Mỗi ngày, Linda đều trung thành chào đón tôi khi tôi đi học về. Nhưng gần đây, em gái tôi vừa mới nhận nuôi một chú mèo con khác, thì Linda không chấp nhận điều đó. Vẻ mặt đầy tự ái của Linda sau khi gặp gỡ chú mèo con vẫn khắc sâu trong tâm trí tôi.
Không lâu sau, vào một đêm nọ, nó không về nhà để ăn bữa tối. Tôi gọi tên nó hàng trăm lần nhưng nó vẫn không xuất hiện. Những cảnh trang trí vui tươi và đẹp mắt đón mừng Giáng Sinh của mọi nhà không làm tôi phấn khởi lên được. Tôi miễn cưỡng lên giường ngủ, hy vọng sáng hôm sau nó sẽ xuất hiện. Nhưng tôi lầm. Và hai ngày sau, tôi bắt đầu cảm thấy hoảng hốt.
Tôi điên cuồng gọi điện tới trạm nuôi thú hoang ở địa phương, nhưng không có con mèo nào khớp với sự mô tả của tôi. Rồi, cùng với sự trợ giúp của gia đình, tôi viết những tấm áp phích về Linda. Thậm chí, một đài phát thanh địa phương còn sẵn lòng thông báo cái tin Linda mất tích. Mỗi ngày, sau khi đi học về, tôi bỏ ra nhiều giờ lội bộ (hoặc chạy xe đạp) quanh xóm để đi tìm nó. Tôi gọi tên nó cho đến khi giọng khàn hẳn đi. Mỗi tối, trước khi đi ngủ, tôi đều cầu xin Chúa mang con mèo về với tôi.
Vào trước ngày Giáng Sinh, con Linda vẫn chưa về. Nó đã mất tích tám ngày rồi. Sau khi đi lễ nhà thờ về và dùng bữa ăn tối thịnh soạn cùng gia đình, tôi lo lắng và buồn bã leo lên giường. Một lần nữa, tôi cầu xin Chúa đưa con Linda về với tôi. Rồi quá kiệt sức, tôi lăn ra ngủ say.
Mấy giờ sau đó, đồng hồ trên radio của tôi nhấp nháy con số 11:59. Tôi đột ngột tỉnh dậy. Hiếm khi nào tôi tỉnh dậy vào nửa đêm, vì tôi nổi tiếng là người ngủ say mà. Nhưng khi nằm lặng yên trong bóng tối, tôi hoàn toàn tỉnh táo, và bỗng dưng muốn ngồi dậy để ngắm những ngôi sao trên trời.
Nhiều năm nay, tôi có truyền thống ngắm bầu trời trước đêm Giáng Sinh, để tìm ngôi sao sáng nhất, mà tôi muốn tưởng tượng đó là "Ngôi Sao Giáng Sinh". Tôi không biết nó có thật sự là Sao Bắc Đẩu đã dẫn đường cho các nhà thông thái ngày xưa đến chỗ Jesus Hài Đồng đang nằm trong máng cỏ hay không. Nhưng tôi rất thích ngắm nó trước khi đi ngủ và đêm trước Giáng Sinh. Trong khi tôi đang nằm đó, tự hỏi tại sao mình lại đột ngột tỉnh giấc, tôi nhận ra là năm nay tôi không thèm nghĩ tới việc tìm kiếm "Ngôi Sao Giáng Sinh".
Tôi hăm hở nhảy ra khỏi giường, nhìn qua màn cửa sổ phòng ngủ, nhưng tôi không thể nhìn thấy ngôi sao nào. Thế rồi một ý nghĩ bất ngờ ập đến. Bây giờ thử ra ngoài cửa trước. Nhanh lên.
Nghĩ đến việc mở cửa và đi ra bên ngoài với luồng gió lạnh buốt, tôi cảm thấy chẳng thích thú chút nào, nhưng dù sao, tôi cũng phải tìm kiếm Ngôi Sao Giáng Sinh. Thế là tôi mở hai ổ khóa và đẩy mạnh cánh cửa ra. Run rẩy trong chiếc áo ngủ, tôi nhìn lên bầu trời cho đến khi một đốm trắng màu bạc lọt vào ánh mắt của tôi. Ngôi Sao Giáng Sinh!
Tôi đứng nhìn ngôi sao một lát, rồi với tay khép cánh cửa lại. Vừa kéo cánh cửa, tôi vừa cúi xuống nhìn các bậc tam cấp. Và tôi trông thấy nó, Linda - ốm o, run rẩy, bốc lên mùi xăng dầu. Nó ngồi im lặng trước mặt tôi. Đôi mắt xanh biếc của nó tim đôi mắt tôi như muốn nói "Xin lỗi. Cô sẽ nhận lại tôi chứ?"
Ngay lập tức, tôi ẵm nó lên. Nhưng trước khi đóng cửa, tôi đứng lại với con mèo Linda trong tay - để nhìn Ngôi Sao Giáng Sinh một lần nữa. Và tôi biết rằng mình sẽ có một ngày Giáng Sinh thật trọn vẹn và vui vẻ.
Whitney Von Lake Hopler