Bất đối xứng, bất ổn định, và sự cố kết
Theo định nghĩa, trung tâm là nhà cung cấp vốn, ngoại vi là người nhận. Sự thay đổi đột ngột về sự sẵn lòng của trung tâm để cấp vốn cho ngoại vi có thể gây ra hỗn loạn nghiêm trọng ở các nước tiếp nhận. Bản chất của hỗn loạn phụ thuộc vào dạng vốn được cung cấp. Các công cụ nợ và tín dụng ngân hàng có thể gây ra phá sản và khủng hoảng ngân hàng; nếu đầu tư ở dạng cổ phiếu, nó có thể đẩy nhanh rối loạn của thị trường cổ phiếu. Đầu tư trực tiếp ít gây hỗn loạn nhất; cái xấu nhất có thể xảy ra là thiếu đầu tư mới. Thường tất cả các hình thức vốn dịch chuyển theo cùng chiều.
Cái gì xảy ra khi một nước không trả được nợ của nó? Câu trả lời bị bao phủ trong sự huyền bí, bởi vì vỡ nợ chính thức thường được tránh. Có cảm tưởng chung rằng nước liên quan sẽ chịu tổn thất không sửa được, nhưng trong thực tế, nhiều nước không thoả mãn các nghĩa vụ, và người ta đã tìm ra những cách để dàn xếp chúng. Tiếp theo khủng hoảng nợ quốc tế 1982, Câu Lạc Bộ Paris được thiết lập để giải quyết nợ chính thức, Câu Lạc Bộ London cho nợ thương mại. Khi bụi đã lắng xuống, cái gọi là trái phiếu Brady được phát hành để thay thế các trái phiếu còn tồn đọng.
Cho đến mới đây, các chủ nợ có xu hướng làm ăn tốt hơn nhiều so với con nợ trong khủng hoảng nợ quốc tế. Họ có thể phải gia hạn các khoản vay, kéo dài ngày đáo hạn, hoặc thậm chí cho mức nhượng bộ, song họ không phải từ bỏ quyền đòi của họ. Mặc dù IMF không được cho là thiên vị với người cho vay, sứ mạng hàng đầu của nó là duy trì hệ thống tiền tệ quốc tế, và tìm cách tránh các cú sốc đột ngột đối với khả năng trả được nợ của các ngân hàng chủ yếu. Hơn nữa, nó đã không có đủ nguồn lực để hành động như người cho vay cuối cùng; vì vậy, nó cần huy động sự giúp đỡ từ các ngân hàng, và các ngân hàng đã biết lợi dụng thế nào vị thế chiến lược của chúng. Đôi khi, thậm chí họ có thể thuyết phục các nước mắc nợ nhận trách nhiệm của các ngân hàng nội địa, các tổ chức nếu khác đi sẽ bị quét sạch (đó là cái đã xẩy ra ở Chile 1982, ở Mexico 1994, và lần nữa, ở mức độ hạn chế, ở Hàn Quốc 1998). Tất nhiên, những người cho vay phải lập các quỹ dự phòng, nhưng rốt cuộc chúng thường thu được một phần đáng kể các khoản nợ xấu. Hơn nữa, các ngân hàng thường dựa vào sự giúp đỡ của các nhà chức trách tiền tệ quốc gia để bù đắp các tổn thất tín dụng. Cục Dự trữ Liên bang đã giữ lãi suất ngắn hạn thấp ở Hoa Kì một cách chủ ý từ 1991 đến 1993 để cho phép các ngân hàng Mĩ chật vật tái lập tính sinh lời; Ngân hàng Nhật Bản đã làm như thế từ 1995. Song các nước mắc nợ không được hưởng sự giảm nhẹ có thể so sánh được. Sự giúp đỡ quốc tế thường được thiết kế để làm cho họ có khả năng thoả mãn nghĩa vụ nợ. Mặc dù họ có thể không có khả năng trả hết nợ, họ buộc phải trả ở mức giới hạn của khả năng của họ. Gánh nặng thường ghìm họ xuống hàng năm trời.
Điều này trái ngược rõ rệt với các khủng hoảng nợ nội địa ở các nước tiên tiến, nơi các thủ tục phá sản hướng tới việc bảo vệ các con nợ. Thí dụ, các ngân hàng Hoa Kì mất nhiều tiền trong khủng hoảng tiết kiệm-và-vay các năm 1985-1989 hơn trong khủng hoảng nợ quốc tế 1982. Trong trường hợp cho vay quốc tế, kết quả thuần của các chính sách của IMF đã là cứu giúp các chủ nợ, gây ra hiểm hoạ đạo đức nguy hiểm. Tất cả điều này bây giờ đang thay đổi (xem Chương 10).
Bất đối xứng về đối xử với những người cho vay và đi vay là một nguồn bất ổn định chính. Mỗi khủng hoảng tài chính đều xảy ra sau khi mở rộng tín dụng không thể duy trì nổi. Nếu tín dụng có thể kiếm được tự do, thì đúng là kì vọng quá nhiều vào việc các con nợ tự kiềm chế. Nếu khu vực công đi vay, món nợ phải được chính phủ tương lai trả - tăng nhanh nợ là cửa thoát hiểm tuyệt vời cho các chế độ yếu. Thí dụ, chế độ cộng sản cải cách ở Hungary đã thử mua lòng trung thành của nhân dân bằng tiền đi vay, cho đến khi khủng hoảng 1982 làm chấm dứt tập quán đó. Nhưng không chỉ có khu vực công thiếu kiềm chế, khi khu vực tư nhân tích tụ các món nợ, các nhà chức trách tiền tệ thậm chí thường không biết tới, cho đến khi đã quá muộn. Đó là trường hợp ở nhiều nước Á Châu năm 1997.
Tuy nhiên, sự bất đối xứng cũng là một nguồn cố kết. Mọi loại áp lực tài chính và chính trị đều chĩa vào các nước mắc nợ, làm khó cho họ để quyết định không tham gia vào hệ thống bằng cách bội ước các nghĩa vụ. Áp lực dùng để giữ hệ thống lại với nhau, ngay cho dù nó là đau đớn với các nước để là thành viên. Thí dụ, cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên ở Hungary năm 1990 đã có thể cho một cơ hội tuyệt vời để vạch đường ranh giới giữa nợ nần cũ và các nghĩa vụ mới mà chế độ dân chủ mới ràng buộc vào. Tôi đã cố chuẩn bị một sơ đồ như vậy, nhưng thủ tướng tương lai, Joseph Antal, nuốt lời vì ông ta đã quá chịu ơn nước Đức, chủ nợ lớn nhất của Hungary. Có các thí dụ khác; tôi nhớ mãi Chile năm 1982. Dưới ảnh hưởng của trường phái Chicago, hệ thống ngân hàng Chile đã được tư nhân hoá, và các nhà kinh doanh mua các ngân hàng đã sử dụng tiền vay từ bản thân ngân hàng. Năm 1982, khi các ngân hàng không thể thoả mãn các nghĩa vụ quốc tế của mình, nhà nước đã gánh trách nhiệm về nợ của các ngân hàng đã được tư nhân hoá vì chế độ Pinochet, thiếu tính hợp pháp trong nước, đã hăm hở duy trì mức tín nhiệm của nó ở nước ngoài. Kết quả là, những người đóng thuế phải thanh toán hoá đơn.
Cần phải nhắc tới các bất đối xứng khác nữa. Phát hành tiền là đặc quyền quốc gia, và các quốc gia mà đồng tiền của họ dễ được chấp nhận trong các giao dịch quốc tế có vị thế tốt hơn nhiều so với các nước không thể đi vay bằng đồng tiền của mình. Đây là một trong các lợi thế chính để ở trung tâm đối lại với ngoại vi. Lợi ích kiếm được lãi đúc tiền (tiết kiệm lãi bằng cách phát hành giấy bạc ngân hàng hơn là tín phiếu kho bạc) là tương đối không quan trọng so với việc tự chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ của riêng mình. Các nước ngoại vi phải theo sự ra hiệu từ trung tâm - trước hết là Hoa Kì. Vì chính sách tiền tệ của các nước trung tâm được các cân nhắc nội địa chỉ dẫn, các nước ngoại vi có ít quyền kiểm soát tới số phận riêng của mình.
Sự thực, các đồng tiền chủ yếu biến động so với nhau cũng là một nguồn bất ổn định. Sự thay đổi lãi suất và tỉ giá hối đoái đánh vào các nước phụ thuộc như các cú sốc bên ngoài, dù cho trong thực tế, nó là nội sinh đối với hệ thống. Khủng hoảng nợ quốc tế 1982 đã được đẩy nhanh bởi sự tăng mạnh lãi suất nội địa ở Hoa Kì; khủng hoảng Á Châu 1997 gắn với sự lên giá đôla Mĩ. Năm 2000, đồng euro yếu gây căng thẳng.
Sự cách biệt giữa trung tâm và ngoại vi không giới hạn ở hệ thống tài chính toàn cầu; nó đã cũng hiện diện trong Cơ chế Tỉ giá hối đoái Âu Châu (ERM). Bundesbank đóng vai trò kép: Theo hiến pháp Đức, nó có bổn phận duy trì giá trị đồng mark Đức, và đồng thời nó
de facto là trọng tài của chính sách tiền tệ cho hệ thống tiền tệ Âu Châu. Hai vai trò trở nên mâu thuẫn sau khi thống nhất nước Đức. Những cân nhắc nội địa đòi chính sách tiền tệ chặt; tình hình kinh tế của phần còn lại của Châu Âu đòi hỏi điều ngược lại. Không ngạc nhiên khi các cân nhắc nội địa thắng thế, và ERM sụp đổ năm 1992.
Hai bất đối xứng này - giữa người cho vay và người đi vay và giữa trung tâm và ngoại vi - là các nguồn căn bản - song không duy nhất - của bất ổn định trong hệ thống tài chính quốc tế. Các khoản đầu tư chứng khoán cũng khét tiếng bất ổn định. Về mặt lịch sử, các khoản đầu tư ở nước ngoài thường xuất hiện ở các giai đoạn cao của các thị trường giá lên, khi các cổ phiếu nội địa được đánh giá quá cao và được lợi dụng quá mức, và các nhà đầu tư trở nên phiêu lưu hơn. Sự quan tâm đột ngột đến một thị trường nước ngoài sẽ đẩy giá ở đó lên đến đỉnh, cuối cùng sẽ rớt cũng nhanh như thế, khi thị trường giá lên nội địa chấm dứt và các nhà đầu tư lo lắng để rút tiền về. Đây là lĩnh vực chuyên môn khởi đầu của tôi, và tôi đã trải qua nhiều tình tiết như vậy. Tình hình từ đó đã thay đổi. Đầu tư ở nước ngoài không còn là hoạt động thi thoảng mà đúng hơn đã trở thành kế sinh nhai của các nhà đầu tư định chế. Mặc dù nhịp độ cá biệt của đầu tư nước ngoài mà tôi đã quen có thể đã lỗi thời, sẽ ngu xuẩn để nghĩ rằng các thị trường cổ phiếu không còn dễ bị tổn thương với bất cân bằng động. Trong thời kì bất trắc, vốn có xu hướng quay về chỗ ban đầu của nó. Đó là lí do khác nữa, vì sao, các nhiễu loạn thường có ảnh hưởng lớn không cân xứng ở ngoại vi so với trung tâm. Thường một nhiễu loạn nhỏ ở trung tâm bị phóng đại lên thành một khủng hoảng ở ngoại vi. Khủng hoảng tài chính 1997-1999 là khác thường, thậm chí độc nhất, ở khía cạnh này vì xung đã không đến từ trung tâm.
Bất chấp tính bất đối xứng và không ổn định của nó - hay đúng hơn vì nó - hệ thống tư bản toàn cầu biểu hiện sự cố kết đáng kể. Ở ngoại vi có những bất lợi của nó, song không tham gia không phải là một lựa chọn khả dĩ. Sự cô lập có thể tước mất của các nước nghèo không chỉ vốn mà cả đổi mới công nghệ nữa.
Đặt chủ đề vào viễn cảnh, hệ thống tư bản toàn cầu đã mang lại lợi ích vật chất to lớn. Người ta ước lượng rằng toàn cầu hoá làm tăng 1 phần trăm hàng năm cho nền kinh tế thế giới. Mặc dù các quân bài được sắp xếp có lợi cho trung tâm, các nước ngoại vi có khả năng thu hút vốn cũng đã thịnh vượng. Khủng hoảng 1997-1999 giáng xuống Châu Á sau một thời kì tăng trưởng bùng nổ, và sự phục hồi đã nhanh hơn có thể kì vọng. Cho nên cùng với tính cố kết của nó, hệ thống cũng chứng tỏ khả năng hồi phục mau đáng kể, đối trọng lại với mặt tiêu cực của nó về bất đối xứng và bất ổn định.
Tương lai của hệ thống tư bản toàn cầu
Có thể nói gì về tương lai của hệ thống tư bản toàn cầu? Lịch sử cho các manh mối nào đó. Đây không phải là lần đầu vốn (tư bản) chảy tự do. Theo cách nào đó, phiên bản thế kỉ mười chín của chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã ổn định hơn. Nó đã có một đồng tiền duy nhất – vàng - trong khi ngày nay có ba đồng tiền chính - dollar, yen, và euro - xô đẩy nhau như các địa tầng. Lúc đó các cường quốc đế quốc, Anh đứng đầu trong số họ - đã kiếm đủ lợi từ hệ thống để biện minh cho việc phái các pháo hạm đến các vùng xa xôi để duy trì hoà bình và thu nợ; ngày nay Hoa Kì từ chối là cảnh sát thế giới. Quan trọng nhất, người dân đã bắt rễ chắc vào các giá trị căn bản hơn ngày nay. Thực tại vẫn đã được coi là cái gì đó ở bên ngoài, và tư duy vẫn được coi là công cụ thể đạt tới tri thức. Đúng và sai, thật và giả đã được coi là các tiêu chuẩn khách quan mà người dân phụ thuộc vào. Khoa học đã cho các giải thích và tiên đoán tất định. Cứ cho là như vậy, đã có các mâu thuẫn giữa các đơn thuốc của khoa học và tôn giáo, nhưng cùng nhau, chúng đã cho một sự chỉ dẫn đáng tin cậy cho thế giới. Chúng đã tạo ra một nền văn minh đã chế ngự thế giới bất chấp các mâu thuẫn nội tại của nó.
Hệ thống tư bản toàn cầu này đã chấm dứt do Chiến tranh Thế giới I. Đã có một số khủng hoảng tài chính trước cuộc chiến đó, trong số đó, vài cuộc khủng hoảng tài chính đã rất gay gắt, gây ra trục trặc và suy giảm kinh tế nhiều năm trời. Tuy nhiên, không phải các cuộc khủng hoảng kinh tế đã huỷ diệt hệ thống mà là chiến tranh và các cuộc cách mạng chính trị sau đó.
Một kiếp khác của chủ nghĩa tư bản quốc tế tiếp theo trong các năm 1920, mặc dù nó không đúng là toàn cầu về qui mô. Nó sụp đổ năm 1929, nhưng tôi nghi ngờ là một tình tiết tương tự sẽ tái diễn, vì để cho hệ thống ngân hàng Hoa Kì sụp đổ đã là một sai lầm chính trị mà chúng ta chắc sẽ không mắc lại. Tuy nhiên, tôi thấy bất ổn định trước mặt.
Boom-Bust
Tôi miễn cưỡng áp dụng mô hình
boom-bust với hệ thống tư bản toàn cầu vì tôi coi hệ thống quá bỏ ngỏ và chưa đầy đủ để khớp với hình mẫu. Hầu như chống lại đánh giá tốt hơn của tôi - không nên diễn giải mọi thứ như một hiện tượng
boom-bust- tôi có thể nhận ra các yếu tố của hình mẫu
boom-bust: Một xu thế thịnh hành - cụ thể là, cạnh tranh quốc tế vì vốn; và một thiên kiến thịnh hành - cụ thể là, quá tin vào cơ chế thị trường. Trong
boom, cả thiên kiến và xu thế tăng cường lẫn nhau; trong
bust, cả hai sẽ tan vỡ. Cái gì gây ra
bust? Tôi tin câu trả lời được tìm thấy ở sự căng thẳng giữa phạm vi toàn cầu của các thị trường tài chính và phạm vi quốc gia của chính trị. Trước tôi đã mô tả hệ thống tư bản toàn cầu như một hệ tuần hoàn khổng lồ hút vốn về trung tâm và đẩy nó ra ngoại vi. Các quốc gia có chủ quyền hoạt động như các van trong hệ thống. Khi các thị trường tài chính mở rộng, các van mở, nhưng nếu và khi dòng tiền vốn đảo ngược chúng có thể đóng, gây ra sự đổ vỡ hệ thống. Theo giả thuyết này, tôi sẽ khảo sát hệ tư tưởng thịnh hành đầu tiên, thứ đến là xu thế thịnh hành.
Thuyết thị trường chính thống
Hệ thống tư bản toàn cầu được một ý thức hệ bén rễ vào lí thuyết cạnh tranh hoàn hảo ủng hộ. Theo lí thuyết này, các thị trường có xu hướng tới cân bằng, vì vị trí cân bằng đại diện cho sự phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất. Bất kể ràng buộc nào lên cạnh tranh tự do đều gây trở ngại cho tính hiệu quả của thị trường; vì vậy phải phản đối chúng. Hệ tư tưởng này đã được gọi là “
laissez-faire” ở thế kỉ mười chín, nhưng tôi đã tìm ra thuật ngữ tốt hơn cho nó: “thuyết thị trường chính thống”. Thuyết chính thống hàm ý: Niềm tin được thực hiện đến cực đoan. Chính là niềm tin vào sự hoàn hảo, niềm tin cung cấp một giải pháp cho mỗi vấn đề. Nó thừa nhận một uy quyền được phú cho tri thức hoàn hảo, cho dù là tri thức như vậy, những người bình thường không dễ tiếp cận được. Tôn giáo có thể là một uy quyền như vậy, và trong thời hiện đại, khoa học trở thành cái thay thế đáng tin cậy. Chủ nghĩa Marx tự cho là có cơ sở khoa học, và thuyết thị trường chính thống cũng vậy. Cơ sở khoa học cho cả hai ý thức hệ được xác lập ở thế kỉ mười chín, khi khoa học vẫn hứa hẹn cung cấp chân lí cuối cùng. Chúng ta đã học được rất nhiều kể từ đó về các hạn chế của phương pháp khoa học và những bất hoàn hảo của cơ chế thị trường. Các hệ tư tưởng Marxist và
laissez-faire đã bị mất uy tín hoàn toàn. Hệ tư tưởng
laissez-faire là cái đầu tiên bị gạt bỏ, như hậu quả của Đại Suy thoái và sự nổi lên của kinh tế học Keynes. Chủ nghĩa Marx nấn ná bất chấp thái quá của chủ nghĩa Stalin, nhưng tiếp theo sự sụp đổ của hệ thống Soviet, bây giờ, nó gần lu mờ hoàn toàn.
Vào những ngày sinh viên của tôi đầu các năm 1950,
laissez-faire đã thậm chí không được chấp nhận bằng sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế ngày nay. Ý tưởng nó xuất hiện lại đã hình như không thể hình dung nổi. Tôi tin sự hồi sinh của thuyết thị trường chính thống có thể được giải thích chỉ bằng niềm tin vào ma thuật, cái thậm chí còn thuyết phục hơn cơ sở khoa học. Tổng thống Reagan đã nói về “ma thuật của thương trường” - bàn tay vô hình là ma thuật hùng mạnh thật sự.
Nét chủ chốt của bất kể niềm tin chính thống nào đều dựa vào các đánh giá trắng-đen, hoặc-hoặc. Nếu một định đề hay chính sách là sai, cái ngược lại phải đúng. Logic
non sequiter [1] này nằm ở tâm của cả Chủ nghĩa Marx và thuyết thị trường chính thống. Chủ nghĩa Marx cho rằng quyền sở hữu tư nhân về vốn là bất công và không thể dung thứ; nên phải thay bằng sở hữu nhà nước. Thuyết thị trường chính thống cho rằng can thiệp nhà nước là phi hiệu quả và có hại; vì vậy không được để bất kể cái gì can thiệp vào cơ chế thị trường. Đúng là, can thiệp nhà nước vào nền kinh tế đã luôn tạo ra các kết quả tiêu cực nào đó. Điều này đúng không chỉ với kế hoạch hoá tập trung mà cả với nhà nước phúc lợi và quản lí cầu của Keynes. Từ quan sát tầm thường này, các nhà theo thuyết thị trường chính thống vội kết luận rằng thị trường tự do phải hoàn hảo.
Công bằng mà nói, lí lẽ ủng hộ các thị trường không bị điều tiết hiếm khi được trình bày một cách thô tục như vậy. Ngược lại, những người như Milton Friedman đã tích cóp hàng tập số liệu thống kê, và các lí thuyết gia về kì vọng duy lí đã sử dụng toán học bí ẩn mà người thường khó theo nổi. Các mô hình tinh vi đã được phát triển để qui sự thiếu các điều kiện hoàn hảo - cụ thể là, cân bằng tối đa hoá phúc lợi - cho thông tin không hoàn hảo hay bất đối xứng. Hầu hết, song không phải tất cả các mô hình này được dùng để xác lập các điều kiện cân bằng. Nó làm tôi nhớ đến các thảo luận thần học thời Trung cổ về số các thần tiên nhảy múa trên đầu một chiếc kim.
Thuyết thị trường chính thống đóng một vai trò mấu chốt trong hệ thống tư bản toàn cầu. Nó cung cấp hệ tư tưởng thúc đẩy nhiều người tham gia thành công và phát động chính sách. Thiếu nó, chúng ta có thể không được biện minh để nói về một hệ thống tư bản toàn cầu. Thuyết thị trường chính thống trở nên chế ngự chính sách vào khoảng 1980, với sự nổi lên của Reagan và Thatcher. Xu thế thịnh hành - cạnh tranh quốc tế vì vốn - đã bắt đầu sớm hơn, với hai khủng hoảng dầu ở các năm 1970 và sự thiết lập các thị trường hải ngoại về các đồng tiền Euro
[2] , nhưng chỉ sau khi những thay đổi chính trị do Thatcher và Reagan đưa ra thì vốn - và tài kinh doanh (
entrepreneurship) - mới chiếm ưu thế. Thiên kiến và xu hướng đã tăng cường lẫn nhau kể từ đó.
Chiến thắng của chủ nghĩa tư bản [3] Cạnh tranh toàn cầu vì vốn đã cho vốn tài chính ưu thế. Các nước riêng lẻ phải cạnh tranh để thu hút và giữ nó. Xu hướng được Hoa Kì tăng cường, nó sử dụng áp lực chính trị để mở các thị trường vốn.
Ở Hoa Kì, các công ti có cổ phiếu bán công khai ngày càng tăng về số lượng và qui mô, và lợi ích của cổ đông hiện ra càng lớn hơn. Các ban quản lí cũng quan tâm nhiều đến thị trường cho cổ phiếu của họ hệt như thị trường cho sản phẩm của họ. Nếu phải lựa chọn, các tín hiệu từ các thị trường tài chính có ưu tiên hơn tín hiệu từ các thị trường sản phẩm: Họ sẽ sẵn sàng gạt bỏ các bộ phận hoặc bán cả công ti nếu nó làm tăng giá trị của cổ đông. Các công ti phải, hoặc đi thôn tính, hoặc bị thôn tính trong một thị trường toàn cầu ngày càng hội nhập hơn; cả hai cách, ban quản lí cần giá cao cho cổ phiếu của họ. Các phần thưởng cá nhân cũng ngày càng gắn với giá cổ phiếu. Sự thay đổi nổi bật nhất trong khu vực ngân hàng, ngành trải qua sự hợp nhất nhanh chóng. Cổ phiếu ngân hàng được bán ở mức nhiều lần cao hơn giá trị sổ sách, nhưng các nhà quản lí, lưu tâm đến quyền chọn cổ phiếu của mình, tiếp tục mua lại cổ phần, làm giảm số cổ phần chưa đến hạn thanh toán và làm tăng giá trị thị trường của chúng bất kể khi nào có thể.
Sát nhập và thôn tính đạt mức chưa từng có khi các ngành hợp nhất trên cơ sở toàn cầu. Các giao dịch giữa các nước phổ biến hơn. Việc thiết lập một đồng tiền duy nhất ở Châu Âu đã tạo sự thúc đẩy to lớn cho việc hợp nhất khắp Châu Âu. Và sự sắp xếp lại các công ti xảy ra nhanh hơn ta có thể hình dung. Các độc quyền và độc quyền nhóm toàn cầu đang nổi lên (Microsoft và Intel là các thí dụ sớm). Chỉ còn bốn công ti kiểm toán chính trên thế giới; sự tập trung tương tự nhưng ít rõ rệt hơn đang xảy ra trong các chức năng tài chính khác.
Đồng thời, số các cổ đông tăng lên, và tầm quan trọng tương đối của sở hữu cổ phần trong của cải của hộ gia đình tăng nhanh. Điều này xảy ra dựa trên cơ sở tăng bền vững và nhanh về giá vốn cổ phần. Trước tháng Tám 1998, đợt sụp giá lớn lần cuối trong thị trường giá lên khởi đầu vào đầu các năm 1980 đã xảy ra năm 1987, và chỉ số Standard and Poor (S&P) đã tăng hơn 350 phần trăm kể từ đó. Ở Đức, thị trường đã tăng 300 phần trăm từ tháng Chín 1992.
[4] Tăng trưởng về hoạt động kinh tế khiêm tốn hơn nhưng bền vững. Chú tâm vào tính sinh lời đã dẫn đến giảm số người làm và tăng sản lượng đầu ra trên mỗi nhân viên, trong khi tiến bộ nhanh về công nghệ đóng góp vào tăng năng suất. Toàn cầu hoá và lợi dụng các nguồn lao động rẻ đã giữ chi phí sản xuất thấp, và lãi suất, cân đối lại, chứng tỏ một xu hướng giảm từ đầu các năm 1980 góp phần làm tăng giá vốn cổ phần.
Sự phổ biến của sở hữu cổ phiếu qua các quỹ đầu tư tín thác đã gây ra hai nguồn bất ổn định tiềm tàng, đặc biệt ở Hoa Kì. Nguồn thứ nhất gọi là hiệu ứng giàu có (
wealth effect). Ba mươi tám phần trăm của cải của hộ gia đình và 56 phần trăm của các quỹ hưu trí được đầu tư vào cổ phiếu. Các chủ cổ phiếu có lợi nhuận trên giấy lớn, họ cảm thấy giàu có, và thiên hướng tiết kiệm của họ giảm đến điểm biến mất. Tiết kiệm cá nhân tính bằng phần trăm của thu nhập khả dụng bây giờ đã giảm xuống còn 0,1 phần trăm từ đỉnh 13 phần trăm năm 1975. Nếu có sự giảm sút kéo dài trong thị trường cổ phiếu, cảm tính của các cổ đông có thể đảo ngược, góp phần vào suy thoái và tăng cường sự sụt giảm thị trường.
Nguồn bất ổn tiềm tàng khác là từ các quỹ đầu tư tín thác (quỹ tương tế). Các nhà quản lí quỹ được đánh giá trên cơ sở thành tích của họ so tương đối với các nhà quản lí quỹ khác, không trên cơ sở thành tích tuyệt đối. Điều này nghe như một điểm bí ẩn, nhưng nó có các hệ luỵ lớn, vì thực tiễn, nó buộc các nhà quản lí quỹ ứng xử theo xu hướng. Chừng nào họ còn theo kịp bầy đàn, không có tổn hại nào đến với họ ngay cho dù các nhà đầu tư có mất tiền; nhưng nếu họ thử chống lại xu hướng và thành tích tương đối của họ gây thiệt hại ngay dù chỉ tạm thời, họ có thể mất việc làm. (Đây chính là cái đã xẩy ra với Jeff Vinik, nhà quản lí của quỹ lớn nhất của Fidelity. Từ đó bản thân ông đã rất thành công, nhận phí thành công trên cơ sở thành tích tuyệt đối). Đến mùa thu năm 1998, các quỹ đầu tư tín thác, do đã quen với dòng tiền mặt mới chảy vào liên tục, đã giữ dự trữ tiền mặt thấp nhất từ trước đến giờ. Nếu xu thế đổi hướng, họ buộc phải huy động tiền mặt, lại lần nữa làm tăng áp lực theo chiều xuống.
Dù điều này có thể đáng lo đến đâu, các nguồn bất ổn chủ yếu được thấy trong vũ đài quốc tế. Hệ thống tư bản toàn cầu đang trải qua thử thách khắc nghiệt nhất của sự tồn tại của nó: Khủng hoảng Á Châu và hậu quả của nó. Kiểm tra tạo thành giai đoạn thứ ba trong hình mẫu
boom-bust. Như trong mọi chuỗi
boom-bust, nó không thể được tiên đoán với sự chắc chắn liệu một xu hướng có qua được thử thách thành công hay đảo ngược đột ngột. Hữu ích hơn là đưa ra các kịch bản khả dĩ cho thử thách thành công hay thất bại.
Nếu hệ thống tư bản toàn cầu vượt qua được giai đoạn thử thách hiện thời, tiếp theo giai đoạn này sẽ là một đợt tăng tốc nữa, điều sẽ kéo hệ thống vào địa hạt xa cân bằng (thực ra nếu chúng ta chưa ở đó rồi). Một trong các đặc điểm của hình thức mới, và cực đoan hơn của chủ nghĩa tư bản toàn cầu sẽ là sự loại bỏ một lựa chọn khả dĩ hợp lí đối với tư tưởng thị trường tự do mới nổi lên gần đây: cái gọi là mô hình Á Châu, hay Khổng giáo. Như kết quả của khủng hoảng hiện thời, các nhà tư bản Hoa Kiều và Hàn Kiều mà của cải của họ bị tổn hại nghiêm trọng sẽ phải từ bỏ sự kiểm soát gia đình. Những người sẵn lòng làm vậy sẽ sống sót về mặt kinh tế; những người khác chắc sẽ diệt vong. Khủng hoảng cũng làm trầm trọng thêm tình hình của các công ti mắc nợ nhiều ở tất cả các nước Á Châu. Các công ti có nợ nước ngoài thấy các tỉ lệ nợ-trên-vốn cổ phần của mình xấu đi; các công ti có nợ trong nước bị giáng bởi sự kết hợp của lãi suất tăng và thu nhập giảm. Cách thoát duy nhất là chuyển nợ thành vốn cổ phần hoặc huy động thêm vốn cổ phần. Điều này gia đình không thể làm được; nội bộ trong nước thường cũng không thể làm được. Không có cách lựa chọn nào khác hơn là bán cho người nước ngoài.
Kết quả thuần sẽ là chấm hết cho mô hình Á Châu và bắt đầu của một thời đại mới, trong đó, các nước ngoại vi sẽ hội nhập mật thiết hơn vào hệ thống tư bản toàn cầu. Các ngân hàng quốc tế và công ti đa quốc gia sẽ có vị trí vững mạnh. Trong các công ti địa phương, một thế hệ mới của các thành viên gia đình hay nhà quản lí chuyên nghiệp được đào tạo ở nước ngoài sẽ giữ địa vị lãnh đạo. Động cơ lợi nhuận có địa vị cao hơn đạo đức Khổng giáo, và thiên kiến theo thuyết thị trường chính thống sẽ được tăng cường. Một số nước, như Malaysia, có thể vấp ngã nếu cố chấp với các chính sách bài ngoại và phản thị trường, còn các nước khác sẽ thành công.
[5] Cho nên, nếu hệ thống tư bản toàn cầu nổi lên thắng lợi từ cuộc khủng hoảng hiện thời, có thể dự kiến rằng nền kinh tế thế giới sẽ bị thống trị, thậm chí còn hơn nữa bởi các công ti quốc tế do công chúng sở hữu. Cạnh tranh khốc liệt sẽ không cho phép họ để ý nhiều đến những cân nhắc xã hội. Họ sẽ, tất nhiên, ủng hộ suông các sự nghiệp đáng kính trọng như môi trường, đặc biệt nếu họ phải giao thiệp trực tiếp với công chúng, nhưng họ sẽ không có đủ khả năng để duy trì công ăn việc làm nếu tổn hại đến lợi nhuận.
Tuy nhiên, rất có thể là hệ thống tư bản toàn cầu sẽ không qua nổi khủng hoảng hiện thời. Các đám mây bão tố đang tụ tập ở chân trời chính trị, cho dù là tác động ban đầu của khủng hoảng tăng cường dân chủ. Các chế độ tham nhũng và chuyên quyền đã bị lật đổ ở vài nước. Hàn quốc may đã lựa chọn được một tổng thống mới, Kim Dae Jung, người từ lâu đã là một người phê phán thẳng thừng mối quan hệ loạn luân giữa chính phủ và giới kinh doanh. Thủ tướng hiện thời của Thái Lan được mến mộ chung vì tính chân thật của ông, và được vây quanh bởi một nội các được giáo dục ở Phương Tây và ủng hộ thị trường. Ở Indonesia, Suharto bị cách mạng lật đổ. Chỉ Mahathir ở Malaysia là thành công giữ quyền lực cho mình và chiến hữu bằng cách kiểm soát vốn. Nhưng sụt giảm kinh tế vẫn chưa diễn biến hết, và những căng thẳng chính trị tăng lên. Ở Trung Quốc, những người cải cách kinh tế đứng đầu, nhưng có mối hiểm nguy thật là nếu các điều kiện kinh tế tiếp tục xấu đi, những người cải cách sẽ thua những người cứng rắn. Sự oán giận chống Mĩ, chống IMF, chống nước ngoài đang tích tụ ở khắp Châu Á - kể cả Nhật Bản. Bầu cử ở Indonesia có thể tạo ra một chính phủ hồi giáo, dân tộc chủ nghĩa lấy cảm hứng từ các ý tưởng của Mahathir.
[6] Cái diễn ra ở trung tâm sẽ có tính quyết định. Cho đến mới đây, rắc rối ở ngoại vi đã mang lợi cho trung tâm. Nó đã làm mất tác dụng của áp lực lạm phát chớm nở, khiến các nhà chức trách tiền tệ không tăng lãi suất, và đã cho phép các thị trường cổ phiếu đạt các đỉnh cao mới. Nhưng các tác động tích cực của khủng hoảng Á Châu bắt đầu mòn đi, và các tác động tiêu cực bắt đầu nổi lên. Biên lợi nhuận chịu áp lực tăng lên. Một số công ti bị ảnh hưởng trực tiếp bởi giảm cầu hoặc cạnh tranh khốc liệt hơn từ nước ngoài; ngành dịch vụ không bị ảnh hưởng trực tiếp của cạnh tranh quốc tế thấy ảnh hưởng của việc tăng chi phí nhân công.
Boom thị trường cổ phiếu Hoa Kì cũng đã kết thúc.
[7] Nếu thị trường sa sút, hiệu ứng giàu có có thể chuyển sa sút thị trường thành sa sút kinh tế. Điều đó có thể làm tăng chống đối nhập khẩu, sự kiện này, đến lượt nó kích động sự oán nghét ở ngoại vi.
Kể từ khi nổ ra khủng hoảng Á Châu, vốn đã chảy khỏi ngoại vi. Nếu các nước ngoại vi từ bỏ hi vọng rằng dòng chảy sẽ lại tiếp tục, họ có thể bắt đầu dùng chủ quyền để ngăn dòng chảy ra. Điều đó sẽ khiến các nhà đầu tư nước ngoài bỏ chạy khỏi các nước khác trong khi họ có thể, và hệ thống sẽ sụp đổ. Hoa Kì cũng ngày càng nhìn hướng nội. Sự từ chối của Quốc hội cấp thêm tiền cho IMF ngày nay có thể đóng cùng vai trò như thuế quan bảo hộ Smoot-Hawley đã đóng trong Đại Suy thoái.
[8] Trong hai kịch bản, cái nào chắc sẽ xảy ra? Như một người tham gia thị trường, tôi phải duy trì đầu óc thoáng, mở. Tôi không hề do dự, tuy vậy, trong khẳng định rằng hệ thống tư bản toàn cầu sẽ không chịu nổi các sai sót của nó, nếu không phải dịp này thì ở dịp tiếp theo - trừ phi chúng ta nhận ra rằng nó có sai sót và hành động kịp thời để sửa chữa các thiếu sót.
Tôi bắt đầu có thể thấy rõ những đường nét của cuộc khủng hoảng cuối cùng. Nó mang đặc tính chính trị. Các phong trào chính trị bản xứ, chắc sẽ nảy sinh, tìm cách tước đoạt các công ti đa quốc gia và đoạt lại của cải quốc gia. Một số trong số đó có thể thành công theo kiểu của Phiến loạn Nghĩa hoà đoàn ở Trung Quốc hay Cách mạng Zapatista ở Mexico. Thành công của họ, khi đó, có thể làm lung lay sự tin tưởng của các thị trường tài chính, gây ra một quá trình tự tăng cường ở chiều sa sút. Liệu nó có xảy ra dịp này hay dịp tiếp theo còn là một câu hỏi để ngỏ.
Chừng nào một quá trình
boom-bust vượt qua thử thách, nó sẽ được tăng cường. Thử thách càng nghiêm ngặt, sự tăng cường càng mạnh. Sau mỗi thử thách thành công thì đến giai đoạn tăng tốc; sau một giai đoạn tăng tốc đến giờ phút quyết định. Chính xác, chúng ta ở đâu trong chuỗi này là không thể xác định được, trừ khi nhìn lại.
Tái bút phê phán
Văn bản này được viết mùa thu năm 1998. Nền kinh tế toàn cầu đã vượt qua sóng gió tốt hơn nhiều so với tôi dự kiến. Nhìn lại từ khung cảnh của năm 2000, chúng ta thấy khủng hoảng tài chính 1997-1999 như một cú vấp nhỏ trong cuộc hành quân chiến thắng của chủ nghĩa tư bản. Nếu tôi muốn trung thành với cách tiếp cận
boom-bust của mình, tôi có thể nói rằng hệ thống tư bản toàn cầu đã trải qua một thử thách gay gắt, do đó, củng cố thiên kiến theo thuyết thị trường chính thống. Nhưng tôi sẽ lí luận ở Chương 10 rằng: Sự tin cậy được tôn lên vào kỉ luật thị trường đã làm yếu kiến trúc tài chính toàn cầu cho thử thách tiếp theo.
Tôi cảm thấy, tuy vậy, buộc phải chỉ ra một sai sót trong phân tích riêng của tôi. Tôi đã tập trung vào vai trò của vốn, đặc biệt là vốn tài chính, và đã không coi trọng đủ các lợi ích của tài kinh doanh (
entrepreneurship). Đây là một sự bỏ sót nghiêm trọng. Tôi đã nhiếc móc lí thuyết kinh tế vì đã bén rễ vào quá khứ, và tôi lại rơi vào đúng bẫy đó.
Tranh luận giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội có xuất xứ của nó ở thế kỉ mười chín, và như vậy nó bị ảnh hưởng của các khái niệm kinh tế của thế kỉ mười chín. Chính thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản” được dẫn ra từ sự phân chia các yếu tố sản xuất thành lao động, đất đai, và vốn. Tài kinh doanh là một khái niệm đến muộn hơn đối với sự phân chia này, khi được khám phá ra rằng: Giá trị của đầu ra không thể được dẫn từ các yếu tố sản xuất dùng để sản xuất ra nó; tài kinh doanh được đưa ra để tính đến sự khác biệt này. Cho nên, khi ta nói cho vốn “bàn tay tự do”, chúng ta thực ra nói về tài kinh doanh: theo đuổi lợi tức cao hơn cho vốn - lợi nhuận. Lợi nhuận là sản phẩm của tài kinh doanh hơn là của vốn. Thí dụ, với tư cách một nhà quản lí quỹ tự bảo hiểm, nhóm của tôi và tôi đầu tư tiền của người khác, và chúng tôi nhận được 20 phần trăm lợi nhuận. Cho nên, không có đồng xu nào để khởi động, tôi có thể trở thành một nhà tư bản.
Tài kinh doanh có thể làm tăng hiệu suất của vốn. Toàn cầu hoá, xoá bỏ các hạn chế của chính phủ, và cho động cơ lợi nhuận bàn tay tự do đã dẫn đến sự bùng nổ thực sự về năng suất. Làm sao tôi lại có thể bỏ qua điều đó? Tôi có thể lí luận rằng sự gia tốc trong nhịp độ đổi mới công nghệ đã chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng ngay cả khi đó, nó vẫn là một sự thực. Trong mọi trường hợp, như một người tin vào tính phản thân, tôi không muốn treo cái mũ của tôi vào cái móc đó. Có thể có yếu tố trùng hợp ngẫu nhiên; rốt cuộc, tăng năng suất liên hệ mật thiết với sự phát triển của nền kinh tế mạng, và Internet đã đạt khối lượng tới hạn trong vài năm vừa qua. Nhưng bản thân sự tăng trưởng bùng nổ của Internet là thắng lợi của động cơ lợi nhuận. Internet khởi đầu như một mạng nghiên cứu do chính phủ tài trợ mà người ta mắc vào, giống như những người chiếm đất mắc để lấy trộm điện. Chỉ khi nó bắt đầu được dùng cho thương mại và quảng cáo, nó mới trở thành một yếu tố quan trọng nuôi dưỡng năng suất, tăng trưởng kinh tế, và một
boom thị trường cổ phiếu.
[9] Những đổi mới công nghệ, mà thủ tục Internet chỉ là một trong số đó, cũng liên kết một cách phản thân với việc xoá bỏ độc quyền trong ngành điện thoại. Và sự thâm nhập của động cơ lợi nhuận vào nghiên cứu sinh học đã làm tăng tốc cách mạng công nghệ sinh học. Phải thừa nhận, rằng gỡ bỏ điều tiết và cho động cơ lợi nhuận uy quyền tự do có thể giải phóng các năng lực sáng tạo - giống như thả thần linh ra khỏi cái chai.
Đã là một lỗi nghiêm trọng khi không cho yếu tố này một trọng lượng lớn hơn. Nó lẽ ra phải là một phần không tách rời của phân tích
boom-bust của tôi. Tôi đã lí luận rằng sự sụp đổ tài chính ở ngoại vi đã cho các nước trung tâm một chỗ thở từ lúc bắt đầu lạm phát. Có một yếu tố đúng trong lí lẽ đó, và nó có trọng lượng lớn đối với các nhà chức trách tiền tệ. Nhưng nền kinh tế thế giới bây giờ đã phục hồi và lạm phát vẫn chưa ngoi cái đầu xấu xa của nó lên. Cục Dự trữ Liên bang thực tế thấy mình ở cùng vị trí như trước, khi cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1999 bắt đầu: Nó cảm thấy buộc phải tăng lãi suất, một phần để ngăn chặn áp lực lạm phát khỏi phát triển, nhưng chủ yếu để chặn trước một
bust cuối cùng ở thị trường cổ phiếu.
Như tôi đã chỉ ra trước đây, cái làm cho các thị trường tài chính là không thể tiên đoán được một cách cố hữu là quá trình
boom-bust dựa vào cái gì đó thực, và thực tại, cái tương tác với cảm nhận của những người tham gia, có hình thù mỗi lúc một khác. Nếu giả như các thị trường tài chính là một hệ thống khép kín, chúng có thể dễ tiên đoán hơn. Trong dịp này ảnh hưởng của những đổi mới công nghệ đã là thực và quan trọng, và tôi đã phạm một sai lầm nghiêm trọng khi bỏ nó ngoài phân tích của mình. Nó không làm thay đổi quan điểm của tôi là
boom thị trường cổ phiếu hẳn có thể kéo theo một
bust, và Cục Dự trữ Liên bang đã đúng để cố chặn trước nó. Làm sao để giữ những thái quá về việc đánh giá tài sản sao cho nằm trong các giới hạn có thể chịu được đã trở thành một phần sứ mạng của nó.
Nhưng tôi phải thay đổi lời tiên tri của tôi, liên quan đến cái chết cuối cùng của hệ thống tư bản chủ nghĩa. Tôi đã tiên đoán các lực lượng dân tộc chủ nghĩa sẽ tiến hành tước đoạt điên cuồng. Điều này ít có khả năng hơn nhiều khi đầu tư nước ngoài mang lại công nghệ tiên tiến so với khi đầu tư đã chỉ hướng chủ yếu tới khai thác tài nguyên thiên nhiên và công nghệ cần thiết cho sản xuất đã xác lập tốt. Dưới tình hình hiện thời, đơn giản không có lợi để không tham gia hệ thống. Điều đó không có nghĩa rằng một số nước nào đó sẽ không nỗ lực thử, nhưng nó đúng có nghĩa là xu thế chắc không lan rộng. Có thể có các nhà nước xỏ lá nào đó, nhưng chúng chắc không làm sụp đổ hệ thống tư bản chủ nghĩa. Kết thúc của hệ thống hiện tại không ở trong tầm nhìn. Có những mối nguy hiểm tế nhị hơn hiện ra lù lù, mà tôi sẽ khám phá sâu hơn ở ba chương cuối của cuốn sách.
[1]Chú thích của dịch giả : tiếng Latin: Lời nói (câu) không hợp.
[2]Chú thích của dịch giả : Eurocurrency: mọi loại tiền dùng ở nước ngoài đều gọi là tiền Euro, như đồng Yen dùng ở Mĩ cũng gọi là Euroyen; đừng lẫn với đồng euro là đồng tiền chung của các nước Châu Âu.
[3]Đoạn này được viết tháng Tám 1998, không được cập nhật để giữ tính chính xác lịch sử trừ chỗ được nói rõ.
[4]Giữa mùa thu 1998 và giữa tháng Ba 2000, chỉ số S&P tăng thêm 42 phần trăm, Nasdaq 238 phần trăm, và chỉ số DAX ở Đức 100 phần trăm.
[5]Khi xảy ra, Malaysia đã vượt qua cơn bão tốt hơn Indonesia và Thái Lan.
[6]Lại lần nữa, các sự kiện diễn ra khác đi. Indonesia đã bầu một giáo sĩ hồi giáo, Abdurraman Wahid, làm tổng thống, một người tin chắc vào xã hội mở. Ở Trung Quốc, các nhà cải cách lấy lại được ảnh hưởng sau đợt giải lao không vững, mặc dù chủ nghĩa dân tộc thậm chí đã trở nên vững vàng hơn như hệ tư tưởng thay thế cho chủ nghĩa cộng sản.
[7]Tôi chẳng cần chỉ ra rằng kết luận này là hấp tấp.
[8]Trong khi kịch bản thảm khốc này bị sự kiện bác bỏ, tôi coi những phát triển ở IMF như một nguồn rắc rối của tương lai (xem Chương 10).
[9]Tôi phải thú nhận một thiên kiến liên quan đến Internet cái rốt cuộc là sự mù quáng. Tôi đã biết về Internet trước khi nó sinh ra vì tôi đã là một nhà đầu tư trong Bolt, Beranek and Newman công ti thiết kế mạng tiền thân của nó, mạng Arpanet, vào cuối các năm 1970. Tôi đã thấy tiềm năng của công nghệ Internet như công cụ để thúc đẩy xã hội mở, và tôi đã chi hàng chục triệu đôla để đưa nó vào Liên Xô trước đây; tuy thế tôi không đầu tư vào nó ở các giai đoạn đầu khi nó đi vào thương mại.