Con đường Phật Giáo có nghĩa lý và đơn giản. Nếu chúng ta hiểu và đánh giá cao con đường Phật Giáo, thì tang lễ Phật Giáo sẽ rất đơn giản tránh nghi thức và nghi lễ dị đoan, tránh sợ hãi, lo lắng hay bối rối. Ta không cần phải đốt cái này cái kia,tiến hành những loại nghi thức xa lạ, và phải tuân thủ tất cả những điều cấm kỵ, tất cả những thứ hoàn toàn vô nghĩa và gây bối rối cho những người sống thường bị cuốn theo điều đó vì sợ hãi, áp lực xã hội hay dốt nát hơn là bất cứ cái gì khác. Ta không phải mời những người chuyên nghiệp để tụng kinh hay thực hiện các nghi thức cho một lệ phí nặng nề lên tới cả ngàn Mỹ Kim hay thuê một ban nhạc để cử nhạc mặc dù có thể là nhạc rất nghiêm trang.
Là một Phật tử, ta chỉ cần mời những nhà sư Phật Giáo để tụng kinh Phật Giáo không cần phải dài. Sẽ là tốt nếu có thể những kinh này được dịch ra tiếng Anh hay Trung Hoa để tất cả mọi người có mặt có thể hiểu được, cảm niệm và sưy ngẫm về cái đã được tụng những điều Ðức Phật đã dạy về bản chất của sự sống và cái chết. Quan trọng nhất là giữ năm giới bởi người cư sĩ – tụng bằng tiếng Pali, được phiên dịch thì tốt hơn theo nhà sư. Sự gìn giữ và tuân theo năm giới là sự tu hành căn bản của người cư sĩ Phật Giáo. Sau khi thọ giới, nhà sư có thể nói Pháp để an ủi, khuyên giải và khuyến khích người có thân nhân chết.
Trong truyền thống Nguyên Thủy, các nhà sư không thu một khoản lệ phí nào về buổi lễ của họ. Lễ này các nhà sư làm do lòng từ bi, để hỗ trợ tinh thần cho những cư sĩ thuần thành trong giờ cần thiết của họ. Bởi vậy các nhà sư không tìm kiếm sự đền bù bằng tiền bạc vì điều đó không hòa hợp với tinh thần Phật Pháp. Tuy nhiên, những cư sĩ thuần thành đôi khi cúng dường một phong thư đỏ cho vị sư để mua những thứ cần thiết, như y áo hay thuốc men. Số tiền này, nếu cúng dường, chỉ là một biểu hiện biết ơn. Thực ra, các nhà sư không mong muốn phong bì đỏ, và nếu nó được cúng dường thì chỉ là sự cúng dường hoàn toàn theo sáng kiến của người cúng dường. Phơng bì này là biểu hiện sự biết ơn không phải là lệ phí mà là cúng dường. Lệ phí, trong trường hợp tang lễ, thường là một món tiền lớn lao được ấn định bởi người làm dịch vụ tang lễ trước khi đồng ý tiến hành những tế lễ tỷ mỉ. Và như chúng tôi đã nói điều đó không phải là việc làm của một nhà sư.
Những thân quyến, đương nhiên có thể cúng dường đồ ăn cho các vị sư tại chùa. Những người có khả năng hơn có thể cúng dường in kinh sách Phật Pháp để biếu không. Họ cũng có thể cúng dường cho những cơ sở từ thiện, cho những người nghèo, và những người túng thiếu. Thay vì những vòng hoa tang, thân quyến và bạn bè nên được khuyến khích cúng cho những hội từ thiện đặc biệt. Tất cả những việc như thế làm tang lễ có ý nghĩa – bớt đi những lề thói vụng về đem đến nhiều bối rối và uổng phí tiền bạc.
CHÚNG TA CÓ THỂ HỌC HỎI TỪ NHỮNG NGƯỜI KHÁC
Người chết có thể đem thiêu hay đem chôn ngay – vào cùng ngày hay ngày hôm sau. Trên phương diện này tôi nghĩ những gia đình Trung Hoa nên học hỏi một đôi điều từ đám tang của người Hồi Giáo mà tôi được biết là đơn giản, thực tế và không tốn kém. Một người Hồi Giáo bạn tôi nói cách thức của người Hồi Giáo là chôn ngay vào ngày chết hay chậm nhất là ngày hôm sau. Cho nên nếu một người Hồi Giáo chết lúc 2 giờ chiều, người chết có thể được chôn trước khi mặt trời lặn vào cùng ngày. Nếu người chết vào buổi tối hay đêm, người ấy được đem chôn ngày hôm sau.
Tang lễ không tốn kém, dễ lo liệu vì như người bạn tôi nói, Hồi Giáo không khuyến khích tiêu pha phung phí mà khuyến khích đơn giản và tiết kiệm. Một đám tang Hồi Giáo theo như bạn tôi nói có một quan tài với giá ít ỏi là 500 đồng (tiền Mã Lai) – rất khác với một tang lễ Trung Hoa có thể tốn kém đến 30,000 đồng hay hơn nữa! Thủ tục tang lễ của người Hồi Giáo, trong phạm vi Hồi Giáo, tương đối đơn giản và có ý nghĩa. Tang lễ của người Cơ Ðốc Giáo cũng đơn giản, không tốn kém và có ý nghĩa đối với người Cơ Ðốc Giáo, và sư chôn cất được thi hành trong phạm vi 48 giờ.
Tôi tin rằng trong đời sống chúng ta không bao giờ ngưng học hỏi. Thường có những cách làm tốt hơn và có ý nghĩa hơn. Nếu chúng ta duy trì tâm cởi mở và không thành kiến chúng ta có thể học hỏi được từ những người khác. Trong Kinh Kalama, Ðức Phật khuyên chúng ta phải luôn luôn suy nghĩ và điều tra nghiên cứu chính chúng ta. Nếu chúng ta thấy một thói quen tốt và có ý nghĩa thì chúng ta nên theo; nếu chúng ta thấy nó xấu và vụng về thì chúng ta không theo nó, hay nếu chúng ta đã chót theo nó, chúng ta nên đủ dũng cảm và khôn ngoan để bỏ nó đi. Ðức Phật nói, không có gì mà ta phải theo một cách mù quáng không hiểu biết hay không đặt câu hỏi. Ðức Phật khuyến khích chúng ta đặt vấn đề và điều tra nghiên cứu. Cả đến những lời của Ngài cũng phải điều tra nghiên cứu, và chỉ khi thấy những lời nói ấy đúng thì hãy theo. Ðức Phật không muốn chúng ta có niềm tin mù quáng mà là một niềm tin căn cứ vào kiến thức kinh nghiệm trực tiếp.
Cho nên, nếu chúng ta thấy những sự thực hành đơn giản và tốt ở những tôn giáo và truyền thống khác, chúng ta có thể áp dụng và theo chúng miễn là chúng không mâu thuẫn với niềm tin đạo lý của chúng ta. Về phương diện này, chúng ta có thể học hỏi từ những người về cách họ thi hành tang lễ nhanh chóng và không tốn kém. Chúng ta cũng nên loại bỏ những lề thói dị đoan và không phải là Phật Giáo của chúng ta.
Tôi thấy có nhiều dị đoan trong tang lễ truyền thống của người Trung Hoa, và chính tôi đã thấy những lề thói này trong khi tụng kinh ở tang lễ. Tôi cảm thấy bát lực vì tôi chỉ có thể chứng kiến trong thầm lặng. Có một chút mà ta có thể làm được. Truyền thống rất khó để thay đổi, và bất cứ cố gắng nào để thay đổi thường gặp phải sự chống đối mãnh liệt và thâm chí bị kết tội nữa.
Có những lúc tôi ngần ngại không muốn đi tụng kinh tang lễ vì băn khoăn rằng sự có mặt của tôi ở đó là phụng sự cho mục tiêu gì. Nhưng tôi luôn luôn hưởng ứng và cố làm những gì có thể được bằng cách nói Pháp và làm trong sáng tỏ lập trường của Phật Giáo bằng sự khéo léo có thể được. Tôi nghĩ rằng bây giờ là thời điểm cấp bách mà người Phật tử Trung Hoa xét lại những thói quen tang lễ theo truyền thống và nên giản dị hóa theo trí tuệ Phật Giáo. Tôi có thể bị chỉ trích về quan niệm của tôi nhưng tôi cảm thấy nếu chúng ta không nói lên, chúng ta sẽ làm hại cho cộng đồng Phật Giáo.
Nếu tôi có thể đề xuất một tang lễ Phật Giáo đơn giản, tôi sẽ đề nghị việc hỏa táng nên được tiến hành cùng ngày nếu có thể được, còn nếu không thì vào ngày hôm sau. Tuy nhiên một số người muốn giữ thi thể một vài ngày để thân quyến và bạn bè ở xa có thể về tiễn biệt người ra đi lần cuối, hay với nhiều lý do riêng tư. Cho nên việc quyết định sẽ là một quyết định riêng tư do gia đình lo liệu. Tôi đề nghị thiêu hơn là chôn vì nhiều suy xét thực tế như thiếu đất, dân số tăng trưởng, và tiết kiệm chi phí tang lễ có thể hướng vào những nhu cầu có nghĩa hơn như từ thiện.
Người chết nên được tắm rửa, sạch sẽ và mặc quần áo bởi thân nhân hơn là người lạ. Việc này có ý nghĩa vì xác thân là người yêu dấu của chúng ta, và điều tối thiểu chúng ta có thể làm được là nhẹ nhàng thi hành vời lòng thương yêu và kính trọng. Thi hài được mặc quần áo không cần thiết phải khoa trương hay hình thức mà người chết nên mặc đồ thường được thích mặc khi còn sống. Thi hài đàn ông nên được tắm rửa và mặc quần áo bởi thân quyến đàn ông, và thi hài phụ nữ thì do thân quyến phụ nữ. Chúng ta không nên cảm thấy sợ hãi gì về xác chết, nhất là xác chết của người thân yêu.
Cũng không có điểm nào nói là phải để đồ trang sức trên thi thể. Một lần trong khi tụng kinh tại tang lễ, tôi thấy những người lo việc mai táng phục sức xác người chết với những chiếc nhẫn và những bông tai làm cho người chết. Việc này thật mỉa mai và vô nghĩa khi cho rằng dù tái sinh nào thì người chết cũng sẽ mang theo, ông ấy hay bà ấy không thể mang theo một thứ gì ngoại trừ toàn bộ những hành vi tốt và xấu.
Khi nhấc xác từ trên giường và đặt vào quan tài, việc này nên để thân quyến làm, và bao giờ thi thể cũng phải được tiến hành một cách kính trọng và nhẹ nhàng. Thói quen quay lưng lại phía người chết khi thi hài được đưa vào quan tài hay khi quan tài được đặt vào xe tang là một việc kỳ cục. Người chết là người thân yêu của chúng ta và chính chúng ta trước nhất phải nhẹ nhàng đặt thi hài vào quan tài, hoặc đứng chứng kiến một cách kính cẩn trong khi những người khác làm. Quay đi để lưng hướng về người chết với tôi là một biểu hiện thất kính! Tôi không thể không nghĩ rằng nếu tôi là người chết tôi sẽ bực mình vì bị đối xử một cách như thế.
Thói quen quay lưng lại chỉ là một dị đoan khác. Tại sao chúng ta phải sợ sự không may giáng xuống chúng ta nếu chúng ta không tuân theo những điều cấm kỵ như thế? Là người Phật tử chúng ta nên tin vào nghiệp, nghiệp chính là nơi nương tựa và hỗ trợ đích thực của chúng ta. Làm tốt được tốt làm xấu bị xấu. Chúng ta nên sợ những hành vi xấu, như không giữ giới, và những hành vi xấu như thế sẽ mang lại khổ đau. Ðiều cuối cùng chúng ta cần sợ là dị đoan, những điều cấm kỵ vô căn cứ.
Quan tài không cần đắt tiền. Nó phải được đặt ở phòng lớn với một số hoa sắp đặt khéo léo chung quanh và hình ảnh của người chết. Một vài câu Phật Pháp có ý nghĩa, một đoạn trích hay tục ngữ có thể treo để suy ngẫm. Không cần giữ vòng hoa tang đến, thay vì vòng hoa tang, tiền phúng viếng nên được gửi cho các cơ sở từ thiện mà gia đình người chết có thể định rõ. Nên tiêu pha thế nào để tiết kiệm bằng cách tổ chức tang lễ đơn giản và có ý nghĩa để có thể hướng về tổ chức từ thiện.
Ðồ ăn không cần phải để trước linh cữu người chết vì chúng ta đã giải thích, người chết sẽ không thể ăn. Ðốt giấy tiền vàng mã cũng vô nghĩa và không nên làm. Ðốt nến và hương cũng không cần thiết. Thực ra nhiều lề thói dị đoan và những điều cấm kỵ thường đi kèm với nghi lễ truyền thống của người Trung Hoa nên được dẹp bỏ, khi nhớ đến những lời của Ðức Phật là một người cư sĩ thuần thành phải có năm đức tính: "Người cư sĩ phải có niềm tin, giữ kỷ luật tinh thần, không tin vào những điềm triệu dị đoan; tin vào nghiệp, không tin vào điềm báo; không tìm thiên thần quỷ vật ngoài nơi đây (ngoài hệ thống của Ðức Phật) và chứng tỏ danh dự nơi đây (có nghĩa là tôn trọng hệ thống của Ðức Phật và không nên tự mình lệ thuộc vào những lề thói không phải là Phật Giáo)".
Mặc quần áo tang chế là không cần thiết. Ðức Phật không muốn chúng ta than khóc hay phiền muộn mà chấp nhận sự thật về việc chia lìa và cái chết bằng trí tuệ và sự thanh thản. Soka hay phiền não là một trạng thái tâm không lành mạnh và ta phải vượt qua nó bằng chánh niệm và suy ngẫm khôn ngoan. Bởi vậy các bậc Tư Ðà Hàm và A La Hán (đã đạt được giai đoạn thứ ba và thứ tư của quả vị thánh) không than khóc và phiền não. Khi Ðức Phật nhập diệt, những nhà sư đã đạt được thánh quả Tư Ðà Hàm và A La Hán không khóc. Hiểu biết bản chất của vô thường, họ không phiền não dù cho Ðức Phật qua đời trước mắt họ.
Ðức Phật cũng chẳng phiền não khi hai đệ tử lớn của Ngài là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên chết trong vòng hai tuần kẻ trước người sau vào khoảng sáu tháng trước Ngài. Chính Ðức Phật đã nhận xét: "Tuyệt vời, hết sức tuyệt vời, này các tỳ kheo, về những bậc giác ngộ như khi cặp đệ tử qua đời, Ðấng Giác Ngộ không phiền não, không than khóc". Và Ðức Phật nói thêm: "Vì về cái sinh ra, đi đến trụ, hợp thành, và phải bị hoại thì làm sao lại nói nó không phải ra đi? Ðương nhiên, điều đó là không thể được.
"Cho nên, này các tỳ kheo, các ngươi là hải đảo của chính các ngươi, là nơi nương tựa cho chính các ngươi chứ không có nơi nương tựa bên ngoài nào khác, với Giáo Lý là hải đảo, Giáo Lý là nơi nương tựa, không tìm nơi nương tựa nào khác."