Khi sống, thỉnh thoảng suy ngẫm về cái chết là tốt. Thực ra suy ngẫm hàng ngày càng tốt. Ðức Phật dặn chúng ta thường xuyên suy ngẫm về cái chết vì có rất nhiều lợi lạc đạt được từ sự suy ngẫm này.
Trước nhất chúng ta phải hiểu rõ rằng suy gẫm về cái chết không phải là chúng ta phải trở nên rầu rĩ, sợ hãi, không lành mạnh hay ngã lòng, hay cảm thấy như tự giết mình. Không, chắc chắn là không, chúng tôi muốn nói rằng chúng ta nên suy ngẫm về cái chết một cách khôn ngoan, có thể sống một cách khôn ngoan và từ bi hơn.
Thí dụ, bất cứ lúc nào tôi bị khó chịu hay nản lòng, tôi phải (nếu tôi không quá vô tâm) suy ngẫm theo những hàng chữ sau đây: Ðời sống ngắn ngủi, chảng bao lâu chúng ta đều sẽ chết. Cho nên cãi nhau hay tranh giành có ích gì? Giận dữ có ích gì? Không có ý nghĩa chút nào cả. Tốt hơn là tôi giữ sự an lạc của tôi. Tranh cãi hay giận dữ không giải quyết được vấn đề. Nó chỉ gây ra thêm thù oán và bực mình. Nghĩ như vậy tôi có thể bình tĩnh lại, kiềm chế mình để khỏi bị kích động bởi những cảm nghĩ mạnh mẽ, và liên hệ với người khác một cách lịch sự và khéo léo hơn. Ðương nhiên, không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng đôi khi (có lẽ là nhiều lần) tôi đã quên và bị kích thích của tài hùng biện và xúc cảm, nhưng khi tôi tự nhớ lại về sự ngắn ngủi của đời sống và cái vô nghĩa của nóng giận đùng đùng, tôi có thể bình tĩnh lại một chút và nói năng một cách lịch sự và thận trọng hơn.
Tương tự như thế, khi tôi bị dao động hay lo lắng về một việc gì đó, tôi sẽ nghĩ rằng tất cả những lo lắng và băn khoăn có ích gì. Cuộc đời cứ tuần tự vi tiến, cái chết chờ đợi mỗi người chúng ta. Không ai trong thế giới này có thể thoát chết. Tử thần là người thực thi bình đẳng vĩ đại, và là người san bằng chênh lệch trong xã hội. Cho nên, trong khi tôi còn sống, tốt hơn là phải sống tốt hết sức mình, và điều đó có nghĩa là sống theo Pháp, sống trong chánh niệm, từ lúc này đến lúc khác, từ ngày này đến ngày khác, chỉ làm những điều tốt nhất mà tôi có thể, cứ thế mỗi ngày. Suy nghĩ khôn ngoan như vậy, tôi có thể kiểm soát những lo lắng, sống nhẹ nhàng và sung sướng hơn.
Hơn nữa, chúng ta có thể suy xét rằng có hay không lo lắng tất cả chúng ta đều phải già và chết. Cho nên chúng ta có thể già mà không lo lắng! Làm điều đó sẽ là khôn khéo hơn. Không ai là người không đồng ý là chúng ta chắc chắn sung sướng hơn nếu không lo lắng. Mặt khác, tất cả những lo lắng làm tổn thọ, khiến cho chúng ta phát bệnh sớm và chết. Cũng bằng cách nghĩ này, chúng ta có thể kiểm soát lo lắng và sống một cuộc đời hạnh phúc hơn. Bởi vậy, suy nghĩ về cái chết một cách khéo léo khiến cho chúng ta rộng lượng và nhẫn nại hơn, tử tế và lịch sự hơn, cho cả chính chúng ta và người khác.
Rồi chúng ta có thể trở nên ít bị ràng buộc vào của cải vật chất, ít tham lam. Vâng, khi chúng ta nhận thức sâu xa cái ngắn ngủi của cuộc đời, và không thành vấn đề chúng ta có thể có bao nhiêu nhưng chúng ta không thể mang theo chỉ một xu khi chết chúng ta sẽ trở nên ít keo kiệt hơn. Khi chúng ta rộng rãi một chút thì bắt đầu vui trong việc chia sẻ và cho đi, thương yêu và quan tâm. Lúc đó chúng ta sẽ nhận thức ra rằng đời sống không chỉ là chỉ gom góp và tích trữ của cải. Chúng ta sẽ thích rộng lượng hơn, chia sẻ và mang niềm vui và hạnh phúc vào cuộc đời của những người khác. Mang niềm vui và hạnh phúc cho người khác là làm cái cho đời sống có ý nghĩa và đẹp đẽ. Ðiều đó mới đáng kể. Tình thương yêu và từ bi nảy nở và thăng hoa trong chúng ta giống như hoa nở đẹp của cây. Chúng ta trở nên thành những người thực sự đẹp, đắm mình trong từ bi, đáp lại bằng tấm lòng không có bất cứ sự kỳ thị giống nòi, giáo phái, tôn giáo, địa vị xã hội vân vân... Ðời sống của chúng ta sẽ có một luồng sáng mới và chúng ta có thể nói chúng ta thực sự hạnh phúc và đầy tình người. Và khi cái chết đến, chúng ta không có gì nuối tiếc. Chúng ta có thể mỉm cười với cái chết một cách hạnh phúc và an bình.
KHI BỐN TRÁI NÚI ÐỔ XUỐNG
Ðức Phật có lần nói dùng lối so sánh để gây ấn tượng cho chúng ta sự cần thiết sống một cuộc đời có ý nghĩa. Ngài đặt câu hỏi này với Hoàng Ðế Pasenadi: "Này Hoàng Ðế, Ngài làm gì khi Ngài được biết bốn trái núi lớn, một từ hướng Bắc, một từ hướng Nam, một từ hướng Ðông và một từ hướng Tây, đang tiến về hướng vương quốc của Ngài, nghiền nát mọi vật sống và không có gì thoát khỏi?"
Hoàng Ðế Pasenadi trả lời: "Bạch Ðức Thế Tôn, trong một thảm họa lớn lao như vậy, sự hủy diệt đời sống con người quá lớn, và tái sinh làm người rất khó đạt được, tôi có thể làm gì để cứu vãn mà sống một cuộc đời ngay thẳng và làm những hành vi thiện?" Ðức Phật đã làm cho vua hiểu vấn đề: "Thưa Hoàng Ðế, tôi nói để Ngài biết – tuổi già và cái chết đang lăn vào Ngài. Vì tuổi già và cái chết đang lăn vào Ngài, Ngài phải làm gì?" Hoàng Ðế trả lời rằng trong hoàn cảnh như thế tất cả việc cấp thiết là phải sống một cuộc đời lương thiện và thực hiện hành vi tốt. Nhà vua thừa nhận tất cả uy quyền, uy thế, của cải và lạc thú mà nhà vua hưởng như một hoàng đế, có thể khi đứng trước cái chết chỉ là con số không.
Ví thế khi chúng ta suy nghĩ một cách khôn ngoan về cái chết, chúng ta sẽ nhận ra rằng của cải, uy quyền, uy tín và những lạc thú nhục dục không phải là mọi thứ. Chúng không thể bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. Nhiều người có chúng nhưng vẫn sống một cuộc đời sóng gió và bất hạnh. Một số người hối tiếc đã hành hạ, áp bức và làm hại người khác trong khi theo đuổi điên cuồng những tham vọng trần tục của họ. Sau khi đã tiến được tới đỉnh, họ thấy là thành quả rốt cuộc không phải là thỏa mãn mà thậm chí trống rỗng và vô nghĩa. Ðôi khi họ ước ao phải chi họ đã có nhiều thì giờ hơn để sống với thân quyến và bạn bè và bộc lộ sự quan tâm và trìu mến hơn. Họ nuối tiếc đã lơ là với người thân yêu. Một số người đã đạt được mức đô khá thành công, đã thay đổi thái độ giữa chừng. Họ đã dành nhiều thì giờ hơn cho người thân, bạn bè và xã hội và sửa soạn vì điều thiện cao cả hơn, bỏ những tham vọng cao nhất để bằng lòng với cái ít hơn.
Nếu chúng ta biết được một số người giàu có và thành công đã xáo trộn đời họ ra sao, chúng ta sẽ học được một bài học từ sự lầm lẫn của họ. Một hôm tôi đọc cuốn sách với tựa đề "Những Người Giầu Có Nhất Trên Thế Giới Thua Cuộc" .Tôi thấy đây là một cuốn sách giáo dục. Tựa đềù hoàn toàn thích đáng. Họ là những người thua cuộc trong đời sống bất chấp của cải của họ. Vâng, tôi đã học được khá nhiều Phật Pháp trong cuốn sách đó, làm sao mà tiền bạc và thành công không bảo đảm hạnh phúc riêng cho họ. Thay vì họ đã không hạnh phúc bất chấp của cải và thành công của họ. Ðọc biết về những người giàu có và nổi tiếng như Howard Huges, Mario Lanza, Elvis Presley, Marylyn Monroe và Aristotle Onassis, đã sống và chết ra sao, tôi không thèm muốn như họ.
Những nhân vật đầy quyến rũ như Elvis và Monroe chết vì ma túy quá độ, sống qua câu châm ngôn: "Từ nghèo khổ đến giàu có, và từ giàu có đến rỗng không". Tất cả của cải và thành công của họ không mang lại hạnh phúc mà họ tìm kiếm. Hạnh phúc vẫn tránh né họ. Họ có vẻ khá tệ héo hon vì nóng giận cao độ, phiền muộn, sợ hãi và trống rỗng. Lấy trường hợp của một người phụ nữ thừa kế một gia tài vô cùng to lớn, lấy chồng bẩy lần mà không tìm thấy hạnh phúc. Bà nói với người viết tiểu sử của bà: "Tôi thừa hưởng mọi thứ trừ tình yêu. Tôi lúc nào cũng tìm kiếm nó vì không biết nó là cái gì". Sáu cuộc hôn nhân đầu kết thúc bằng ly dị và cuộc hôn nhân cuối kết liễu bằng ly thân. Chung cuộc, mặc dù của cải lớn lao, người ta nói bà chỉ là một người đàn bà đau khổ dễ bị thương tổn bị ảnh hưởng bởi cô đơn. Bà chết vào năm 66 tuổi với một vài người bạn bên giường mà không có người chồng nào đến. Những chuyện bi thảm như vậy, tôi chắc chắn, có thể cũng tìm thấy ở phương Ðông.
Ðương nhiên, đề cập đến những người khác, chúng tôi không có ý xem thường một cách tự cho là đúng. Nhưng chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh tầm quan trọng về việc có những giá trị thích đáng trong đời sống, hiểu bản chất của tình thương và từ bi thực sự. Chúng tôi cũng không có ý lên án sự giàu có và thành công hay nói rằng bạn không nên phấn đấu vì chúng. Không, chúng tôi không nói như vậy. Chúng tôi hiểu rõ là chúng ta phải thực tế và hiện thực. Chúng tôi hiểu rằng nếu các bạn đang làm việc trên thế giới này thì lý đương nhiên bạn cố gắng hết mình để kiếm được càng nhiều của cải càng tốt. Sau hết, nếu bạn muốn làm điều thiện và giúp đỡ người khác, như xây dựng cơ sở từ thiện, bệnh viện và trung tâm hành thiền, và cúng dường thực phẩm cho các nhà sư và người nghèo túng, bạn cần phải có tiền. Cho nên chúng tôi không nói là bạn không nên cố gắng làm một cư sĩ để làm giàu cho chính bạn. Nhưng đương nhiên, trong việc kiếm của cải, bạn nên làm bằng phương tiện lương thiện, không làm hại người khác.
Nói một cách khác, điều chúng tôi nhấn mạnh là sự đúng mức về luân lý. Chúng ta cần có những giá trị tinh thần, nhận thức sâu sắc là hạnh phúc không phải là sự ham mê lạc thú mà là chia sẻ và quan tâm. Khi chúng ta có những giá trị đúng, chúng ta có thể sống có ý nghĩa và mang niềm vui và hạnh phúc đến tất cả những người ở trong môi trường đời sống của chúng ta. Khi chúng ta hiểu Pháp nhất là chân lý về vô thường, khổ đau và vô ngã, chúng ta không bám víu vào danh vọng hay lợi lạc. Chúng ta có thể sống khiêm nhường và từ bi, chia sẻ của cải và thành công, và tìm thấy niềm vui trong việc làm cho người khác hạnh phúc. Nhưng khi chúng ta không hiểu thấu sâu xa về những gì cấu thành hạnh phúc – mà hạnh phúc thực sự đến từ cái tâm đã thoát khỏi tham, sân và si – rồi thì chúng ta không hiểu chúng ta có thể làm điều sai lầm, chúng ta nhất định bị chìm vào vũng bùn nhục dục đi đến sự kết liễu thống khổ. Cho nên điều quan trọng là chúng ta hãy suy ngẫm cẩn thận về sự sống và cái chết, và lái vào đúng hướng, con đường thích hợp.
Ý THỨC CẤP BÁCH
Suy ngẫm về cái chết cũng có thể mang lại cái được gọi là Samvega bằng tiếng Pali – một ý thức cấp bách có thể tiếp sức cho chúng ta làm tất cả các điều thiện mà chúng ta có thể làm được trước khi chết và đặc biệt là hành thiền để trải nghiệm được chân lý sâu xa hơn và sự hiểu biết. Ðức Phật nói hầu hết mọi người tất tưởi vội vã ở bờ bên này; họ không tìm cách vượt sang bờ bên kia. Ý Ðức Phật muốn nói chúng ta tất cả đều bị vướng mắc vào những mưu cầu khoái cảm trong những lạc thú trần tục của đời sống. Chúng ta không tìm cách vượt khỏi phàm trần – vượt qua sinh tử, để nếm rượu thần tiên của hạnh phúc bất tử, Niết Bàn bất tử.
Niết Bàn là gì? Niết Bàn không thể mô tả được mà mỗi người phải trải nghiệm nó cho chính mình. Nhưng Ðức Phật đã cố gắng đưa ra một số ý niệm về Niết Bàn là thế nào. Thí dụ, Ngài mô tả Niết Bàn là cái bất sinh, không nguồn gốc, không hình dáng, không điều kiện, bất tử, hạnh phúc cao nhất, an lạc to lớn nhất. Niết Bàn tượng trưng một trạng thái bất sinh bất diệt, không sinh hay tử. Nó được mô tả như ngọn gió thổi tắt những ngọn lửa của tham, sân và si, sự chấm dứt của tâm và vật, sự dập tắt khổ đau. (Ðể đọc thêm về Niết Bàn, hãy đọc cuốn "Bản Chất Của Niết Bàn", tác giả Mahasi Sayadaw, phát hành bởi Tổ Chức Buddha Sasana Nuggaha, Rangoon, Miến Ðiện)
Một người đạt được trạng thái Niết Bàn, trạng thái này có thể thực hiện được trong quá trình thiền định, được gọi là giác ngộ. Một người giác ngộ có thể là bậc A La Hán hay Ðức Phật. Sự khác biệt giữa A La Hán và Ðức Phật là A La Hán đạt giác ngộ, bằng cách lắng nghe một người giác ngộ khác trong khi Ðức Phật đạt giác ngộ bởi chính mình.
Người giác ngộ là người có thể trực diện với những nỗi thăng trầm của cuộc đời bằng cái tâm điềm đạm. Qua những thăng trầm, như thua và được, thành công và thất bại, khen và chê, đau đớn hay thích thú, nổi tiếng hay mang tiếng, người giác ngộ vẫn thanh thản và không lay chuyển. Họ tiếp tục lối sống ấy không phải là bị lừa dối hay không cảm thấy mà vì đã được giác ngộ và khôn ngoan; hiểu rõ bản chất thực sự của cuộc sống, bản chất của hiện tượng vật chất và tinh thần, bản chất vô thường, bất an cửa chúng và không có một hạt nhân hay cốt lõi nào có thể gọi là cái ngã trong ý nghĩa tối hậu. Nếu họ không tham đắm vào lạc thú, và thích đau đớn, không phải là họ không cảm thấy chúng. Họ cảm thấy chúng nhưng hiểu rõ bản chất thực sự của chúng nên họ không bị áp đảo bởi chúng. Họ có thể chấp nhận cả đau đớn lẫn lạc thú khi chúng tới bằng trí tuệ và trầm tĩnh.
Cũng vậy đối với những hoàn cảnh trần thế khác như khen chê, thua được. Nếu họ được khen họ không kiêu căng hay tự cao tự đai. Họ không hãnh diện. Nếu họ bị chê, họ không buồn phiền hay ngã lòng. Ðiều ấy không thành vấn đề với họ. Họ vững vàng và không xao xuyến vì biết mình đã hành động đúng – không một vết nhơ của tham sân và si, động cơ thúc đẩy họ là thương yêu-khả ái và từ bi. Họ cũng không có ý thích làm hại đến con kiến hay con muỗi. Lương tâm của họ trong sáng, tâm trí họ nhẹ nhàng và tự do. A La Hán sống kiếp sống cuối cùng trên trái đất và khi chết không bị tái sinh nữa. A La Hán chấm dứt như một ngọn đèn, đạt nirodha – sự chấm dứt. Người ây đạt Parinibbana (vô dư Niết Bàn) – có nghĩa là người ấy đạt Niết Bàn tối hậu, sự chấm dứt tất cả cuộc sống, đạt được yếu tố an lạc tối thượng của Niết Bàn. Bởi vậy, A La Hán trong thời Ðức Phật có câu sau:
Tôi thích thú không phải trong sự sống Tôi thích thú không phải trong cái chết Mà tôi chờ lúc ra đi của tôi trong chánh niệm và tự tại.
Một bài kệ khác như sau:
Vô thường là những thứ duyên hợp Có bản chất sinh ra và mất đi Ðã nẩy sinh rồi phải chết đi Bình lặïng và chấm dứt là hạnh phúc thực sự.
Suy ngẫm về cái chết có thể giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của cám dỗ nhục dục. Chúng ta sẽ không bị lừa dối bởi của cải vật chất mà hướng nguồn vui của chúng ta vào một cuộc đời đáng hài lòng và bổ ích vì sự phát triển trí tuệ và từ bi. Chúng ta được khuyến khích hành thiền hoặc, nếu chúng ta đã thực hành rồi, hãy tăng gấp đôi nỗ lực đạt mục tiêu tối hậu giải thoát khỏi tất cả khổ đau.
SUY NGẪM DẪN ÐẾN HIỂU BIẾT VÀ CHẤP NHẬN
Suy ngẫm thường xuyên về cái chết – về làm sao không thể tránh được và tài sản đích thực của ta là những hành vi – có thể khuyến khích chúng ta sống một cuộc đời lương thiện đến mức khi chết chúng ta sẽ không sợ hãi cái chết.
Hơn nữa khi một người thân của chúng ta chết, không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều phải chết, phiền muộn không làm đau đớn chúng ta khi chúng ta hiểu biết và chấp nhận. Ðó không phải là vì chúng ta không động lòng hay vô tâm. Không, chúng ta có một con tim, một con tim dễ xúc cảm. Chúng ta có thể cảm động sâu xa nhưng chúng ta cũng biết bản chất của sự sống, và có thể chấp nhận cái chết đan dệt thành sự sống.
Giải thích người trí chấp nhận cái chết ra sao, Ðức Phật nói: "Thấy bản chất của thế giới, người trí không than van. Khóc lóc, rên rỉ sẽ chỉ dẫn đến khổ đau và đau đớn hơn. Nó không thể làm người chết trở lại. Người than khóc trở nên xanh xao và ốm yếu. Người ấy đã làm ngược với chính mình và sự than khóc của mình không đem lại gì cả." Ðức Phật nói người khôn ngoan đã thực sự nắm vững bản chất của cuộc sống, đã "rút ra mũi lao phiền muộn và thất vọng". "Người ấy không có sự bám víu. Vì đã đạt được an lạc trong tâm, người ấy đã vượt qua tất cả phiền não. Người ấy tự do."
Cho nên chúng ta nên suy ngẫm về những khía cạnh sâu xa hơn trong những lời dạy của Ðức Phật để chúng ta có thể trực diện với cái chết không bị phiền não mà hiểu biết. Người ra đi cũng không muốn chúng ta mất tự chủ. Họ cũng không muốn chúng ta bị đau lòng mà hãy chấp nhận sự ra đi của họ một cách thoải mái. Vì đã tái sinh, họ đâu còn hiện diện để nhìn chúng ta khóc than. Khóc than và phiền muộn của chúng ta không giúp gì cho họ cả. Cho nên cái đó thật phù phiếm. Nếu chúng ta suy xét sâu xa hơn, chúng ta có thể thấy phiền não của chúng ta là do luyến chấp. Chúng ta không chịu nổi sự chia ly. Nhưng nếu chúng ta suy ngẫm sâu xa hơn, và trở nên khôn ngoan hơn, chúng ta có thể chấp nhận cái không thể tránh được. Thay vì phiền não, chúng ta can đảm. Chúng ta có thể phản ứng một cách có nghĩa lý, giả thử quyết định sống một cuộc đời cao thượng và gương mẫu để tưởng niệm hay tưởng nhớ người thân. Một người khôn ngoan chắc chắn không muốn chúng ta than khóc cho người ấy. Trái lại người ấy muốn nói: "Nếu bạn thực sự muốn tưởng niệm hay tưởng nhớ đến tôi, xin hãy sống cuộc đời thiên, làm những hành vi thiện, hãy tử tế với đồng loại... Ðó là tất cả những gì tôi đòi hỏi".
Khi Ðức Phật sắp nhập diệt, người ta nói hoa trời và phấn hương gỗ đàn hương từ trên trời rải xuống khắp thân Ngài để vinh danh Ngài. Và nhạc trời cũng trỗi dậy. Nhưng Ðức Phật cho thấy tất cả những thứ vinh danh Ngài như vậy không phải là điều Ðức Phật muốn. "Không phải như vậy mà Như Lai được vinh danh đến tột độ," Ngài nói. "Nhưng này A Nan, ai tôn trọng Pháp, sống đúng Pháp, bước đúng con đường của Pháp, đó chính là cách để vinh danh Như Lai đến mức cao nhất. Cho nên này A Nan, các ngươi phải tự rèn luyện: Chúng ta phải tôn trọng Pháp, sống đúng Pháp, bước theo con đường của Pháp." Và tuy chúng tôi đã nói trước đây, chúng tôi muốn nói lại lần nữa: - Lời dặn dò cuối cùng của Ðức Phật là: "Vayadhama sankhara. Appammadena sampadetha.- Tất cả những gì duyên hợp đều phải tan rả. Hãy gắng lên chuyên cần (để giải thoát)."
THAN VAN KHÔNG THỂ TÁC ÐỘNG ÐẾN TRO CỐT CỦA NGƯỜI CHẾT
Trong những kiếp trước, Ðức Phật là một vị Bồ Tát (một vị Phật sẽ thành), cũng không biểu lộ phiền não trước cái chết của những người thân. Ðức Phật có thể bằng tâm linh nhớ lại những tiền kiếp của Ngài, và được biết rằng có một kiếp Ngài là một nông dân, ngài không phiền não khi mất một đứa con trai duy nhất. Trái lại, Ngài suy ngẫm: "Cái gì phải tan rã sẽ tan rã và cái gì phải chết sẽ chết. Tất cả đời sống chỉ là tạm bợ và phải chết." Khi một người Bà La Môn hỏi tại sao Ngài không khóc – phải chăng Ngài có trái tim sắt đá, Ngài không cảm động vì đứa con của Ngài – vị Bồ Tát trả lời rằng Ngài rất quí đứa con của Ngài, nhưng phiền não không thể mang đứa con trở lại được. "Không có than van nào có thể tác động đến tro cốt của người chết. Làm sao tôi phải phiền não? Nó đi theo con đường mà nó phải đi".
Trong một kiếp khác Ngài không khóc trước cái chết của người anh và đã bị buộc tội là vô tâm, Ngài trả lời những nguời đó không hiểu tám hoàn cảnh trần thế mà tất cả chúng sinh phải đối diện, tức là, được và thua, hạnh phúc và bất hạnh, khen và chê, nổi tiếng và bị mang tiếng. "Vì ông không hiểu tám hoàn cảnh trần thế, nên rên rỉ, khóc than. Tất cả mọi thứ hiện hữu chỉ là tạm bợ và cuối cùng phải chấm dứt. Nếu ông không hiểu điều này và vì cái vô minh của ông cho nên ông khóc và than van, tại sao tôi phải theo ông than khóc?"
Trong một kiếp khác nữa, Vị Bồ Tát không khóc trước cái chết của người vợ trẻ và đẹp. Trái lại, Ngài suy ngẫm: "Cái gì có bản chất tan rã thì phải tan rã. Tất cả những gì hiện hữu đều vô thường", và ngồi xuống một cái ghế gần đấy, Ngài dùng cơm như thường lệ, cho thấy khả năng tuyệt vời lúc nào cũng sống trong chánh niệm. Những người tụ tập chung quanh Ngài hết sức ngạc nhiên và hỏi làm sao Ngài có thể giữ bình tĩnh vào lúc như thế này. Phải chăng Ngài không yêu vợ Ngài, một người rất đẹp đến nỗi kể cả những người không biết bà cũng không cầm được nước mắt? Vị Bồ Tát trả lời bằng bài kệ:
Vì sao tôi phải nhỏ lệ với em Sammilllabhasini xinh đẹp kia ơi? Em đi về cõi chết Từ nay ta mất em . Vì sao chàng trai yếu đuối than van Những gì đối với hắn chỉ là vay mượn? Hắn cũng hít vào hơi thở tử vong Bị tước đi từng giờ bởi cái chết. Lúc hắn đứng, hắn ngồi, đi lại hay nghỉ ngơi Trong cái nháy mắt, Cái chết xẩy tới ngay. Ðời sống tôi cho là thứ không vững chắc Mất bạn bè là chuyện không tránh được Hãy trân quý tất cả những gì còn sống Buồn phiền em cũng chẳng sống lại đâu.
(Lược dịch ý)
Những chuyện rất ngạc nhiên như vậy về sự tự chủ của Bồ Tát rất đáng kính sợ. Nó cũng dạy chúng ta phải suy ngẫm kỹ và sâu xa về giáo lý để hiểu rõ chân lý của vô thường và chấp nhận sự thật về cái chết. Có lẽ khi chúng ta đau khổ vì mất người thân, chúng ta sẽ suy ngẫm như vị Bồ Tát này và giữ được sự điềm tĩnh.
CÁI CHẾT KHÔNG CÓ GÌ XA LẠ VỚI CHÚNG TA
Một cách suy ngẫm khác về cái chết để khắc phục được sợ hãi cái chết, là coi cái chết không có gì xa lạ với chúng ta. Nổi trôi đằng đẵng trong luân hồi, vòng sinh tử bất tận, Ðức Phật nói chúng ta đã chết đi và tái sinh nhiều lần không kể xiết – quá nhiều đến nỗi nếu chúng ta gom tất cả xương khô lại cùng nhau, thì mỗi đống xương đó có thể cao hơn quả núi cao nhất! Cũng vậy, Ðức Phật nói nước mắt chảy trong luân hồi vì mất người thân nhiều hơn nước của bốn đại dương.
Ðúng, Ðức Phật nói, chúng ta đã đủ đau khổ nhiều, để hoàn toàn mỏi mệt về đời sống, hãy tìm kiếm con đường để ra khỏi cái mê cung khổ đau, con đường để đi đến Niết Bàn bất diệt. Nhưng không may, chúng ta ít trí nhớ nên không nhớ được kiếp nào trong quá khứ. Làm sao mà đôi khi chúng ta không thể nhớ nổi những gì chúng ta đã làm ngày hôm qua! Cho nên chúng ta cứ tiếp tục sống một cách tự mãn, không có ý thức khẩn cấp gì để trau dồi trí tuệ để giải thoát chúng ta khỏi khổ đau. Tuy nhiên trong thời Ðức Phật, có nhiều thầy tỳ kheo, kể cả Ðức Phật dã có thể nhớ lại được tiền kiếp của mình. Ở thời nay cũng có những chuyện của những người có khả năng kỳ lạ nhớ lại tiền kiếp của họ. Francis Story và Bác Sĩ Ian Stevenson đã viết những cuốn sách, đưa ra tài liệu về một số những trường hợp này.
Khi chúng ta suy ngẫm về tái sinh chúng ta lợi trên hai phương diện:
Tóm lại chúng ta có thể coi cái chết không có gì xa lạ với chúng ta. Chúng ta đã gặp nó nhiều lần trước đây. Cho nên chúng ta không cần đối đầu nó bằng sợ hãi. Chúng ta có thể coi nó chỉ là một chuyển tiếp, sự thay đổi từ cuộc sống này đến một cuộc sống khác.
Chúng ta sẽ có động cơ tìm cách ra khỏi luân hồi, vòng sinh tử. Chúng ta có thể nghiên cứu giáo lý của Ðức Phật sâu xa hơn. Chúng ta có thể phấn đấu mạnh hơn nữa và thực hành những lời dạy của Ðức Phật, để phát triển lòng vị tha, đạo đức và thiền định.
CÁI CHẾT NHẤT THỜI
Trong một đường lối khác nhìn cái chết là cái mà ta trải nghiệm hết lần này đến lần khác. Vì trong ý nghĩa tuyệt đối, sinh và diệt liên tiếp xảy ra. Theo Ðức Phật, thức lúc nào cũng sinh ra và chết đi. Khi thức này tan rã thì lập tức thức khác nảy sinh và cứ thế tiếp diễn, vô tận, cho đến khi và trừ phi chúng ta thực hiện được Niết Bàn tối hậu. Những hiện tượng về thân thể cũng sinh diệt không ngừng. Cho nên cái mà chúng ta có chỉ là sự sinh diệt không ngừng của các hiện tượng thể chất và tinh thần. Ở một mức độ nào đó hồ như sinh và tái sinh luôn luôn xảy ra. Trong tiếng Pali, nó được gọi là khanika-maranam - cái chết nhất thời. Trong cuốn Thanh Tịnh Ðạo, nó được nói đến như sau:
"Theo tuyệt đối, chúng sinh chỉ có một thời gian sống rất ngắn ngủi, đời sống chỉ tiếp tục chừng nào mà thức còn. Giống như cái bánh xe, dù chạy hay ngừng luôn luôn dựa vào một điểm trên chu vi của nó, dù vậy đời sống của chúng sinh chỉ kéo dài trong lúc thức còn. Chừng nào mà lúc này chấm dứt, thì chúng sinh cũng chấm dứt. Vì người ta nói rằng: ‘Chúng sinh thuộc về chập quá khứ của thức đã tồn tại, nhưng không tồn tại trong hiện tại, và cũng chẳng tồn tại trong tương lai. Chúng sinh thuộc về chập tương lai không tồn tại, cũng chẳng tồn tại trong hiện tại, nhưng nó sẽ tồn tại trong tương lai. Chúng sinh thuộc về chập hiện tại đã không tồn tại, nó chỉ tồn tại trong hiện tại, nhưng nó sẽ không tồn tại trong tương lai.’" (chuyển ngữ bởi ngài Nyanatikola theo cuốn Tự Ðiển Phật Giáo)
Trong phạm vi này, chúng sinh chỉ là thuật ngữ qui ước. Phân tích đến cùng, nó chỉ là một chuỗi thức sinh ra và chết đi. Thức này chết đi thì thức kia nảy sinh - tất cả là như thế. Và chúng ta gọi tiến trìnhï tiếp tục này là một chúng sinh. Nhưng trong ý nghĩa tuyệt đối, không có chúng sinh – không có sự thay đổi của linh hồn hay tâm, mà chỉ có một chuỗi thức sinh ra và chết đi, thức này tạo điều kiện cho sự sinh ra của thức kia.
Hơn nữa cái chết thông thường mà chúng ta trải qua vào lúc chấm dứt của tuổi thọ không chỉ là cái chết tối hậu. Một thức khác tức khắc sinh ra nhưng trong một thân mới hay cảnh giới mới theo tái sinh mà ta đi vào. Chỉ khi ta đã loại bỏ được những dấu vết tinh thần của tham, sân và si, thì mới không có tái sinh. Suy ngẫm như vậy, chúng ta cũng có thể đánh giá đúng bản chất của vô thường, khổ đau và vô ngã. Và chúng ta có thể vượt qua cái sống và chết dễ dàng.
VẤN ÐỀ ÐÁNG SUY NGHĨ
Mỗi lần bạn nhìn vào tờ báo và gặp mục lời cáo phó hay những thông báo về cái chết, bạn có suy nghĩ về cái chết không? Bạn có dừng lại và suy ngẫm sự thật về cái chết của chính bạn không? Bất cứ lúc nào cái chết đến với những người khác, chúng ta không cảm thấy nhiều về việc đó. Người chết có thể là người xa lạ với chúng ta. Khổ đau không phải là của chúng ta, ngoài ra chúng ta đã trở nên hoàn toàn tê liệt trước những chuyện về cái chết – Chúng được đăng trên báo hàng ngày. Ðọc tin người ta bị giết ra sao, nhất là trong chiến tranh,sự sống dường như rẻ mạt. Dường như không có sự tôn trọng gì đối với sự sống. Nhưng khi cái chết đánh vào người thân của chúng ta, chúng ta chịu đựng ra sao? Và khi chúng ta trực diện cái chết của chính chúng ta, chúng ta có sợ chết điếng không? Vâng, mặc dầu chúng ta biết chết và các thảm kịch xẩy ra chung quanh chúng ta, nhưng chúng ta sững sờ kinh ngạc và không thể chấp nhận nó khi nó thực sự xẩy ra cho chúng ta.
Khi chúng ta đọc "mục tưởng nhớ" trong báo chí, chúng ta có thể thấy tuy một người đã chết mấy năm qua rồi, nhưng người thân vẫn còn khổ vì đau đớn bởi chia ly như thể nó mới giáng xuống ngày hôm qua. Ðôi khi trong những thông diệp, người hôn phối hay thân nhân công khai bầy tỏ buồn phiền mà họ vẫn còn cảm thấy và nước mắt vẫn nhỏ xuống bởi người thân. Chúng ta hiểu đó là tình người cảm thấy như vậy. Nhưng Ðức Phật dạy chúng ta rằng con người chúng ta có thể tự tiếp thu bằng trí tuệ và sức mạnh để chấp nhận sự mất mát và chịu đựng một cách kiên cường. Không phải là Ðức Phật muốn chúng ta vô tâm mà Ngài muốn chúng ta có trí tuệ để chấp nhận sự mất mát và hiểu biết sự phù phiếm của phiền não. Nhất định Ngài không muốn chúng ta héo hon vì phiền não, trở nên gầy gò và yếu đuối, mất tất cả lợi ích trong đời. Ðặc biệt những người Phật Tử nên hiểu điều này và do đó chấp nhận sự mất mát một cách kiên cường.
Nếu người Phật tử cần thiết đưa ra thông điệp với lời cáo phó hay để tưởng nhớ trên báo, tại sao không để những lời Pháp như: Vô thường là tất cả mọi thứ duyên hợp. Hãy phấn đấu không mệt mỏi cho Niết Bàn vôvi; hay suy ngẫm một caùch có ý nghĩa về cái chết: Giống như hạt sương trên ngọn cỏ chẳng mấy chốc vào lúc mặt trời mọc sẽ biến mất và không tiếp tục tồn tại được lâu; giống như vậy đời sống của con người giống như hạt sương rơi rất ngắn ngủi và phù du. Ta nên hiểu điều này một cách khôn ngoan, hãy làm những hành vi thiện và sống một cuộc đời đạo đức, không ai có thể thoát chết.
Hay nếu ta muốn có tính cách riêng tư, sao không để một thông điệp như sau: "Anh thân yêu, nếu anh có thể biết được, anh sẽ hài lòng biết rằng con cái lớn lên rất tốt đẹp. Em đã dạy kỹ chúng về Pháp, quý trọng những giá trị quý báu của tình thương yêu và lòng tốt, trí tuệ và hiểu biết. Em cũng dạy kỹ chúng đừng bắt chước bạo lực và tham lam thường thấy qua truyền thông như truyền hình và phim ảnh. Kết quả, chúng rất hòa nhã và thân thương với mọi người. Về phần em, em vẫn giữ giới và hành thiền. Em đang thực hành chánh niệm hàng ngày và ẩn tu một hay hai lần một năm. Em rất an lạc và phát triển trong Pháp. Em cố gắng không phiền não, vì anh và em đã hiểu một chút điều Phật dạy – đó là phiền não thật phù phiếm: Nó không có ích gì. Và em biết anh cũng chẳng muốn em phiền não, mà là sống một cuộc đời thiên và gương mẫu.
"Tuy nhiên có những lúc, em phải công nhận, khi em cảm thấy đau đớn, khi em thấy nhớ anh kinh khủng, nhất là khi nghĩ đến những lúc vui cùng nhau, hạnh phúc mà chúng ta cùng chia sẻ, nụ cười ngọt ngào và ánh mắt sáng ngời của anh, cách anh cười và chòng ghẹo. Vâng, khi em lạc vào trong cái nhớ nhung quá khứ ấy, em phải công nhận em cảm thấy nước mắt muốn trào ra. Nhưng anh thân thương, em có thể tự kiềm chế được. Em có thể có chánh niệm. Em có thể quan sát cái đau đớn và chấp nhận nó. Em có thể quan sát tư tưởng và tâm trạng em. Em có thể suy ngẫm giáo lý của Ðức Phật và hiểu sự phù phiếm của phiền não. Em có thể hạnh phúc và trông vào các phước báu – ít nhất chúng ta đã có những giờ phút hạnh phúc bên nhau và bây giờ chúng ta có con cái để sống vì chúng. Em hiểu sự đau đớn đến từ sự luyến chấp và thiếu sự hiểu biết sâu xa về bản chất của tất cả cuộc sống. Cảm ơn Ðức Phật đã dạy chúng ta về chánh niệm, dạy chúng ta sống trong hiện tại, phải luôn luôn hạnh phúc, trông mong vào phước báu, tắm mình trong hạnh phúc của một cuộc đời đã sống lương thiện.
"Vậy thì, em biết lời nhắn nhủ này đã dài rồi. Em cũng biết rằng anh không ở đâu đây để nghe. Nhưng nó làm cho em cảm thấy dễ chịu được bầy tỏ theo cách này. Em cảm ơn anh về hạnh phúc mà anh đã cho em, và em dành tất cả những hành vi thiện mà em đã làm, và đời sống thiện mà nay em đã cố gắng sống, tất cả em dành cho kỷ niệm ngọt ngào và thân thương của anh. Em cũng chúc anh, dù tái sinh tốt thế nào, cầu nguyện anh hãy tiếp tục tu tập Pháp cho đến khi anh đạt được Niết Bàn, sự chấm dứt tất cả khổ đau, vân vân... và vân vân..."
Thừa nhận đây là một một thông điệp khá dài mà tôi đã hơi say mê một chút. Nhưng điều tôi muốn nhấn mạnh nơi đây là chủ đề của thông điệp, một chủ đề về hiểu biết và chấp nhận. Ðó chỉ là đưa ra ý niệm về lời nhắn nhủ cách diễn đạt Phật Giáo. Nó có thể được rút ngắn lại và viết đơn giản hơn. Hay ngoại trừ mục đích giáo dục của nó (có nghĩa dạy dỗ), lời nhắn nhủ có thể là không cần thiết. Những cảm nghĩ như vậy có tính cách cá nhân và có thể được giữ riêng tư. Khi ta hiểu thấu Pháp, ta có thể tiếp tục sống một cuộc đời thiện và mãn nguyện.
Ðọc báo và tạp chí có thể cho chúng ta nhiều cái đáng suy ngẫm. Bên cạnh những cáo phó, có những chuyện ác liệt nhắc tới khổ đau trên khắp thế giới, dẫu cho chúng ta có thể chết lặng đi vì nó. Có những vụ giết người, trộm cướp, hiếp dâm và chiến tranh, những vụ xung đột tôn giáo, sắc tộc, xã hội và chính trị, ô nhiễm, bệnh tật, chết đói, nghèo túng, tra tấn, áp bức, khủng bố, tai nạn, tự tử và những thiên tai như động đất, hỏa hoạn, lụt lội và bão tố. Quả là một bản liệt kê dài và đáng buồn cứ tiếp tục.
Ðồng thời bên cạnh những tin tức có những bức tranh và quảng cáo trình bày những người hạnh phúc đang hưởng thụ cuộc sống như thể không quan tâm gì đến thế giới. Họ cười và chụp hình đằng sau các xe sang trọng, những lâu đài đồ xộ, những căn phòng khách sạn lộng lẫy, những chai rượu, thuốc lá, nước hoa, mỹ phẩm, đồ trang phục trình bày quyến rũ, và đồ trang sức lộng lẫy. Họ đắm mình trong những tiệc tùng, cuộc thi sắc đẹp và biểu diễn thời trang với những người kiểu mẫu đẹp và sành điệu diễu hành trên lối đi của bục trình diễn. Sự tương phản đặc biệt thật mỉa mai, khi bạn nhìn thấy một cuộc biểu diễn thời trang lớn bên cạnh một bức tranh não lòng của những trẻ em Phi Châu đáng thương chỉ còn da bọc xương gần chết đói.
Người ta nói chúng ta là người văn minh ghê tởm bạo lực và sự gây đau đớn điên rồ cho người khác. Tuy nhiên chúng ta có những trận đấu tranh tài vô địch quyền Anh của hai võ sĩ khỏe mạnh, vì món tiền lớn, cố hết sức giã vào đầu nhau giữa những tiếng la hét tán thưởng rầm rộ của người xem, không phải là không giống thời dã mãn của người La Mã khi những đấu sĩ đánh nhau với sư tử hay với nhau để giải trí cho những khán giả khát máu. Chúng ta có những người đấu bò, điên lên, hành hạ và giết con bò chỉ để mua vui. Và mọi người, hay ít nhất những khán giả đông nghẹt tại đấu trường, dường như nghĩ rằng đó cũng là trò vui.
Hút thuốc và uống rượu đã gây thiệt hại rất lớn cho sức khỏe của con người, tuy nhiên các hãng thuốc lá và làm rượu vẫn cứ cung cấp bằng mọi cách, thậm chí thông qua các võ đài thể thao, những sản phẩm chết người của họ. Hút thuốc được mô tả một cách lố bịch là "gặp gỡ sự dịu hiền" và uống rượu ngang bằng với thành công và uy tín giữa nhiều việc khác! Cái gọi là các nước phát triển bán hạ giá thuốc lá và những sản phẩm có hại khác cho các nước Thế Giới thứ ba, trong khi kiềm chế sự tiêu thụ các sản phẩm ấy trong dân chúng của họ. Trong sự tham lam quá quắt của cải của họ, các hãng xưởng sẵn sàng làm bất cứ cái gì, dường như không có một chút băn khoăn nào về tất cả những gì họ nói hay làm trong việc cung cấp các sản phẩm như vậy. Các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí và tạp chí, chấp nhận và phát hành quảng cáo vì tham lam số tiền lớn mà họ mang đến, không thể tự tha trách nhiệm của mình. Họ có nhân quyền cơ bản để thi hành lương tâm xã hội bằng cách từ chối những quảng cáo có hại nhưng họ chọn cách không làm thế.
Nhìn vào một tạp chí hàng không bóng loáng, bức ảnh ông chủ tịch già một hãng bia ở Thái Lan đã khiến tôi lưu ý. Mặc com lê và với mớ tóc hoa râm, ông ta hãnh diện trình bày, trong phòng họp sang trọng của ông, một dẫy chai bia sản xuất bởi hãng của ông. Ngay đàng sau ông là một cái bàn thờ với hình ảnh Ðức Phật chiếu sáng lấp lánh. Ta có thể nhìn thấy bàn thờ đã được bầy ở giữa phòng một cách rất ấn tượng. Vì chúng ta đều biết Ðức Phật dạy về sự cấm rượu, giới thứ năm mà tất cả người Phật tử tán thành nói rằng: "Tôi nguyện giữ giới không uống rượu hay dùng ma túy, vì nó là nguyên nhân làm mất sự lưu tâm". Cho nên người giữ giới khó có thể thỏa hiệp với sự sản xuất và phân phối rượu hàng loạt, được coi như một cách sống sai lầm trong Ðạo Phật, với hình ảnh của Ðức Phật, được trình bày một cách trang trọng trong phòng.
Sulak Sivaraksa, một nhà hoạt động và phê bình xã hội Thái, viết trong cuốn sách của ông, "Những hạt giống của Hòa Bình": "Sự thật đáng buồn là Thái Lan có khoảng 250,000 nhà sư nhưng gái mãi dâm nhiều gấp đôi. Ðiều này phát ngôn cho một hệ thống không hữu hiệu và phải thẩm xét lại từ cội nguồn. Nếu chúng ta có thể quay về nguồn gốc tốt đẹp của truyền thống Á Châu, chúng ta có thể tạo ra một kiểu sống lành mạnh và hữu hiệu". Kể ra hai thí dụ sau cùng, chúng tôi không có ý chỉ trích Thái Lan, mà chỉ là nhấn mạnh vào cái dị thường. Thật ra, dị thường hiện hữu ở khắp nơi. Giống như ở Thai Lan, những việc đó cũng thấy ở Phật Giáo Miến Ðiện, Phật Giáo Sri Lankha, xứ sở của chúng tôi và ở bất kỳ một xứ nào khác. Không ai có độc quyền.
Vâng, chúng ta có thể tiếp tục dài dài với bản liệt kê những mâu thuẫn trên thế giới mà chúng ta sống, chúng ta tin chỉ điều này cũng đủ để thấy vấn đề. Vâng, phải chăng hồ như chúng ta không phải là một xã hội có một trạng thái tâm lý bị chia rẽ hay loạn tinh thần? giống như một Bác Sĩ Jekyll và ông Hyde. Chúng ta biết cái gì là bất thiện, tuy nhiên chúng ta tha thứ và thậm chí còn khuyến khích sự tăng trưởng của nó. Rõ ràng, dù muốn dù không chúng ta bị vương mắc vào đấy, và chúng ta lao vào theo ngọn thủy triều. Ðược lập trình và bị tác động bởi những người có thế lực trong phương diện truyền thông quảng cáo đại chúng, chúng ta đáp ứng điều khiển và thông điệp của họ. Mua cái này, mua cái kia. Ăn cái này, ăn cái nọ. Mặc cái này, mặc cái kia. Làm cái này, đừng làm cái đó. Cái này thô kệch và cái đó có tính chất đàn bà. Cái này đúng mốt và cái kia không. Ðây là lối sống tuyệt vời; đó là xã hội giàu sang đi đây đi đó bằng máy bay phản lực, một thế giới vui nhộn và tiêu khiển tuyệt vời.
Xin thứ lỗi cho tôi nếu tôi có vẻ giống một người chỉ trích, một trò thể thao xấu, một nhà sư giận dữ đứng trên bục diễn giả ngoài trời cao giọng tuyên bố rằng ngày tận thế gần kề và đe dọa một xã hội suy đồi bằng lửa địa ngục. Nhưng bạn có thể đồng ý với tôi rằng có lẽ đó không phải là một ý kiến xấu, nếu thỉnh thoảng, chúng ta lùi lại một phút và nhìn vào tình hình thế giới, trạng thái tâm chúng ta và tình trạng cuộc đời chúng ta. Một số trí tuệ có thể nẩy sinh từ sự suy ngẫm đó. Chúng ta có thể đánh giá lại lập trường của chúng ta và hướng đi mà chúng ta muốn theo. Chúng ta theo đám đông hay chúng ta bỏ hàng ngũ? Và giả dụ tôi xin mượn một vần thơ của Robert Frost: Hai con đường rẽ ra hai ngả trong rừng rậm và tôi – tôi đi con đường ít người qua lại. Và việc đó đã làm cho sự thể thay đổi hoàn toàn. Vâng, khi hai con đường rẽ hai ngả trong đường đời, bạn đi con đường nào? Con đường ít người đi – con đường của chánh niệm và trí tuệ, con đường của tình thương và từ bi? Xin hãy nghĩ về việc này, vì nó có thể làm sự thể hoàn toàn thay đổi.
Nơi đất và nước Lửa và gió không tìm được duyên hợp, Dòng thủy triều đang tắt dần Vòng luân hồi không còn xoáy tít nữa Tâm và vật sẽ ngừng không còn gì lại nữa