Hơn ba mươi năm chiến tranh đã in dấu sâu đậm lên cuộc sống của cả dân tộc Việt Nam ta, của mỗi gia đình và mỗi con người. Khi khởi đầu không ai nghĩ chiến sự sẽ kéo dài, kéo dài mãi đến như vậy. Về sau người ta chịu đựng, kiên trì và nhẫn nại chịu đựng với ý nghĩ rằng độc lập và tự do là điều quý nhất, có độc lập, tự do rồi sẽ có tất cả, mọi hy sinh đều là cần thiết cho mục tiêu cao cả ấy.
Nhìn lại những cuộc đấu tranh lâu dài trên đất nước mình, nhìn lại cuộc đời cầm súng của mình trong 37 năm có lẻ, tôi thấy những gì sâu sắc nhất?
Cuối tháng 10. 1990 tôi dự cuộc Hội thảo do tổ chức của tướng Leclerc mời với đề tài: Tướng Leclerc và Đông dương. Có hơn một chục vị tướng Pháp, các nhà sử học nổi tiếng như Devillers, Brocheux..., các nhân vật liên quan hồi đó như ông Messmer (từng là thủ tướng), ông Misoffe (bộ trưởng) và cả ngọai trưởng Polang Dumas tham dự. Tôi từng nghiên cứu vến đề này và đến dự cùng hai cán bộ của sứ quán Việt Nam (một tham tán chính trị và một bí thư thứ hai). Bản tham luận của tôi đựơc chú ý. Qua việc đánh giá tướng Leclerc, tổng chỉ huy quân sự ở Đông dương, những quan điễm của ông về chính trị và quân sự, thái độ thực tế và thức thời của ông, chính kiến của ông khác với chính kiến của đô đốc D Argenlieu Cao ủy Pháp và là Tổng tư lệnh quân lực Pháp ở Đông dương ra sao, các diễn giả đều đề cập đến sự kiện khởi chiến ở Việt Nam ngày 19. 12. 1946. Ai cố tình gây chiến trước? Khi chiến tranh bùng nổ rồi thì ngừng bắn sẽ rất khó khăn. Vậy thì tại sao chiến tranh bùng nổ? Lỗi tại ai, từ phía nào? Đây là một sự kiện bị nhiễu lọan nhất, có nhiều điểm ản dấu nhất ở cả hai bên. Có phải phía Pháp đã cố tình khởi chiến, từ việc gây ra những cuộc nổ súng ở Hải Phòng, rồi ở Hà Nội và 2, 3 ngày trước đó đã cho xe tăng đi nhiều thêm một cách bất thường trên đường phố Hà Nội, đột nhiên tăng viện binh từ Pháp sang rồi đánh chiếm Sở Tài chính (nay là trụ sở Bộ Ngọai giao), đưa tôi hậu thư yêu cầu do phía Việt Nam không ổn định được an ninh, nên phía Pháp sẽ đảm nhận việc này, rồi sau đó ra lệnh cấm trại tất cả binh lính Pháp...Phải chăng phía Pháp đã có một kế hoạch tỉ mỉ leo thang dần để đi đến khởi sự cuộc chiến tranh rộng khắp? Hay phía Việt Nam đã có kế hoạch trước, dự định từ mấy tuần trước đó là đêm 19 tháng 12 năm 1946 sẽ nổ súng. Hiệu lệnh khởi sự là phá Nhà đèn Yên Phụ, tắt điện trong tòan thành.
Cũng có nhà sử học Pháp đưa ra nhận định rằng về phía Việt Nam, ông Võ Nguyên Giáp đã đưa ra lệnh tiến công mà không cho ông Hồ Chí Minh biết. Đây là một phỏng đoán chủ quan, thiếu cơ sở vì một việc trọng đại như thế này ông Giáp không thể tự ý chủ trương được. Phỏng đoán như thế là không hiểu cơ chế và tinh thần làm việc của phía Việt Nam.
Sau khi nghiên cưứ nhiều tài liệu, tôi thấy lúc ấy hai bên đều có những nhận định rất giống nhau và cả hai bên đã hiểu nhầm nhau! Những nhận định rất giống nhau là: Con đường hòa đàm đã tan vỡ không phương cưứ chữa được nữa. Chiến tranh tất yếu sắp nổ ra. Bên nào cũng có kế hoạch ứng phó với tình hình xấu nhất đang tới rất gần. Bên nào cũng có ý định là nếu bên kia gây sự lớn thì phải kịp thời giáng trả lập tức để khỏi mất quyền chủ động...Cả hai bên trong thâm tâm đều chưa muốn bước vào một cuộc chiến tranh toàn bộ ngay vì thủ tướng thuộc đảng xã hội Leon Blum vừa lên cầm quyền và ông Marius Moutel Bộ trưởng thuộc Dịa sắp lên đường sang Đông dương. Thế nhưng khi quân của hai bên đã o thế cài răng lược, ở hai phái đều có những phần tử trẻ hăng máu, cực đoan thì bất cứ một sự xô sát nhỏ nào, một cuộc bắn nhau nhỏ nào cũng có thể tạo thành một đám cháy lớn! Hai bên đều chưa muốn bước vào một cuộc chiến tranh lớn nhưng đều chuẩn bị rất khẩn trương, luôn sẵn sàng cho khả năng xấu nhất để tránh bị động. Những cuộc chạm súng liên tục và ngẫu nhiên đã là tia lửa tạo nên đám cháy lớn...
Đất nước bị cuốn hút vào chiến tranh bi thẩm như vậy đó.
Theo tôi cái lỗi chính là ở quan điểm thực dân lỗi thời vẫn còn tồn tại trong chính giới Pháp, kể cả trong đảng Xã Hội và đảng Cộng Sản. Yêu nước Pháp đối với người Pháp là phải khôi phục các thuộc địa, giữ nguyên sự hùng mạnh của Đế chế Pháp. Tướng Leclerc đã kể rằng, Phó thủ tướng và là Tổng bí thư đảng Cộng sản Pháp Maurice Thorez gặp ông ta trước khi ông lên đường nhận nhiệm vụ ở Đông dương, đã vỗ vai ông và nói rằng: "Cognez! Cognez-fort!" (Hãy đánh đi, đánh mạnh vào!). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chấp nhận công thức "nước Việt Nam tự do trong khối Liên hiệp Pháp", mà chính quyền Pháp vẫn không chịu đồng ý! Cứ theo kể lại thì tình hình không ổn định của các chính phủ Pháp kế tiếp nhau, việc giao thông liên lạc cách xa nhau 12. 000 km làm cho việc nắm tình hình và chỉ đạo gặp rất nhiều trắc trở và quá chậm chạp, tinh thần cố chấp cực đoan của đô đốc D Argenlieu...đều là những nguyên nhân làm cho chiến tranh bùng nổ tai hại cho cả hai bên...
Nếu như chính phủ Pháp biết sử xự với các thuộc địa của mình như chính giới Anh đối với Ấn Độ thì đâu đến nỗi bi đát như vậy! Nước Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp sẽ có thể yên ổn và phát triển, tránh bao nhiêu hy sinh và tàn phá, và có thể tránh cả cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ về sau!
Một câu hỏi tôi thường được các nhà báo Mỹ và phương Tây, các học giả ở Đông Nam và gần đây là một số nhà quân sự Pháp hỏi: Vì sao Mỹ lại thua trận ở Việt Nam? Kèm theo nhiều câu hỏi khác về Tết Mậu Thân 1968, về vũ khí hiện đại của Mỹ, về đường Hồ Chí Minh, về B-52 đánh phá trên miền Bắc, về chiến tranh ở Căm pu chia. Đó là những vấn đề rất rộng lớn. Tôi chỉ có thể trình bày ở dưới đây rất gọn một số suy nghĩ riêng của mình.
Tôi đã viết kịch bản cho một bộ phim tư liệu: "Một trăm câu trả lời cho một câu hỏi, " về chuyện Việt Nam vì sao dành được toàn thắng. Trước khi sang Pháp tôi đã sửa lại kịch bản này để chuẩn bị cho một bợ phim hợp tác với các nhà điện ảnh _c (Australia), dự kiến có tên là: "Cuộc đối thoại giữa hai Tổng hành dinh do xưởng phim của Hội Nhà văn thực hiện. Theo tôi có biết bao nhiêu yếu tố tạo nên chiến thắng: Con người, lịch sử, phong tục, văn hóa, văn học, nghệ thuật. Rồi thời tiết, địa lý, môi trường, khí hậu...cũng có tác dụng. Rồi các mối quan hệ chằng chịt trên thế giới, các mối liên minh thay đổi, các mối liên kết khu vực. Rồi đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao. Rồi quan hệ giữa Sài Gòn và Washington-Quan hệ giữa Washington với đồng minh-Quan hệ Việt nam với Liên xô, Trung quốc...về quân đội: Người lính, người sĩ quan của cả hai bên...Chiến thuật và chiến dịch...Chiến dịch và chiến lược...Tiền tuyến và hậu phương của hai bên. Vai trò cũa báo chí, truyền thanh và truyền hình. Chế độ dân chủ và chế độ chính trị thời chiến...Vấn đề thời cơ, tạo thời cơ và tận dụng thời cơ...
Trong tất cả các vấn đề phong phú và lý thú ấy, trong cuốn sách này, tôi chỉ nêu qua một vài vấn đề đơn giản nhất.
Trước hết Đông nam á và Đông Dương không được xác định là một khu vực trọng điểm trong chiến lựơc của Mỹ, không phải là nơi gắn bó với quyền lợi sống còn của Mỹ. Mỹ bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh này từng bước một, theo đà, theo một quán tính. Khởi đầu là ủng hộ Pháp trong cuộc chiến tranh của Pháp định giành lại ba nước Đông dương, rồi tiếp theo một bước, chi tiền khá lớn cho Pháp trong cuộc chiến tranh ấy.
Đến sau Hiệp định Giơ ne vơ, Mỹ lao sâu thêm giúp cho chế độ Sài Gòn, cố giành thắng lợi trước hết ở cuộc chiến tranh một phía với các chiến dịch tố cộng, diệt cộng...Cuộc chiến tranh này không đạt, lại lao thêm vào cuộc chiến tranh đặc biệt với cố vấn Mỹ, vũ khí Mỹ, chuyên gia kỹ thuật Mỹ ngày càng nhiều. Rồi chiến tranh đặc biệt không thành, lại bị động sang chiến tranh cực bộ. Ngay trong chiến tranh cực bộ Mỹ cũng muốn dành chiến thắng với thời gian ngắn nhất và với số quân Mỹ thấp nhất. Khởi đầu là 8 tháng, rồi 18 tháng, với 16 vạn quân, rồi 28 vạn quân. Sau cùng lên đến 50 vạn quân, nếu kể cả quân Thái Lan, quân ở hạm đội 7 và trên hậu cứ Okinawa thì tới 70 vạn quân! Chiến tranh cục bộ lại kết hợp với chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên miền Bắc, và cuộc chiến tranh này cũng tiến hành theo từng nấc thang một. Khởi đầu là đánh phá vùng giới tuyến, vùng ven biển, vùng trong vĩ tuyến 19, rồi trên vĩ tuyến 20, rồi đánh vào các khu công nghiệp và sau cùng là vào thủ đô Hà Nội, với các loại máy bay chiến thuật, sau đó là máy bay chiến lược B 52...
Trong chỉ đạo chiến tranh, Tổng Hành dinh Mỹ luôn luôn mong chờ và hy vọng rặng, mỗi nấc thang là nấc thang cuối cùng, và họ luôn luôn bị hẫng. Leo thêm một nấc thang lại hy vọng đây là nấc thang chót, đối phương sẽ chịu thua và chấp nhận điều kiện của Mỹ! Thế nhưng đối phương luôn có ý chí vững chắc, có tinh thần dân tộc kiên định và lại được rèn luyện theo từng nấc thang chiến tranh, nên thích ứng nhanh chóng với mỗi bước leo thang mới của Mỹ và còn sẵn sàng chuẩn bị cho nấc thang kế tiếp.
Đến khi Mỹ leo thang trên bộ đến mức cao nhất rồi mà không thắng, hậu phương của Mỹ lại không đủ nghị lực và không tạo nên khối thống nhất quốc gia để lao tiếp thí Mỹ ắt phải nghĩ đến rút chân ra Chiến lược "Việt Nam hóa" ra đời, Quân Mỹ lần lượt rút dần về nước. Đã quen có nữa triệu quân Mỹ ở sát cạnh lại quen ỷ lại vào quân đội Mỹ với hỏa lực cua pháo binh và không quân, khi quân Mỹ rút, quân đội Sài Gòn càng thiếu tự tin, luôn cảm thấy hở sườn và đơn độc...
Có một điều quan trọng là trong cuộc chiến tranh Việt Nam do tính chất và đặc điểm của nó, thế lực hai bên không đều, quan điểm thắng và thua cũng không giống nhau: Mỹ không thắng được, hơn nữa không thắng nhanh được, là thua. Đối phương kéo dài được cuộc chiến, không chịu thua, là thắng.
Hơn nữa có một yếu tố quan trọng là đối phương của Mỹ đã trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài chống Pháp trong 9 năm (1945-1954). Đây là một nét rất hệ trọng. Hồi 30. 4. 1975, sau Toàn thắng, khi các vị tư lệnh họp nhau lại ở Dinh Độc lập để mừng chiến công lịch sử, tất cả tư lệnh của năm cánh quân (4 quân đoàn và một binh đoàn tăng cường), cũng như tư lệnh không quân, tư lệnh hải quân và chỉ huy các binh chủng: Thiết giáp, pháo binh, cao xạ, thông tin, hóa học, đặc công...đều là các sĩ quan chiến dịch Điện Biên Phủ trước đó 21 năm. Có người hồi đó là tư lệnh sư đoàn, nay là tư lệnh quân đoàn, hồi đó là trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng, nay là tư lệnh sư đoàn, tư lệnh lữ đoàn...Rõ ràng cuộc chiến tranh chống Pháp là một cuộc thử thách lớn, một trường học lớn, một cuộc diễn tập lớn để chuẩn bị tất cả các mặt: Tổ chức và huấn luyện bộ đội, đào tạo cán bộ, hình thành một nghệ thuật quân sự và khoa học quân sự mới. Không có cuộc kháng chiến chống Pháp, thì không thể hình dung ra cuộc kháng chiến chống Mỹ sẽ ra sao.
Về quân đội Mỹ, tôi có mấy nhận xét cụ thể về những mặt yếu sau đây: Việc đề ra kỳ hạn sang Việt Nam một năm hoạc hai năm là cần thiết, nhưng đó cũng là một nhược điểm lớn. Vì họ sang một chiến trường xa lạ, vừa thích ứng được ít lâu thì đã nghĩ đến chuyện giữ an toàn để trở về với gia đình. Họ chỉ được thực sự yên tâm và thành thạo chiến đấu trong nữa năm (đối với người sang một năm) và chừng 15 tháng (cho những người sang hai năm). Về không quân, quy định mức phi vụ là 100 cũng vậy. Những phi vụ đầu còn bỡ ngỡ-khi quen rồi và trở nên thành thạo thì tâm lý đã sớm nghĩ đến giữ an toàn để còn trở về. Tôi đã gặp khá nhiều người lái Mỹ bị bắt, hỏi chuyện tới gần hai trăm người. Có người bị hạ ở chuyến bay đầu tiên (một nữa phi vụ), rất nhiều người ở chuyến bay thứ 30 đến 60, cũng có người chuyến bay thứ 97, nghĩa là ba phi vụ nữa là thóat nạn!
Tổ chức và trang bị cho quân đội viễn chinh Mỹ quá hình thức và nặng nề, hoàn toàn không thích hợp với chiến trường, địa hình, thời tiết và nhất là tính chất của cuộc chiến tranh chống nổi dậy, chống lại một phong trào rộng lớn bắt rễ trong nhân dân. Các đơn vị Mỹ vẫn giữ biên chế, trang bị và họat động như đã được học và rèn luyện trong một cuộc chiến tranh chính quy, thành hàng ngũ!
Về quân đội Sài Gòn cũng vậy. Do ảnh hưởng của Mỹ nên tử tộ chức đến quân phục, trang bị đều nặng nề, cứng nhắc, thiếu độ linh họat và cơ động. Nhiều viên tướng và sĩ quan cao cấp Sài Gòn tôi gặp năm 1975 đã trao đổi và cho rằng cái nặng nề, cồng kềnh, hình thức của quân đội Pháp và quân đội Mỹ bị áp đặt cho quân đội Sài Gòn (từ điều lệnh huyến luyện cho đến đôi giầy, quân phục, cho đến chiếc ba lô...) đều gây khó khăn cho sự cơ động rất cần cho một cuộc chiến tranh rừng núi và đồng bằng trong khí hậu nhiệt đới.
Về mặt tâm lý, tôi tiếp xúc với hàng trăm người lái máy bay Mỹ cũng như vài chục sĩ quan và quân nhân Mỹ thuộc lính cổ da (thủy quân lục chiến) và bộ binh Mỹ. Họ là những quân nhân được đào tạo rất chính quy, có hệ thống, vững vàng về hiểu biết kỹ thuật. Trình độ văn hóa khá cao. Có nhiều người lại có bằng cử nhân, tiến sĩ không những về kỹ thuật, mà còn về triết học, sử học, về kinh doanh, về quan hệ quốc tế và luật pháp. Thế nhưng quân đội Mỹ đã chuẩn bị cho họ quá sơ sài những hiểu biết về Việt Nam, về Đông dương. Tôi thấy rõ việc chuẩn bị tâm lý cho quân nhân Mỹ là không tốt, có nhiều lỗ hổng về nhận thức, quá xa thực tế, thậm chí trái ngược với thực tế. Một sự sai lầm nổi bật nữa là qua các tài liệu và lời khai, quân nhân Mỹ ỷ lại rất nặng vào vũ khí, hỏa lực, coi nhẹ yếu tố con người.
Về chính quyền Sài Gòn, việc chính quyền Kennedy thay ngựa giữa dòng, triệt hạ anh em ông Ngô Đình Diệm là một thất sách, có thể gọi là một sai lầm rõ rệt. Phải chăng đây là một hành động cần thiết để chuyên từ chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ, nhằm thực hiện việc đưa ồ ạt quân Mỹ vào miền Nam, vì anh em Diệm, Nhu tỏ ý chống lại việc đưa quân Mỹ vao tham chiến? Vấn đề khó khăn nhất của Mỹ là tìm ra một chính đảng chính trị và một lãnh đạo tiêu biểu ở miền Nam Việt Nam, có khả năng và uy tín. Tuy được tổng thống Mỹ Einsenhower tâng bốc là "Churchill của châu á, " ông Diệm vẫn có nhiều hạn chế: Trí thức miền Nam vẫn coi ông thuộc tầng lớp quan lại phong kiến đã lỗi thời. Ông lại là người công giáo trong khi người công giáo chỉ chiếm 10 phần trăm số dân phần lớn theo đạo Phật. Kiểu gia đình trị của ông quá lộ liễu hai vợ chồng ông Nhu lại lộng hành quá đáng...Cái gay go của Mỹ là những người lện thay Diệm, Nhu lại tỏ ra yếu kém hơn, chia rẽ hơn, bất lực hơn. Mỹ tưởng vất bỏ được cái xấu để thay cái tốt, cái khá hơn, thì chỉ nhận được cái tồi tệ hơn! Sự rối loạn chính trị với Nguyễn Khánh, rồi với Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ gắn liền với sự rối loạn về kinh tế, với tham nhũng lan tràn, đạo đức băng hoại, đàn áp Phật giáo, miệt thị trí thức, thanh niên, sinh viên. Nạn mãi dâm, xì ke, ma túy quanh các căn cứ Mỹ, những vụ đầu cơ ở các P. X. (trung tâm thương mại cho các quạn nhân Mỹ) tạo nên khủng hoảng xã hội trầm trọng. Quân đội Sài Gòn trong bối cảnh ấy tất nhiên sa sút nhanh về mọi mặt. Đó là cái giá cực nặng phải trả khi có thường xuyên nữa triệu lính Mỹ-lính nhà giầu, lính hưởng thụ, lính đời sống cao, lính ra trận mà không hiểu rõ động cơ chiến đấu-trên một giải đất hẹp, trong một xã hội tiêu thụ. Những nhà "du lịch cầm súng" vui vẻ phóng khóang! Họ đâu có biết chính họ đã phá vỡ những giá trị truyền thống cổ truyền, làm chấn động hậu phương của cuộc chiến tranh vốn đã mong manh.
Một điều bất ngờ là: Quân Mỹ vào để cưứ vãn tình hình, thế nhưng chính sự có mặt của 50 vạn quân Mỹ (hơn 2 triệu lượt quân nhân Mỹ thay phiên nhau) ở miền Nam Việt Nam đã làm rối loạn và sa sút thêm cái hậu phương trực tiếp của cuộc chiến tranh. Khi quân Mỹ phải rút dần cho đến hết theo quy định của Hiệp định Paris, họ đã phải tiến hành chiến lược "Việt Nam hóa" chiến tranh với một hậu phương đã bị tàn phá đến tận gốc chính do sự có mặt của quân đội Mỹ.
Còn hậu phương nước Mỹ bị chấn động tai hại bởi chính những giá trị cố hữư của nó về dân chủ, công bằng và lòng nhân đạo. Cuộc chiến tranh được truyến đi trên hệ thống truyền hình nhiều nhất, tức thời nhất đã mang lại những cảnh tượng khủng khiếp ở Mỹ lai, cảnh đài tá Loan bắn một người yêu nước trên đường phố một cách lạnh lùng và khiếp nhược, những F. F. Z. (Free Fire Zone-vùng bắn phá tự do), cảnh lính Mỹ kinh hòang ở Khê Sanh...đều vào tận phòng ngủ của người dân Mỹ, tác động mạnh đến suy nghĩ, tình cảm của họ.
Còn hậu phương miền Bắc Việt Nam? Phải công nhận rằng, tuy bị đánh phá liên tiếp, bị tàn phá hết sức nặng nề, với hơn 5 triệu tấn bom đạn, nhưng đã đứng vững một cách kỳ lạ đương đầu với pháo đài bay và Thần sám, Con Ma Mỹ. Nhà máy sụp đổ, cầu gãy, đường bị băm nát, trường học, bệnh viện bị san bằng chỉ làm bốc cao thêm căm thù và khinh bỉ những kẻ tội phạm bất nhân, truyền cho chiến sĩ những nghị lực mới. Đó là lòng yêu nước truyền thống được khơi gợi mạnh mẽ, những phẩm chất vốn có của dân tộc được phát huy rất cao. (Bộ máy lãnh đạo và nắm chính quyền lúc ấy hầu hết là trong sáng về đạo đức, tận tụy với nhân dân, lòng dân do đó rất yên. Đất nước hầu như không có trộm cắp và hối lộ). Tình thương yêu đùm bọc nhau giữa thành thị và nông thôn, giữa người đi sơ tán và nơi tiếp nhận thật xúc động. Dương Thu Hương đã nói đúng: Đảng đã khơi được nguồn tài sản vô giá, như những khối vàng ròng, đó là lòng yêu nước cố hưữ của một dân tộc vốn chuộng đạo lý làm người và có truyền thống chống ngọai xâm từ xa xưa. Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa Mác Lê Nin, tuy được nói rất nhiều, nhưng không can dự gì trực tiếp đến quảng đại quần chúng nhân dân, không thể vơ vào một cách sống sượng, kiểu nói lấy được. Tôi đã nghiệm ra rằng, khi nào lên gân theo chủ trương đấu tranh giai cấp, theo nguyên tắc dân chủ tập trung để thực hiện những chủ trương tả khuynh như đấu tố và xử tử tran lan trong cải cách ruộng đất và đàn áp, bóp nghẹt trào lưu dân chủ trong các vụ chống "Nhân văn giai phẩm, " chống "xét lại..." thì lại là vác đá ghè vào chân mình, gây nên xáo trộn của hậu phương trong chiến tranh, gây bất ổn trong lòng dân, làm giảm sức chiến đấu.
Cũng cần nói rõ thêm: Cuộc chiến tranh phá họai của Mỹ nhằm gây tổn thất thật lớn để buộc đối phương phải quỳ gối. Nhưng đối phương lại quá nghèo, cơ sở vật chất mới xây dựng chưa có gì nhiều. Một anh nhà nghèo khi lâm trận sẽ chỉ nghĩ đến giữ được cuộc sống của mình, vài hành lý sơ sài có mất đi cũng không sao, còn người là còn của, còn làm ra của, cho nên dể sống mái với kẻ thù hơn mà không mảy may tính tóan thua thiệt về vật chất. Điều cơ bản hơn chính là truyền thống chống ngọai xâm kiêu hùng từ xa xưa được truyền lại, là truyền thống bất khuất của dân tộc được phát huy mạnh mẽ trong thời đại mới vì độc lập tự do của đất nước.
Về tình hình quân sự ở Việt Nam, tôi rất băn khoăn về số lượng của quân đội, của đủ thứ lực lượng vũ trang tại ngũ. Sau Toàn thắng 1975 đã có ý định giải ngũ một số lớn quân đội-Nhiều đơn vị quân đội được phái đi làm nhiệm vụ kinh tế ở những vùng cần phát triển, nhất là Tây nguyên. Nhưng khi mâu thuẫn với người thuộc dân tộc Hoa (bà con Hoa kiều) phát sinh, sau đó việc đưa quân vào Căm pu chia làm xu hướng tăng số quân đội và an ninh được thực hiện rất mạnh. Theo con số của Viện nghiên cứu quốc tế về chiến lược ở IISS thì đến năm 1985 quân đội Việt Nam lên đến 1 triệu 600. 000 và lực lượng an ninh lên đến 300. 000!
Năm 1985, tôi theo Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam sang thăm Ấn Độ và Indonexia. Trong cuộc hội đàm, bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ cho biết, Ấn Độ có 700 triệu dân, có hai cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới với Pakistan và Trung Quốc nhưng số quân chỉ chừng 900. 000 người, không bao giờ lên đến 1 triệu cả. Có nghĩa là tỷ lệ tổng số quân trên tổng số dân là 1/700 (0, 13%). Ông nói rằng nếu đưa số quân lên đến trên 1 triệu thì nền kinh tế và ngân sách sẽ không chịu nỗi. Tôi ngồi nghe mà giật mình! Vì lúc ấy số lượng quân đội nhân dân Việt Nam quả thật còn hơn một chút con số của Viện IISS trên đây, tỷ lệ quân đội và dân số lên đến 1, 6/60 tức là 2, 7%, gấp 20 lần tỷ lệ của Ấn Độ. Mấy tháng sau chúng tôi đến Indonexia, ông Muađani (Murdani) tổng tư lệnh giới thiệu rằng Indonexia có 180 triệu dân (gấp 3 lần Việt Nam) nhưng quân đội chỉ trên 700. 000 (kém hơn 2 lần Việt Nam), tỷ lệ nói trên chỉ là 0, 4%, mặc dầu địa thế đất nước này rất phức tạp, có 3000 hòn đảo và vấn đề an ninh khá là nghiêm trọng. Kinh tế họ phát triển mà tỷ lệ ở nước họ thấp hơn ở Việt Nam đến 12 lần-Trung Quốc có hơn 1 tỷ dân, số quân tại ngũ chính quy chỉ dưới 3 triệu, nghĩa là tỷ lệ chỉ 0, 3%, thấp hơn Việt Nam tới gần 10 lần!
Theo thống kê của Viện chiến lược IISS, tỷ lệ chung của thế giới là dưới 1% cho quân đội và dưới 0, 1% cho an ninh. Theo tỷ lệ ấy đối với Việt Nam, con số 650. 000 cho quân đội và 65. 000 cho an ninh là vừa phải. Nếu muốn phát triển kinh tế với tốc độ kha khá phải hạ thấp hơn nữa. Số quân linh quả tài một cách kinh hồn là biểu hiện của bệnh quan liêu, duy ý chí, bất chấp quy luật, quyết định các vấn đề hệ trọng theo cảm tính, thiếu thận trọng và thiếu khoa học. Vấn đề hệ trọng này chỉ do Bộ Chính trị tự quyết định, chính phủ và quốc hội, cũng như Hội đồng nhà nước đều không được bàn đến!
Khi vấn đề người Hoa bỏ đi về Trung Quốc hoăc ra nước ngòai, cơ quan an ninh tổng kết lại và giật mình thấy không nam được dân, cho rằng lực lượng an ninh mỏng manh quá, liền quyết định tăng số an ninh ở cơ sở lên. Cơ quan an ninh phường vốn chỉ có 6 đến 7 người được tăng lên 30 đến 40 người, hoặc hơn nữa, và hiện nay mỗi phường có một đại úy hoặc một thiếu tá an ninh phụ trách! Vì số quân đội và số an ninh quá đông, ngân sách quá lớn, đời sống khó khăn, nên tư tưởng anh em diễn biến rất phức tạp, kỷ luật sa sút rất nhanh làm cho quốc phòng và an ninh không như trước. Tôi đến thăm sư đoàn bộ binh 304, sư đoàn cũ của tôi, chỉ huy tiểu đoàn cho chiến sĩ về thăm nhà dài dài, với điều kiện khi lên nộp mấy yến gạo, vài con gà, một số tiền, cho chỉ huy và cho đơn vị cải thiện! Còn chiến sĩ an ninh trên đường phố thì đói nghèo quá đành làm liều, có khi huýt còi bắt xe gắn máy dừng lại hỏi giấy tờ chỉ để kiếm mấy điếu thuốc thơm hút hoặc vài ngàn đồng lót tay! Không thể trách anh em được, họ không thể sống một cách bình thường là do cơ chế quan liêu, bảo thù, vộ trách nhiệm, tình trạng bất công xã hội lan tràn khắp nơi.
Việc tăng quá lớn quân đội sau năm 1975 là một việc làm duy ý chí, thiếu cân nhắc, rơi đúng vào âm mưu thù địch cố tình làm cho Việt Nam mất sức, kiệt quệ do phải chịu một gánh nặng quân sự, một gánh nặng về ngân sách quốc phòng quá tải kéo dài-Nó càng thêm mỉa mai khi những khái niệm "quốc phòng toàn dân, an ninh toàn dân" được lắp đi lắp lại đến nhàm chán mà lại không được áp dụng trong thực tế của cuộc sống.
Về mặt tình báo chiến lược và tình báo quân sự, có một điều có vẻ trái ngược là Mỹ rất dồi dào về phương tiện, nhân viên và ngân sách, thế mà sự hiểu biết về ý đồ chiến lược, kế hoạch quân sự của đối phương lại rất sơ lược. Phía Mỹ đã không phán đoán được ý đồ chiến lược của đối phương mùa xuân 1975. Trong khi đó ở Hà Nội, đại bản doanh quân sự lại biết khá rõ, khá kịp thời và đầy đủ mọi ý đồ quân sự của Mỹ. Tôi quen hai nhân vật của tình báo quân sự Việt Nam: Một là Vũ Ngọc Nhạ, còn gọi là Hai Nhạ, là "ngài cố vấn" của Ngô Đình Diệm và cả Nguyễn Văn Thiệu. Hoạt động của ông bắt đầu từ năm 1954 cho đến cuối năm 1968 mới đổ bể. Ông nằm ngay giữa cơ quan quyền lực cao nhất ở Sài Gòn là Dinh Độc lập để quan sát, thu thập tin tức, tài liệu trong suốt gần một chục năm để báo cáo ra Hà Nội những tin tức chuẩn xác, quý báu và kịp thời nhất. Cho đến khi ra tòa, bị dồn ép tra hỏi, ông vẫn làm cho mọi người nghi vấn và tin rằng ông không phải là cán bộ cộng sản, chỉ là một người công giáo ngoan đạo theo đường lối mới của Vatican, có cảm tình với lực lượng thứ ba ở Việt Nam hồi ấy. Cho đến khi ông "giả" thú nhận thật sự là cộng sản thì mọi người lại không tin, cho ông là "xạo!" Và ở trong nhà tù người cộng sản ấy đã nhận tấm huân chương cao nhất của Tòa Thánh Vatican "Trái tim đỏ thắm (the purple heart). Ông Nhạ từng kể cho tôi nghe những câu chuyện lý thú chưa mấy ai biết ở trong dinh Độc Lập hồi ấy. Có lần ông Ngô Đình Diệm được phía Mỹ gợi ý ký một văn bản nhượng lại Cam Ranh - một cân cứ hải quân lý tưởng ở vùng Đông Nam và Tây Thái Bình Dương - trong một thời hạn là 99 năm để đổi lấy một khoản viện trợ rất lớn- Ông Diệm bàn chuyện này với cố vấn Nhạ - Ông Nhạ ôn tồn nói: "Thưa cụ, tôi xin thưa, hồi Pháp mới qua, vị đại thần nhà Nguyễn Phan Thanh Giản trót ký nhượng ba tỉnh phía Tây Nam Bộ cho Pháp, về sau bị nhân dân than oán quá chừng, lương tâm dầy vò quá xá, phải uống thuốc độc tự vẫn - Thưa cụ, cụ là người ngoan đạo, mà đạo của Chúa lại ngăn cấm hủy hoại sinh mệnh bản thân, nên việc này tôi thấy không hợp quyền lợi quốc gia mà cũng không hợp việc đạo..." Về sau khi tổng thống Kennedy nài ép ông Diệm phải để Mỹ đưa quân vào miền Nam, một buổi tối năm 1963, ông Diệm trao đổi ý kiến với ông cố vấn và thổ lộ: "Ông cố vấn, chuyện này hệ trọng lắm. Ta mà cho lính họ vô đây, mà họ là người nước ngoài, vô thời họ bắn, họ ném bom, họ hành quân trên đất nước mình, họ còn ở lại nữa, thì sau này nếu có bàn chuyện thống nhất thời ta nói chuyện với Cụ Hồ sao được nữa!" Người thứ hai là ông Phạm Xuân Ẩn, bí danh là Hai Trung, một nhà báo được đào tạo nghề báo chí tại một trường Đại học Mỹ, làm phóng viên cho các báo Time, Life suốt mấy chục năm, "cặp bồ" với Trần Văn Đôn, Trần Kim Tuyến, trùm CIA Mỹ, các phóng viên Mỹ, Anh, Pháp, Nhật bản...ở Sài Gòn, đi ra trận trên máy bay lên thẳng Mỹ, chuyên nói chuyện đàn bà và tiếu lâm với các ông nghị ở Radio - Catinat (phòng trá trước nhà Quốc hội Sài Gòn trên đường Catinat) để lấy tin tức...Tất cả tài liệu quý, nguyên bản hay chụp lại, đều được đưa ra Củ chi để chuyển ra Hà Nội. Tổ tình báo của ông chỉ có hai người (ông và bà Ba làm giao liên để chuyển tài liệu ra căn cứ) và cả hai đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong suốt hai mươi năm mà không một lần đổ bể, đều được phong Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân vào cuối năm 1976.
Hai ông Nhạ và Ẩn đều là bạn thân của tôi - Hoạt động của ông Nhạ được nhà văn Hữu Mai viết thành ba tập tiểu thuyết mang tên "Ông cố vấn, " được tuần báo Nhân Dân chủ nhật trích đăng nhiều kỳ. Tôi có viết thêm một số nét về ông Nhạ trên tuần báo ấy. Tôi cũng viết về hoạt động của ông Ẩn trong bài báo "Nhà báo - Tình báo anh hùng" cũng đăng trên Nhân dân chủ nhật tháng 6. 1990. Năm 1976, tại đại hội đảng toàn quân, tôi dẫn ông Phạm Xuân Ẩn đến gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp. Khi ông ra Hà Nội theo học trường đảng Nguyễn ái Quốc, ông thường ghé lại nhà tôi chơi. Nét đặc biệt của hai nhà tình báo chiến lược này là tận tụy, tài trí, có hiệu quả rất cao, nhưng lại không lên gân lập trường một cách cứng nhắc. Cả hai đều hiện có tinh thần hòa hợp sâu sắc - Ông Nhạ kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện và giữ một thái độ khách quan đối với ông Ngô Đình Diệm, xác nhận ý thức chống Mỹ đưa quân vào Việt Nam của ông ta, cuộc sống bình dị của ông ta nữa và không dấu niềm cảm tình, sự đồng cảm với nhiều nhân vật công giáo ở Việt Nam cũng như của Vatican. Ông Ẩn còn giữ thiện cảm với nhiều nhà báo Mỹ có công tâm. Ông quý trọng nền văn hóa Mỹ - ông hiện ở tại thành phố Hồ Chí Minh, nuôi chó béc-giê để giải trí và cùng để kiếm sống (khi họat động ông mua con chó béc giê giá tới 7 ngàn đô-la để tạo bình phong) và còn muốn gửi con trai sang Mỹ học để thành tại.
Sau Hiệp định Paris, đoàn đại biểu quân sự chính phủ miền Bắc và đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã có mặt tại Sài Gòn, trong căn cứ quân sự Tân Sơn Nhất. Hồi ấy tôi vừa là ủy viên chính thức của đoàn miền Bắc, kiêm người phát ngôn của đoàn. Trong 60 ngày trong trại Da vít tôi dự tất cả các phiên họp chính thức bàn việc thực hiện Hiệp định, còn đi Biên Hòa, Lộc Ninh, Mỹ Tho, Cần Thơ, Nha Trang, Đà Nẵng...Đi bằng máy bay lên thẳng và máy bay chỉ huy do người Việt và người Mỹ lái. Tôi cũng đi xuống phố xá Sài Gòn 12 lần để gặp gỡ các đoàn ấn Độ, Canada, Ba Lan, Hưng ga ri trong ủy ban quốc tế và tổ chức 5 cuộc họp báo trong trụ sở. Đây là những thời cơ lý tưởng để tìm hiểu tình hình mọi mặt của đối phương một cách đầy đủ, bằng trực giác, nghĩa là nhìn thấy, nghe thấy bằng chính tai mắt mình...Tôi gặp và hỏi chuyện đủ loại: Tướng, đại tá, sĩ quan và hạ sĩ quan các cấp, thuộc các binh chủng bộ binh, không quân, ở Bộ tổng tham mưu, ở cục chiến tranh chính trị, hỏi chuyện cả bà con nông dân, viên chức gặp được...Chỗ yếu và chỗ mạnh, khả năng chiến đấu, những khó khăn trong quan hệ Mỹ-Sài Gòn, những tính toán của phía Mỹ, những nỗi lo của quân đội Sài Gòn...đều được thu lượm, nghiên cứu, nhận định, bổ sung cho những hiểu biết trước kia vốn chỉ là gián tiếp về đối phương.
Sau 60 ngày làm việc, žy ban quân sự Liên hợp 4 bên giải thể, nhường chỗ cho ủy ban liên hợp quân sự hai bên (Chính phủ lâm thời và chính quyền Sài Gòn) vẫn ở trong trại Davít (Tân Sơn Nhất). Đoàn đại biểu của chính phủ lâm thời đóng ở đó cho đến tận ngày 30. 4. 1975. Đó là một vị trí quan sat tình hình rất lợi hại ngay trong thành phố để hiểu rõ thái độ chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính và văn hóa ở thủ đô miền Nam Việt Nam. Tối 30. 4. 1975 tôi đã từ Dinh Độc lập vào tới đây và nhờ bộ phận thông tin quân sự vốn đã quen từ hồi 1973 đánh bằng tín hiệu morse ra Hà Nội bài báo của tôi về sự kiện lịch sử ngày 30. 4 ấy. Đó là bài báo duy nhất lọt ra khỏi Sài Gòn vì hệ thống truyền tin của Bưu điện đã bị ngừng. Có một chuyện buồn cười. Trong bài báo của tôi có nói về cái thực đơn của tổng thống Việt Nam cộng hòa chiều 30. 4 ấy. Tôi thấy nó trong ngăn kéo của bàn giấy tổng thống. Thực đơn có nhiều món, trong đó đặc sắc nhất là: Gân bò hầm sâm (thực tế là món "ngẩu pìn" trứ danh của người Trung quốc dành cho thượng khách), thế nhưng do đánh bằng tín hiệu nên chữ "gân" bị nhận lầm là chữ "gan", một món khác là món cá thu kho mía kiểu miền Nam thì bị đánh nhằm là cá thu kho giá, nhiều người hỏi tôi gan bò và giá thì có gì là đặc sắc!
Về cuộc chiến tranh ở Căm pu chia, tôi có nhiều suy nghĩ trong suốt hơn 10 năm nay. Tôi đã đến dọc các vùng biên giới với Căm pu chia ở các tỉnh Kiên Giang (Hà Tiên), An Giang (Châu Đốc), Long An và Tây Ninh. Khi Khơ me đỏ tấn công và gây ra những vụ thảm sát kinh người! Những nạn nhân dọc kinh Vĩnh Tế tôi được thấy tận mắt tháng 9. 1977 đều bị mổ bụng, đạp vỡ sọ, móc mắt và cắt dương vật, hay thọc gậy vào cửa mình! Suốt một tuần lễ cảnh tượng ấy làm tôi kinh hoàng, cảnh máu me và thịt người bấy nát làm tôi kinh sợ không dám nhìn, không dám ăn một miếng thịt bò! Tôi cũng dự cuộc họp của cán bộ cấp cao ở trong căn cứ Tân Sơn Nhất do Bộ Quốc phòng triệu tập để thảo luận về cách đánh trả Khơ me đỏ hồi tháng hai năm 1978. Lúc ấy cuộc chiến đấu rất khó khăn vì không được phép đánh vào nội địa Căm pu chia, về sau chỉ được đánh vào sâu tối đa là 10 km khi truy kích và phải quay trở về ngay. Lính Khơ me đỏ lại chịu đựng giỏi thời tiết mưa nắng, quen lội qua đầm lầy, thức ăn chỉ một gói cơm cứng gói trong lá thốt nốt, đi chân không lội bùn, đánh theo kiểu du kích lúc ẩn lúc hiện. Tổn thất của các đơn vị Việt Nam khá cao, bình quân số chết và bị thương hàng tháng cao hơn cả thời chiến đấu chống Mỹ và Sài Gòn! Cuối cùng tháng 12. 1978 đã có quyết định tổng tấn công giải phóng Căm pu chia bằng một số quân đoàn từng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Quyết định này được thực hiện rất bí mật để gây yếu tố bất ngờ. Tôi đi cùng với anh em phóng viên của báo và đài phát thanh quân đội. Trước đó tôi đã tìm hiểu tình hình ở Căm pu chia qua hỏi chuyện hàng trăm người ở các trại tỵ nạn dọc biên giới, nhất là ở trại Bến sắn, Tây Ninh. Khơ me đỏ đã kháng cự khá mạnh ở nhiều nơi như Xvai-riêng, Campốt, Crotié và Preyveng...nhưng khi quân Việt Nam đã vào sâu được chừng 20 km thì hầu như không còn kháng cự gì nữa. Khơ me đỏ bỏ chạy tán lọan về phía Tây.
Nhân dân Căm pu chia kiệt quệ, gầy mòn, ốm yếu và đón bộ đội Việt Nam trong mừng rỡ khôn xiết-Tất cả các gia đình đều ly tán, nhân dân bị cưỡng bách đến nơi xa lạ (dân phía Đông chuyển sang phía Tây, dân phía Nam đầy lên phía Bắc...). Các thành phố Svai-riêng, Tà Keo chúng tôi đi qua cũng như thủ đô Pnom-Penh hoàn toàn hoang vắng, cỏ mọc lút đầu. Nhà không số, đường không tên, không tiền nong, không chợ búa, không hàng hóa cho đến con người cũng không giấy tờ, chứng minh thư nào cả-Không thể tưởng nổi, một đất nước không có trường học, không có bệnh viện! Sức dân kiệt đến nỗi họ không nói, không cười nổi nữa! Chúng tôi gặp bác sĩ ch-Kim-Seng hiện la bộ trưởng Y tế từng học ở Pháp về, vừa từ Tà Keo đi bộ lên, chân đất, da nhăn nheo, ông mới gần 60 tuổi mà trông như cụ già 80! Ông bị Khơ me đỏ giao cho chăn dắt một đàn bò, thỉnh thoảng làm thịt cho bộ đội chúng ăn.
Tôi được phân công giúp họ trong việc tổ chức hãng thông tấn SPK, việc tổ chức báo Quân đội Căm pu chia và về sau là giúp cho báo Căm pu chia hàng tuần. Tôi đã giúp cho anh Prach-xun, một nhà báo cũ, nay ở Ban đối ngọai của đảng Nhân dân cách mạng Căm pu chia, tổ chức việc đón tiếp hai đoàn nhà báo nước ngoài lên thăm Căm pu chia vào tháng 1 và tháng 2. 1979, hướng dẫn họ đi thăm Pnom-Penh từ sân bay Po-chen-tong vào thành phố trên một chiếc xe bus lớn có gắn loa do anh em bộ đội Việt Nam sửa chữa để sử dụng. Tôi ở lại Căm pu chia gần ba năm, thỉnh thoảng đi về thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tôi thu được khá nhiều tài liệu của bọn Khơ me đỏ, tìm hiểu về những chủ trương diệt chủng của chúng. Thật là tận cùng của sự tàn bạo, bất nhân, còn quá cả bọn phát xít nazi, nhưng lại đội lốt bằng những Mỹ từ: Một chủ nghĩa cộng sản trong sạch, trong sạch, cực kỳ trong sạch, một chế độ tuyệt vời, tuyệt vời, rất tuyệt vời, lãnh đạo bởi một đảng cộng sản sáng suốt, sáng suốt và rất sáng suốt, là mẫu mực cho tất cả các đảng cộng sản khác trên toàn thế giới (họ có cái kiểu chuyên môn lắp lại ba lần một tính từ để gây ấn tượng). Đây là cách mạng văn hóa vô sản kiểu Trung Quốc, được thực hiện triệt để hơn, rộng khắp hơn, không khoan nhượng và tự tin tuyệt đối, được thực hiện "trong nhà với nhau", khi đất nước đóng chặt cửa, nội bất xuất, ngọai bất nhập. Pnom-Penh lúc ấy chỉ có 6 sứ quán của Trung quốc, Bắc Triều tiên, Nam tư, Rumani, Việt Nam và Lào. Sứ quán Việt Nam đã rút về từ trước. Các sứ quán khác đều rút qua Thái Lan chiều 5. 1. 1979, trừ sứ quan Lào được chỉ thị từ Viên chăn là phải ở lại. Sáng 8. 1. 1979 tôi gặp ông đại sứ Lào đã cao tuổi Vi-na-chít, nói được tiếng Việt, cùng 4 viện chức trong sứ quán. Tất cả vừa trải qua cơn ác mộng, vì bất cứ lúc nào bọn Khơ me đỏ cũng có thể xông vào bắn chết khi chúng rút chạy trong hỏang loạn.
Tôi tan thành cuộc tiến công gỉải phóng Căm pu chia. Đó là quyền tự vệ của một đất nước bị Khơ me đỏ ngang ngượi, chúng đồng thời là một hành động SOS, cấp cứu cả một dân tộc bị đòa đầy và bị giết hại dần mòn. Trước đó ông nghị MacGovern đã kêu gợi có hành động quân sự để cứu dân tộc này đang bị thảm sát. Nhưng chẳng có ai động đậy cả. Khi bộ đội Việt Nam vào, giữ nghiêm kỷ luật, mang theo cả gạo, muối thịt rau, chịu cực đóng quân ngoài rừng, chia xẻ lương thực, áo quần, thuốc men cho nhân dân nước bạn, được tất cả nhân dân nước bạn biết ơn và quý trọng. Rõ ràng đó là một nghĩa cử cao đẹp.
Nghĩa cử ấy sẽ còn cao đẹp bền lâu nữa nếu không phạm hai sai lầm rất lớn sau đó-Một là để bộ đội Việt Nam quá lâu ở Căm pu chia-Đây là việc không được dự kiến. Sau khi giải phóng nhanh chóng Căm pu chia, bệnh kiêu ngạo chủ quan lại ngự trị, họ mừng tưởng bọn tàn quân Khơ me đỏ sẽ bị diệt hết trong thời gian ngắn. Người ta cho rằng ông hoàng Xihanuc không còn vị trí gì nữa! Thư ông ta gửi tới Hà Nội không ai thấy cần phải trả lời! Rồi Thái Lan và Trung quốc tận lực tiếp sức cho Khơ me đỏ. Thế là bộ đội Việt Nam bị sa lầy, bị kẹt. Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bại ngoại, gây lại thù hằn cũ làm cho người Việt Nam gặp nhiều khó khăn thêm. Ngay từ năm 1982, nói chuyện với đại sư Việt-Nam Ngô Điền ở Pnom penh, tôi đã nhận xét tình thề này rất không ổn. Cần sớm rút chân ra khỏi bãi lầy một cách nhanh chóng, không nên do dự và luyến tiếc. Yêu cầu Liên hợp quốc và Cộng đồng quốc tế đảm nhận việc giải quyết Căm pu chia cùng với những phe phái trong nước Việt Nam sẽ cùng tham dự với các nước khác-Việt Nam không có đủ sức và đủ lý để giữ mãi quân đội trên một nước láng giềng, trong khi việc tiêu diệt hết Khơ me đỏ nằm xa ngoài tầm tay rồi. Suốt 10 năm liền, tại các cuộc bỏ phiếu hàng năm tại Liên hợp quốc, Việt Nam chỉ được sự ủng hộ của 20 đến 30 nước, bị thiểu số nặng nề, mà vẫn cứ thản nhiên như không!
Sai lầm thứ hai rất tai haị là ý định xây dựng một khối liên minh Việt-Miên-Lào riêng rẽ, với những khẩu hiệu và nội dung: Mối liên minh đặc biệt giữa ba nước Đông dương, tình hữu nghị đặc biệt giữa nhân dân, chính phủ và ba đảng anh em, mối quan hệ đặc biệt vừa là đồng chí, vừa là anh em...Sao lại đặc biệt? Trong ba nước ấy, Việt Nam có 60 triệu dân, Căm pu chia chỉ có chưa đầy 6 triệu và Lào chỉ có chưa đầy 3 triệu (hồi năm 1985) thì làm sao mà bình đẳng được! Rõ ràng Việt Nam nghiễm nhiên là người anh cả, Lào là chú em út và Căm pu chia là chú em nhỏ xíu! Dù cho có ý muốn bình đẳng thì trên thực tế vẫn rất khó. Việt Nam bị hoài nghi, bị các nước ASEAN phê phán, bị thế giới chê cười. Trong đội ngoại Việt Nam có thói quen coi mình là một trung tâm, coi khu vực Đông dương là vùng ảnh hưởng của riêng mình, không cần cân nhắc đếm xỉa đến các nước khác, đến dư luận thế giới và tự chuốc lấy sự cô lập và khó khăn!
Có những biểu hiện chủ quan, kiêu ngạo trong quan hệ quốc tế rất kỳ quặc. Hồi mười năm trước, thường có những cuộc gặp gỡ hàng năm giữa Bộ quốc phòng ba nước Việt Nam, Căm pu chia và Lào. Vào năm 1982, cuộc họp ấy diễn ra ở Pnom-penh, trong điện Chằm Ka Mon (dịch là vườn dâu, bên bờ sông Mê Công). Đại diện Bộ quốc phòng Việt Nam là đại tướng chủ nhiệm tổng cục chính trị Chu Huy Mân, ủy viên Bộ chính trị của đảng cộng sản Việt Nam. Vị đại tướng xuất thân cố nông này phát biểu sau cùng, không giấy tờ, không chuẩn bị gì hết, sau khi hai vị tướng Lào, và Căm pu chia đã đọc diễn văn tử tế-Ông Mân nói đại thể: Đến lượt tôi, chúng ta là anh em với tình nghĩa đặc biệt, trong nhà với nhau, tôi nói miệng thôi nhé. Đồng ý không nào! Rồi ông đằng hắng lên giọng:
Kính thưa...đồng chí...đại tướng...Bu Thoong...Bộ...trưởng Bộ quốc phòng...nước cộng hòa...nhân dân...Mông cổ...(thấy các sĩ quan Việt Nam có mặt giật mình)...à quên, nước cộng hòa nhân dân Căm pu chia! Chuyện cứ như đùa, mà hoàn toàn có thật! Số là tuần trước, ở Hà Nội, tướng Mân đón và đọc diễn văn chào mừng đoàn đại biểu Bộ Quốc phòng Mông cổ - Sợ lầm lẫn trong khi ứng khẩu mà lại lầm lẫn thật sự! Ông lại ngà ngà say sau khi uống một chén rượu thốt nốt! Vẫn là từ thái độ anh cả!
Về chuyên gia Việt Nam ở Căm pu chia có những anh em am hiểu, tận tâm, và vô tư giúp đỡ bạn, tôn trọng bạn, được bạn rất quý mến. Nhưng đang tiếc số ấy còn ít, quá ít. Còn "chuyên gia, chuyên giả, chuyên già" thì lại quá đông..."Chuyên giả" vì nhiều người được cử đi là do chính sách chiếu cố. Sang Pnom penh, có thể mua bán được ít đồ Thái Lan không phải thuế, đem về Việt Nam có thể kiếm được ít lời, cho nên số cán bộ có thành tích lâu năm(!), nhiều tuổi, sắp về hưu, đều được chiếu cố cho đi chuyên gia Căm pu chia một vài năm. Bất kể sang có làm đúng cái nhiệm vụ rất khó khăn của một chuyên gia được hay không! Phần lớn sang là để "tìm hiểu thị trường", "nghiên cứu hàng hóa", tích lũy đôi chút để chuẩn bị về hưu cho cuộc sống được tạm ổn. Nhiều anh em trí thức Căm pu chia ngay thật cho tôi biết nhiều chuyên gia về kinh tế, về kế hoạch nhà nước, về ngân hàng, về tài chính...chẳng có trình độ, không thể coi là chuyên gia. Đã thế họ lại phát biểu ý kiến quá "mạnh dạn" đến mức ẩu tả, cứ y như là ở Việt Nam hay Liên xô, mà không am hiểu tình hình riêng của Căm pu chia. Một số chuyên gia về quốc phòng và an ninh xử lý công việc rất chủ quan, hách dịch, vượt qua đầu, không tính đến chủ quyền quốc gia, xử lý một cách độc đoán và gây nên những oan trái rất lớn, để lại những hậu quả khôn lường. Những điều ấy tôi chưa tiện nói ra ở đây, vì không muốn đụng đến những vết thương đang kín miệng.
Về quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, tôi không thể nói gì đến những vấn đề thuộc linh vực bí mật quân sự, bí mật quốc gia. Vì đó là nguyên tắc. Tôi không thể làm gì có hại cho đất nước dù cho những người lãnh đạo đã khai trừ tôi ra khỏi đảng, và cất mọi chức vụ của tôi. Họ đã nhân danh nhân dân một cách giả dối để phụ tôi, nhưng tôi không bao giờ phụ đồng bào và quân đội. Tôi còn tấm lòng, lương tâm và trách nhiệm với nhân dân-Quân đội hiện nay sống rất cực khổ-Việc giảm nữa triệu quân đã được thực hiện hai năm nay, nhưng theo tôi số quân vẫn còn quá đông, ngân sách quân sự còn quá lớn, rất có hại cho nhân dân, nhà nước và chính quân đội. Có người ngụy biện rằng, giảm quân sẽ làm tăng số thất nghiệp vốn đã quá nhiều! Quốc hội cần không chế con số: Một phần trăm cho quân đội và một phần nghìn cho an ninh tính trên tổng dân số theo ý lệ trung bình của thế giới. Hãy xem thống kê của Thái Lan: 54 triệu dân, số quân chỉ có 270. 000 tại ngũ, Malaixia 16 triệu dân, số quân chỉ có 120. 000 (thống kê IISS). Tinh thần của bộ đội ta không khác gì nhân dân: Lo âu về hiện tình đất nước, không tin ở tương lai gần và xa, mất tin ở sự lãnh đạo của đảng và nhà nước, càng không tin ở "đổi mới" vì thiếu mạnh dạn và nhất quán. Đáng chú ý số cán bộ ve hưu ngày càng đông. Trong số đó chỉ độ một phần tư sống ổn định, vì thu vén được chút ít khi còn tài chức. Còn thì sống ở mức thấp và một phần tư nữa là sống cực kỳ gay gắt. Gia đình nào không có con em đi học, đi lao động ở nước ngoài, không có bà con ở nước thì rất gay. Cảnh "đầu đường thiếu tá bơm xe, cuối đường trung tá bán chè đậu đen, giữa đường đại tá rao kem" là chuyện không hiếm. Có đại úy văn công về hưu đi thổi kèn đám ma. Tôi quen thân với một số vị tướng thiếu tướng ở Bộ Quốc phòng. Ai đã từng là đơn vị trưởng, chỉ huy sư đoàn, quân đoàn, có chức, có quyền, nhất là ở các ngành vật chất như quân nhu, quân trang, hậu can, quân y...thì nói chung là khá giả...Còn các viên tướng cạo giấy ở các văn phòng, cơ quan Bộ hay ở các trường huấn luyện thì rất "rách. " Gia tài là một chiếc xe đạp, đến chiếc xe máy cũng không có. Có người phải ra máy nước công cộng hứng nước hay xách nước từ tầng dưới cùng lên tầng tư tầng năm. Rất nhiều sĩ quân cấp cao ngay thẳng, tận tụy có tâm huyết với cách mạng và nhân dân, liêm khiết và trong sạch rất băn khoăn suy nghĩ sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, về sự lãnh đạo của Đảng. Chính họ đã tạo nên một sự kiện "lạ lùng" và bất ngờ. Hồi tháng 9. 1986, đại hội Đảng toàn quân họp để thảo luận văn kiện và cử đại biểu đi dự đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6. Cuộc thảo luận được diễn ra trong tinh thần đổi mới đang sôi nổi, hào hứng: Nói thẳng, nói thật, nói hết...Nhiều đại biểu phê phán thẳng cánh một số thượng tướng, đại tướng đứng đầu quân đội:
Thiếu gương mẫu, nhà dột từ nóc, tham nhũng chiến lợi phẩm, dung túng cho vợ con làm sai chính sách, tạo nên những kẻ xu nịnh ở chung quanh, vô trách nhiệm với đời sống gay go của bộ đội, sa sút ý chí chiến đấu...Khi bầu đoàn đại biểu, mặc dầu có danh sách hướng dẫn của đoàn chủ tịch hội nghị, ba vị lớn nhất của quân đội: Đại tướng bộ trưởng bộ quốc phòng, đại tướng chủ nhiệm tổng cục Chính trị (hai vị này đều là ủy viên bộ Chính trị trung ương đảng) và thượng tướng phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị đều bị...ra rìa, không trúng trong đoàn đại biểu chính thức 72 người! Cả Hà Nội xôn xao suốt một tháng trời về cái tin giật gân này! Những người có công tâm vui mừng vì cuộc sống dân chủ đã tạo nên quyền quyết định và giám sát của cấp dưới đối với cấp trên. Đây là dân chủ thật, đẩy lùi dân chủ hình thức: "Dân chủ có lãnh đạo", "dân chủ gắn với tập trung", có nghĩa là "dân chủ vừa phải!" Các vị cầm cân nẩy mực trong đảng và quân đội đã mở cả một cuộc điều tra về cái hiện tượng "dân chủ quá trớn" này, để cố truy tìm xem ai là kẻ đầu têu, là kẻ giật dây, là kẻ có âm mưu tiếm quyền? Bộ máy tổ chức của đảng lập tức rút kinh nghiệm là đã mất cảnh giác nghiêm trọng về cuộc đại hội toàn quân này, có kế hoạch ngăn chặn ngay để ngọn triều dân chủ ấy không được dâng lên trong đại hội đảng toàn quốc lần thứ 6 mấy tháng sau đó.
Và quả nhiên đại hội đảng lần thứ 6 được đặt tên là "Đại hội của ông Sáu", nghĩa là đại hội của ông Sáu, Lê Đức Thọ, từng là žy viên bộ Chính trị kiêm Trưởng ban tổ chức trung ương đảng trong hơn 30 năm liền. Đây là bộ máy quyết định từ cấp vụ trưởng, tổng cục trưởng, thứ trưởng lên đến những chức vụ cao nhất. Hồi ấy theo đề xuất của đại hội đảng toàn quân, bộ ba thích hợp nhất nên là: Ông Trường Chinh ở cương vị Tổng bí thư vì là người đầu tiên phác họa ra kế hoạch, quan niệm, phương án đổi mới ở Việt Nam, ông Phạm Văn Đồng làm chủ tịch Hội đồng nhà nước, đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch Hội đồng bộ trưởng. Những ngày đầu của đại hội 6, nhiều đại biểu của các tỉnh miền Nam cũng như của Hà Nội...rất đồng tình về bộ ba: Chinh-Đồng-Giáp ấy. Đột nhiên khi đại hội bước vào họp nhân sự, Ban tổ chức trung ương Đảng đưa ra một phương án khác: Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư, Võ Chí Công làm chủ tịch Hội đồng nhà nước, Phạm Hùng làm chủ tịch Hội đồng bộ trưởng...Để cho phương án này trót lọt "anh Sáu" đã có sáng kiến viết một lá thư ngắn "kính gửi các đồng chí Trường Chinh và Phạm Văn Đồng" đại y rằng: Nhiều đoàn đại biểu có ý kiến (?) là hai đồng chí với tôi tuổi đã cao, sức đã yếu không nên tham gia Ban chấp hành trung ương đảng nữa, mà sẽ nhận làm nhiệm vụ cố vấn cho Ban chấp hành trung ương. Tôi thấy đây là một đề nghi hợp lý. Nếu các đồng chí và tôi còn nhận nhiệm vụ thì sẽ có thể bị hiểu nhầm là tham quyền cố vị. Rất mong câc đồng chí đồng ý với đề nghị này..." Theo những người ở văn phòng trung ương đảng kể lại, chính ông Nguyễn Khánh, žy viên trung ương đảng, vốn từng là Chánh văn phòng trung ương, sau là Tổng thư ký Hội đồng bộ trưởng là người cầm lá thư này đến tận nhà các ông Trường Chinh và Phạm Văn Đồng.
Hồi 1986, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn còn được tín nhiệm rất lớn trong đảng. Rất nhiều đại biểu cho rằng hiểu biết rộng và uy tín lớn trong và ngoài nước của đại tướng là vốn quý của dân tộc cần tận dụng. Thế là bộ máy tổ chức và an ninh, bảo vệ đảng được huy động để ngăn chặn xu thế này. Thế là Trung ương và các đại biểu dự đại hội được thông báo về "một số vấn đề lịch sử của đồng chí Võ Nguyên Giáp. " Thủ đoạn là: Dịch một lá đơn xin học bổng để được đi học bên Pháp gửi phủ Toàn quyền Đông dương hồi đầu những năm 1930. Trong đó có những câu viết theo công thức đơn tự thịnh hành một cách đương nhiên hồi ấy: "Xin gửi ngài lời chào kính trọng và những tình cảm chân thành...người phục vụ tận tụy của ngài. " Những người có bệnh "lập trường vững vàng" kiểu lên gân không bới móc gì được ở tư cách sống, tính liêm khiết sự hiểu biết rộng hiện nay của ông Giáp đã tìm ra một cái cớ được coi là xác đáng. Một người cộng sản lại gọi tên trùm thực dân đế quốc là Ngài, lại còn "trung thành", "tận tụy", là "người phục vụ" (người đầy tớ-dịch theo tự điển) thì không thể tha thứ được! Thủ đoạn này gây nên trò cười những người ít nhiều có văn hóa và hiểu biết, nhưng lại tạo nên được sự hoài nghi của một số đại biểu các tỉnh vốn không biết gì về những công thức ứng xử thời xưa...
Vị đại tướng bộ trưởng Bộ Quốc phòng Văn Tiến Dũng đã bị đại hội đảng toàn quân khước từ thì lại có một "dịp may" hiếm có:
Đúng 10 ngày trước khi đại hội 6 khai mạc, đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn, ủy viên trung ương đảng đang rất khỏe mạnh bổng nhiên đột tử ở nhà, một cái chết cho đến nay vợ và con ông vẫn còn phân vân về nguyên nhân thật sự. Sáng 5 tháng 12 Bộ Chính trị đã quyết định ông sẽ đảm nhiệm chức Bộ trưởng bộ Quốc phòng thay ông Văn Tiến Dũng. Trưa 5 tháng 12 ông đột tử. Do ông Tấn mất mà ông Dũng, người đứng đầu danh sách dự bị của đoàn đại biểu quân đội-được nâng lên là đại biểu chính thức dự đại hội 6. Tai họa và có thẻ noí là tai vạ của đại tướng Tấn đã trở thành điều may hiếm có cho đại tướng Dũng.
Và một điều khá kỳ lạ nữa ông vẫn được bầu vào Ban chấp hành trung ương khóa VI (làm cho không ít sĩ quan quân đội sửng sốt) và liền đó còn được tham gia ban dự thảo Tổng kết chiến tranh của quân đội và cả ban Dự thảo chiến lực đến năm 2000 nữa!
Những điều bất ngờ chấn động Đại hội toàn quân năm 1986 đến nay vẫn còn gây lo sợ cho cơ quan lãnh đạo của đảng cộng sản. Họ đã ra những thông tri liên tiếp để công việc chuẩn bị cho đại hội 7 sẽ thuận buồm xuôi gió, theo đúng ý của lãnh đạo...Tuyệt đối không cho ai có quan điểm dân chủ đa nguyên được lọt vào bất cứ đại hội nào trên cấp cơ sở-Hơn 1000 sĩ quan cao cấp từ trung tướng đến đại tá được về hưu trong tháng 11 và 12 năm 1990 sẽ không tham gia đại hội đảng của các đơn vị quân đội. Trong số sĩ quan này ắt hẳn có nhiều "kẻ bất trị" vì am hiểu nội bộ quân đội muốn nói thẳng, nói thật, nói hết, muốn có một quân đội hiện đại cả về tổ chức, vũ khí và tư tưởng và Họ sẽ đòi hỏi phải chấm dứt tệ tham nhũng vô trách nhiệm, những bất công lớn, tệ quan liêu và quân phiệt...với biển pháp cơ bản là quyền dân chủ rộng rãi và sự bình đẳng về nhân cách-Cho họ về hưu, về vườn, nghỉ cho khỏe...là tháo một ngòi nổ nguy hiểm trong thực hiện "dân chủ và đổi mới. " Điều trót hứa hẹn long trọng từ hơn 4 năm trước đang được uốn nắn lại, nhấn mạnh đến tập trung và kỷ luật.
Đầu năm 1987, ngay sau khi kết thúc đại hội 6, nghị quyết mới được phổ biến để chấp hành, đảng ủy quân sự trung ương vừa họp phiên đầu tiên sau đại hội thì một viên tướng nữa chết đột ngột. Đó là trung tướng Phan Bình, cục trưởng cục quân báo của Bộ Tổng tham mưu, với thông báo là đã tự sát, tự bắn súng ngắn vào đầu mình-Tôi rất quen với tướng Bình, người Quảng Nam, khổ người nhỏ nhắn, đảm nhận chức vụ này từ năm 1962, thay đại tá Nguyễn Minh Nghĩa bị buộc tội là "xét lại. " ở Bộ Tổng tham mưu, nhiều người cho biết ông Bình rất gần gũi gia đình bộ trưởng quốc phòng Văn Tiến Dũng, biết khá nhiều chuyện riêng tư, về tham nhũng, chia chác chiến lợi phẩm trong hàng ngũ các viên tướng trong cơ quan bộ quốc phòng và bộ tổng tham mưu. Ông lại là ủy viên trong cấp ủy đảng tại đó. Ông chết trong một ngôi nhà tại thành phố Hồ Chí Minh. Các phòng ở của ông tại nhà riêng bị lục soát. Đúng một tuần sau, con trai cả của ông, một trung tá quân đội, người đang giữ tất cả những tài liệu thư từ riêng của ông, bị một tai nạn và chết ngay trong một cuộc đụng xe gắn máy trên đường thành phố Hồ Chí Minh. Lại một câu hỏi nữa, đến nay vẫn chưa được giải đáp có sức thuyết phục...
Trước đó, tháng 6. 1986, đại tướng thứ trưởng quốc phòng Hoàng Văn Thái cũng bị chết đột ngột tại nhà, sau một tuần liền họp hành rất căng thẳng ở Bộ Quốc phòng, vào dịp chuẩn bị cho đại hội đảng toàn quân và đại hội đảng toàn quốc lần thứ 6. Ông tham gia đơn vị Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập tháng 12. 1944, là Tổng tham mưu trưởng trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Ông từng vào miền Nam, ở căn cứ R hơn ba năm, là phó tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng ngay khi cuộc chiến tranh đặc biệt chuyển thành cuộc chiến tranh cục bộ-Ông là sĩ quan gần gũi nhất của đại tướng Võ Nguyên Giáp, cùng ở trong sở chỉ huy Mường Phăng ở Điện Biên Phủ-Tôi còn nhớ, đúng ngày 7. 5. 1984 (kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biển Phủ), Bộ Quốc phòng tổ chức ôn lại chiến dịch ấy tại sa bàn lớn trong Viện bảo tàng Quân đội trên đương Điện Biên Phủ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến dự và nhắc đến những kỷ niệm 30 năm trước, nhắc đến chỉ huy từng sư đoàn - Khi kết thúc, đi ra phía Cột cờ, đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫy đại tướng Hoàng Văn Thái lại và nói với tôi như phân trần: "Nhà báo lại đây! Đây, anh Thái đây - Có phải hồi ấy khi tôi quyết định thay đổi phương châm công kích, anh không thông, còn chống tôi nữa phải không?" Đại tướng Hoàng Văn Thái cười xòa: "Vâng, thưa anh đúng như thế. Vì lỡ chuẩn bị tất cả rồi, bộ đội được động viên rất hăng, chỉ chờ lệnh nổ súng. Hoãn lại thật là gay! Nhưng nếu không hoãn thì còn gay hơn. Có khi không thắng mà còn bị tổn thất nặng nề, kháng chiến không còn biết ra sao! Vì vốn liếng xây dựng của ta hơn 5 sư đoàn đều đưa vào đó cả!" Tôi còn giữ tấm ảnh chụp vào đúng thời điểm ấy, trưa ngày 7. 5. 1984.
Ông Thái rất quý mến ông Giáp. Hai ông còn thân thiết vì tình cảm thông gia. Võ Điện Biên, con trai đầu của ông Giáp sinh đúng vào năm của chiến thắng Điện Biên Phủ, lấy Hoàng Thị Kim Phượng con gái cưng của ông Thái. Cả hai đều là sĩ quan quân đội, Điện Biên là trung tá binh chủng Phòng không quân, Kim Phượng là sĩ quan quân y, ở ngành dược, hiện công tác ở cực quân y quân đội. Mẹ của Kim Phượng là bà Loan, cấp bậc đại tá hiện nay đã nghĩ hưu. Trước kia bà làm công tác chính sách hậu phương ở bộ tổng tham mưu là một trong bốn nữ chiến sĩ giải phóng quân đầu tiên hồi trước cách mạng tháng Tám. Đầu tháng 9. 1945, bà đã từ căn cứ Việt Bắc về Hà Nội trong chi đoàn Quang Trung nổi tiếng hồi đó.
Nhìn lại cuộc đời người lính suốt trong 37 năm 3 tháng, tôi đã nếm đủ mùi gian khổ và vinh quang của người cầm súng-Tôi đã là lính, đứng canh gác, rồi tiểu đội trưởng ở lớp huấn luyện, là trung đội trưởng ở đường số 9, đi truy lùng tận quân Pháp ở vùng Trung Lào, là đại đội trưởng đại đội chủ công trong chiến dịch giữ thành Quảng Trị khi quân Pháp đổ bộ lên đầu năm 1947, rồi tiểu đoàn trưởng ở địch hậu Triệu Phong, Hải Lang (Quảng Trị), làm giám đốc trưởng sĩ quan Lê Lợi của quân khu ba, rồi giám đốc trường quân chính của sư đoàn 304, rồi lên bổ sung cho chiến dịch Điện Biên Phủ, khi chiến dịch bước vào thời kỳ thay đổi phương châm tác chiến. Tôi đã ba lần đi qua đường mòn Hồ Chí Minh, vào Bình Trị Thiên, quân khu Năm và chiến trường Tây Nguyên, xuống tận đồng bằng Trung Bộ, vào ấp chiến lược ở Quảng Ngãi tham gia nghiên cứu các mặt tình hình. Tôi đã nhiều lần ốm nặng tưởng không qua khỏi: Kiết lỵ, bị sốt rét ác tính, bị sâu quảng khắp người, các nốt lở to bằng đồng hào ván sâu hoắm, ba lần bị thương vì đạn cối, pháo, viêm ruột thừa cấp tính, bị nhiễm trùng toàn bộ ở ổ bụng. Những lần đói khát thì không sao kể xiết. Phải ăn gạo mủn chua và đắng vì chôn dưới cá ẩm hàng tháng trời mới moi lên...khi hành quân thiếu rau, gặp được một hay hai lá rau mà cũng cố dừng lại để hái, gom lại để đến khi nghỉ có được vài chục ngọn rau để nhấm ăn...Có khi giữa rừng gặp một cay cam ở một ngôi nhà bỏ hoang, hái chia mỗi người một quả, thế mà nhấm từng múi để dành trong suốt hai ngày đêm...Đói và khát, có khi khát đến cháy cổ, kiệt sức mắt nổ đom đóm thì vừa lết đến một ngọn suối. Một ngụm nước tan nhanh vào toàn cơ thể như nở ra từng tế bào, từng thớ thịt. Có khi ở căn cứ thiếu muối phải lục tìm lá chuối gói thịt, cá gài ở mái lều đem ra mút lấy chút vị mặn. Cũng có khi phải lấy một viên thuốc quinacrine pha loãng ra thành năm liều thuốc tiêm.
Còn vinh quang ư? Tôi không bao giờ thích thú về những vinh quang hão huyền, hình thức. Tôi đã được 16 huân chương lớn nhỏ:
Từ huân chương chiến công, huân chương Chiến thắng, đến huân chương Quân công. Các huân chương của nhà nước và quân đội Lào và Căm pu chia...Tôi là nhà báo quân đội duy nhất được thưởng Huân chương danh dự mang tên Julius Fucik do tổ chức nhà báo quốc tế OIJ đặt ra, được chủ tịch OIJ, giao sư Nodenstreng người Phần Lan sang Việt Nam trao tại hội trường Ba Đình tháng 12 năm 1981, "do những đóng góp về báo chí trong thời kỳ chiến tranh, về các bài phóng sự xuất sắc được viết tại chiến trường..."
Về hoạt đồng xã hội, tôi là ủy viên ban chấp hành Hội hữu nghị Việt Nam - Căm pu chia (từ tháng 4. 1986), là žy viên đoàn chủ tịch ủy ban đoàn kết nhân dân á-Phi của Việt Nam từ năm 1982 đến nay. Tôi đã dự một số hội nghị quốc tế trên danh nghĩa ấy.
Có nhà báo nước ngoài nhận xét: "Bùi Tín thường ở những nơi quan trọng nhất, ở những thời điểm quan trọng nhất. " Có lẽ đó là do ý thức nghề nghiệp, với ý nghĩ: Người khác đi được sao mình không đi được? Đó là niềm say mê và trách nhiệm chứ không phải do ý muốn chơi trội, tìm kiếm danh lợi, để nổi tiếng!
Tôi có mặt ở Dinh Độc Lập ngày 30. 4. 1975. Việc nhận đầu hàng của ông Dương Văn Minh là ngẫu nhiên, do trung tá trưởng ban bảo vệ sư đoàn 304 của quân đoàn 2 Nguyễn Văn Hân và trung tá Bùi Văn Tùng chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 yêu cầu. Để cho không khí bớt căng thẳng, tôi bảo hai chiến sĩ đang cầm lăm lăm AK 47 chỉa vào phòng ra đứng ở ngoài. Lúc ấy tôi chưa biết ông Minh đã loan báo việc ngừng tiếng súng trên đài. Tôi yêu cầu ông Dương Văn Minh đầu hàng sớm chấm dứt chiến sự, khỏi hy sinh thêm vô ích cho cả hai bên. Lúc ấy, tôi đã hiểu câu thực hiện chính sách hòa hợp giữa người Việt Nam với nhau. Tôi thấy những vẻ mặt lo lắng, căng thẳng, liền nói với các ông: "Chiến tranh đã chấm dứt-Tất cả người Việt-Nam chúng ta đều thắng. Nếu các ông có ý thức dân tộc thì các ông cũng có thể coi ngày hôm nay là ngày vui của mình, ngày vui chung của đất nước chúng ta. " Ông Vũ Văn Mẫu cười tươi không lo như trước đó.
Sau một lát, tôi rất cảm động gặp riêng ông Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng đặc trách về kinh tế, và nghe ông Hảo nói:
"Mấy tuần nay, người Mỹ ngày nào cũng tới rước tui qua Hoa Kỳ. Tôi nhứt định không đi. Tôi còn biểu tụi trẻ sinh viên của tui ở lại. Đất nước mình xây dựng, rất cần bọn tui..." Ông Hảo ở lại nhưng rồi không được xử dụng, vấp đủ khó khăn. Ông ta chán nản và gần đây đã xin xuất cảnh, hiện ở đảo Ta-hi-ti, giúp cho chánh phủ ở đó về kinh tế. Những người có lòng tốt như vậy đối với đất nước cuối cùng đã phải ngậm ngùi ra đi!
Chính ông đã báo cho tôi biết vào buổi chiều 30. 4. 1975 là ông cúng viên chức ở ngân khố đã giữ lại 16 tấn vàng không cho cánh ông Thiệu mang đi. Tôi liền báo tin ra Hà Nôi - Sau 2 ngày ở Hà Nội cho người vào nhận đủ. Nhưng rồi số vàng ấy đã không được xử dụng hợp lý để sinh sôi ra vì định kiếu với ngân hàng ngọai quốc. Số vàng ấy được giữ rất kỹ kiểu nông dân, xà xẻo dần để chi tiêu, cuối cùng đã hết sạch! Sau đó tôi lo viết bài để gửi ra Hà Nội cho kịp. Chỗ tôi ngồi viết chính là bàn giấy của ông Minh ở trên tầng hai Dinh Độc lập. Sau đó tôi cùng trung tá Nguyễn Trần Thiết, phóng viên ban Biên tập quân sự báo Quân đội nhân dân, người cùng đi với tôi trong suốt cả ngày hôm ấy, vào trại Đa vít để tìm cách chuyển hai bài báo của chúng tôi ra Hà Nội.
Trước đó hai năm, ngày 29. 3. 1973 ở sân bay Tân Sơn Nhất, tôi là sĩ quan Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm soát và chứng nhận việc Mỹ rút tốp quân cuối cùng ra khỏi miền Nam Việt Nam. Người lính Mỹ cuối cùng là thượng sĩ Max Bielke, người ở bang Oregon! Tôi bắt tay anh ta và tặng một tấm mành trúc có in hình hồ Hoàn Kiếm, chúc anh về hạnh phúc, vui vẻ với gia đình và có dịp hãy sang thăm Việt Nam với tư cách là khách du lịch. Anh ta có vẻ cảm động, cám ơn và cười rất thú vị trước đông đảo nhà báo và quay phim nước ngoài.