Cuối đời Xuân Thu Chiến Quốc, nước Tàu loạn lạc, gần bốn mươi chư hầu lăm le thôn tính lẫn nhau. Vua Nguyên Vương nước Sở là người trọng đạo, sùng nho, muốn khôi phục sự hùng cường cho đất nước và chiếm lại những đất đai đã bị mất để chống đối với nước Tần tàn bạo.
Thuở ấy, tại núi Tích Thạch, thuộc xứ Tây Phương, có một vị ẩn sĩ, họ Tả, tên Bá Đao, tuy mồ côi cha mẹ, song có chí học hành, nên sớm trở thành một người có tài trị thế an bang.
Đã gần bốn mươi tuổi, Tả Bá Đao không chịu ra làm quan, nay nghe Nguyên Vương nước Sở mến nghĩa cầu hiền, đem lòng hoài bảo thi thố tài năng của mình.
Ông ta lần đến kinh đô nước Sở để yết kiến.
Khi đi đến xứ Ung, gặp lúc trời mưa tuyết đổ dầm dề, đường sá trơn trợt, mình mẩy ướt dầm, không thể đi được nữa, nên phải tìm nơi tạm trú.
Lần mò mãi quanh chân núi, bốn bề đều vắng tanh không có một nhà cửa làng mạc nào cả. Trong cơn bối rối, màn đêm lại rủ xuống, gió lạnh rít từng cơn. May thay, trước mặt xa, trông thấy lấp loáng một ánh đèn, Tả Bá Đao lần đến thấy một ngôi nhà cỏ, bốn bề phủ một giậu trúc, trông có vẻ thanh cao và u nhã.
Bá Đao bước vào gõ cửa, bên trong chủ nhân ra mở cửa, và mời vào.
Nhà tuy chật hẹp, song rất sạch sẽ, ngăn nắp; giữa nhà kê một chiếc giường mây, trên treo mấy bức họa thời cổ, chung quanh chất đầy sách vở.
Biết là nhà của một nho sĩ ẩn dật, Bá Đa cúi chào và nói :
— Tiểu sinh là người Tây Phương, tên Tả Bá Đao, định sang nước Sở, chẳng may giữa đường gặp nước dầm, tuyết lạnh, vậy xin tiên sinh cho tá túc một đêm.
Chủ nhân lễ mễ đáp :
— Ngài không chê tệ xá mà đến đây thực là quà hóa lắm.
Nói xong, tìm trúc đốt lửa lên cho ấm và sửa soạn cơm, rượu dọn lên đãi khách.
Trong lúc ăn uống, Bá Đao hỏi họ tên thì chủ nhân đáp :
— Tiểu sinh họ Dương, tên Dốc Ai, ham việc sách đèn, nay may gặp tiên sinh hạ cố đến đây thực là may mắn lắm !
Bá Đao nói :
— Trong cơn mưa dầm tuyết đổ, được tiên sinh cho tạm trú, lại ân cần thết đãi như vầy, ơn ấy ngàn ngày không quên !
Đêm ấy hai người nằm gác chân nhau chuyện trò vui vẻ đem hết tài năng kinh lược ra bàn với nhau, tâm tình mỗi lúc một thêm khắn khít.
Sáng hôm sau, mưa tuyết vẫn dằng dai không ngớt, Dốc Ai cầm Bá Đao lại không cho lên đường.
Bá Đao nóng lòng nói :
— Nay Nguyên Vương nước Sở chiêu đãi hiền sĩ, tôi tính xuống đó để lập công, còn hiền đệ có tài đồ vương định bá sao không đi cùng tôi xuống đó để lập nghiệp, lại sống ẩn dật nơi đây làm gì cho uổng đời tài hoa như thế ?
Tuy Dốc Ai lâu nay vẫn tính sống cảnh thanh nhàn, nhưng nay trước thâm tình không nỡ từ chối bèn sửa soạn hành trang cùng đi.
Đường xá xa xuôi dịu vợi, lại gặp lúc trời mưa mỗi lúc một thêm, phần thì cả hai người lâu nay sống trong cảnh nghèo nàn thanh đạm, hành là không có bao nhiêu, chỉ dồn vào một bao thay phiên nhau mà vác.
Gió càng ngày càng thổi mạnh, mưa mỗi lúc một thêm, bầu trời lạnh lẽo rủ xuống một màu trắng đục như một màu tang chìm trong cảnh hoang vu quạnh quẽ.
Qua khỏi vùng núi Lương Sơn, đường sá lại càng gay go hơn nữa.
Hỏi thăm thổ dân họ cho biết rằng con đường này, hơn trăm dặm đều là núi sâu, rừng rậm, các thú dữ đi từng đoàn khó mà vượt qua khỏi.
Hai người nhìn nhau thở ra, tuy không ai nói với ai câu gì, nhưng lòng mỗi người đều lo lắng.
Bá Đao nói :
— Xưa nay sống thác đều có số mệnh, chúng ta đi đến đây chẳng lẽ trở về. Người anh hùng phải tìm cái sống trong cái chết !...
Đến một ngày kia, núi rừng u tịch, đường sá tuyết đọng trắng phau, lương thực trong hồ bao đã gần cạn, sức người có hạn làm sao chống lại với thiên nhiên trong cảnh nguy nan.
Tả Bá Đao nói với Dốc Ai :
— Tôi nghĩ từ đây phải đi qua hơn trăm dặm trên con đường núi vắng vẻ, không có làng mạc nhà cửa. Tính số lương thực thì một người đi may ra tới nước Sở được. Vậy ta trao lương thực và áo quần cho hiền đệ cố gắng mà đi. Còn ta, ta đã kiệt sức rồi, đành nằm chết ở nơi đây, đợi hiền đệ về đến kinh đô nước Sở, bái yết xong sẽ trở về đây đắp một cho ta cũng được.
Dốc ai nghe Bá Đao nói đau lòng, đáp :
— Chúng ta đã kết nhau làm anh em, thì sống thác có nhau, sao hiền huynh lại nghĩ như thế ?
Bá Đao nói :
— Nếu như thế rồi đây chúng ta sẽ bỏ thây cả hai nơi chốn rừng thâm này phỏng có ích gì không ?
Dốc Ai nhất thiết không chịu, thấy Bá Đao có vẻ hơi mệt nhọc, bèn dìu bạn đến một gốc cây dâu bên mé đường, bẻ cành khô đốt lên để sưởi lửa cho ấm.
Thấy lửa đã gần tàn, và tuyết vẫn rơi như đổ, Dốc ai vội vả rảo bước quanh vùng để kiếm thêm củi khô đem về đốt.
Vừa mới về đến nơi, thấy Bá Đao cởi bỏ hết quần áo, nằm chèo queo, Dốc Ai thất kinh hỏi :
— Anh định làm gì thế ?
Bá Đao chỉ đống quần áo nói :
— Hiền đệ hãy mặc thêm quần áo cho đỡ lạnh, rồi mang lương thực ra đi, tôi nhứt định chết ở đây !!!
Dốc Ai ôm quần áo đem đắp lên mình Bá Đao và nói :
— Nếu anh làm như thế, tôi cũng nguyện chết theo anh cho trọn nghĩa đệ huynh.
Vẻ mặt đầy nét hy sinh và khẳng khái, Bá Đao nói :
— Tôi bình sanh nhiều bệnh tật. Hiền đệ còn trẻ trung, khỏe mạnh, tài học lại hơn tôi bội phần, do đó nên tôi quyết nhường lương thực cho hiền đệ đi tới nước Sở mà lập nghiệp, hiền đệ đừng câu chấp như thế mà hai đứa phải chết cả nơi đây thì vô ích lắm.
Nói xong, thần sắc Bá Đao biến hẳn, rồi chỉ trong chốc lát, con người hy sinh ấy tắt thở.
Dốc Ai thương khóc thảm thiết, muốn tự tử chết theo, song sợ như thế sẽ phụ lòng Bá Đao, làm cho vong hồn Bá Đao không toại chí, bèn vái rằng :
— Em nguyện xin tuân ý anh ra đi và cầu xin vong linh anh phò hộ cho em sớm được thành công để về đây chôn cất cho anh, ấy là nguyện vọng của đời em.
Nói xong, Dốc Ai lấy áo quần mặc, vác bao lương thực còn lại ra đi.
Trải qua bao nhiêu ngày đói rét, Dốc Ai mới lần mò đến kinh đô nước Sở.
Quan Giám khảo là Thượng đại phu Bùi Trọng trông thấy Dốc Ai quần áo rách rưới, nhưng vẻ mặt thông minh, dĩnh ngộ, liền đem tất cả những nghĩa là trong điển kinh ra bàn hỏi. Dốc Ai ứng đáp như nước chảy, Bùi Trọng mừng lắm, vào tâu lại với Sở Vương.
Sở Vương tức khắc cho triệu Dốc Ai đến để bàn việc quốc sự. Dốc Ai dâng mười điều sách lược rất cần yếu cho sự tồn vong của nước Sở.
Nguyên Vương cả mừng, thiết đãi yến tiệc và phong cho Dốc Ai làm Trung đại phu.
Dốc Ai lạy tạ Ơn vua, nhưng đôi dòng nước mắt chảy ròng ròng.
Nguyên Vương ngạc nhiên hỏi :
— Trẫm đã mến tài khanh, trọng dụng như thế cớ sao khanh lại còn buồn bã là ý gì vậy ?
Dốc Ai đem chuyện Tả Bá Đao kết nghĩa thâm giao và hy sinh liều chết nơi chốn núi non, để cho mình đủ lương thực đến kinh đô nước Sở bái yết.
Sở Vương nghe nói, động lòng rơi lụy thán phục tinh thần hy sinh cao cả của Tả Bá Đao, và phong cho Tả Bá Đao chức Trung đại phu, ban tứ đồ khâm liệm rất hậu, ủy thác cho Dốc Ai đến đó để dốc táng.
Dốc Ai lạy từ Nguyên Vương trở về đường cũ, tìm đến gốc bụi dâu nơi chân núi Dương Sơn, thấy thi thể Tả Bá Đao vẫn còn tốt tươi như người còn sống.
Dốc Ai khóc lóc một hồi, tẩn liệm theo nghi lễ, rồi xây tường bao quanh mộ, xây đền thờ kỷ niệm, lập bia ghi lại nỗi lòng hy sinh hiếm có ấy.
Bên cạnh ấy lại có xây một ngôi nhà riêng để cắt đặt người ở trông nom việc tế lễ hằng năm.
Công việc hoàn thành, thì tối hôm ấy Dốc Ai chong đèn ngồi trầm tư mặc tưởng ở hưởng đường, nhớ lại tấm lòng thâm khiết cao vời của bạn.
Bỗng nhiên một trận gió thổi đến ào ào làm cho ngọn đèn lờ đi rồi tỏ lại. Dốc Ai nhìn ra trước nhà thấy Bá Đao đứng sừng sững trước mặt, thất kinh vội hỏi :
— Đại huynh hiện hồn về đây chắc có điều gì dạy bảo đệ chăng ?
Vong hồn Bá Đao buồn bã đáp :
— Cảm nghĩa hiền đệ tận tâm chiếu cố đến nắm xương tàn của anh, anh không bao giờ quên được. Song có một điều là phần mộ của anh, em đem táng gần ngôi mã của Kinh Kha, một vong hồn cực kỳ uy mãnh. Đêm đêm vong hồn ấy thường đến kêu anh mắng nhiếc, nói :
— Mày là tên quỷ chết đói sao dám xâm phạm đến phần đất của ta. Nếu không dời đi nơi khác, ta quyết quật thây mi đó.
Vì vậy cho nên anh phải hiện hồn báo cho hiền đệ biết để dời ngôi một ta đem táng một nơi khác cho yên thân.
Hồn Bá Đao vừa nói dứt tiếng thì trận cuồng phong lại nổi lên làm cho ngọn đèn lay động. Dốc Ai trông ra đã không thấy bóng hình của Bá Đao đâu nữa.
Lấy làm lạ, Dốc Ai đợi trời sáng tìm đến hỏi vài người thổ dân trong vùng ấy.
Người người đều nói :
— Trong rừng tùng trước mặt có mả của Kinh Nha, và có miếu thờ vong ấy.
Dốc Ai lại hỏi :
— Người ấy trước kia vì Thái tử Đan ở nước Yên đến hành thích Tần Thủy Hoàng, nhưng việc không thành, tại sao lại lập miếu mà thờ.
Thổ dân giảng giải :
— Nguyên Cao Tiệm Ly là người xứ này, biết Kinh Kha sau khi bị giết thế nào thây cũng bị ném ra đồng hoang, mới lần sang Tần quốc lén trộm thây bạn đem về an táng ở đây. Sau vong hồn ấy linh hiển lắm, nên chúng tôi phải lập miếu mà thờ.
Dốc Ai nghe xong lập tức tìm đến miếu Kinh Kha.
Thấy trong đó có một tượng thần, Dốc Ai nổi giận, chỉ vào mặt lớn tiếng mắng rằng :
— Ngươi là một kẻ lưu vong ở nước Yên, thờ phụng Thái tử Đan, đáng lẽ phải đem tài an bang tế thế, mưu đồ cho nước ấy được phú cường, diệt cái uy lực của nhà Tần. Ngươi chẳng làm được, về sau được ủy thác của Thái tử Đan, giắt con dao ôm sang Tần quốc để thích khách vua, ngươi lại cũng không làm được gì để đến nỗi cha con vua nước Yên phải thác bao nhiêu sanh linh vong mạng, thế mà mi không biết hối ngộ tài năng và tội lỗi của mình, mê hoặc lòng dân, bắt dân chúng tôn sùng thờ phụng. Anh của ta là Tả Bá Đao một bực danh nho tài đức, nghĩa trọng thiên kim, đáng cho mi kính phục, mi lại đem lòng ganh ghét xua đuổi, mắng nhiếc nhiều điều, cậy thế cậy thần mà bức bách. Nếu mi còn hống hách như thế ta sẽ phá miểu, quật mồ ngươi lên đó.
Mắng xong, Dốc Ai trở về mộ Tả Bá Đao, van vái rằng :
— Nếu đêm nay mà Kinh Kha còn đến quấy rầy hiền huynh nữa mong hiền huynh hiện hồn về báo mộng cho em rõ.
Đêm ấy lúc Dốc Ai ngồi tựa hưởng đường, thì lại có một trận cuồng phong thổi đến nữa. Lần này không thấy bóng của Tả Bá Đao hiện ra, chỉ nghe giọng nói bi ai não nùng từ bên ngoài vang lại :
— Cảm lòng em chu đáo. Song Kinh Kha hung dữ lắm, lại có thêm Cao Tiệm Ly trợ giúp, cứ đến xỉ vả anh hoài; nay mai, thây anh sẽ bị quật lên khỏi mộ. Mong hiền đệ dời gấp đi nơi khác để anh khỏi tủi lòng.
Dốc Ai nói :
— Chúng dám lăng mạ anh như thế thì em nhất định giúp anh để đối phó với chúng.
Giọng nói bên ngoài buồn rầu đáp lại :
— Em là người dương thế làm thế nào mà chiến đấu với kẻ âm phủ cho được.
Dốc Ai hằn học đáp :
— Anh cứ yên tâm. Sáng mai em sẽ liệu cách.
Sáng hôm sau, Dốc Ai đến mộ Kinh Kha, mặt hầm hầm giận dữ, muốn đập phăng pho tượng và quật mã lên, song thổ dân trong vùng theo năn nỉ cầu xin đừng phá phách, vì thế cho nên Dốc Ai nuốt hận trở về.
Về đến hưởng đường Dốc Ai ôm đầu suy nghĩ, rồi viết một đạo biểu chương dâng lên Sở Vương nói rõ mối thâm tình của ông ta với Tả Bá Đao. Trước đây, Tả Bá Đao đã hy sinh cho mình được sống, vì thế mới tao phùng Thánh Chúa, mong đội ơn sâu, nay xin hẹn lại kiếp sau mới đáp đền ơn Thánh Thượng.
Lời lẽ trong tờ biểu rất bi thiết.
Viết xong, Dốc Ai khóc lớn, rồi giao tờ biểu chương cho bộ hạ đem về triều phục mạng.
Còn mình thì đến trước mộ Bá Đao van vái rằng :
— Anh bị vong hồn Kinh Kha bức bách, em muốn đốt miểu và quật mồ để rửa hận cho anh, song dân chúng ngăn cản, vậy em tự nghĩ, em còn có cách là chết theo anh cho có bạn để họp nhau mà trừ loài quỷ hung hăn ấy.
Vái xong, Dốc Ai rút gươm tự vận.
Thổ dân thấy đôi tình thân thiết như vậy bèn đem xác Dốc Ai chôn gần nơi mộ Tả Bá Đao.
Đêm ấy, một trận cuồng phong nổi dậy, sấm sét ầm ầm, trong rừng thông vi vút như tiếng gươm giáo choảng nhau, lại có những tiếng hò hét như thiên binh ngàn tướng.
Trời sáng, mộ Kinh Kha bị bật tung, xương cốt ném đầy trước mộ. Tượng đá, miếu thờ đều bị gió cuốn đi đâu mất biệt.
Bọn tùy tùng trở về nước Sở, tâu lại đầu đuôi công việc.
Sở Vương bùi ngùi thương xót, tiếc cho những kẻ chân thành đã vùi thân trong nắm đất.
Muốn lạm rạng tình nghĩa thiết tha của đôi bạn ấy, vua Sở truy phong cho hai người lên chức Thượng đại phu, lập miểu tôn thờ, và làm bia ghi sự tích ly kỳ ấy.
Mãi đến nay, hương khói còn lưu truyền mãi mãi. Quanh vùng đó, những ai muốn kết nghĩa tử sanh với nhau đều dắt đến đó để thề nguyền.
Tấm gương yêu mến của hai người truyền tụng mãi đến muôn đời.
Các bậc sĩ phu đi ngang qua đó thường cảm kích đề vịnh, và đây là một bài :
Cổ kim đại nghĩa bao thiên ha.
Chỉ tại nhân tâm phương thốn gian
Nhị sĩ miếu tiền thu khí túc
Anh hồn thường bạn nguyệt quang hàn
Dịch :
Xưa nay nghĩa lớn trùm trời đất
Chỉ tại lòng người một chút nhân
Thu khí hắc hiu lồng trước miếu
Tình vươn thương bạn bóng trăng trong