Paris, 1949
Từ văn phòng này đến văn phòng khác, từ bộ này sang bộ khác, tôi cùng với Pablo Picasso đi khắp Paris để xin gia hạn cho Neruda lưu lại nước Pháp. Mà hôm đó lại là một ngày quan trọng của nhà họa sĩ vĩ đại: Francoise, vợ ông, vào nhà hộ sinh. Ông muốn có đứa con gái, cô bé đã ra đời và được đặt tên là Paloma (tiếng Tây Ban Nha, nghĩa là “bồ câu”). Vật cùng tên và là người chị của cô bé - bởi đó cũng là sáng tạo của ông - đã được trang trí khắp các bức tường và cột áp phích ở Paris: con chim bồ câu hoà bình đã trở thành biểu tượng của Hội nghị các chiến sĩ bảo vệ hoà bình lần thứ nhất sẽ khai mạc vào ngày mai tại phòng họp Pléiade.
Còn Neruda với bộ râu giả đã xuất hiện tại Paris một tuần trước - ông mang hộ chiếu giả đề tên một công dân Guatemala là Don Antonio de Gì Gì Ðó. Hơn thế nữa, đó là tấm hộ chiếu ngoại giao, còn Don Antonio không phải là tuỳ viên văn hoá, cũng không phải giữ một chức vụ gì đó. Vụ này là nhờ sự giúp đỡ của Miguel Angel Asturias
[1] , đại sứ Guatemala tại Arhentina, ông đã không quản ngại cương vị và danh vọng của mình đáp lại lời yêu cầu của người bạn. Ông đã hành động không chút do dự khi Pablo chạy khỏi Chile, nơi nhà thơ bị tước quyền bất khả xâm phạm của nghị sĩ, đến cầu cứu ông.
Việc Neruda lưu lại Paris lúc đầu hoàn toàn được giữ kín - biết chuyện này, ngoài tôi ra, chỉ có Alfredo Varela, người đứng đầu ÐCS Arhentina, bản thân cũng là nhà văn, tác giả tiểu thuyết
Dòng sông tăm tối, thêm Laurent Casanova, uỷ viên Bộ chính trị ÐCS Pháp phụ trách văn hoá và bảo vệ hoà bình, thêm Louis Aragon, thêm Françoise Leclerc, người chứa chấp kẻ chạy trốn - nhưng chẳng bao lâu đó đã là bí mật mà ai cũng biết. Ðến dự Hội nghị có nhiều bậc thầy văn học nghệ thuật mới từ các nước Mỹ La tinh - Juan Marinello, Miguel Otero Silva, Nicolás Guillén. Còn Neruda với các giấy tờ giả thì không thể tham gia vào công việc của Hội nghị được và, nói chung bất cứ lúc nào ông cũng có thể bị bắt, bị vạch trần và đuổi khỏi nước Pháp.
Thế là Picasso nhận lấy việc chạy chọt cho Neruda, còn tôi dù chẳng được tích sự gì lắm cũng nhập hội với ông đi gõ các cửa. Cứ nửa tiếng chúng tôi lại ghé vào tiệm rượu để Pablo gọi điện đến bệnh viện hỏi xem việc sinh nở và lần nào cũng được nghe câu trả lời: “Chưa sinh”. Nhưng rồi rốt cuộc ở đầu dây bên kia cũng có tin mừng: người ta báo cho ông biết cô bé đã ra đời, cuộc sinh nở mẹ tròn con vuông.
Còn chuyện Neruda sắp giải quyết xong, chỉ còn mấy thủ tục cuối cùng một mình tôi có thể lo được. Anh hãy vào viện thăm vợ con đi, tôi bảo Picasso. Nhưng ông gạt đi. Và đây, Bộ ngoại giao và Bộ nội vụ Pháp đã tìm ra cách giải quyết được mọi vấn đề: Neruda rời nước Pháp bằng ôtô, lính biên phòng được báo trước để không gây cản trở gì, và ông sẽ quay lại khi hộ chiếu được lo xong đúng thủ tục.
Tại Thuỵ Ðiển, nơi vợ Pablo Neruda khi ấy là Delia del Carnil, biệt danh là Kiến, đang đợi ông, có một người hết sức hâm mộ tài năng của ông - đó là cựu lãnh sự Chile. Ông này, may sao, vốn phòng xa nên khi về hưu đã giữ lại các con dấu và giấy tờ in sẵn, nhờ đó ông ta đã gia hạn thêm cho tờ hộ chiếu cũ mà Delia mang từ Santiago sang, thế là nhà thơ của chúng ta lại có mặt ở Paris, nhưng lần này không phải dưới cái lốt Don Antonio de Gì Gì Ðó, mà với cái tên thật của mình - công dân Chile Neftalí Ricardo Reyes. Sau đó, khi trở lại Chile, trong tất cả các giấy tờ ông sẽ hiện diện không phải là Don Antonio mang râu, cũng không phải là Neftalí Reyes, mà là Pablo Neruda, nhà thơ và người tranh đấu.
Picasso lo liệu việc này cho đến tận khi tin chắc là nó đã được giải quyết dứt điểm ông mới giao cho tôi những việc vặt còn lại - lo ôtô và đội bảo vệ gồm các sinh viên cộng sản Paulo Rodriges và Alberto Castiel. Họ chở ông Antonio mang râu sang Thuỵ Ðiển và đưa ngài Neruda trở lại- không râu, nhưng hộ chiếu thật.
Khi trở về khách sạn, tôi kể cho Zélia về tất cả những chuyện của cái ngày này, về những cú điện thoại Picasso gọi đến bệnh viện, về sự ra đời của cô bé Paloma.
- Nếu có lúc nào đó sinh con gái, chúng ta cũng sẽ đặt tên con là Paloma. - Zélia nói.
Việc đó sẽ đến vào năm 1951. Ngẫm lại thì Paloma của chúng tôi đã được hoài thai ở Varsava, tại Hội nghị các chiến sĩ hoà bình lần thứ hai. Có lẽ tôi và Zélia đã hưng phấn trước vô số bức tranh chim bồ câu dán đầy các bức tường của thủ đô Ba Lan.
Paris, 1988 Dona Zélia sẵn lòng tha thứ mọi chuyện trên đời cho cái gã mà số phận nghiệt ngã đã ràng buộc nàng vào; tất cả những hành vi và tội lỗi của gã nàng đều sẵn sàng thông cảm, cho đó chẳng qua là vì gã vốn có một thời thơ ấu nặng nề, một thời tuổi trẻ sôi sục, một nền giáo dục khắc nghiệt, một sự dạy dỗ khó chịu, quá lắm nữa thì nàng đổ tại bản tính con người không hoàn thiện.
Duy chỉ có một việc nàng không tha thứ cho tôi. Và cho mãi đến nay đó vẫn là đề tài cấm kị trong nhà tôi, tốt nhất là đừng động đến nó, nếu như điều kiêng kị đó bị phá vỡ lập tức sẽ vang lên tiếng cười cay đắng, những câu nói độc địa, tiếng nghiến răng ken két. Không cần, không cần nhắc lại cho vợ tôi về chiếc trực thăng của tổng thống Pháp.
Chuyện xảy ra vào mùa thu, theo như bây giờ tôi nhớ lại là vào tháng chín. Ở Paris ngành y đang đình công, biểu tình. Nhìn qua cửa chiếc xe con của chính phủ chúng tôi thấy một đám đông các y tá và hộ lý cầm khẩu hiệu, biểu ngữ, băng cờ, cảnh đó khiến chúng tôi muốn nhập bọn: Zélia thì vì tình đoàn kết, còn tôi thì vì đã lâu không được hô “hoan hô!” và “đả đảo!”. Phía trên biển người, những chiếc trực thăng cảnh sát bay lượn để đề phòng, cho biết rằng chính quyền sẵn sàng ra tay.
Chúng tôi được tổng thống Mitterand mời dự bữa trưa tổ chức cách Paris chừng một trăm cây số, tại lâu đài thuộc về De Bossy, quốc vụ khanh phụ trách các vấn đề văn hoá. Ðây không phải là bữa tiệc chính thức, không phải là “bữa ăn” tiếp tân, mà là một cuộc gặp mặt vui vẻ và dễ chịu trong diện hẹp: ngoài đích thân tổng thống và chủ nhà ra, còn có bà chủ xuất bản nổi tiếng Odil Jacob, nhà văn và bộ trưởng văn hoá Tây Ban Nha Jorge Semprun nhân dịp này bay từ Madrid sang, và tôi với Zélia.
Câu chuyện quanh bữa ăn nói về nước Pháp, về Tây Ban Nha, về thế giới đang tan rã và châu Âu đang hợp nhất, về những thay đổi lạ lùng ở phương Ðông mà vài ngày nữa chúng tôi sẽ bay sang đấy để tự mắt mình nhìn thấy. Nói rằng bữa ăn thành công nghĩa là chưa nói gì cả: đó thật sự là một kiệt tác, một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo, gợi nhớ đến belle epoque (thời đại đẹp đẽ)...
Sau khi ăn tráng miệng xong chúng tôi đi xem lâu đài, con chó đen của Mitterand cứ quấn quít chạy nhảy quanh chủ. Nhưng giờ phút chia tay đã đến - thời gian biểu của tổng thống được tính sít sao từng phút, các phi công chiếc chuyên cơ của ông đã khởi động máy. Chúng tôi tạm biệt nhau, đúng lúc này Mitterand mời vợ chồng tôi cùng lên máy bay với ông. Zélia run lên vì sung sướng: nàng rất thèm được bay, mà đây lại là chiếc trực thăng riêng của tổng thống, càng thích thú biết bao!
Nhưng trước khi nàng kịp mở miệng nói ra tất cả những điều đó, gã chồng thô lỗ của nàng đã can thiệp vào.
Gã đó - tức là tôi - từ chối thẳng thừng. Từ chối, không để mảy may nào hy vọng sẽ đồng ý, không hề mập mờ, lấp lửng, từ chối dứt khoát, thẳng băng: merci, thưa ngài tổng thống, cám ơn ngài về vinh dự đó, nhưng tôi không ngồi vào con chuồn chuồn quỷ sứ ấy.
Với những ai chưa biết chuyện, tôi xin nói: tôi rất khiếp sợ các loại máy bay, nhưng nỗi khiếp sợ đó là chuyện vặt so với những cảm giác bao trùm lấy tôi khi thấy một chiếc trực thăng với những cánh quạt như hình cái đinh. Ðặc biệt là những cánh quạt này trên mái nhà - chúng cứ xoay xoay rồi chốc lại dừng.
Mitterand cố mời: đến điện Elysée chỉ mất một phần tư giờ bay, sau đó người ta sẽ đưa chúng tôi về nhà, chứ mất công chạy xe một trăm ki lô mét để làm gì? Zélia tuyệt vọng cũng đặt cho tôi câu hỏi đó: để làm gì? Ánh mắt và giọng nói nghiêm khắc của nàng hứa hẹn nhiều điều, nhưng tôi là người đàn ông - quỷ tha ma bắt - đã nói một là một, không thể khác. Ðể làm gì? Sau nữa, thưa ngài tổng thống, tôi sợ bay lắm. Tôi cố không nhìn Zélia, bởi vì sẽ chẳng thấy gì tốt lành cả, tôi biết rõ điều đó.
Chiếc Citroen của chính phủ lao nhanh trên đường cao tốc. Zélia giữ thái độ im lặng ghẻ lạnh - tôi không thể cạy được một lời nào từ nàng. Không một câu nói, một ánh nhìn, một nụ cười nào về phía tôi, nói chung ngồi bên cạnh tôi lúc đó chỉ còn là cái xác phàm của nàng, còn tâm hồn nàng thì đang ở trên trời, trong chiếc trực thăng của tổng thống. Khuôn mặt thường ngày vui vẻ giờ đâm cau có, đôi mắt hướng vào cõi mông lung. Tôi tuyệt vọng cố bắt chuyện với nàng, gợi nhắc lại bữa ăn, những câu đùa tinh tế và các thứ rượu ngon, đầu óc thông minh và mẫn tiệp của chủ nhà, của các vị khách, tôi cố pha trò và sợ hãi như cá gặp băng. Tất cả đều vô ích. Tất cả đều trống không. Sự im lặng chết chóc đó là câu trả lời cho tôi, còn chiếc xe đang chở chúng tôi, một phương tiện giao thông cổ lỗ và thảm hại, trở thành sự trách móc không phải câm lặng mà gầm rú, sự hiện hình trực quan tội lỗi của tôi.
Cuộc biểu tình đã kết thúc, trên mặt đường ngổn ngang các băng cờ, biểu ngữ, còn cái trán của Zélia đang căng lên nghĩ ngợi sao thế giới này được xây dựng thật bất công, cuộc sống sao thật khủng khiếp, thì càng trở nên mờ mịt hơn. Nghe có tiếng rú ầm ầm - đó là chiếc trực thăng cuối cùng của cảnh sát bay là là trên quảng trường Bastille, buộc phải uống tận hết cái chén tuyệt vọng.
Moskva, 1954
Anna Seghers
[2] gọi điện cho tôi từ khách sạn “National” ở không xa Hồng trường về khách sạn “Metropol” nằm đối diện Nhà hát lớn - nơi vợ chồng tôi, Pablo Neruda và Nicolás Guillén nghỉ lại. Tôi vừa mới đến, bà hồi hộp nói, và tôi cần gặp anh ngay - có một chuyện không thể trì hoãn được. Anna, cũng như tôi, như nhiều người khác khắp năm châu về đây - là khách mời của Ðại hội nhà văn Xô-viết lần thứ hai, việc họp đại hội này là một sự kiện có ý nghĩa thời đại đối với giới trí thức cánh tả toàn thế giới.
Nhưng ngoài việc đó ra, Anna còn phải tham gia phiên họp của Ủy ban giải thưởng quốc tế Stalin mà bà là một thành viên. Còn tôi là người được nhận giải thưởng đó, cho đến lúc ấy tôi chưa có phần thưởng nào cao hơn, nhờ nó ở Liên Xô người ta xem tôi là nhân vật được công nhận, là người quan trọng. Chính về giải thưởng này mà Anna muốn nói chuyện với tôi. Trên hành tinh chúng ta có một số người không hiểu vì sao rất tin tưởng vào tôi, coi tôi là nhân vật tầm cỡ, có khả năng giải quyết mọi chuyện, trong mắt họ tôi là người toàn năng. Trong số người đó có Anna Seghers.
Vấn đề khiến bà lo lắng và cần lời khuyên ở tôi hoá ra là rất quan trọng. Ðó là chuyện về Bertolt Brecht
[3] . Tôi đã có lần ăn tối cùng ông tại nhà Anna - họ sống trong cùng một khu nhà ở Ðông Berlin, nếu tôi không nhầm, ông ở tầng hai, bà ở tầng tư. Anna chơi với Helena Weigel vợ ông, họ cùng bà dự họp Uỷ ban giải thưởng Stalin. Với chính Brecht tôi có dịp gần gũi hơn khi đạo diễn Alberto Cavalcanti quay tại Viên bộ phim theo vở kịch của ông
Ngài Puntila và gã đầy tớ Matti và tôi cảm thấy đã có góp phần cho nhà viết kịch và nhà đạo diễn hiểu nhau hơn.
Chuyện là thế này: ban lãnh đạo ÐCS Ðức - tôi không nhớ đảng đó tên là gì, “xã hội chủ nghĩa” hay “thống nhất”, nhưng thực chất vấn đề không vì thế mà thay đổi - do tính chính thống cứng nhắc, bè phái vượt quá mức thông thường, đã nhìn lệch Brecht - nghi ngờ và khó chịu. Không đếm xỉa đến việc ông đã hiến dâng cả đời mình cho sự toàn thắng của các tư tưởng xã hội chủ nghĩa, họ đã buộc tội nhà văn kỳ lạ này theo chủ nghĩa hình thức, bởi vì sáng tác của ông không bao giờ nằm vừa trong cái giường chật hẹp của những khái niệm do Zhdanov
[4] nêu ra về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ðể mở màn họ đã quyết định, như Anna thì thào với tôi, tước đi của Brecht cái nhà hát mà người Nga đã để lại cho ông khi rút khỏi Berlin. Tại nhà hát đó Brecht cùng đoàn của ông đã dàn dựng những vở kịch gây chấn động toàn thế giới.
Anna Seghers không thể bỏ mặc bạn trong cơn hoạn nạn - bà đã lập tức lên tiếng đấu tranh và chuẩn bị mưu kế. Họ làm cho cuộc sống của ông ấy không thể chịu được nữa, bà thì thào với tôi, họ đầu độc sự tồn tại của ông ấy, họ săn đuổi ông ấy, anh biết rồi đấy, khoản này thì họ là các bậc thầy. Chỉ có một cách duy nhất chấm dứt được cái trò đó, bảo đảm cho ông ấy có cuộc sống yên ổn, có khả năng làm việc, sáng tác, dựng kịch. Cách đó là gì? Cần phải vận động cho ông ấy được trao giải thưởng Stalin - nếu ông ấy thành người được giải thưởng thì không một ai dám động đến ông ấy và “Nhà hát Berlin” nữa, anh hiểu không? Anh cần phải giúp tôi, Jorge! Bốn ngày nữa Ban giám khảo sẽ họp!
Khoảng thời gian đó là vừa đủ cho cuộc chạy đua vội vã. Chúng tôi bấm ngón tay tính những người ủng hộ và đồng minh - những người sẽ bỏ phiếu cho Brecht có: Neruda - một, bản thân Anna - hai, Ehrenburg - ba, Aragon - còn phải xem... Nhưng đến đây Ilya đã phá tan mọi tính toán của chúng tôi:
- Tất cả trò này chỉ nhảm nhí! Ðừng tốn thời gian vô ích! Cần phải giành được sự ủng hộ của Saxa - ý nói Fadejev, người trong Uỷ ban giải thưởng đại diện cho sức mạnh ghê gớm không ai địch được - BCH ÐCS Liên Xô. - Ông ấy nói sao là được vậy, không ai dám đi ngược lại ý ông ấy. Chỉ cần ông ấy đồng ý giúp là xong.
Ông nhấc điện thoại, quay số, hẹn gặp và khuyên Anna: bảo cả Jorge đi cùng, Saxa thích anh ấy lắm. Ðiều đó đúng: Fadejev đối xử với tôi nồng ấm và kính trọng, coi là một đồng chí đứng đắn, không chơi xỏ và đáng được tin cậy. Thế là tôi cùng Anna đi đến gặp tổng thư ký Hội nhà văn Xô-viết để bắt ông ấy vào lưới âm mưu cuả mình.
Mọi việc hoá ra đơn giản hơn chúng tôi nghĩ nhiều. Sau khi nghe chúng tôi trình bày, tác giả
Ðội cận vệ thanh niên không chút do dự hứa sẽ giúp đỡ. Ông đưa Brecht vào danh sách “những người đề nghị trao giải” và kèm theo lời giới thiệu của mình trình lên Bộ chính trị xem xét - đây là cấp quyết định cuối cùng. Chẳng lẽ đây là sự thật sao? Tôi không biết, thật khó nói đâu là sự thật, đâu là trò chơi của các quyền lợi. Dù thế này hay thế khác, Brecht đã trở thành người được giải thưởng và các vị sư đảng của CHDC Ðức đã phải để cho ông yên, buông tha ông ra, ngừng quấy rầy ông. “Quấy rầy”? Có lẽ, cái từ đó còn lâu mới nói hết được những sự lăng nhục ông phải hứng chịu, những sự chửi rủa, mắng mỏ đổ xuống người ông.
Paris, 1948 Tôi gặp Picasso ở cổng và khi ở trong thang máy tôi cám ơn ông đã đến. “Anh cám ơn tôi vì cái gì nào? - ông mỉm cười. - vì tôi là bạn của Pablo (Neruda) à?” Phòng làm việc của Aragon, hồi ấy ông là tổng biên tập báo
Ce Soir, như thường lệ tấp nập các anh em cầm bút có khuynh hướng thiên tả. Các nhà văn đến đây vì sự tốt bụng của đức cha Louis.
Ðại diện cho các ÐCS Arhentina, Brazil và Chile, chúng tôi đã bàn định cuộc gặp với Aragon và Picasso để tìm các biện pháp bảo vệ cho Pablo Neruda, người đang bị chịu sự truy nã gắt gao chưa từng có: ông đã bị tước mất quyền bất khả xâm phạm của nghị sĩ, phải trốn tránh ẩn nấp, luôn luôn có nguy cơ bị tống giam. Cần phải hành động ngay. Chúng tôi quyết định mở đầu bằng cách gửi cho tổng thống Chile Gabriel Gonzáles Videla một bức điện phản đối, buộc ông ta phải chịu trách nhiệm về tất cả những gì có thể xảy đến với Pablo, đòi phải bảo đảm cuộc sống, tự do và an ninh cho nhà thơ. Ký tên vào bức điện này phải là các bậc thầy của văn hoá Pháp để tên tuổi của họ gây được ấn tượng với tên độc tài Chile. Những người cộng sản Mỹ Latin sống ở Paris đi thu thập chữ ký, còn chúng tôi thì soạn văn bản kháng nghị, nó giống như một bản luận tội hay một tối hậu thư nhiều hơn. Bây giờ phải nghĩ xem nên kêu gọi ai để có được một danh sách gồm các tên tuổi lớn ký vào bức điện.
Nhưng cái tên đầu tiên tôi nêu lên - Jean-Paul Sartre - thoạt đầu khiến mọi người ngớ ra, sau đổi thành cơn bực dọc. Các chiến hữu của Aragon, những người bị tôi chạm nọc, cười vào mặt tôi: “Sartre ư? Ông ta là kẻ thù của chúng ta! Ông ta không bao giờ ký đâu!”. Vào những năm ấy, quan hệ của bậc thầy chủ nghĩa hiện sinh với ÐCS Pháp xấu đi một cách trầm trọng - các kẻ thù không bỏ lỡ dịp sát muối vào hai bên và đã đạt được kết quả lớn trong chuyện đó. Nhưng tôi mạnh dạn phản đối lại Aragon bởi cho rằng Sartre không từ chối cho chúng tôi chữ ký của mình: dù những sự bất đồng của ông với những người cộng sản có lớn đến đâu, ông vẫn không phải thuộc phe phản động. Aragon nghiến răng, buộc tội tôi là ngu dốt về chính trị, là không nhất quán kiên định, là lung lay lập trường. Tôi không biết trong cơn thịnh nộ của ông cái gì nhiều hơn - tức giận hay khinh bỉ, sự kiên định bảo vệ các quan điểm của đảng nơi ông đã dễ dàng chuyển thành thái độ thô lỗ đối với những ai mưu hại đến các quan điểm đó. Nhưng tôi không hề lùi bước và đề nghị đích thân tôi sẽ đến gặp tên phản bội Sartre và vợ ông ta là Simone de Beauvoir để xin chữ ký vào tài liệu của chúng tôi, bởi vì tôi không một phút nào nghi ngờ là tôi sẽ xin được các chữ ký của họ. Tôi đề nghị đánh cuộc. Aragon vẫn giữ thái độ cay độc như cũ, nhưng cơn bực bội đã có phần dịu xuống, chấp nhận: về phần mình ông hoàn toàn tin rằng tôi sẽ không nhận được một chữ ký nào và nói chung là không nhận được cái gì cả, ngoài sự từ chối thẳng thừng, dứt khoát. “Hãy để việc này cho anh một bài học: khi anh quay về với hai bàn tay không, tôi hy vọng sẽ được nghe anh, thưa đồng chí, nói lời tự phê bình về sự quá tự tin của mình”. Chủ nghĩa hiện sinh và tự phê bình - đó là hai từ đang “mốt” nhất thời ấy.
Tôi chỉ được gặp Sartre mỗi một lần - tại nhà xuất bản, nơi chuẩn bị cho ra các vở kịch của ông và đồng thời bản dịch cuốn tiểu thuyết
Miền đất bao la của tôi. Người ta giới thiệu tôi với ông, ông tỏ ra quan tâm, khen ngợi cuốn
Miền đất - tôi đọc rồi, được đấy, tôi thấy thích - nghe những lời đó tôi phổng mũi lên, bởi thói hiếu danh bắt tôi phải tin vào chúng. Giống như tất cả những người ham mê văn học, tôi cũng biết được các thói quen của Sartre - biết ông thường xuyên ăn trưa tại một tiệm quen, nơi đó có một cái bàn cố định dành cho ông và Simone. Vậy là tôi đưa chân tới đó. Ông nhận ra tôi, điều này lại thêm một lần ve vuốt thói kiêu hãnh của tôi, và khi tôi nói về những nỗi khổ nhục của Neruda rồi chìa văn bản bức điện ra thì không do dự một giây ông ký ngay và chuyển tờ giấy sang cho vợ. Tôi rối rít cám ơn, gần như là cúi gập người lại - niềm vui dâng tràn trong tôi, tối ấy ở Paris chắc không có người nào sung sướng hơn tôi.
Vẫn tại căn phòng làm việc của báo
Ce Soir ba người cộng sản Mỹ Latin lại đến để trao cho Aragon các chữ ký chúng tôi đã thu thập được. Vô địch tuyệt đối là Zélia: trong danh sách của nàng có đến gần nửa hạ viện và cố nhiên các thượng nghị sĩ da đen
in corpore (có đủ mặt). Còn tôi cố không để lộ sự hân hoan quá mức - tôi là ai mà dám vui mừng độc địa?! - khiêm tốn đặt tờ giấy có chữ ký của Sartre và Simone de Beauvoir xuống. Aragon cầm bức điện lên, lắc đầu như ngầm tự phê bình, và đề nghị: “Họ tên ông ta phải để lên đầu danh sách”. Ồ không, đứng đầu danh sách phải là tên họ tác giả “Les Yeux d’Elsa” (“Ðôi mắt Elsa”, tên một bài thơ của L. Aragon - ND) - tôi thuộc lòng bài thơ đó, - hội đồng hồng y giáo chủ khăng khăng: “Không, Louis ạ, đầu tiên phải là anh, sau đó đến ông ấy”.
Từ đó chúng tôi kết bạn với Sartre và Simone - cùng nhau đi du lịch khắp châu Âu, xuyên khắp Brazil từ nam lên bắc, năm 1950 ông công bố trên tạp chí
Temps Modernes cuốn tiểu thuyết
Cacao của tôi, năm 1961 đến lượt cuốn
Hai cái chết của Quincas đẫm nước. Còn đâu như vào những năm 70 chúng tôi có lần ăn trưa tại cái tiệm quen của ông và Jean-Paul đã cho tôi hay là ông biết việc đánh cuộc của tôi với Aragon - ai đó trong số các đức cha đã tiết lộ. Chẳng biết có nên tin ông hay không?
[1]Miguel Angel Asturias (1899-1 974), nhà văn và nhà ngoại giao Goatemala, giải thưởng Nobel 1967.
[2]Anna Seghers (1900-1983): nhà văn Ðức nổi tiếng.
[3]Bertolt Brecht (1898-1956): nhà thơ, nhà viết kịch Ðức nổi tiếng.
[4]Andrei Zhdanov (1894-1948): người lãnh đạo tư tưởng văn hóa Liên Xô thời Stalin.