|
Giám đốc CIA thời kỳ sau chiến tranh lạnh James Woolsey. |
Hiếm khi có những biến động toàn cầu phá vỡ những mẫu hình chính trị quốc tế. Một thay đổi như vậy đã xảy ra từ năm 1989 đến 1991 khi bức tường Berlin sụp đổ và Liên Xô tan rã. Cuộc đối đầu trong chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, diễn ra gay gắt kể từ khi kết thúc Thế chiến II, đã chấm dứt không như mong đợi.Trên đây là dẫn nhập tiểu luận của Loch K.Johnson, giáo sư khoa học chính trị, trường đại học Georgia, về số phận và hoạt động của Cơ quan tình báo trung ương Mỹ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Từng có thời điểm CIA được cho là nên giải tán, hoặc chỉ nhận được ít tiền thôi, nhưng cũng có ý kiến cho là cơ quan tình báo sẽ có vô khối việc để làm khi đối thủ lớn nhất đã tan rã. Những phần sau đây trích trong cuốn "Chính sách đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh lạnh", do James M. Lindsay* và Randall B. Ripley* biên soạn, nhà xuất bản Sự thật ấn hành. Biến động đó có tác động như thế nào đối với Cơ quan Tình báo trung ương Hoa Kỳ (CIA), một bộ máy viên chức bí mật chuyên hoạt động gián điệp và tiến hành chiến tranh bí mật chống Liên Xô trong suốt thời gian chiến tranh lạnh. Các bộ máy viên chức về chính sách đối ngoại đã phản ứng như thế nào trước một sự thay đổi đầy kịch tính trong tình hình thế giới? Loại thay đổi nào, nếu có, sẽ diễn ra trong một bộ máy tình báo bí mật khi kẻ thù bên ngoài chủ yếu của nó đột ngột biến mất?
Những động lực của sự thay đổi
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, Hoa Kỳ đối mặt với một hình thái mới của các mối đe doạ. Trong mọt số trường hợp, các mối đe doạ thực sự đã tồn tạitrong một thời gian, nhưng bây giờ chúng đã nổi bật rõ nét khi việc Liên Xô biến mất cho phép các quan chức phụ trách về chính sách tại Washington hướng sự chú ý của họ vào phần còn lại của thế giới. Tìm hiểu những ý đồ của nước Nga đang có một kho vũ khí chiến lược lớn vẫn tiếp tục là mối quan tâm có ưu tiên cao. Có thêm những hiểm hoạ, trước mắt hay tiềm tàng, đòi hỏi sự chú ý bao gồm việc phổ biến các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt; một loạt các quốc gia bất hảo trong đó có Haiti, Iraq và Bắc Triều Tiên; nạn buôn bán và vận chuyển ma tuý đang phát triển; nhiều tổ chức khủng bố mà đứng đầu danh sách là các nhóm Hồi giáo cực đoan Hamas và Hezbolah; sự lan truyền các phần tử tội phạm quốc tế hoạt động trên khắp các nước cộng hoà thuộc Liên Xô (cũ) và những nơi khác; sự bùng nổ các cuộc chiến tranh sắc tộc đe doạ các lợi ích an ninh và nhân đạo của Hoa Kỳ, đặc biệt cấp bách là tại Bankans (Jonhson 1992 - 1993).
Trong bối cảnh thế giới đó, những quan chức hoạch định chính sách yêu cầu những người quản lý CIA cung cấp nhiều thông tin và phân tích hơn là trong thời kỳ chiến tranh lạnh, một tình hình mà CIA và 12 cơ quan đồng sự của nó nhìn với thái độ lưỡng lự. Một mặt, hàng loạt yêu cầu mới có thể là quá tải đối với các khả năng tình báo có giới hạn của Hoa Kỳ; mặt khác, những nhiệm vụ mới hiện nay cũng có nghĩa là hợp pháp hoá các cơ quan tình báo, trong khi mỗi cơ quan đều rất quan tâm đến ngân sách tài trợ và lý do tồn tại của mình vào lúc sự đe doạ của Liên xô đã lùi vào lịch sử.
Hơn nữa, vào lúc chiến tranh lạnh kết thúc, các nhà chính trị ở Washington đã bắt đầu đề nghị cắt giảm chi tiêu của chính phủ do sự lo lắng phổ biến về thâm hụt ngân sách và các khoản nợ quốc gia ngày càng tăng đến mức báo động, một phần lớn là do các chi tiêu bừa bãi trong những năm 1980. Đây là thời kỳ cần thu nhỏ chính phủ lại – một triển vọng không thú vị đối với các cơ quan tình báo, đặc biệt là CIA đang bị chỉ trích là đã không đoán trước được sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản.
Hơn nữa, kể từ khi tiến hành những cuộc điều tra lớn về các cơ quan tình báo năm1975, Quốc hội ngày càng dính líu sâu vào chính sách tình báo và hiện nay đang có vị thế tốt để ảnh hưởng đến tương lai của CIA trong thời kỳ sau chủ nghĩa cộng sản. Nhà Trắng cũng là một nguồn ý kiến và quyền lực về vấn đề các cơ quan tình báo nên đi theo phương hướng nào. Bản thân các cơ quan này cũng vậy, mặc dù nhiều tài liệu bàn về các bộ máy viên chức đã gợi ý rằng bản năng tự nhiên của chúng ta sẽ chống lại bất cứ thay đổi nghiêm túc nào đối với cách làm quen thuộc của chúng (Rainey 1996; Rosati Hagan và Sampson 1994). Trong một nước dân chủ, bất kỳ sự tính toán nào, về thay đổi cũng không thể bỏ qua ảnh hưởng của các nhóm gây sức ép và các phương tiện truyền thông, một lực lượng có ảnh hưởng bên ngoài chính quyền mà chắc chắn sẽ phát biểu ý kiến về việc nên làm thế nào để “tái tạo” CIA.
Ở cấp độ từng cá nhân quan chức hoạch định chính sách, người ta có thể dự kiến những thay đổi trong hoạt động của CIA sẽ được định hình bởi Tổng thống và các cố vấn an ninh quốc gia hàng đầu của ông, Giám đốc CIA và các nhà giám sát trong Quốc hội (thường chỉ là một số ít) có quan tâm sâu sắc đến chính sách tình báo (Johnson 1980,1996). Đôi khi, vai trò lãnh đạo của những cá nhân có quyết tâm và có ảnh hưởng lại có thể tạo ra những thay đổi quan trọng về chính sách; chứng cớ về điều đó là vai trò của các Thượng nghị sĩ Barry Goldwater (Đảng Cộng hoà - bang Arizona) và Bill Nichols (Đảng Cộng hoà - bang Alabana) trong việc xây dựng đạo luật nổi tiếng năm 1986 về cải cách quân đội mang tên họ. Ngược lại, một quan chức ít lưu tâm đến một chính sách cụ thể có thể trở thành một cản trở đối với thay đổi thông qua việc thiếu sự lãnh đạo.
CIA đi về đâu?
Sau chiến tranh lạnh, CIA có khả năng sẽ đi về hướng nào vào lúc nó phải đối mặt với một môi trường quốc tế đã cơ bản thay đổi, một bối cảnh nội trị trong đó cắt giảm, thu nhỏ ngân sách chính phủ trở thành chuẩn mực, và hai tổng thống kế tiếp nhau lại có lý lịch khác nhau một cách đáng ngạc nhiên: George Bush là vị Tổng thống duy nhất đã từng làm Giám đốc CIA còn Bill Clinton là người chỉ quan tâm hời hợt đến chính sách đối ngoại và có kinh nghiệm hạn chế về lĩnh vực đó? Trong thời gian chuyển tiếp này đã có nhiều dự đoán, trong đó có bốn dự đoán nổi bật.
Dự đoán thứ nhất là CIA sẽ bị giải tán. Seymour Hersh, một nhà báo có ảnh hưởng, nêu chủ trương này và chỉ trích gay gắt hoạt động của CIA là vụng về, làm hỏng việc, hoàn toàn lạc lõng, nhiều khi sai, thậm chí làm cho chúng ta bị sai lầm một cách tai hại và sau khi kết thúc chiến tranh lạnh thì CIA không còn quan trọng nữa. Sự lên án của ông giống với ý kiến chỉ trích của Thượng nghị sĩ Daniel P. Moynihan (Đảng Dân chủ bang New York) người đã cho rằng Hoa Kỳ không còn cần cơ quan (the Agency) này nữa (đây là danh từ được dùng để gọi CIA trong nội bộ). Thượng nghị sĩ này đề nghị Bộ ngoại giao đảm nhiệm các vấn đề tình báo (Moynihan 1991).
Mặc dù kém bi thảm hơn, dự đoán thứ hai cho rằng ngân sách CIA sẽ bị giảm nhiều, ngang với các cắt giảm ngân sách mà Lầu Năm Góc có thể sẽ phải chịu, bởi vì bây giờ khi cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô đã chấm dứt, các quan chức hoạch định chính sách sẽ đi tìm những thuận lợi của hoà bình. Thực tế, chính quyền Clinton tìm cách tiết kiệm ngân sách từ mọi cơ quan chính phủ, vì đó là một phần lời hứa hẹn với cử tri trong cuộc tranh cử Tổng thống năm 1992. Bản kiểm điểm công tác quốc gia của Phó tổng thống Gore đề nghị giảm 12% tổng số nhân sự của các cơ quan chính phủ. Trong Quốc hội, người ta càng gào thét to hơn đòi giảm ngân sách liên bang khi những người thuộc Đảng Cộng hoà giành được đa số tại cả hai viện vào năm 1995 (lần đầu tiên trong 40 năm ).
Dự đoán thứ ba có ít tính đe doạ hơn theo quan điểm của CIA khi cho rằng chi tiêu về tình báo sẽ ỏ mức ngang với thời kỳ cuối chiến tranh lạnh. Nhiều người cho rằng bản chất của tiến trình xây dựng ngân sách ở Washington là tăng thêm từng bước, và mức tối thiểu của các cơ quan ít khi có nhiều thay đổi qua các năm ngay cả khi tình hình chính trị quốc tế có sự thay đổi đột xuất. Theo cách nhìn đó, địa vị mới của Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất đang tồn tại sẽ cần có sự hỗ trợ tiếp tục của một khả năng tình báo mạnh.
Dự đoán thứ tư có tính tô hồng hơn cho CIA: như một nghịch lý, do việc kết thúc chiến tranh lạnh, trên thực tế các cơ quan tình báo sẽ có thể được giao thêm nhiều trách nhiệm và được tăng thêm ngân sách (Combest 1995,4). Kết qủa tốt đẹp đó đối với các quan chức tình báo là do các quan chức hoạch định chính sách nhận thức rằng mặc dù chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ, thế giới vẫn còn là một nơi nguy hiểm.
Thực tế, một số người lập luận thêm rằng những hiểm hoạ đối với Hoa Kỳ thậm chí còn tăng thêm. Những xung đột khu vực bị dồn nén có thể làm vỡ tung các biên giới mà một thời đã được quân đội khối Vacsava và NATO giữ nguyên trong cảnh giằng co về ý thức hệ vốn là đặc trưng của chiến tranh lạnh. Thay cho việc có hai phe vũ trang do các siêu cường lãnh đạo, trong thế giới mới này sẽ có các liên minh mơ hồ hơn, những căng thẳng sắc tộc và căng thẳng dưới cấp quốc gia được bộc lộ, những dòng người tị nạn và di cư tràn qua các các biên giới quốc gia, hoạt động mạnh mẽ và đáng lo ngại của các nhà độc tài từ Iraq, Bắc Triều Tiên đến Serbia và Haiti, những người tìm cách lợi dụng việc các nước lớn đang quá bận bịu với các vấn đề kinh tế trong nước và tình trạng bất định về địa vị quốc tế và mục tiêu của họ trên thế giới. R.James Woolsey, Giám đốc CIA trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh (1993 - 1994) đã đi đầu trong việc lập luận đòi tăng chi tiêu cho cộng đồng tình báo. Ông liên tục nhấn mạnh: Giờ đây chúng ta đang sống trong một khu rừng có nhiều loại rắn độc bò lung tung (Woolsey 1993).
Dựa vào việc chấp nhận một trong những quan niệm đã nêu ở trên, việc cấp kinh phí cho các hoạt động cơ bản của CIA như thu thập và phân tích tin tình báo, hoạt động phản gián, các hoạt đông ngầm sẽ bị chấm dứt, giảm bớt, giữ nguyên hoặc tăng lên với đám tro tàn của chiến tranh lạnh. Trong những dự đoán trên, dự đoán nào đã tỏ ra là chính xác nhất trong thời kỳ sau chủ nghĩa cộng sản?
*James M. Lindsay là giáo sư khoa học chính trị, đại học iowa, từng là người phụ trách các vấn đề toàn cầu và đa phương trong Hội đồng An ninh quốc gia tại Nhà Trắng*Randall B. Ripley là giáo sư khoa học chính trị, hiệu trưởng trường khoa học xã hội và hành vi thuộc Đại học quốc gia Ohio