Khi bớt sưng và màng tách ra, bệnh yết hầu cũng lui dần, sắp khỏi. Sau mấy ngày sốt dữ dội, tôi thiêm thiếp một cách dễ chịu: mạch đập yếu, thần kinh giãn ra, thoải mái. Bệnh tôi không nặng lắm, bác sĩ bảo tôi có thể dậy sau hai tuần.
Sau nhiều ngày tháng cố gắng quá mức, bây giờ tôi cảm thấy sung sướng được nằm trên giường êm ái, hai tay buông lõng trên chăn, mắt dõi theo tia nắng, tia nắng chiếu có lũ bụi tung tăng, xuyên qua khe cửa sổ nhỏ trong phòng và thay đổi dần khi lên cao.
Các bạn đừng nghĩ là tôi buồn rầu chán nán... vì sợ hỏng thi. Không đâu: tôi rất tin tưởng, tin tưởng ở lòng tốt của Thượng Đế. Ngài công bình, lẽ nào Ngài nỡ hủy hoại tương lai đứa trẻ hết lòng kính yêu Ngài và ngày đêm hằng khẩn cầu Ngài? Không! Tôi không dám mơ phép lạ, tôi chỉ mong Ngài công minh thôi. Tôi mong các giám khảo cho tôi điểm trung bình bài thi mà tôi vắng mặt. Thầy Reid bảo rằng trường hợp như vậy không phải là không hề có. Nghĩ đến điều này, tôi nhắm mắt lại, môi nở nụ cười yếu ớt và tin tưởng. Rồi tôi cầu nguyện thì thầm.
Ba mẹ vẫn chưa về, theo các bưu thiếp mẹ gửi cho ông, chúng tôi hiểu là những ngày ở Luân Đôn ba mẹ thành công. Mẹ cho hay là ba hùn tiền khai thác ngôi nhà cậu Adam. Cú làm ăn này khiến ba tôi hứng thú lắm, và vì vậy bận về hai ông bà sẽ ghé lại thăm gia đình người bà con ở Kilmarnock rồi cùng về với bà cố tôi trong vòng 10 ngày nữa.
Ông tôi giở lịch ra, tính toán và biết là tôi có thể ngồi dậy được trước ngày họ trở về. Điều này làm chúng tôi rất mừng.
Ông tôi là một người nuôi bệnh giỏi. Trong cơn mê sảng lúc đầu, tôi mơ màng thấy ông nghiêng mình trên tôi, cho tôi uống thuốc hay xức thuốc trong cổ tôi. Vài lần khác, bên ngoài cánh cửa tẩm thuốc sát trùng, tôi nghe tiếng bà Bosomley mang đến cho tôi lọ mứt mà bà làm riêng cho tôi.
Dù bệnh tôi theo nguyên tắc đang thời kỳ truyền nhiễm vẫn có nhiều người đến thăm: bác sĩ Galbraith, cộc cằn, ít nói đến mỗi ngày. Dì Kate nhiều lần đến thăm tôi, nhưng không dám vào hẳn trong phòng, vì sợ lây bệnh cho cháu bé. Cậu Murdoch thì không cần thận trọng như thế và tôi hết sức cảm động vì sự lui tới thường xuyên của cậu. Tôi vui mừng mỗi khi nghe tiếng bước chân quen thuộc nặng nề của cậu lên cầu thang. Tôi mê say nghe những câu chuyện đứt đoạn của cậu, có khi khôi hài, khi thì cậu kể về đặc tính của giống cẩm chướng do cậu mới gây.
Gavin đòi thăm tôi song bị ông cương quyết chối từ, điều này khiến tôi buồn quá đỗi. Tôi đành tự an ủi là mình sắp bình phục, vài ngày nữa mình có thể gặp Gavin.
*
* *
Bây giờ tôi phải nhắc đến ngày 20 tháng 7, cái ngày định mệnh mà tôi ghi khắc vào tâm não (và ba năm sau, tôi còn có dịp nhớ lại nữa).
Buổi sáng thứ tư trôi qua như thường, không có gì xảy ra. Đến trưa, lần đầu tiên tôi thay quần áo, rời phòng đi dạo ngoài vườn. Sau bữa ăn, trời nắng thật tốt nên ông tôi đặt một ghế xếp trên bồn cỏ cho tôi. Ngồi trên đó, tôi gácchân lên mảnh ván và đắp chăn, tận hưởng ánh nắng ấm. Lòng nhẹ nhõm tôi vui mừng sau khi bình phục, thấy đời sống đối với mình đẹp như tiếng chim hót trên bầu trời quang đãng sau cơn dông.
Trong nhà, ông cắm cúi thu dọn, hủy các vết tích còn lại do cơn bệnh của tôi gây ra, sợ có thể làm ba bực mình. Vì ông hiểu rằng dù thầy Reid đã hứng chịu mọi phí tổn về thuốc men, bác sĩ v.v... cũng không nên để ba phải bận lòng khi nghĩ đến điều này.
Đang lúc đó, tôi nghe tiếng bước chân sào sạo trên con đường sỏi và nhận ra thầy Reid đang tới gần. Thậy hiện ra từ góc nhà, mỉm cười và ngồi xuống chỗ chân tôi:
- Sao, khỏe chứ?
- Thưa thầy, con khỏe lắm rồi.
Thầy gật đầu, tay ngắt một cọng cỏ, vứt xuống rồi im lặng một lúc lâu, có vẻ như đang bận tâm suy nghĩ gì đó. Đoạn, đưa mắt nhìn ra khu vườn, thầy nói:
- Robert, con can đảm lắm! Hơn ta nhiều! Thú thật cho con biết: hôm con ngã bệnh, máu gần trào ra cùng với nước mắt ta... Nhưng ta phải biết vươn lên trên mọi thất vọng, thế mới là khôn ngoan. Robert! Con đã đọc Candide chưa?
- Thưa thầy, chưa ạ.
- Được rồi, ta sẽ cho con mượn. Con sẽ thấy rằng do sự sắp đặt của Thượng đế, mọi sự trên đời này đều tốt đẹp.
Tôi không rõ thầy muốn nói gì, trố mắt nhìn thầy. Những lời thầy làm tôi như lạc hướng. Thầy điềm đạm tiếp:
- Kết quả kỳ thi sẽ được loan báo sau tuần lễ này nhưng thầy vừa gặp giáo sư Grant, ông có ghi số điểm...
Tuy bác sĩ cho tôi nhiều thuốc bổ, tôi vẫn tưởng tim tôi sắp ngừng đập: chắp hai tay vào nhau, tôi lắng tai, nghẹn thở trong lúc thầy nói nhanh bằng giọng chua xót ít gặp nơi ông và đôi mắt ông nhìn tôi thương cảm:
- Robert ơi! Mc Evan đấy!
Thằng bé thần đồng đã thắng! Hạng trẻ này luôn luôn được cuộc, dù thắng lợi của chúng đổi bằng rủi ro, bất hạnh của thí sinh khác! Tim tôi thắt lại, tôi nhìn sững thầy, còn ông thì vẫn tiếp tục ngắt cỏ vất ra xa:
- Nó chỉ được 920 điểm.
Tôi lờ mờ thấy ông tôi xuất hiện trên thềm nhà bếp và đến gần chúng tôi, dáng bộ thiểu não. Chắc chắn là ông cũng biết rồi. Tôi cúi đầu, đau đớn đến lặng đi. Mặt tôi tái xanh. Sau cùng tôi cố gắng hỏi thầy:
- Thưa, ai hạng nhì, thầy?
- Con! Con chỉ thua nó có 25 điểm và thiếu bài vật lý. Ta tìm đủ mọi cách. Ta gần sụy xuống lạy họ để họ cho điểm trung bình bài vật lý. Ta đề nghị sẽ đưa sổ điểm toàn niên của con cho họ xem. Ta cam đoan với họ, con không chỉ được 25 thôi mà đến những 95 kia... nhưng vô ích (giọng thầy lần này thêm xót xa) họ không thể, họ không muốn phá lệ một lần.
Tôi im lặng. Tận phút này tôi vẫn chưa chịu tin là mình hỏng. Thầy Reid muốn tôi khuây khỏa nên cho hay tiếp:
- Con hơn điểm Gavin: nó thua con đấy.
Hình ảnh hai đứa con trai trong chiếc thuyền, trên mặt hồ dưới ánh trăng xanh biếc, huyền hoặc... Những lời ước hẹn chắc nịch và tràn hy vọng cùng một loạt như hiển hiện trước mặt, trong tai tôi cùng với khung cảnh đêm trăng.
Tưởng tượng đến nỗi thất vọng của Gavin nên trong một lúc, tôi quên đi đau khổ của riêng mình.
- Gavin biết chưa thầy?
- Chưa, con ạ!
Bằng giọng run run buồn thảm, giọng của một người từng đau khổ buộc lòng phải báo tin buồn, ông tôi chen vào:
- Ông Thị trưởng đang trong lúc xui xẻo quá sức... ông bị phá sản.
Tôi sững sờ vì tin cuối cùng này. Cha Gavin bị phá sản? Khổ sở, nhục nhã ngần nào đối với Gavin? Chuyện nó thi hỏng thật không đáng gì so với tai họa tày trời của cha nó. Tôi liên tưởng đến nét mặt xanh xao cương nghị của Gavin...
Tôi cảm thấy cần gặp nó ngay nhưng cũng nhanh trí không cho ai hay quyết định này. Đợi cho ông và thầy Reid vào nhà, tôi run rẩy đứng dậy, không cần xin phép, chạy ra đường. Tôi vẫn còn yếu, đi đứng hơi khó khăn, nhưng tôi chỉ nghĩ đến một điều cần thiết: gặp bạn ngay càng sớm càng tốt.
Gavin không có nhà. Trong tư thất ông Thị trưởng không một bóng người, không bồi bếp, không người làm vườn. Tôi gõ bốn lần tiếp mới thấy chị Julia hé cửa ra, chị như sợ hãi một tai họa nào hiện đến bất ngờ nữa vậy.
Chị nghẹn ngào cho tôi hay là Gavin mấy hôm nay ở Ardfillan với mấy người bạn và chị đã điện thoại cho nó, nó sẽ về đến đây bốn giờ chiều, tàu hỏa. Tôi biết ngay bạn sẽ xuống trạm gần nhất. Trời xanh ngắt. Trên đường, bộ hành cởi áo vét tông, phe phẩy mũ rơm. Tôi chống lại sự yếu đuối, lê chân đến cổng xe lửa vừa khi xe vào sân ga. Mắt chói lòa vì bụi và và ánh nắng phản chiếu trên đường rầy, tôi chờ bạn ở chỗ thường lệ.
Quả tôi không lầm: xe vừa ngừng, Gavin nhảy xuống và băng qua bến, chưa kịp thấy tôi. Nét mặt xanh xao, đăm chiêu của nó báo cho tôi biết là bạn tôi đã biết mình rớt rồi.
Viên trưởng trạm huýt còi và phất cái mũ xanh trong tay. Một đầu máy kéo các toa hàng nổ xình xịch. Từ trên một toa, người ta chuyển mấy bao khoai tây xuống mấy xe bò. Hình ảnh này khắc ghi trong trí tôi mãi mãi...
Xe chở hành khách vừa chạy, Gavin băng qua các đường rầy. Mãi lo nghĩ, buồn bã, bạn tôi không trông thấy cái đầu máy kéo các toa hàng hóa đang đổi hướng. Đầu cúi, nó đi thẳng về hướng cái đầu máy đang chạy tới. Tôi hốt hoảng thét to lên, nghe tiếng hét của tôi, Gavin giật mình ngẩng lên và nhận ra cái đầu máy gần tới... Nhưng Chúa ơi! Nó như dính chặt tại chỗ: giày nó vướng vào ghi đường rầy. Nó cúi xuống vùng vẫy, cố hết sức để rút chân ra trong lúc tôi kêu rú lên và đâm bổ lại.
Đôi mắt đen láy trên khuôn mặt xanh xao của Gavin gặp mắt tôi. Nó tận lực rút chân khỏi đường rầy nhưng vô ích. Cái đầu máy lao sầm tới. Gavin hét lên, tiếng hét nó to hơn cả tiếng tôi và một bức màn đỏ rũ xuống trước mắt tôi ngay lúc đó...
*
* *
Khi tôi tỉnh lại, sân ga náo loạn, ồn ào kinh khủng. Người thợ máy khoa tay phân bua với cảnh sát rằng không phải lỗi anh ta. Nhiều người kêu lên bằng giọng xót xa, đau đớn:
- Bi thảm quá! Nghĩ coi, cha nó vừa mới...
Họ cho Gavin đã tự tử.
Tôi dựa theo các vách tường lần về nhà, cắn chặt răng để nén đau, mà niềm đau cứ cuồn cuộn dâng lên. Bây giờ, tôi chỉ ao ước có một điều: được nấp trong bóng tối, trong im lặng. Đừng thấy ai, đừng nghe ai... Nhưng rồi đêm xuống, tôi không chợp mắt được. Tâm hồn tôi như nổi loạn. Hy vọng trong tôi đã chết. Thế giới chỉ đầy dẫy bất công thôi.
Sáng hôm sau ba mẹ và bà cố về. Giam mình trong phòng tôi nghe tiếng ồn ào bên ngoài. Bà gọi tôi nhưng tôi không buồn đáp.
Tránh tất cả, tôi rời nhà, chầm chậm ra đường. Ngang ba cây dẻ nổi bật trên nền trời, tôi hướng về phía nhà ông Thị trưởng.
Ngôi nhà cửa nẻo đóng im ỉm như cách biệt hẳn với sinh hoạt bên ngoài.
Gavin nằm trong phòng, trên giường. Bạn tôi đã ngủ, giấc ngủ cuối cùng của cuộc đời. Mắt nhắm nghiền vẻ bình thản không thay đổi, như chìm trong mơ. Nó nằm đó, vẫn hãnh diện và quả quyết song quá xa vời, tôi làm sao trò chuyện, tâm sự được, kể từ nay? Chúng tôi vĩnh viễn mất nhau...
Chị Julia, mắt đỏ mọng, lặng lẽ chỉ cho tôi chiếc giày rách phân nửa vì Gavin đã cố gắng rút chân ra. Không, bạn tôi không đầu hàng! Nó đã chiến đấu tới cùng, Gavin đã nằm xuống song không phải là kẻ chiến bại. Tôi tin thế.