Vào lúc năm giờ, họ kéo chiếc Ceres ra khỏi nhà chứa máy bay, đi một vòng rồi mới cho nổ máy. Sau khi khởi động, thấy chẳng có gì trở ngại họ cho tắt máy. David ngồi trong ghế Cơ trưởng một lúc, tâm trí để cả vào tiếng máy nổ xem thử có gì chưa hoàn chỉnh hay có sự kiểm tra nào chưa chính xác. Ở bên dưới, trên đường băng, những thủy thủ Úc, xếp thành vòng tròn quanh chiếc máy bay để ngăn chặn không cho bất cứ người nào nhân đêm tối tiến sát vào chiếc máy bay.
Một chiếc xe buýt của hãng hàng không BOAC chạy đến nhà chứa máy bay như là một sự ngụy trang của Frank Cox để tránh sự chú ý. Ông ta cùng tất cả đoàn tùy tùng đi trong xe với tất cả hành lý, trừ Nữ hoàng và Quận công. David bước xuống gặp phi hành đoàn và tìm Ryder khi anh ấy đang giám sát việc chuyển hành lý lên máy bay. David nói vài tiếng với bác sĩ Mitchison và với Macmahon, và đề nghị hai người lên máy bay cho đỡ lạnh. Rồi chàng quay qua nói với Rosemary :
- Em cũng nên lên máy bay đi. Trông em có vẻ mệt lắm.
Rosemary trả lời :
- Em muốn đứng đây một chút cho thoáng. Ngồi mãi trong văn phòng như bị giam :
- Ngừng một chút nàng nói tiếp :
- Anh có nghe buổi phát thanh không anh ?
Anh nghe với các bạn trong nhà chứa máy bay. Thật cảm động.
Nàng hỏi :
- Anh có ngạc nhiên gì không ?
Chàng lắc đầu :
- Anh cũng biết ít nhiều chuyện sắp xảy ra. Anh không nghĩ là các bạn trong phi hành đoàn hiểu được.
Thế họ chấp nhận chuyện ấy như thế nào ?
Chắc em muốn đề cập đến ngài Tom Forrest ? Các bạn anh cho đó là nhà tư tưởng lớn. Nhưng em thấy đó, họ là người Úc nên chuyện thay đổi một vị Toàn quyền cũng bình thường thôi. Anh không nghĩ là vấn đề có chấp nhận hay không, điều quan trọng là dân Anh sẽ chấp nhận như thế nào ?
Em hiểu rồi ! :
- Nàng đứng đấy một phút, đầu để trần, mặc cho gió mát lạnh thổi tung mái tóc, thoải mái nói :
- Em tin rằng giờ đây dân chúng nước Anh đã trưởng thành để nhận định điều đó là cần thiết, chứ cách đây ba mươi năm, lúc Nữ hoàng đăng quang, họ chưa biết gì. Ba em nói dân Anh đã thay đổi nhiều dưới triều đại của ngài, lúc ba em còn trẻ.
David nói :
- Thật là một bài diễn văn tuyệt vời. Ai viết cho Ngài thế em ?
Nàng thở dài trả lời :
- Mọi người. Huân tước Marlow viết một bài. Quận công viết một bài. Rồi sau đó, ngài Tom Forrest nói chuyện với ba em và ngài đã nộp một bài, thực chất là của ba em, từng từ một. Thiếu tá Macmahon đã gộp chung những bài ấy và đưa ngài xét duyệt và rồi ngài Robert Menzies từ Melbourne cũng viết cho ngài ba ngàn từ, trong đó cũng có vài điều thú vị. Và thế là em phải mất nửa tháng trời để đánh máy từ mười lăm đến hai mươi lần, anh Nigger ạ ! Em đã phải thức dậy lúc nửa đêm, hoài hoài như thế, đến nổi thuộc lòng nhiều đoạn.
Chàng bóp tay nàng trong đêm tối, nàng cười nhìn chàng. Chàng nói :
- Giờ thì xong cả rồi ! Thật đáng phục đối với một bài diễn văn tuyệt vời như thế lại được hình thành do nhiều ý tưởng góp lại.
Nàng trả lời :
- Không phải đâu anh :
- Nữ hoàng buổi sáng Chủ nhật đã bỏ đi tất cả và tự mình ngồi viết theo ý Ngài. Sau đó, không ai được phép thay đổi một từ nào. Em đã đánh máy những gì ngài viết trên mười một tờ giấy khổ một phần tư tập vở, mà chẳng có thay đổi hay tẩy xóa gì hết.
Hai người tay trong tay, đứng với nhau trong bóng tối. Chàng nói :
- Em đã nói đúng về Tharwa, giờ này Tharwa đang mở cửa chờ đợi khách. Ngài chỉ xa vắng Tharwa chưa đầy ba tuần lễ.
Em biết rồi. Ngài ra khỏi nước Anh giờ này là rất thích hợp và xem thử cái gì đang sôi sục dưới quyền ngài Tom Forrest. Ắt hẳn một số quá khích của Đảng Lao động đang nổi giận.
Với ngài ?
Nàng nhìn chàng trả lời :
- Ồ không. Với chính phủ của ông Iorwerth Jones. :
- Dừng một chút nàng nói tiếp :
- Ngày hôm qua đã có sự rạn nứt rồi đấy ! Có nhiều kẻ a dua theo, nhưng cũng đã quá chậm.
Anh hiểu. :
- Thật ra chàng cũng ít biết về những màn chính trị của Anh nên chàng không dám bình luận, chỉ nói gọn một câu :
- Ngài Tom Forrest đã đến lúc phải hành động.
Nàng gật đầu :
- Ông ấy cũng chẳng cần ! Đêm thứ tư, ông ấy sẽ tuyên bố trên đài.
Em có biết ông ta sẽ nói gì không ?
Nàng lắc đầu :
- Nếu ông ta tuyên bố tất cả những gì mà ông ta đã làm nháp sẵn, chắc cũng phản ảnh một phần nào trong bài diễn văn. Ông ta có đủ khả năng làm như vậy. Ông ta là một trong những người ái mộ ba em.
Ngọn gió tháng chạp buốt da thổi từng đợt lạnh cóng quanh hai người và nàng nép sát vào người chàng. Giọng chàng dịu dàng nói :
- Em nên vào máy bay đi ! Đứng ngoài trời như thế này, em cảm lạnh đấy ! Đến khi em ra khỏi máy bay, trời sẽ ấm và rừng hoa bạt ngàn phô sắc bên ngoài. Em còn nhớ trước sân khách sạn Canberra không ?
Nàng gật đầu :
- Rời khỏi nước Anh em chẳng ưa chút nào. :
- Nàng nói giọng nhỏ quá khiến chàng phải cúi xuống mới nghe được :
- Nhưng đây là dấu chấm hết cho những sự vụng về và thiếu cương quyết. Đây cũng là dấu chấm hết cho một sự kiện bắt đầu từ năm 1867, khi vô số những người theo chủ nghĩa duy tâm rộng lượng, đã cho một phiếu bầu cho mỗi người.
Chàng dắt nàng lên máy bay, bước lên những bậc cấp để vào khoang giữa, và cô Gillian Foster có bổn phận đưa nàng vào ghế ngồi. David lại bước xuống đường băng và nhìn vào đồng hồ. Chỉ còn mười phút nữa bay trước khi xe hơi Nữ hoàng có mặt. Chàng đi bộ dưới những động cơ, bồn chồn nghĩ ngợi, chốc chốc lại nhìn lên từng động cơ một. Có điều gì hoàn toàn khác lạ đối với chàng như một trở ngại trước chuyến bay. Chàng đã từng bay nhiều và bay xa đến nỗi có một quá trình dài trong quá khứ. Mọi cái đã được kiểm tra và mọi cái đều đúng, thế nhưng chàng vẫn âu lo tiên đoán một sự hiểm nguy xảy đến. Có lẽ là bánh xe cũng nên. Chàng đi bộ tiến về phía những bánh xe lớn, đưa tay sờ lên mặt ngoài của vỏ bánh xe, nhìn khoảng đất trước bánh xe và sau bánh xe, đứng nhón gót để sờ lên điểm cao nhất. Những bánh xe hoàn hảo, với trí thông minh, chàng cũng đã biết như vậy rồi ! Tuy vậy một cảm giác đang bị lâm nguy đang đè nặng trong hồn.
Chàng đi bộ đến cầu thang, nơi mà Frank Cox đang chờ đón Nữ hoàng và đứng lại bên cạnh anh ấy. Đúng sáu giờ, những ngọn đèn của chiếc Daimler lớn xuất hiện trên đường phía ngoài. Xe dừng lại ở trạm gác ở đấy những sĩ quan Hải quân đang đứng đợi, sau đó xe tiếp tục chạy và tiến sát vào phi cơ. Hai sĩ quan đứng nghiêm chào khi Nữ hoàng cùng chồng bước ra khỏi xe.
Nữ hoàng chào họ và đi bộ lên cầu thang, Frank Cox hộ tống Nữ hoàng lên máy bay. Quận công dừng lại một lúc để nói chuyện với David :
- Những sĩ quan và thủy thủ Hải quân từ đâu đến ?
Họ đến từ Hải vận hạm Hoàng gia Úc Gona, thưa ngài. Chiếc Gona hiện neo tại Portsmouth.
Làm sao anh có được?
Tôi xin Phó Đô đốc ÓKeefe yểm trợ. Họ đã ở đây được nửa tháng.
Họ toàn là người Úc, phải không ?
Dạ phải.
Có lẽ đấy là việc làm khôn ngoan. Cám ơn Chỉ huy trưởng Anderson.
Ông ta bước lên mấy bậc cấp để vào máy bay, David đi theo ông ta. Jim Hansen, tiếp viên hàng không, đóng cửa lại và David tiến thẳng đến buồng lái bên cạnh Ryder. Frank Cox cũng lên buồng lái sau đó một phút :
- Cất cánh theo giờ của anh, nghe David.
David gật đầu và khởi động các động cơ.
Mười phút sau họ cho máy bay lên cao, theo hướng đông nam, trên đường đến đảo Síp. Họ bay qua nhiều tầng mây trong bóng đêm, cuối cùng máy bay bắt đầu vào bầu trời trong sáng, đầy ánh trăng ở độ cao chừng hai mươi hai ngàn bộ trên miền Bắc nước Pháp. Cơ trưởng ngồi bất động ở tay lái khi máy bay càng lên cao, vẫn cảm thấy âu lo, bồn chồn trong dạ và cảm giác đang lâm nguy vẫn đè nặng trong tâm hồn. Chàng chỉ lai một phần tư thổ dân Châu Úc, chẳng phải giòng giống Âu Châu hoàn toàn và trong một vài lĩnh vực, quan niệm và độ nhạy mạnh hơn những người đàn ông bình thường, điều này có thể giải thích cho sự ưu tú của chàng trong việc phi hành, chiếm kỷ lục an toàn. Thế mà tối nay, ngồi trước tay lái với nỗi âu lo càng lớn dần từng phút, và khi máy bay đạt đến độ cao phi hành và giữ mức độ bay bình thường, đâu đây hình như là vùng lân cận của hồ Constance, chàng trao tay lái cho Ryder và đi về phía sau.
Trên sàn máy bay mọi vật đều bình thường. Chàng dừng lại bên bàn đồ họa của kỹ sư cơ khí, nhìn vào từng thiết bị và đọc sổ phi hành rất kỹ. Chẳng có gì đáng nghi ngờ ở đấy cả. Chàng ngồi xuống bên cạnh chuyên viên vô tuyến và nhìn lướt qua sổ điện thoại, rồi lại chăm chú nhìn vào những dấu hiệu màu xanh trên đèn cực âm điện tử và kiểm tra vị trí trên máy Decca. Chẳng có gì nghi ngờ ở đấy cả. Chàng đi qua khoang giữa máy bay và từ từ đi dọc xuống, tìm kiếm thử có cửa sổ nào bị rạn nứt làm giảm áp suất hay có thể gây hỏa hoạn, nhưng mọi vật đều qui cũ. Hai người tiếp viên nam nữ đang phục vụ ăn tối, Nữ hoàng đang ở trong khoang riêng của ngài và cửa đóng. Chàng chận cô Gillian Foster và ra dấu về phía cửa ấy :
- Trong ấy bình an cả chứ ?
Cô gái trả lời :
- Bình an cả, thưa ông.
Ngài dùng tối rồi ?
Thưa ông, vâng.
Có ăn được không ?
À, vâng. Ngài ăn gần hết, ngài còn uống một ly rượu vang nữa.
Chàng tiếp tục đi xuống đến cầu thang ở giữa hai dãy ghế. Rosemary nhìn thấy chàng và mỉm cười, nhưng chàng hầu như không thấy nàng. Có cái gì đấy, ở đâu đấy, có vẻ không ổn. Mắt chàng lùng sục khắp nơi, nào quạt khói, then cài cửa, nào nệm ở dưới sàn máy bay. Chàng dừng lại, đánh hơi xem thử có mùi dầu lửa không, nhưng chỉ có mùi thơm nấu ăn.
Jim Hosen đứng trong bếp nói vọng ra :
- Ở đây mọi thứ đều ổn.
Cơ trưởng cho phép em dùng lò lớn hơn nhé ? :
- Người đàn ông ấy nói :
- Phục vụ một bữa ăn tối nóng sốt với một đĩa lớn và một cái lò chắc không dễ đâu ! Theo em, ta nên kiếm một cái lò lớn hơn mà dùng.
David lơ đãng trả lời và tiếp tục đi. Hai chỗ ngồi đi vệ sinh đang sạch, chàng nhìn vào từng cái một, chẳng có gì trong ấy cả. Chàng tiếp tục đi về phía sau, vào ngăn hành lý và đứng nhìn những vali chồng chất trong khoang chứa, được buộc kỹ bằng những đai nịt. Mọi thứ trông có vẻ trật tự nhưng có cái gì đó không ổn.
Hành lý là thứ chàng không kiểm tra và không ai lại đi kiểm tra hành lý của chính mỗi nhân viên phi hành. Chàng chẳng được nghỉ ngơi, chàng cũng biết thế, cho đến khi nào thấy thoải mái vì mọi thứ đã ổn định. Chàng rút từ túi áo trong ra một cuốn sổ tay và đi về phía buồng lái một lần nữa, đến bên Ryder hỏi :
- Anh mang bao nhiêu hành lý lên tàu, Harry ?
Hai vali và một túi, sao anh hỏi vậy ?
Chỉ để kiểm tra thôi. Anh có dán bảng tên lên đấy chứ ?
Vali thì có. Túi dết tôi để lên trên hết, kìa !
Chàng lại tiếp tục đi từ mũi đến lái, điểm danh mọi người trên máy bay với hành lý của họ. Chàng không dám quấy rầy Nữ hoàng và Quận công, nhưng chàng hỏi các loại hành lý ấy từ các người hầu gái và nô tì. Khi chàng tiến đến bên Frank Cox, ông ta hỏi liền :
- Có chuyện gì thế, Nigger ?
Chàng phi công trả lời :
- Tôi muốn đếm tất cả hành lý lại. Tôi thấy chuyến bay này làm tôi khó chịu quá ! Tôi bị căng thẳng quá sức !
Frank Cox liếc nhìn chàng và đứng dậy khỏi ghế. Chỉ còn lại nam tiếp viên và nữ tiếp viên là có vấn đề và David trở lại khoan chở hành lý một lần nữa. Chàng nói với nam tiếp viên :
- Giúp tôi một chút đi anh. Tôi muốn kiểm tra những vali ngoài danh sách này.
Đại tá Không đoàn trưởng đi theo hai người vào khoan hành lý và ba người bắt đầu mở và phân loại hành lý.
Mười lăm phút sau họ đi đến một kết luận không giống nhau. Có bốn vali đề tên E.C. Mitchinson thay vì ba trên danh sách.
Jim Hasen vui vẻ nói :
- Chắc là bác sĩ nhầm đấy. Ông đem bốn cái mà khai có ba.
Viên phi công nói :
- Đi nhanh lên và mời ông ta xuống đây để ông ta xác nhận.
Khi bác sĩ đến, David hỏi :
- Kia có phải là bốn vali của ông không ?
Bác sĩ trả lời :
- Cái kia không phải của tôi, cái màu xanh ấy ! Còn lại ba cái là của tôi.
Nhưng đều có tên của ông trên đó mà ! :
- Họ chỉ cho bác sĩ xem bảng tên.
Bác sĩ cương quyết nói :
- Tôi cam đoan không phải là của tôi. Tôi chỉ đem theo ba cái thôi. Tôi chưa bao giờ thấy cái vali thứ tư này.
David nhắc vali lên, đặt nó trên sàn cầu thang và cúi xuống quan sát. Vali còn khóa. Chàng suy nghĩ một chút rồi đi vào khoang trong. Ngay trên cửa máy bay là một đoạn thép có đầu dẹp, đây là dụng cụ để mở vali bị kẹt. Thanh thép sơn đỏ, người ta để đấy mục đích là để mở cửa từ phía trong nếu bị khóa chặt vào khung cửa, khi bị méo mó vì va chạm mạnh.
Chàng lấy thanh thép và trở về chỗ chiếc vali. Chàng cạy thật mạnh hai lần và chiếc bản lề bung ra và mở nắp ra được. Phía trong vali, có vật gì đó gói trong vải bao bố, chàng đoán là vật ấy cứng. Chàng từ từ mở ra, cố giữ không di chuyển nhiều và cẩn thận cầm vật ấy bằng cả hai tay, trong lúc những người khác chen tới để xem.
Đó là một hộp bằng kim loại giống như một máy đo các múi nối có hàn bằng bạc, dài ba tấc, rộng hai tấc, dày một tấc, nặng độ bảy ký.
Chàng cẩn thận đưa lên quá đầu và nhìn dưới đáy hộp. Chẳng có chỗ mở, không có nắp. Hình như người ta cố ý hàn rất kỹ và chẳng hướng dẫn cách mở.
Chàng nhẹ nhàng để xuống trên đống vải bố trong vali.
Frank Cox nói :
- Chắc là phải ném nó đi thôi, Nigger ạ !
Viên phi công suy nghĩ một chút rồi nói :
- Chúng ta phải hạ thấp thôi. Chúng ta không thể vứt nó xuống biển dưới áp lực như thế này. Phải cho máy bay hạ xuống bảy tám ngàn bộ. Còn Nữ hoàng !
Chàng không thể liều cho máy bay chúi xuống để giảm áp suất ở một độ cao lớn như thế khi có Nữ hoàng trên ấy.
Phải mất bao lâu khi anh hạ độ cao ?
Mười bảy mười tám phút.
Cơ trưởng quay lui, đi nhanh về phía buồng lái và nói với người kỹ sư cơ khí và Ryder đang cầm tay lái. Động cơ ở trong tắt, động cơ ở ngoài chạy đều nhưng được điều chỉnh vòng quay để giữ áp suất trong buồng lái. Khi bộ phận hãm tốc ở cánh được sử dụng, đầu máy bay hơi chúi xuống, chiếc Ceres bay đều với tốc độ giảm ba ngàn bộ một phút.
David trở lại bàn đồ họa và nhìn vào bản đồ trong lúc chuyên viên vô tuyến cho biết vị trí chính xác bằng máy Decca. Máy bay cách tây nam thủ đô Belgrade gần một trăm dặm và đang bay qua những dãy núi độ cao hàng ngàn bộ của nước Nam Tư, qua biển Adriatic và Ionian, rồi qua Brindisi của Ý. Chàng nói với Ryder :
- Lái qua hai trăm.
Và thấy máy bay trở lại bình thường. Chàng quay qua, đã có Frank Cox bên cạnh. David đưa ngón tay chỉ trên bản đồ ở giữa Ý và Hy Lạp.
Chúng ta sẽ thả nó đâu đây thôi, nếu cái vật chết tiệt ấy không nổ sớm.
Đại tá nói :
- Không có tiếng động gì cả, có lẽ không phải là bom can giờ. Tôi không thấy lỗ thoát hơi nào hết, chắc có lẽ không phải là ngòi nổ phong vũ biểu, mà có lẽ là ngòi nổ axít. Axít ăn mòn miếng kim loại hay một thứ gì tương tự như thế. Nếu thế thì phải cách ly ngay, và phải rất thận trọng khi đem nó đi. Suy nghĩ nên hạ cánh ở Brindisi hay Bari hơn ?
Viên phi công ngần ngại :
- Tôi đã di chuyển nó một lần rồi nhưng nó không nổ. Riêng bản thân tôi cũng phải cố gắng hết mình để đưa nó ra khỏi máy bay.
Anh định ném nó ra khỏi máy bay ở đâu ?
David nói :
- Hạ bánh xe xuống và tháo rời bộ phận chắn càng trước. Như thế bánh trước sẽ không còn bị vướng. :
- Suy nghĩ một chút, chàng nói tiếp :
- Nếu hạ cánh xuống Brindisi cũng được. Tôi đã từng đáp ở đấy. Về phía đông và tây, phi đạo có hơi gồ ghề đấy ! Nhưng đã có đèn.
Frank Cox cắn môi :
- Nhưng công luận thì sao !
Tôi hiểu, nhưng chúng ta phải quyết định nhanh lên ! Có thể là những tờ báo khắp thế giới sẽ đăng tin Nữ hoàng nước Anh phải đáp khẩn xuống nước Ý để gỡ quả bom đang đặt trên máy bay ngài. :
- David nói tiếp :
- Bản thân tôi đã sẵn sàng ném vật ấy ra ngoài.
Tôi không thể quyết định việc này. :
- Không đoàn trưởng nói :
- Tôi phải thỉnh ý Quận công nhưng tôi nghĩ là cũng phải đáp thôi.
Đại tá hấp tấp đi lui trong lúc David tìm nhanh những phi trường trên đường bay. Phi trường Brindisi điện đang sáng rực rỡ vì yêu cầu của máy bay đáp ban đêm và đó là thông lệ của Không lực Ý. David gọi sĩ quan cơ khí thứ hai cùng đi xuống khoang hành lý, giờ này khoang đã trống vì được tháo tấm chắn ở càng trước. David nói :
- Tháo những con ốc này ra. Sẵn sàng mở nhanh khi tôi bảo. Sau khi tôi thả càng trước xuống, tôi sẽ ném một vật ra ngoài.
Chàng đi trở lui sàn máy bay; giờ này trời trong, cao độ là hai mươi hai ngàn bộ, trước mặt một cụm đèn như những ngôi sao nhỏ hiện ra trên mặt đất, ắt hẳn đó là phi trường Brindisi. Chàng quay trở lại tìm Frank Cox. Đại tá bảo :
- Nữ hoàng không muốn đáp xuống. Phải ném nó ra khỏi máy bay xuống biển.
David gật đầu nói :
- Tôi đã dặn anh Cummings lo mở tấm chắn để đi xuống dưới khoang hành lý.
Frank Cox nói :
- Nếu anh đi xuống đấy, tôi sẽ theo liền. Chúc may mắn.
David quay qua nói với Ryder :
- Lái về nam, một tám không ly giác. Hai phút nữa, chúng ta ra tới biển. Xuống thấp như thế này, giữ độ cao bảy ngàn bộ, giảm sức ép, hạ vận tốc xuống hai trăm gút. Hạ càng trước xuống. Giữ như thế cho đến khi có lệnh.
Phi công phụ nhắc lại lệnh ấy xong David mới đi nhanh qua khoang giữa đến khoang hành lý. Jim Hasen còn đứng đấy, giữ cái vali. Trông cái mặt trắng bệch của anh ta, David cười bảo :
- Thế nào chúng mình cũng phải ném nó đi mà, lo gì !
Jim Hasen nói :
- Em đang cầu nguyện đây, Chỉ huy trưởng ạ.
À, thế thì tiếp tục cầu nguyện thêm năm phút nữa.
Viên phi công cúi xuống, đưa cả hai tay cầm hộp kim loại ấy lên, trong lòng cứ nghĩ, không lý gì đây là kết thúc bi thảm của bọn họ ? Chàng đưa lên ngang thắt lưng, quay người đi qua khoang giữa, qua hai dãy ghế. Khi đi qua mặt Rosemary chàng nghe tiếng nói :
- Chúc anh may mắn, anh Nigger nhé !
Khi đi qua khoang đặc biệt, Nữ hoàng cùng chồng đang đứng ở cửa, mặc áo khoác có hoa màu trắng. Nữ hoàng hỏi :
- Vật ấy phải không, Chỉ huy trưởng ?
Chàng đáp :
- Thưa ngài vâng. Vài phút nữa chúng tôi sẽ ném nó đi !
Ngài lại nói :
- Ta thành thật xin lỗi tất cả các bạn. Nếu không có ta trên máy bay, đâu có xảy ra như thế này !
Chàng tiếp tục đi tới, rất thận trọng. Giá như nó nổ ở nơi nào trên phi cơ, tất cả đều chết, nhưng điều quan trọng là càng tránh xa Nữ hoàng càng tốt. Cái cửa nhỏ dưới bàn sĩ quan cơ khí trên sàn máy bay, có bản lề bằng nhôm đã được mở ra, phía bên dưới có hai dãy thang bắc vào hông tàu, rồi mới đến phòng chứa đồ, ngang một mét ba, dọc hai mét. Sĩ quan vô tuyến đứng sẵn ở đấy chờ, đón vật ấy khi David bước xuống khoang nhỏ, khi đứng vững rồi chàng đưa tay đỡ vật ấy từ chàng sĩ quan vô tuyến, anh chàng trở về bàn làm việc, mồ hôi toát ra.
Cúi xuống bên cạnh tấm chắn là Đại tá Cox và sĩ quan cơ khí Cummings. Trong ánh sáng lờ mờ, David lom khom dò từng bước một để tránh va vào một thanh sắt nào đó làm rớt cái hộp. Chàng quỳ xuống bên cạnh hai người kia, tay khư khư giữ hộp nói :
- Đây rồi, có dám cá là cái vật chết tiệt này nó nổ trước khi ném đi không?
Cummings nói :
- Năm ăn một.
Đại tá Cox hỏi :
- Giờ đây cao độ bao nhiêu ?
David trả lời :
- Tôi đâu biết. Chắc là xuống thấp lắm. Thì giờ đâu mà hỏi !
Những giây phút trôi đi thật chậm chạp, họ chờ đợi, bất động, căng thẳng. David nghĩ, nếu vận xui, nó nổ cũng nên ! Tay chàng đau nhức. Thình lình, cao độ thay đổi đột ngột làm mọi người sững sờ. David nhìn Đại tá Cox, tiếng Đại tá nói :
- Trở lại vị trí cũ !
David gật đầu. Chàng quỳ bên tấm chắn, chứng kiến những giai đoạn diễn tiến của máy bay, tiếng máy rú lên khi máy bay xuống thấp. Cuối cùng khi càng trước nhả ra, có tiếng gió rít mạnh. Trong ánh sáng mờ mờ David nói với Cummings :
- Mở tấm chắn ngay.
Viên sĩ quan cơ khí làm việc có bài bản, mở từng con ốc vít bỏ vào túi áo choàng. Vừa làm vừa ngâm nga một điệu tình ca. Cuối cùng tấm chắn được mở xong.
Một luồng gió mạnh ào ạt thổi vào như vách sắt, không ai đứng dậy nổi. David tay khư khư giữ cái hộp ra dấu cho Cummings đậy tấm chắn trở lại. Chàng sĩ quan phải từ từ đẩy tấm chắn về lại vị trí cũ và đứng chận ở trên ấy , nhờ trọng lượng của cơ thể và sự giúp sức của Đại tá Cox. Trong khoang đã yên tĩnh trở lại và không còn gió nữa.
Đại tá nói :
- Chúng ta không thể ném qua lỗ ấy, nó bay ngược trở lên đấy, Nigger ạ !
Viên phi công suy nghĩ nói :
- Không hiểu gió vào rồi thoát ra đường nào mà mạnh thế !
Cuối cùng chàng hiểu ra là, khi hạ áp suất, có lẽ Ryder quên không đóng cửa sổ bên cạnh chỗ ngồi, nên gió vào phải tìm đường ra đâu đó. Chàng lưu ý Đại tá Cox rồi nói :
- Nếu chúng ta đóng cửa sổ lại, xem thử có kẻ hở nào nữa không và cho máy bay chậm lại, chúng ta có ném vật đó ra khỏi máy bay được không ?
Trong lúc bay chậm, máy bay chỉ cân bằng được một chút rồi cũng bị chúi xuống nên phải tăng vận tốc trở lại.
Chàng phi công nói :
- Anh phải thỉnh ý Nữ hoàng, có khi ngài thay đổi ý kiến và cho đáp cũng nên !
Chắc không được đâu ! Có lẽ ngài sẽ bảo bay tiếp thôi. Ngài không muốn hạ cánh nơi đâu ngoài Liên hiệp Anh.
David nói :
- Có Malta. Chừng năm mươi phút nữa, chúng ta có thể đáp xuống đấy !
Đại tá Cox yên lặng và David lấy làm tiếc là tại sao Đại tá không quyết định cho rồi. Cuối cùng Đại tá nói :
- Chúng ta phải bay chậm lại, anh Nigger. Tự mình anh phải lái và cho Ryder ra sau để thông báo cho các bạn sắp xếp mọi việc. Nếu không thể ném vật đó ra khỏi máy bay, tôi cũng chịu thôi. Trong tình huống ấy, chúng ta sẽ đáp ở Malta.
David nói :
- Thôi được. Tôi không thể báo trước cho Đại tá được. Tôi sẽ cho máy bay bay lên thình lình. Khoảng ba mươi độ. Đại tá cố ném ra ngoài nhé ! Nếu trường hợp bị kẹt, Đại tá phải đứng chắn ở đây. Máy bay sẽ bị chúi xuống sáu bảy mươi độ và sẽ bị nghiêng đấy !
David đi thẳng lên buồng lái, mở cánh cửa dưới ghế của kỹ sư cơ khí để kiểm tra luồng gió thổi vào khi cất tấm chắn càng trước, thêm một người nữa để phụ cho Đại tá Cox giữ cho vững. Chàng đi đến bên Ryder xem thử cửa sổ bên cạnh tay lái đã đóng chưa. Chàng thảo luận với Ryder một chốc, sau đấy Ryder đi ra đàng sau và ra lệnh cho mọi người phải nịt dây an toàn và cũng giải thích cho Quận công và Nữ hoàng tại sao phải làm thế. Chàng ngồi vào tay lái, buộc thắt lưng an toàn và tắt tất cả đèn đóm trong khoang và bật các ngọn đèn mờ lên để làm việc. Chàng cho động cơ chạy mạnh hơn và đưa máy bay lên chín ngàn bộ.
Ryder trở về chỗ cũ bên cạnh David.
Sau đấy mọi thứ đều ổn và sẵn sàng cả chứ ?
Đã ổn, thưa Cơ trưởng.
Được. Đừng đụng đến tay lái cho đến khi có lệnh của tôi.
Hai phi công ngồi cùng nhau trong ánh sáng mờ và nhìn ra ngoài đêm tối. Họ đang bay trong hai lớp mây, lâu lâu lại có ánh sáng trăng nhợt nhạt rọi vào bên tay phải, nhưng chẳng thấy đường chân trời và chẳng dựa vào đâu mà đoán cao độ trừ những con số trên máy. David cho máy bay bay chừng chừng và ra hiệu cho Frank Cox và Cummings biết là chàng sắp thực hiện việc bay chậm và để cho họ có đủ thời giờ mở tấm chắn.
Khi chàng ngồi ở đấy, trong khung cảnh tranh tối tranh sáng, cố tập trung tư tưởng, nhìn ra ngoài chân trời phía trước mặt và nhìn vào con số không trên mặt la bàn xoay, chàng nhớ lại một kinh nghiệm mà trước đây trong lần bay thử nghiệm khó khăn, chàng đã được mọi người hoan nghênh.
Tất cả những sự kiện đó như hiện rõ trước mắt chàng. Cũng bầu trời ấy mà đường chân trời đã phân cách làm hai, phần trên xám nhạt đó là bầu trời, phần dưới tối hơn, đó là mặt đất. Và cũng từ đấy, chàng thấy chiếc máy bay trải dài trước mắt mình với đầy đủ các bộ phận và thiết bị.
Trong một giây, chiếc Ceres phóng lên theo góc độ thẳng đứng, hầu như đứng trên đuôi của chính nó. Không thể tưởng tượng được khi một chiếc máy bay dựng đứng như một con cá sắp bay lên khỏi mặt nước. Rồi đầu máy bay chúc xuống, cũng theo chiều thẳng đứng, với tốc độ kinh hồn. David mặc cho máy bay quay cuồng, chàng bình tĩnh kéo tay ga và qua bao nhiêu giai đoạn, máy bay từ từ trở lại chiều ngang, các động cơ giảm tốc và tốc độ bình thường trở lại ở cao độ năm ngàn bộ. Quay qua Ryder, David nói :
- Giữ cho máy bay ở tốc độ hai trăm ba mươi gút. Tôi đi xem thử ở dưới ấy đã xảy ra như thế nào ?
Chàng bước ra khỏi ghế và đến mở cánh cửa nhỏ dưới bàn sĩ quan cơ khí. Đại tá Không đoàn trưởng đang đứng dưới khoang nhỏ, đang cố trèo lên sàn máy bay.
Đại tá nói :
- Nó rớt xuống nhẹ nhàng. Nếu còn vật nào nữa cũng bay ra nốt, chứ không thể bay vào đâu ! Tôi đã ném được trước khi anh cho máy bay giảm tốc và phóng xuống.
Đại tá có thấy gì xảy ra khi nó chạm mặt đất không ?
Frank Cox trả lời :
- Chúng ta bay trong mây dày đặc, thấy gì được.
Frank Cox phủi quần áo đứng dậy nói :
- Tôi sẽ đi tin cho các ngài mọi chuyện đã qua.
David nói với sĩ quan cơ khí :
- Ta trở lại độ cao phi hành, và tìm đường bay mới đến Ratmalana. Chúng ta đã xài nhiều nhiêu liệu quá rồi !
Frank Cox đồng ý :
- Cứ tiếp tục. Tôi cùng đi với anh kiểm tra xăng dự trữ. Tôi cũng cần giải khát.
David nói :
- Giờ thì mọi sự đã qua.
Anh ăn tối chưa ? :
- Frank Cox hỏi.
Chưa, nhờ anh nói với cô Gillian cho tôi ăn với !
Chàng trở về ghế ngồi nhưng trao tay lái cho Ryder để nghỉ ngơi một chút, mệt mỏi về chuyện căng thẳng vừa rồi. Chàng nhìn Ryder và sĩ quan cơ khí đang đưa máy bay lên cao và vượt lên những đám mây, giờ này ánh trăng khuya còn chiếu ánh sáng về phía bên phải. Một chốc sau đã thấy cô Gillian mang thức ăn đến với ly cà phê nóng. Ăn xong chàng thấy trong người đã khỏe. Sau khi kiểm tra nhiên liệu với Frank Cox, chàng định hạ cánh xuống Bahrein để tiếp tế, nhưng nghĩ lại máy bay còn nhiều xăng dự trữ nên quyết định đến Colombo. Frank Cox ngồi vào tay lái thay cho Ryder đi nghỉ, David đi ra sau kiếm thêm ly cà phê nữa.
Cửa buồng Nữ hoàng và của Quận công đã đóng, nhưng Rosemary còn thức, chàng đến bên nói đùa :
- Vui quá em nhỉ ? Thế mới biết đời là đáng sống !
Nàng nhích sang một bên để chỗ cho chàng ngồi :
- Ngồi ghé một chút đi anh, Nigger. Hay anh muốn trở về ?
Chàng ra hiệu cho cô tiếp viên mang đến một ly cà phê và ngồi xuống cạnh Rosemary:
- Khi máy bay mất thăng bằng, phía sau này thế nào, có ai rớt ra khỏi ghế hay bị thương gì không ?
Rosemary lắc đầu :
- Anh Ryder và anh Jim Hasen đã kiểm tra tất cả mọi người đều thắt dây an toàn và sắp xếp lại các vali bị rớt ra. Em nghĩ là chị Fethers bệnh đấy. :
- Cô Fethers là người hầu gái của Nữ hoàng.
Chàng nói :
- Tội nghiệp ! Lúc anh trở về buồng lái, anh sẽ ghé qua nói vài lời an ủi. Chỉ có cách đó mới loại vật ấy ra khỏi máy bay. Nếu không có cái cửa ấy thì cũng phải tìm sau đuôi, chỗ nào đó để ném ra. :
- Chàng nhắp một chút cà phê rồi nói :
- Em có mệt không ?
Nàng gật đầu nói :
- Khi đâm bổ xuống, máy bay phải quay vòng vòng, hả anh ? Thật kỳ cục!
Chàng trả lời :
- Cũng có chao đảo một chút, nhưng phi hành đoàn đã quen nhiều với công việc ấy rồi ! Họ cũng chẳng hề hấn gì miễn là em thông cảm cho họ.
Chàng ngồi với nàng một lúc, lưu luyến nắm bàn tay nàng nói :
- Cố mà ngủ một chút đi em ! Vài giờ nữa là trời sáng rồi ! Trong một ngày mà biết bao chuyện làm em sửng sốt ! :
- Nàng mỉm cười với chàng, sau đó chàng trở về buồng lái, có dừng lại để nói vài lời với cô Fethers.
Trong đêm tối họ bay qua Nicosia, Beiruct và Barsa và tiếp tục bay về phía vịnh Ba Tư, đi qua Bandar Abbas. Khi thấy rõ vịnh Oman, bầu trời sáng lên trước mặt họ và bốn mươi phút sau, mặt trời lên khi qua biển Ả Rập. Từ đây đến Colombo, chỉ cần giữ độ cao vừa phải, David có thể uống cà phê và ăn bánh qui.
Đang ăn trong buồng lái, thì Frank Cox đi đến nói :
- Nữ hoàng sẽ đến đây sau khi ngài đã nói chuyện với phi hành đoàn và tiếp viên ở khoang giữa. Ngài muốn nói chuyện với các anh ở nơi này. Tôi sẽ đưa ngài tới. Nói cậu nào đang ngủ thì thức dậy đi ! Tất cả phải tề chỉnh. Năm phút nữa, ngài sẽ đến.
David ra khỏi ghế, nhường cho Frank Cox tay lái. Hai người trao đổi về đường bay và tốc độ hạ cánh :
Chỉ trong vài phút, quân phục phải tề chỉnh và cánh cửa dịch mở, Nữ hoàng và Quận công hiện ra. Khoang kề buồng lái rất nhỏ mà cũng chứa được tám người. Nữ hoàng đứng cạnh David, chàng phải nhường cả khoảng trống lại cho ngài và đầu ngài chưa tới vai chàng.
Giọng Nữ hoàng trong và rõ ràng :
- Trước hết, ta muốn cám ơn tất cả các bạn đã làm được công việc vừa rồi. khi Chính phủ Liên bang đầu tiên đề nghị tặng ta chiếc máy bay này và đưa vào sử dụng trong phi đội và nói rằng việc điều hành là do một phi hành đoàn Úc, ta nghĩ rằng sẽ được đi trong những chuyến bay an toàn. Điều đó giờ đây đã được chứng minh. Ta không nghĩ rằng ta có thể nói hết ý mình nhưng có một điều là ta thành thật cám ơn các bạn với cả tấm lòng. :
- Ngài ngừng một chút rồi nói tiếp :
- Và đây là mệnh lệnh của ta cho các bạn. Các bạn không được nói với ai là máy bay này đã bị gài bom. Không được hở môi cho bất cứ ai, kể cả vợ, lẫn người yêu, và cũng không được bàn tán với nhau. Coi như đã quên. Đây là lệnh truyền của Nữ hoàng cho các bạn và không ai có quyền phạm phải, ta sẽ xử phạt rất nghiêm khắc. Thế giới bên ngoài chiếc máy bay này sẽ không biết chuyện gì xảy ra cho chuyến bay này.
Nữ hoàng cười nói :
- Bây giờ là bằng hữu với nhau vì các bạn đã cứu sống ta, ta thú thật cho các bạn biết điều này. Ta đã bị mưu sát hai lần từ khi ta lên ngôi cách đây ba mươi năm và đây là lần thứ ba. Đây là một trong những rủi ro nghề nghiệp của ngai vàng nước Anh, hay bất cứ một ngai vàng nào khác mà những người dân tội nghiệp, thiếu thăng bằng, mất trí nghĩ rằng những bạo loạn của họ sẽ được người ta chỉnh lý nếu họ có thể hủy diệt được Vương triều. :
- Ngài nói tiếp :
- Qua hai ví dụ trước về kinh nghiệm bản thân, ta chẳng cảm thấy gì ngoài sự tiếc nuối cho những kẻ đã rắp tâm ám sát ta, khi những trường hợp như thế bị điều tra và bại lộ. Điều đó luôn luôn trùng lắp, bởi vì kẻ ám sát thuộc lĩnh vực chính trị không bao giờ trở thành mốt đối với Khối Thịnh vượng Anh.
Nhìn những khuôn mặt trẻ bao quanh, Ngài nói :
- Ta tin chắc rằng sự thử thách vừa rồi đối với cuộc sống của ta và các bạn sẽ chứng tỏ cho công việc làm của một kẻ khốn khổ nào đó muốn đánh động tình thương của chúng ta. Rủi thay nó lại đến vào lúc sóng gió của nước Anh khi những cảm nghĩ đã biến thành quá độ. Nó không yểm trợ cho nước Anh lấy lại sự quân bình mà điều hiển nhiên là đưa ta vào chỗ thử thách. Hơn nữa, những sự chia rẽ phe nhóm tưởng có thể hóa giải trong một vài ngày lại trở nên quá trầm trọng, làm thiệt hại cho nước Anh, làm thiệt hại cho Khối Thịnh vượng Anh. Do đó, nhân danh Nữ hoàng ta truyền lệnh cho các bạn phải tuyệt đối giữ kín công việc vừa rồi. Và sự bí mật này được giữ kín cho đến khi ta chết. :
- Nữ hoàng cười nhợt nhạt :
- Sau đấy các bạn muốn nói gì thì nói.
Nữ hoàng nhìn David :
- Cơ trưởng có hiểu như thế không ?
Thưa Ngài, hiểu. Tôi sẽ không nói đâu.
Ngài nhìn Ryder :
- Còn anh thì sao, Cơ phó ?
Và cứ thế ngài đi từ người này đến người khác với câu hỏi trực tiếp ấy và David rất ngạc nhiên là ngài biết tên tất cả số anh em ấy.
Cuối cùng ngài cười và nói với tất cả :
- Thế là xong, trừ một điều là cám ơn tất cả các bạn một lần nữa. :
- Và ngài nhìn David nói :
- Cơ trưởng, xin mời em đến phòng riêng của chúng tôi.
Chàng đi theo Nữ hoàng trở về buồng riêng của ngài. Quận công vào trước rồi đến lượt David, xong hai ngài đóng cửa lại. Nữ hoàng nói :
- Trong tất cả phi hành đoàn, chúng tôi cảm thấy cần đặc biệt cám ơn Cơ trưởng về sự chu đáo và trực giác đã đưa đến việc khám phá ra mối hiểm nguy và kỹ năng điều khiển chiếc máy bay vừa rồi. Ta suy nghĩ mãi làm cách nào để ngợi khen Cơ trưởng tốt nhất. Thông thường, ta chỉ cần trao tặng Không lực Anh dũng bội tinh, vì có hành động gan dạ, xã thân vì nhiệm vụ không sợ kẻ thù, nhưng ta thấy Cơ trưởng đã có rồi và nếu mang thêm một Anh dũng bội tinh của Không lực nữa thì có hơi bất thường làm cho người ta thắc mắc.
David trả lời :
- Thưa ngài, phải. Trường hợp như thế rất hiếm.
Nữ hoàng lại nói :
- Vì vậy, chúng tôi quyết định tưởng thưởng công lao của Phi đội trưởng bằng cách tuyên dương công trạng của bạn đối với nước Úc hơn là các bạn khác vì nó chứng tỏ cho chúng tôi thấy rằng sự thông minh và nhạy cảm rất xứng đáng được tưởng thưởng như thế. Chúng tôi tin tưởng rằng phẩm chất của bạn đã biểu lộ, sẽ là giá trị của những vấn đề quốc gia, khác với chuyện phi cơ và phi hành. Vì vậy, chúng tôi sẽ lưu ý bí thư của chúng tôi thảo một Nghị định Hoàng gia do chúng tôi ký và cấp cho bạn quyền bầu cử thứ bảy đối với chính phủ Liên bang Úc để sử dụng trong các cuộc bầu cử của chính quyền ở bất kỳ tiểu bang nào mà bạn cư ngụ. Làm như thế để tỏ lòng biết ơn bạn từ nơi đáy lòng của chúng tôi.
Nữ hoàng đưa bàn tay ra, lòng bàn tay úp xuống, David đoán ra ngài định làm gì, cúi xuống thật thấp và hôn bàn tay một cách vụng về.
Họ hạ cánh ở Ratmalana thuộc Tích Lan vào lúc chín giờ, giờ địa phương. Toàn quyền và một nhóm chính trị gia cùng Tiểu đội Danh dự đã có mặt trên sân bay để chào đón Nữ hoàng. Ngài bước xuống máy bay trông tươi mát như đóa hoa cúc, mỉm cười bình tĩnh, người đàn bà mệt mỏi, lo lắng đã biến mất. David ngạc nhiên thấy Nữ hoàng có thể làm được như thế, trong lúc sự căng thẳng mà Hoàng gia đang bị áp đặt, nhưng chàng cũng phải suy nghĩ về những điều khác nữa. Trong lúc Nữ hoàng đang trò chuyện với các nhà chính trị Sri LanKa và trong lúc nhiên liệu đang tiếp tế, David ra lệnh đem tất cả hành lý ra khỏi máy bay, kể cả công tây nơ đựng thực phẩm cũng như các thiết bị. Khi tất cả những thứ này đang nằm trên đường băng dưới bóng im của cánh máy bay, chàng đã cùng với Frank Cox và Dick Ryder đi kiểm tra hết chiếc máy bay. Sau nửa tiếng đồng hồ làm việc, họ mới yên lòng. Rồi, mỗi hành lý khi được mang lên máy bay, họ đã mở ra lục soát nhờ sự giúp sức của chủ nhân như là đã kiểm tra, trước khi bỏ vào khoang hành lý. Cuối cùng, họ sẵn sàng cho máy bay cất cánh, họ đã làm như thế để ngầm hiểu rằng máy bay không còn những vật làm mọi người thấp thỏm nữa.
Họ cất cánh vào lúc mười giờ rưỡi, giờ địa phương, phải ở lại trên đất lâu hơn thường lệ vì phải làm công việc này. Trong năm giờ đồng hồ họ bay trong ánh mặt trời gay gắt, chói chang dưới bầu trời xanh trong, chẳng có gì trước mặt trừ sự xuất hiện đột ngột của biển xanh phía dưới. Tất cả đoàn người đã mệt mỏi vì sự căng thẳng trước khi bay và giờ là sự bình tâm của những xúc động ở giai đoạn đầu. Nữ hoàng và phu quân đang ở trong khoang, có lẽ đang nghỉ ngơi. Những người khác đang ngủ gà ngủ gật trong ghế ngồi mở ra, trông cho cuộc hành trình kết thúc. Ngay cả trong buồng lái, sự bình tâm cũng đã trở lại. Chính Cơ trưởng cũng buồn ngủ, ngay khi độ cao phi hành đã đạt chàng cũng muốn ngủ một giờ trên giường bay.
Họ bay qua bờ biển miền tây Úc vào lúc ba giờ rưỡi, giờ Colombo, nhưng trời đã tối ở Úc, ngay khi bắt đầu qua sa mạc, mặt trời lặn sau lưng họ và ngàn sao xuất hiện. Họ tiếp tục bay trong ánh sáng trăng vừa mọc và giờ này David uống hai viên Benzedrine, và cho cả phi hành đoàn cùng uống. Bữa ăn dọn ra cho qua giờ và sau khi mặt trời lặn ba giờ, họ bắt đầu hạ độ cao và chấm dứt bằng vòng bay quanh phi trường Fairbairn của Canberra. Vào lúc nửa đêm, giờ địa phương, họ thấy được ánh đèn thành phố trước mặt khi tiến gần đến độ cao bảy ngàn bộ, cẩn thận đối những dãy đồi chung quanh, họ cho máy bay lượn sát xuống phi trường điện sáng và xuống dần hai ngàn bộ một phút. Mười hai giờ mười bốn phút David từ từ cho máy bay hạ xuống đúng phi đạo.
Có vài chiếc xe hơi đang đợi chờ họ trên sân bay, chỉ vài chiếc thôi, vì tin Nữ hoàng đến không được phổ biến. Toàn quyền có mặt ở đấy để đón ngài và Thủ tướng Hogan nữa, nhưng tất cả đều trong vòng thân mật, và sau một vài phút nói chuyện với họ, Nữ hoàng cùng phu quân lên xe về Tharwa. Những người còn lại trong đoàn tùy tùng cũng trở về Hoàng cung với hành lý trên một chiếc xe buýt nhỏ, trong lúc David và Ryder đi taxi đến nhà chứa máy bay của Phi đội Nữ hoàng thì thấy chiếc máy bay đã được kéo vào trong an toàn.
Các thành viên trong phái đoàn Hoàng gia đã được đặt chỗ trước ở Khách sạn Canberra. Khi David lái chiếc xe đến đây thì đã thấy phi hành đoàn của chàng có chỗ ăn ở vào lúc một giờ rưỡi sáng. Ở Canberra trời nóng nực và hàn thử biểu lên tới chín mươi độ, ban đêm thì ấm và có mùi thơm dịu dàng của cây bạch đàn và cây keo tây. Chàng lễ mễ khiêng cái vali bước lên tầng cấp để vào phòng khách của khách sạn thì đã thấy Rosemary ngồi đợi chàng giữa những bàn ghế trống trải. Một cây Giáng sinh lớn có trang trí những chùm tuyết giả đứng giữa phòng bên cạnh Rosemary.
Nàng nói :
- Chúng ta lại trở về những căn phòng như trước đây, anh Nigger ạ ! Em đã nhận phòng rồi và chế được hai chai nước chanh nhờ có tủ đá. Em nghĩ là anh cũng muốn uống chút gì, phải không ?
Chàng nói :
- Em đừng nên thức khuya như thế !
Giờ này mà nói đi ngủ, chắc em không ngủ được đâu ! Có lẽ nên ra ngồi ngoài vườn cho thoáng một chút, cho đến khi buồn ngủ.
Chàng gật đầu :
- Thôi để anh đem cái vali vào đã ! và rửa cái mặt. Năm phút nữa, anh sẽ ra với em.
Khi chàng trở ra thì thấy nàng ngồi trong góc vườn, có tiếng nước phun ri rỉ từ một vòi nước ai đã để chảy suốt đêm. Chàng ngồi xuống bên cạnh, nhận ly nước từ tay nàng nói :
- Giờ chúng ta lại ở bên nhau, em nhỉ ?
Cô gái dịu dàng nói :
- Cũng khó mà tin được ! Vì cả hai chúng ta sống cách trở và chuyện xảy đến quá dồn dập. Chỉ mới ba tuần thôi mà chúng ta đã trở lại nơi đây. Và mọi vật chẳng có gì thay đổi, trong lúc này ở nước Anh lại có quá nhiều sự đổi thay, anh David nhỉ ?
Chàng trả lời :
- Nơi đây thật êm ả, đã xa lìa mọi kích động và cảm xúc, không còn lo nghĩ phải làm sao để có đủ tiền bạc, nơi đây con người có thể ngồi suy tư. :
- Quay về phía Rosemary, chàng nói :
- Đến nước Anh để có những kinh nghiệm tuyệt vời và hòa mình vào những công việc lớn, nhưng khi đã làm xong, đây là nơi tốt nhất để thư giãn.
Cô gái chậm rãi nói :
- Em tin rằng đấy cũng là ý kiến của Nữ hoàng. Em cũng không chắc tại sao Nữ hoàng lại thích ở đây.
Quay qua David nàng hỏi :
- Hôm nay là thứ mấy anh nhỉ ?
Chàng suy nghĩ một chốc rồi nói :
- Ngày Giáng sinh là thứ hai. Hôm nay là sáng thứ Tư.
Thế thì chiều nay ngài Tom Forrest sẽ đọc diễn văn trên đài. Chúng ta có thể nghe được không ?
Được chứ. Buổi nói chuyện sẽ được truyền thanh lại trên làn sóng ngắn. Đài phát thanh Úc Đại Lợi sẽ có trong chương trình. Ông ta nói lúc mấy giờ.
Vào lúc chín giờ, sau bản tin.
Như thế sẽ là bảy giờ sáng mai ở đây. :
- Chàng trả lời.
Thế hả anh ? Chúng em có thể nghe ở đây được không ?
Để anh xem đã. Nếu có thể anh sẽ mượn cho một cái radio xách tay. Chuyện có quan trọng lắm không ?
Nàng gật đầu :
- Hình như ông ta bị Ba em luôn ám ảnh trong đầu. Em không biết là ông ta sẽ không nói những điều gì vì hiện tại ông ta bị bỏ lại một mình và đang nắm quyền.
Có lẽ cũng chẳng có gì đáng ngại.
Nàng từ tốn nói :
- Anh nói đúng. Đã đến lúc phải nói thật cho dân chúng biết.
Hai người lại ngồi trong bóng tối tĩnh lặng, không nói lời nào, chỉ lắng nghe tiếng nước chảy rì rào. Sau đấy nàng nói với chàng :
- Thôi, chúng ta đi ngủ, anh David nhé ! Ắt hẳn anh cũng đã mệt mỏi lắm rồi ! :
- Nàng đứng dậy nói :
- Đi nào ! Không lý anh lại ngủ ở đây sao ?
Chàng cũng đứng lên theo nàng :
- Anh lớn rồi, đâu cần ai ru cho mình ngủ nữa !
Nàng nhìn đồng hồ hỏi :
- Mấy giờ rồi, anh nhỉ ? Em còn xài giờ Luân đôn.
Chàng cười :
- Anh đâu biết, giữa đêm giữa hôm như thế này biết là mấy giờ ! Có lẽ nên đi ngủ thôi, em nhỉ ?
Nàng nói :
- Ngủ đến ngày mai luôn anh ạ ! Em cũng sẽ đi ngủ thôi. Ngài nói chẳng cần ai trong chúng ta ở Tharwa cho đến ngày mốt, tức là thứ Năm.
David suy nghĩ nói :
- Vào thời điểm ấy, ngài sẽ nghe ông Tom Forrest phát biểu. Ngài có biết ông ta sẽ nói gì chăng ?
Chắc không đâu ! Thường thường ngài chẳng biết một vị Toàn quyền sẽ nói gì, ngay cả các chi tiết.
Chàng cầm tay nàng, dịu dàng nói :
- Thôi đi ngủ đi em. Chẳng hơi đâu mà suy nghĩ những gì sắp xảy ra ở cách đây những mười hai ngàn dặm.
Cô nàng lập lại :
- Chẳng hơi đâu mà suy nghĩ, :
Quay qua phía David, Rosemary nói :
- Khi tìm ra vật ấy trên máy bay, anh có sợ không anh ?
Chàng trả lời :
- Cũng có, em ạ ! Cứ nghĩ rằng tất cả chúng ta sẽ chết.
Nàng gật đầu :
- Chắc anh lo nghĩ nhiều lắm nhỉ ?
Chàng trả lời :
- Lo lắm em ạ !
Nàng nép vào người chàng nói :
- Em thì không. Em cũng không chắc là ngài có lo nghĩ hay không nữa. Lúc này đáng buồn thật ! Mọi sự đang thay đổi và tan ra như cám ở nước Anh. Đôi khi em cảm thấy không còn muốn gặp ai nữa cả.
Chàng nói :
- Anh thì phải lưu tâm tới mọi việc. Nếu Nữ hoàng bị mưu sát trên máy bay của chính anh, như thế là do lỗi lầm của anh. Anh là Cơ trưởng, anh phải chịu trách nhiệm. Anh không muốn chết như thế. Còn điều này nữa… Điều gì hả anh ?
Chàng nhìn nàng cười :
- Nếu anh chết, làm sao có thể cưới em được và bắt buộc em phải cho anh một gia đình. Mà điều này thì anh đang còn hy vọng thực hiện một ngày nào đó.
Anh nói gì gì đâu ạ ! :
- Nàng dụi đầu vào ngực chàng và ngửa mặt lên đón nhận chiếc hôn. Cuối cùng nàng nói :
- Em nghĩ chuyện ấy cũng không lâu đâu. Có lẽ ngài chỉ ở lại đây lo công việc chừng sáu tháng thôi. Nếu sự việc đúng như vậy, em có thể xin thôi việc mà không làm phiền đến ngài.
Chàng cúi xuống hôn nàng một lần nữa và nói :
- Đối với anh, điều đó không thể sớm hơn được !
Rồi hai người, tay trong tay, dắt nhau về đến cửa phòng ngủ rồi lại hôn nhau trên lối đi. Rosemary nói :
- Chúc anh ngủ ngon, anh David. Em không mời anh vào đâu nhé ! Em còn là đệ tử của Ngài thì chưa đâu nhé!
Chàng cười :
- Thôi mà ! Ráng mà đi cho vững, đừng ra yết thị nữa !
Nàng cũng cười :
- Chúc anh ngủ ngon, anh Nigger thương yêu.
Chúc em ngủ ngon, Rosemary. Ngủ ngon nhé !
Chàng không gặp nàng nữa trước khi ra sân bay sáng hôm sau vào lúc mười giờ để làm việc kiểm tra thường lệ và tiếp tế nhiên liệu cho máy bay. Trong phòng ăn sĩ quan Không lực Hoàng gia Úc, chàng cầm tờ Thời báo của Canberra, trên trang nhất những đề lớn màu đen nói về bài phát biểu của Nữ hoàng vào dịp lễ Giáng sinh, về chuyến đi của ngài đến Úc, về việc chỉ định ông Tom Forrest và về những hậu quả chính trị của nước Anh. Trong phòng ăn, chàng nhận ra rằng các sĩ quan đang nói chuyện bỗng ngưng ngay lại khi chàng bước vào phòng trước và mọi người cố tránh không hỏi chàng một câu hỏi nào. Đó là một bầu không khí nặng nề, ngượng ngùng và dùng trưa xong, chàng đi liền để thấy nhẹ nhõm tâm hồn. Chàng trở về nhà chứa máy bay để làm thủ tục giấy tờ liên hệ đến chuyến bay, sau đó chàng lên một trong hai xe hơi biệt phái cho Phi đội Nữ hoàng để trở về khách sạn.
Rosemary đi vắng và chàng chẳng tìm được nàng, cho đến lúc chàng đang ngồi trong phòng khách, đợi giờ ăn tối, thư giản trong bộ đồ nhiệt đới rộng thùng thình, bên cạnh cây Giáng sinh lớn có trang trí những chùm len giả tuyết. Nàng hiện đến tươi mát nói :
- Em đi tắm với cô Gillian. Lội thật đã, anh ạ ! Anh về đã lâu chưa ?
Chàng trả lời :
- Anh về đến đây lúc bốn giờ. Đã kiếm ra cái đài. Ông ta sẽ nói trên đài lúc bảy giờ mười lăm sáng mai, giờ Úc. Em muốn nghe ở đâu ?
Nàng trả lời :
- Đừng ở chỗ đông người anh nhé ! Có lẽ chúng em bị cú sốc cũng nên !
Chàng nhướng đôi mày ngạc nhiên hỏi :
- Thế cơ à !
Em cũng chẳng biết. Ông ta là người cứng rắn và ba em thì nhồi nhét cho ông ta quá nhiều tư tưởng. Thôi nghe ở phòng em hay phòng anh gì cũng được, anh Nigger ạ ! Em sẽ dậy trước giờ ấy.
Chàng gật đầu :
- Tốt thôi. Anh sẽ đem máy đến phòng em sau bảy giờ một chút. Đêm nay em muốn làm gì nào ?
Nàng nhỏ nhẹ trả lời :
- Chúng ta hãy làm một việc gì đó để thư giãn tâm hồn. Cố mà nghĩ đến những điều khác nữa đêm nay.
Em thích đi xinê không ?
Chắc là nóng dễ sợ, anh nhỉ ?
Đâu có, :
Chàng trả lời :
- Có rạp chiếu phim ở ngoài trời. Có lẽ em nên mang theo áo choàng, trời ở đây buổi tối thường lạnh dầu sau một ngày nóng nực như thế này. Chúng ta đang ở trên độ cao hai ngàn bộ mà em !
Nàng nói :
- Em chưa bao giờ xem chiếu phim ở ngoài trời, thế họ chiếu phim gì vậy anh ?
Vivienne Walsh và Douglas Mason trong phim Ước vọng của con tim :
Chàng nói :
- Anh không nghĩ đây là phim hay nhất.
Nàng nói :
- Vivienne Walsh cũng khá lắm ! Cứ xem thử đi anh. Nếu dở quá thì chúng mình đi ra, có sao đâu !
Chàng trả lời :
- Anh không nghĩ người ở đây làm như thế đâu. Anh cho đó là thói quen của người Úc gốc Anh. Có lẽ chúng ta sẽ mang tiếng là khinh người. Douglas Mason người ở thành phố Adelaide. Tài tử địa phương chắc cũng không đến nỗi tệ.
Nàng cười :
- Thôi thì đi nhé !
Thế nên hai người đã đi xinê, sau khi ăn tối và cả hai ngồi nắm tay nhau trong bóng đêm giá lạnh dưới bầu trời đầy sao, trong lúc mối tình lãng mạn của người Cali đang diễn ra trước mắt họ. Hai người ngồi như thế trong niềm vui mộc mạc, cách ly khỏi những giây phút của các biến chuyển trọng đại đang diễn ra ở bên kia địa cầu giá lạnh, bão tuyết của Luân đôn vào tháng Chạp. Khi tay trong tay trở về khách sạn, những ý nghĩ ấy vẫn còn trong tâm tư hai người, trong bóng đêm ngạt ngào hương hoa. Chàng hôn nàng và chúc ngủ ngon trước cửa phòng ngủ.
Sáng hôm sau, lúc bảy giờ, chàng đi qua phòng nàng, ăn mặc chỉnh tề, tay xách cái radio mà chàng đã nghe thử trước ở phòng ngủ của chàng. Nàng cũng ăn mặc xong và đang đợi chàng, căn phòng còn thoảng thoảng mùi nước hoa “ân tình” (intimate), rơi rớt trên giường vừa mới ngủ, trên quần áo ngủ bỏ lại trên nệm và hương phấn còn tỏa nhẹ trong không gian. Chàng nén lòng và cố lãng quên bằng cách đặt radio xuống và vặn đài lên. Chàng nói :
- Vài phút nữa, ông ấy sẽ phát biểu. Đài đã thông báo là lúc sáu giờ ba mươi và bảy giờ sẽ thông báo lại.
Nhạc mở đầu vang lên cả căn phòng, chàng điều chỉnh cho vừa đủ nghe và ngồi xuống chờ đợi. Giờ đây, sau lời giới thiệu, một giọng nói mạnh, hơi chối tai của Nguyên soái, người xuất thân từ thợ giặt ủi, vang lên trong phòng.
Họ ngồi yên lặng lắng tai nghe. Việc tiếp vận cũng khá tốt, tuy thỉnh thoảng tiếng nói có lúc như bị nghẹn, chứng tỏ phát thanh viên ở xa quá bên kia địa cầu.
Rosemary bất thần nói :
- Sao ông ta làm như vậy được ! :
- Và David trả lời :
- Ông ta đã làm rồi! :
- Sau đấy hai người trở lại im lặng.
Hai mươi phút sau, giọng nói trầm trầm ấy ngừng hẳn và David tắt radio. Chàng nói :
- Thế là xong. Ông ta cũng cải cách về bầu cử đấy chứ !
Rosemary phản đối :
- Ông ta không có quyền phát biểu như thế ! Nước Anh là Khối Thịnh vượng Anh. Ông ta có quyền gì mà đề nghị các nước khác làm mà không có nước Anh.
Chàng dè dặt trả lời :
- Ông ấy có nói như thế đâu !
Nàng giận dỗi nói :
- Ý của ông ta là như vậy đấy ! Ông ấy đã từng nói nếu họ không làm được gì cho việc cải cách bầu cử, họ sẽ không bao giờ gặp mặt Nữ hoàng nữa. Họ chẳng cần phải nói như vậy về việc bầu phiếu kín và quyền đầu phiếu của phụ nữ.
David cười :
- Chắc chắn ông ta đã nói hơi quá lời. :
- Một phút sau chàng mới nói tiếp :
- Em có để ý đến cách nói của ông ta khi dùng từ “Tôi đã triệu tập Quốc hội của tôi để họp vào ngày thứ hai”, Quốc hội của ông ta, có thật thế không ?
Nàng vẫn còn hằn học :
- Em nghĩ đó là một sự xúc phạm trắng trợn. Quốc hội của Nữ hoàng chứ đâu phải của ông ta.
Ông ta là người đại diện Nữ hoàng.
Dừng một chút, nàng nói tiếp :
- Trên mặt pháp lý, có thể là ông ấy đúng, nhưng đấy không phải là điều được nói ra. Ông ta không phải là vua, nên không có quyền nói như vua. :
- Và rồi nàng nói tiếp :
- Quốc hội đang ngừng họp cho đến ngày hai bốn tháng Giêng. Với thông báo ba ngày, ông ta cũng không thể triệu tập Quốc hội được.
David nói :
- Ông ta đã làm được. Anh nghĩ là ông ta đã biết các thủ tục về mặt pháp lý.
Nàng suy tư một lúc rồi nói :
- Dĩ nhiên Vương triều có thể triệu tập Quốc hội bất cứ lúc nào và yêu cầu họ thảo luận bất cứ điều gì. Nhưng ông ta không phải là Vương triều :
Hay ông ta là Vương triều ?
Chàng cười :
- Rõ ràng là ông ta cư xử như một người của Vương triều.
Nhưng ông ta luôn luôn chống đối trực tiếp với chính sách của Nhà nước. Nhà nước này không ủng hộ một loại hiệu triệu từ ngai vàng hay một loại diễn văn từ Toàn quyền.
Chàng nói :
- Có lẽ ông ta tự tạo cho mình một Nhà nước khác cũng nên! Anh dốt môn Sử ký lắm, nhưng anh cũng xét thấy chẳng có điều gì mới lạ đối với Nhà vua mà phải đụng đầu với Hạ viện.
Nàng trả lời :
- Chắc không. Nhưng chúng ta đã bỏ cái cách tạo sự lộn xộn cách đây hàng thế kỷ.
Đấy mới là điều làm em suy nghĩ.
Một lúc sau, chàng mới nói :
- Ông ta là một người vừa thông minh vừa khôn ngoan. Và ông ta còn là một người đầy kinh nghiệm nữa, nên chẳng để mất cái gì. Ông ta không cầu xin để được làm Toàn quyền của nước Anh và khi bị giải nhiệm, theo anh nghĩ, ông ta cũng chẳng ân hận gì. Ông ta có toàn quyền hành động và suy nghĩ cần làm những việc phải làm, và nếu có sơ sẩy thì xin từ nhiệm thôi, tuy có hơi nhục. Nhưng ông ta cũng chẳng mất gì !
Nàng nói :
- Dĩ nhiên là không mất gì, nhưng em băn khoăn nếu có sơ sẩy đối với Vương triều, thì lại mất quá nhiều, phải không anh ?
Theo em, mất cái gì ? :
Chàng hỏi.
Nàng từ tốn trả lời :
- Chỉ nói riêng việc Vương triều đang kết hợp Liên hiệp Anh lại với nhau. Nếu không có Vương triều, các quốc gia trong Khối Thịnh vượng chung sẽ tan rã, mỗi nước đi theo mỗi đường. Nữ hoàng biết rất rõ về điều này, và ngài không bao giờ để cho nó xảy ra. Ngài không bao giờ bị bắt buộc phải điều qua tiếng lại với Hạ viện cho đến nỗi ngài và tất cả Hoàng gia phải thoái vị, vì điều đó có nghĩa là sự sụp đổ của Khối Thịnh vượng Anh. Em lo là vả chăng điều ấy đã ngăn cản ngài cai trị nước Anh như một Nữ hoàng phải cai trị ?
Ý em muốn nói, Thủ tướng Iorwerth Jones đã chèn ép con cái của ngài càng nhiều càng tốt như ý ông ta muốn, phải không ?
Nàng đỏ mặt một chút :
- Đấy là điều em muốn nói, anh ạ !
Chàng nói :
- Vậy đấy, nhưng ông ta lại không chèn ép được ôngTom Forrest. Nếu ông ta muốn có một cuộc đối địch bằng đầu với Toàn quyền, thì bất cứ lúc nào mà chả được và theo anh nghĩ dường như ông ta đang lâm trận.
Nàng nói :
- Em chỉ băn khoăn… :
Rồi tự nhiên ngừng nói.
Chàng nhìn nàng như dò hỏi :
- Em băn khoăn gì nào ?
Nàng cười, tuy có hơi khác lạ :
- Điều thật đáng khôi hài nếu nước Anh có được một vị vua theo cách này. Một vị vua thật sự có thể cai trị bằng cách đứng mũi chịu sào chống lại những nhà chính trị khoác lác và bắt họ trở về vị trí cũ của họ. Vương triều thật sự đã được thay đổi, người đầu tiên từ lúc Nữ hoàng Victoria.
Hai người ngồi yên lặng một lúc, cuối cùng chàng nói :
- Anh băn khoăn không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra ngày thứ Hai. Khi Quốc hội họp, ông ta đích thân đọc bài diễn văn của Toàn quyền :
Ông không nói như thế sao ? Ông ta sẽ đọc bài diễn văn ấy ở đâu ?
Nàng trả lời :
- Ở Thượng viện. Nữ hoàng cũng thường làm như thế. Anh đoán có lẽ ông ta sẽ cho cả Thượng viện một liều thuốc với liều lượng như cũ. Cải cách bầu cử, nếu không sẽ chia tay với Nữ hoàng. Em băn khoăn tại sao ông ta dám nói một điều như thế. Em cũng tự hỏi nếu Nữ hoàng biết được điều này trước khi ra đi, ông ta có tiếp tục làm như thế chăng ?
Một ý tưởng lại hiện đến trong trí chàng phi công :
- Trong lúc Vương triều muốn thăm từng quốc gia một trong Khối Thịnh vượng Anh, Nữ hoàng muốn ưu tiên lưu tâm đến những quốc gia này để họ đạt được những bước tiến bộ nhất trong việc phát triển chính trị.
Cô gái nói :
- Thế đấy ! Nhưng sao ông ta lại nói đến một điều như vậy ?
Chàng cười :
- Ông ta là người gan dạ và quả quyết nhưng không làm thương tổn một ai dù bị giải nhiệm. Bạn có thể nói rất nhiều điều, và không bị trừng phạt vì những lời này, vì bạn đã thôi việc.
Hai người ngồi trong yên lặng một lúc, cuối cùng chàng nói :
- Giai đoạn nhiễu nhương ! Anh không nghĩ những việc như thế này lại xảy ra dài dài ở Anh.
Nàng trả lời :
- Không đâu anh ạ ! Chúng ta đang sống trong thời đại có sử. Những gì xảy ra bây giờ sẽ được nói đến trong tất cả sách sử ký trong thời gian hai mươi năm, có thể tốt hơn hay xấu hơn. Và em và anh là những nhân chứng. Chúng ta chẳng có trong sách vì chúng ta chẳng phải là những nhân vật quan trọng. Nhưng chúng ta là những nhân chứng thật sự, sống trong đó, có liên quan mật thiết trong suốt giai đoạn ấy.
Chàng cầm tay nàng nói :
- Em nói đúng. Chắc nó không làm em tức giận đâu nhỉ ?
Tức giận cái gì, anh David ?
Chàng cười nhìn nàng :
- Vì phải để cho những việc vô nghĩa lý này tiếp diễn đúng lúc chúng ta quyết định yêu nhau.
Nhưng nó đâu quan trọng bằng hai chúng ta, anh David nhỉ ?
Không phải anh đâu nhé ! Anh mà nghĩa lý gì ! :
Chàng đáp.
Hai người đi ăn sáng với nhau và sau đấy chàng đưa nàng ra xe đi Tharwa. Chàng không còn gặp nàng nữa cho đến giờ ăn tối. Trông nàng có vẻ mệt mỏi, nhưng không kiệt sức. Trong lúc ăn, nàng đã kể cho chàng nghe những việc nàng đã làm :
- Em đã có văn phòng mới rồi, ở South Block trên đồi Capital với ba thư ký đánh máy chọn trong số nhân viên trực.
Thế em không ở Tharwa nữa à !
Nàng lắc đầu trả lời, rồi nói tiếp :
- Công tác thư tín đấy anh ạ ! Có hơn một ngàn tám trăm lá thư ở bưu điện sáng hôm nay, hầu hết là của các người lập dị. Chúng ta không thể xử lý vụ này ngay ở Vương cung Tharwa. Cô Turnbull và em suốt ngày đã đọc qua tất cả, và lựa ra những thư cần trả lời và các thư không cần. Cô ấy đã lựa ra một trăm năm mươi cái quan trọng nhất gởi đến cho Tharwa và sẽ đưa cho Thiếu tá Macmahon tối nay. Ngày mai em bắt đầu trả lời những cái khác với sự giúp sức của ba cô gái ở trực ban.
Chàng nhìn nàng :
- Khổ chưa ! Thế em phải trả lời từng lá thư một à ?
Nàng lắc đầu :
- Cô ấy không làm thế đâu. Tất cả đều là thư cá nhân, nhưng chúng em sẽ trả lời gọn trong một hay hai câu thôi là đủ. Tất cả các thư đều bắt đầu bằng câu “Được sự cho phép của Nữ hoàng Tôn Kính”. Thư nào cũng nói đi nói lại thế thôi, tuy cũng có thay đổi chút ít, nhưng thật ra không đủ từ mà viết, nên cái nào cũng giống nhau.” Chàng lại hỏi :
- Tiếp tục như thế bao lâu nữa ?
Nàng nhún vai trả lời :
- Thiếu tá nói có lẽ cũng phải mất một tháng, công việc mới trở lại bình thường. Tuần tới tốc độ thư gửi đến có lẽ là một ngày một ngàn cái, rồi con số ấy sẽ nhỏ dần đi. Nhưng chúng em chỉ có mười ngàn tờ giấy viết thư có dấu của Hoàng gia, vì vậy chúng em được nghỉ xả hơi vài ngày. Hôm nay chúng em mới đặt in, nhưng cũng phải nửa tháng mới xong. Dĩ nhiên, đây là mùa nghỉ ngơi.
Chàng thắc mắc hỏi :
- Hôm nay em trả lời được bao nhiêu cái ?
À, chẳng được cái nào, :
Nàng trả lời :
- Các em chỉ mới hoàn thiện khâu tổ chức. Một cô gái giỏi có thể hoàn thành một trăm năm mươi cái thư một ngày. Em đang xin thêm hai cô gái nữa nếu như ngày mai em nhận nhiều thư. Chẳng bao lâu nữa thì cũng thoải mái thôi !
Vào cuối tuần chàng ít gặp được nàng. Ngày thứ sáu, Quận công cùng Frank Cox bất ngờ đến phi trường, thật ra chẳng có mục đích nào khác ngoài việc thăm chiếc máy bay và ngỏ lời mời xã giao David đến tắm ở hồ bơi Tharwa khi nào thấy thích. Đây là dịp may hiếm có, bởi vì vào dịp Tết Tây, Canberra nóng đến chín mươi độ dù đứng trong bóng mát mỗi ngày, và thành phố đã lớn dậy rất nhanh nhờ hồ bơi. Thật ra, Tharwa cách thành phố đến hai mươi dặm, nhưng khi bạn đến đấy, hồ bơi thật là mộng tưởng, vừa im, vừa rộng rãi lại không có người, nằm dưới chân một vườn hoa hồng.
Chàng phi công nói :
- Ngài thật quá chu đáo ! Xin phép đem cô Long đến được không ?
Được thôi !
Họ đi quanh máy bay vài phút nhìn những người chùi bóng đang làm việc ở cánh. David hỏi :
- Thưa ngài, ngài có ý kiến gì nếu công việc tiếp tục cũng giống như vậy ? Nếu công việc này mất khoản mười lăm hôm, tôi sẽ cho họ đi phép.
Frank Cox nói :
- Nên ở lại thêm một thời gian nữa, Nigger ạ !
Được thôi.
Quận công hỏi :
- Từ đây anh có thể bay thẳng đến Kenya được không, Cơ trưởng ? Điều cần thiết là anh phải đến Sagana tìm cho ra Công chúa Anne đem về đây.
Tôi không thể bay thẳng từ đây đến đó được. Trên đường bay phải hạ cánh đâu đó để tiếp tế nhiên liệu. Chỗ tốt nhất là quần đảo Keeling Cocos. Từ đây đến Nanyuki độ mười bốn giờ bay.
Không thể lâu hơn được ?
Thưa ngài, không. Như thế là quá xa :
Chàng dừng một chút rồi nói tiếp :
- Thật ra, tôi đã nghiên cứu đường bay này ngày trước cơ !
Có gì trở ngại chăng ?
Chàng trả lời :
- Dạ thưa không. Chúng tôi đã sẵn sàng, còn chờ lệnh ngài nữa thôi.
Tôi sẽ cho anh biết.
Rosamary được nghỉ chiều thứ Bảy vì cô đánh máy không làm việc ngày cuối tuần. Nàng còn làm một ít công việc ở văn phòng, sau đó vào lúc mười hai giờ David lái xe đến South Block đón nàng đến Tharwa. Họ ăn trưa với ông Macmahon trong phòng bí thư và thay áo quần ở đây, đi ra với áo quần tắm có áo choàng ngoài, đi xuống khỏi vườn hoa hồng trong nắng nóng để xuống hồ bơi.
Hai người đã ở bên nhau suốt buổi chiều, hồ bơi vắng và chẳng có ai làm phiền. Ngồi trên ghế bố bên cạnh bờ nước, hai người trao đổi những việc đại sự.
Từ khi chúng ta đến đây, em chưa lần nào gặp Nữ hoàng :
Cô gái nói với chàng trai :
- Nhưng Thiếu tá Macmahon và cô Turnbill nói rằng ngài trông rất vui. Tối nào ngài cũng nói chuyện với Huân tước Marlow ở Luân đôn bằng điện thoại, và ngài cũng đã một lần nói chuyện với ông Tom Forrest. Ngài hôm qua ngài đã nhận vô số tờ báo Luân đôn bằng máy bay và hôm nay lại nhận thêm nhiều nữa. Về cuộc cải cách bầu cử, rõ ràng là một số phận bấp bênh trong diễn tiến.
David hỏi :
- Phiếu bầu nhiều thành phần, như ở đây phải không em ?
Em nghĩ có lẽ vậy. Bản thân em đã thấy giấy tờ nói gì đâu ! Thiếu tá Macmahon nói, thật đáng tiếc ông Tom Forrest đã nói ra những điều ông đã làm cho việc bầu phiếu kín và phiếu bầu của nữ giới. Ông ta nghĩ rằng sẽ được ủng hộ của mọi người ở Anh quốc.
Tại sao lại như vậy ?
Nàng nhìn chàng cười :
- Anh không thể cho rằng nước Anh cứ mãi theo đuôi nước Úc, anh Nigger ạ !
Chàng cười nói :
- Đâu phải cứ mãi. Chỉ thêm một lần nữa thôi. Tóm lại, dân Úc đã theo đuôi nước Anh hằng ngàn việc và vẫn sung sướng được làm như thế.
Nàng nói :
- Phải, đúng như vậy. Nhưng dân Anh lại không thể thấy được hoàn toàn như thế. Đối với họ, văn hóa và phát triển chính trị là con đường một chiều.
Vào buổi chiều, chàng lái xe đưa nàng về Canberra. Thiếu tá Macmahon nói cho họ biết là Nữ hoàng sẽ đi đến Vương cung Thánh đường mới St. Mark vào ngày Chủ nhật, lần đầu tiên ngài xuất hiện trước công chúng từ khi đến Úc. David và Rosemary góp mặt để cho đoàn tùy tùng thêm đông, cả hai ngồi trên dãy ghế trong Thánh đường ngay sau lưng Nữ hoàng và Quận công, với cô Turnbill, ông Macmahon và bác sĩ Mitchison. Điều ngạc nhiên đối với David là tất cả phi hành đoàn của chiếc Tare đều có mặt do Ryder dẫn đầu, và do sự sắp xếp gấp rút của phụ tá hội đồng giáo xứ, họ được ngồi ở dãy ghế tiếp liền sau Nữ hoàng, cho nên cả ba dãy ghế những người đi lễ đã cám ơn sự giải thoát cho họ mà chẳng có lời phàn nàn.
Sau khi ăn trưa, nàng không đi xe hơi với chàng nữa. Chàng muốn đưa nàng đến Letchworth, ở đó có một bất động sản mới thuộc loại tốt ở phía trên đường Yarrow ngay ngoài địa giới của Liên bang, hy vọng thuyết phục nàng thích một trong những căn nhà ấy nhưng nàng không hứng. Nàng nói :
- Chiều nay em bận làm việc rồi, anh Nigger ạ ! Trong văn phòng yên tịnh, em có thể bắt đầu trả lời thư. Thật ra, người ta chẳng có thì giờ đâu mà để ý kỹ càng từng lá thư, trong lúc bọn em, cả năm cô gái phải làm việc liên tục. Cô Jennifer Menzies cũng đến giúp em.
Cô Jennifer Menzies là ai vậy ?
Cô ta có liên hệ giòng họ với ông cụ ấy :
Chắc nội hay gì gì đấy. Cô ta là một trong năm cô gái đánh máy.
Cô ta có giỏi không ?
Cô gái gật đầu :
- Chắc chắn cô ta là thượng thặng vì giỏi hơn các người khác nhiều. Cũng nhờ ý kiến của cô ta mà công việc đến chiều hôm nay đã giảm xuống thấy rõ.
Cô ta người Úc ?
Vâng. Cô ta ở Sydney. Cô ta đến nước Anh đã ba năm và ở Girton. Em mới thoáng nghĩ là nếu cô ta đảm nhận công việc trong vài tháng, cô ta đúng là người có thể thay thế em.
Chàng cười :
- Anh rất vui mừng là em đã suy nghĩ đúng. :
- Chàng ngừng một lúc rồi nói tiếp :
- Có phải cô ta là người Úc đầu tiên được làm công tác riêng cho Nữ hoàng ?
Nàng nói :
- Còn anh nữa chứ !
Ngoài anh ra, cô ta có thể đảm trách những công tác đáng tin cậy ?
Em nghĩ là được. :
- Cô gái nói :
- Em không nhớ ra là có người nước nào làm được chưa trừ người Anh. Tuy nhiên đấy chưa phải là một trở ngại.
Chàng cười nói :
- Nghe ra, anh cũng là vật thí nghiệm quan trọng đấy nhỉ ?
Nàng nói :
- Anh thật tinh quái, cứ trêu em hoài ! Trên thực tế, em tin là Nữ hoàng cũng sẽ mến cô ấy.
Đến tối thứ Hai, chàng còn thấy được Rosemary trước giờ ăn tối và hai người đã gặp nhau trong phòng khách. Nàng nói với chàng :
- Tối nay em sẽ đi Tharwa, có xe tới đón em lúc tám giờ.
Chàng lưu ý nàng :
- Việc gì mà không giới hạn giờ như thế ! Em làm sao làm được việc gì tốt nữa, nếu em kiệt sức !
Nàng cười trả lời :
- Em sẽ không kiệt sức đâu vì đêm nay là một đêm quan trọng.
Ông Tom Forrest sẽ đọc diễn văn của một vị Toàn quyền chứ ?
Nàng gật đầu trả lời :
- Chín giờ, giờ bên Anh. Ngài sẽ nói chuyện với Huân tước Marlow sau khi diễn văn chấm dứt và ngài muốn chúng ta ghi lại câu chuyện ấy để ngài xem lại. Cuộc thảo luận của Hạ viện vào lúc một giờ sáng và ngài sẽ nói chuyện với ông ấy bất cứ giờ nào sau cuộc thảo luận. Những cuộc nói chuyện này cũng phải được ghi chép.
Công việc như thế làm sao chàng ngăn cản được, nên chàng nói :
- Như thế thì em bị mất ngủ đấy ! Anh có thể làm được gì để giúp em ?
Nàng bóp tay chàng :
- Anh Nigger yêu dấu, không, anh không thể làm gì được đâu, cũng như em đã không làm gì được cho anh khi chiếc Ceres gặp lúc nguy hiểm. Hai chúng mình đều có công việc riêng để phụng sự Nữ hoàng và chẳng bao lâu nữa, công việc của em cũng sẽ xong. Không ai nghĩ rằng cuộc thảo luận của Hạ viện sẽ kéo dài đến ngày thứ hai. Điều này hay điều khác, thế thôi.
Chàng nói :
- Ông ta không bao giờ bị mất ghế trong chính phủ. Đảng của họ chiếm đại đa số ở Hạ viện, trên hai trăm ghế!
Nàng nói :
- Em biết, nhưng ông ta được chấp nhận là người đứng đầu chính phủ để nói chuyện với dân chúng qua đài phát thanh. Em không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng ai cũng nghĩ sẽ xảy ra rất nhanh.
Chàng đưa nàng đi ăn tối và tiễn nàng ra xe về Tharwa. Chàng đứng tán gẫu với Frank Cox được một lúc, rồi cả hai dò đài để nghe ông Tom Forrest đọc diễn văn ở Thượng viện. Nhưng bắt đài không được hay những đài Úc không tiếp vận nổi, sau đó David đi ngủ. Chàng đọc tờ Reader s Digest được một lúc thì ngủ.
Chàng thức dậy lúc sáu giờ. Chàng đã dặn Rosemary là nếu có tin gì quan trọng thì chuồi dưới cửa một tờ nhắn, nhưng chẳng thấy tờ nhắn đâu. Nếu Hạ viện họp lúc một giờ sáng, giờ của Úc, họ sẽ thảo luận trong năm tiếng đồng hồ. Chàng cũng nghĩ rằng chắc cuộc họp còn kéo dài, nên chàng đi tắm, cạo râu và mặc áo quần.
Trong lúc đang mặc áo gió vào, có tờ giấy nhắn tin chuồi vào dưới cửa. Chàng mở cửa và Rosemary đứng đấy. Cô ta nói :
- Xong rồi, anh Nigger ạ ! Nhà nước đã bị thất bại về một tu chính án, trong bài diễn văn đáp lễ.
Mặt nàng tái xanh và mệt mỏi với các quầng thâm ở khóe mắt, nhưng vẫn hồ hởi. Chàng hỏi :
- Như thế nghĩa là sao ?
Iorwerth Jones và chính phủ đã từ nhiệm hay đang từ nhiệm. Người ta đã ngăn chặn sự la ó.
Chàng ngạc nhiên hỏi :
- Nhưng vụ việc đã xảy ra như thế nào, khi đa số thuộc về họ ?
Nàng đặt tay trên lưng cánh cửa cho đỡ mệt trả lời :
- Gần nửa số dân biểu thuộc Đảng Lao động bầu cho tu chính án của Đảng đối lập. Hai trăm lẻ chín phiếu bầu chống lại chính đảng của họ, và năm mươi tám từ chối bỏ phiếu. Đại đa số trên hai trăm năm mươi bầu cho tu chính án :
Như thế là cải cách bầu cử rồi !
Chàng hỏi :
- Tại sao họ lại làm như thế ?
Nàng trả lời :
- Chính vì Nữ hoàng. Đã có cú sốc nặng nề đối với dân chúng, Nữ hoàng bỏ đi và Toàn quyền được chỉ định. Không có cách nào nghe hết toàn bộ câu chuyện. Nhưng số đông những dân biểu ủng hộ Đảng Lao động hiểu được ý nghĩ của các cử tri trong đơn vị bầu cử và hình như chẳng có gì phải thắc mắc. Cả nước muốn cải cách bầu cử.
Chàng hỏi :
- Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo ?
Nàng trả lời :
- Sẽ có chính phủ của Đảng Lao động mới khác. Kết quả là đất nước không đồng quan điểm với ông Iorwerth Jones. Ông Tom Forrest sẽ mời ông Grayson thành lập một chính phủ Lao động, cam kết thực thi một hệ thống phiếu bầu nhiều thành phần.
Chàng làm điệu bộ không bằng lòng :
- Một chính phủ Lao động khác ?
Nàng gật đầu :
- Giải pháp độc nhất cho nước Anh, anh Nigger ạ ! Khi mọi việc thực sự khó khăn, bạn phải đoàn kết với nhau và chia xẻ những gì bạn có được. Điều cần có là một chính phủ mới của Đảng Lao động. Nhưng từ nay trở đi, mọi việc càng ngày càng tốt hơn. Cuối cùng, nước Anh đã đi đúng đường của mình.
Chàng đồng ý :
- Có lẽ ! :
- Và rồi chàng nói :
- Nhưng em phải đi ngủ và cố mà ngủ đi nhé !
Nàng gật đầu :
- Em cũng định kéo tấm che nắng xuống và ngủ suốt ngày.
Chàng đưa nàng đến phòng ngủ của nàng và hỏi :
- Em đã ăn sáng chưa ?
Nàng trả lời :
- Nửa đêm qua, em đã ăn qua loa rồi.
Chàng dừng lại ở cửa hỏi :
- Anh đem đến cho em ít thức ăn nhé !
Nàng cười nói :
- Anh Nigger thân yêu, cho em xin nửa lít sữa và một ít bánh qui. Thế thôi anh nhé !
Chàng gật đầu :
- Sắp sẵn đi ngủ đi, anh đi lấy thức ăn cho em. Độ bao lâu ?
Năm phút thôi. :
- Nàng trả lời :
- Thế là lâu lắm rồi !
Chàng đi vào bếp, gặp ban ẩm thực mới đổi phiên. Chàng nói rất hay, cuối cùng chàng lãnh được một bình sữa lạnh và một đĩa bánh qui và mang về phòng cho nàng. Nàng đang ngồi trên giường mặc chiếc áo ngủ mỏng, làm chàng động lòng, nhưng vì thấy nàng quá mệt nên phải cố nén sự khát khao hiện đến trong tâm hồn.
Chàng nói :
- Bữa ăn sáng của em đây ! :
- Chàng để xuống bên cạnh giường.
Nàng nói :
- Em cám ơn anh. Em sẽ ngủ ngon thôi ! :
- Nàng nhấp một ngụm sữa và nói :
- Anh David, họ có nói gì với anh về chuyến đi sắp tới chưa ?
Chàng trả lời :
- Các anh đang sẵn sàng cho chuyến đi Kenya để đón Công chúa Anne.
À, thế là họ đã nói với anh. Sáng nay ngài vừa nói chuyện với Công chúa Anne. Hoàng tử Charles đang trên đường về đây với Phi đội trưởng Dewar.
Tin này cũng mới đây, chàng hỏi :
- Thật hả em ?
Nàng gật đầu :
- Ngài nói chuyện với Hoàng tử cách đây một giờ, trước khi em rời khỏi văn phòng. Ngài muốn tập họp các con của ngài về để họp gia đình.
Ngày mai Hoàng tử sẽ đến đây. Cũng bay qua đảo Christmas ?
Em không rõ :
- Có thể là như vậy, phải không anh ? :
- Nàng nói tiếp :
- Anh Nigger à, hôm nay anh sẽ nhận được lệnh và bay đi trước khi em thức dậy. Nếu vậy, có lẽ thứ Năm, em mới gặp được anh.
Chàng sửa lại :
- Thứ tư chứ ! Một chuyến đi hai ngày không hơn không kém, miễn là họ sẵn sàng khởi hành khi anh đến.
Nàng nhấp một chút sữa nữa và nói :
- Ngồi xuống nói chuyện với em trong một phút, nghe anh ! Cho đến khi nào em ngủ nhé ! :
- Chàng ngồi xuống bên nàng, cầm một bàn tay nàng và giữ yên lặng.
Trông em mệt quá ! :
- Chàng nói nhỏ :
- Cứ nằm như thế cho đến mai, trong lúc anh đi vắng nhé !
Nàng cười :
- Đó là cách phản đối, phải không anh ? Nhưng cái mệt của em không có nghĩa lý gì với cái mệt của ngài. Tháng trước, em không nghĩ là ngài ngủ yên giấc.
Chàng trả lời :
- Anh cũng biết thế, nhưng hai cái sai đâu có thể làm được một cái đúng. Nếu mà mệt như vậy, ngài cần nghỉ ngơi, nên ngài đâu cần em ở văn phòng.
Nàng lại nói :
- Anh nói ngài cần nghỉ ngơi thì đúng rồi ! Nhưng hy vọng đấy là đỉnh cao, và từ nay trở đi cầu mong Nữ hoàng và nước Anh gặp được bể yên sóng lặng.
Chàng gõ nhẹ vào bàn tay nàng hỏi :
- Thế em có thể rời khỏi công việc và kết hôn với anh chưa ?
Nàng gật đầu :
- Có lẽ thế. Em nghĩ khi chúng em đã hoàn tất công việc rồi, em sẽ nói chuyện với Thiếu tá Macmahon và rồi phải bắt đầu tập việc cho cô Menzies ngay.
Có khi nào cô ấy được ở lại đây không ?
Nàng gật đầu :
- Cô ta sẽ không về lại nước Anh cho đến khi nào tình thế đã yên và có lẽ cũng cho tới khi họ tổ chức được một cuộc tổng tuyển cử với quyền bầu cử mới. Chẳng bao lâu nữa cô ta sẽ phải đi Tích Lan nửa tháng và em biết là cô ấy thích đến Borneo. Nhưng đây sẽ là nhà của cô ấy và là cơ sở chính cho đến mùa thu, hay mùa xuân của nước Úc cũng thế. Nếu phải thêm một người ở văn phòng, thì việc thay đổi nhân viên cũng thuận lợi thôi !
Chàng mỉm cười ý nhị :
- Anh nghĩ đấy là một sáng kiến.
Nàng cũng cười đáp lại :
- Em cũng nghĩ thế ! :
- Nàng uống tiếp cho hết ly sữa và để ly xuống, vẫn nắm bàn tay của chàng. Giờ này thì mí mắt nàng sụp xuống tuy nàng cố nhướng lên.
Chàng cúi xuống hôn nàng và nói nhỏ :
- Thôi ngủ đi nhé ! Nếu anh phải đi Kenya hay bay qua địa cầu trước khi em thức dậy, em nên biết rằng anh luôn nghĩ về em suốt đường bay và tính từng giờ để được trở về đây một lần nữa.
Nàng ôm chặt lấy chàng :
- Anh Nigger thân yêu, đừng xa em lâu nghe anh !
Chàng hôn nàng một lần nữa, đặt nàng nằm lên gối, nàng nằm nghiêng một bên, thở dài, xua đuổi những mệt mỏi và đi vào giấc ngủ. Chàng đứng dậy, đến bên cửa sổ, kéo tấm chắn ánh sáng của Ý xuống, để căn phòng tối hơn, tuy vẫn còn chỗ cho gió thổi vào. Trên đường ra cửa, chàng dừng lại bên giường nàng, trong bóng tối mờ mờ, nhưng nàng đã thở đều và sâu, giấc ngủ đến bình yên. Chàng nhẹ nhàng mở cửa đi ra ngoài và cẩn thận khép cửa lại.
Chàng cũng mệt mỏi và căng thẳng không kém và giờ này chàng nhận biết là một chuyến bay mới sẽ gần kề và chàng còn phải thức khuya nhiều giờ nữa. Chàng đi trở về phòng ngủ của chàng, kéo tấm liếp xuống, nằm trên giường bề bộn để ngủ trong một tiếng đồng hồ trước sức nắng chói chang của ban ngày trở lại.
Chàng biết là mình đã trôi vào giấc ngủ, chàng và Rosemary là một. Cả hai cùng nhau tạo nên một nhân vật tuyệt vời, tách rời nhau ra thì chẳng đầy đủ. Giờ đây, sau khi thức dậy, chàng sẽ đi xa và bỏ lại nàng và trong lúc xa nàng, chàng luôn mơ tưởng tới nàng, vì nàng là của riêng chàng. Chàng sẽ đi, chỉ trong vài tiếng đồng hồ, nhưng cách xa nàng hằng ngàn dặm, và một phần tư quả đất sẽ ngăn cách hai người, nhưng chàng sẽ trở về và tìm được một nửa kia của cái tôi mới mẻ và như thế là hoàn hảo.
Chàng ngủ rất say. Trong giấc ngủ chàng cảm thấy trôi bồng bềnh càng ngày càng xa nàng, và người thì càng ngày càng yếu đuối. Thời gian ly cách sao mà mênh mông quá, không còn là hai ngày như chàng tưởng hay nhiều lắm là ba ngày. Nàng xa dần khỏi chàng ngay khi chàng nằm ngủ, chàng cố vùng tỉnh dậy nhưng giờ thì chàng đã đuối sức. Nàng ắt hẳn ở đấy rồi, cho chàng tìm kiếm, và yêu thương, đã bao năm qua, nếu chàng cần nàng sẽ đến thôi. Nhưng giờ này chàng cần nàng, cần nàng da diết nhưng nàng đâu đến nữa, trong cơn hấp hối và tuyệt vọng, chàng nghe mình nức nở khóc và chàng cảm thấy nước mắt ràn rụa trên gò má.
Chàng đã cần Rosemary và trong ba mươi năm qua hay hơn nữa nàng không thể đến. Chỉ có các loài vật đến được, đứng dang thân ngoài mưa, trong nước lũ để nhìn chàng chết. Chỉ có loài vật và người anh em cố hữu trong rừng cầm tay chàng trong lúc chàng hoảng hốt, mê sảng, mồ hôi dầm dề vì bệnh sốt rét, bàn tay ấy chạm vào người chàng, thỉnh thoảng lay động cơn rét run của chàng.
Chàng chẳng cần mục sư hay súc vật, chỉ cần Rosemary nhưng giờ này nàng ở xa quá, cái lúc chàng rất cần nàng giúp đỡ. Có tiếng vỗ đều đều như tiếng trống, không dứt, tiếng trống định âm nhỏ dần, ru chàng ra khỏi cuộc sống. Chàng biết đời chàng thế là chấm dứt và Rosemary càng ngày càng xa; chàng sẽ tìm gặp nàng một ngày nào đó nhưng giờ thì nàng không thể đến được để giúp chàng. Đôi môi chàng mấp máy thoát ra tiếng Rosemary.
Tôi buồn bã nói :
- Cô ấy sẽ đến thôi. :
- Hình như câu ấy tôi đã nhắc lại suốt đêm.
Xơ Finlay tỉnh dậy bên tôi, Xơ nắm lấy bàn tay ông già đo mạch, mắt Xơ nhìn vào đồng hồ trong ánh sáng mờ mờ của buổi rạng đông. Tôi đứng đấy, bên cạnh giường, cố vận dụng thị lực để thấy toàn cảnh ấy, nhưng quá mệt mỏi.
Tiếng Xơ nhẹ nhàng :
- Một chốc nữa ông ta sẽ đi thôi !
Xơ cầm cổ tay ông ta lặng lẽ. Tôi cố gắng, nhưng khó khăn lắm mới đứng dậy được, có Xơ đỡ bên cạnh, nhưng tôi bỏ mặc Xơ nên Xơ phải trở về với ông Stevie. Tôi đứng trên ngưỡng cửa, nhìn ra bãi đất trống nhưng trời còn mưa. Những con chó hoang và lợn rừng, cùng đàn gia súc, cả những con chuột túi loại nhỏ vẫn đứng quanh nhà trong buổi rạng đông mưa dầm và tối ám, tất cả những cái đầu đều quay nhìn về phía chúng tôi một cách thành kính, chăm chú theo dõi sự uy nghi của người quá vãng.