HOÀNG THÁI HẬU
Gió lạnh ở phương bắc thổi xuống, thủ phủ Bắc Kinh chìm đắm trong tiết mùa đông, tháng giá. Và mùa hè, cây cối trong tỉnh tốt tươi cành lá xum xuê. Sang đông, gió lạnh, sương tuyết, cây cối như bị tróc hết lá, còn trơ những cành khẳng khiu như những bộ xương leo kheo đứng giữa trời. Các ao hồ, ngòi lạch như có một đường viền trắng nước đông đóng giá. Những người đi đường, rét run, co ro, gió lạnh buốt như cào da, xé thịt. Mấy người bán khoai lang lùi là đắt hàng nhất. Người nghèo mất ít tiền được ăn no lòng, mà lưỡng lợi được sưởi hai bàn tay rét cóng. Mở mồm nói như có một làn khói ở trong mồm phun ra, các bà mẹ cấm con không được khóc vì nhiệt độ trong người bốc ra hết. Mùa đông năm đó, trời rét lạ lùng, gió lạnh buốt đến xương tủy như cào da xé thịt, rét từ trong bụng rét ra.
Giờ đây, linh hoàng của cố hoàng thượng đặt ở một ngôi chùa trong hoàng thành, chờ đến ngày làm lễ quy lăng. Việc kế vị đã được ổn định, cả quốc dân như hồi hộp lo sợ trước viễn ảnh những năm kế tiếp đen tối cho vận mạng quốc gia.
Bản thõa ước Cung thân vương ký với quân ngoại xâm đã thừa nhận quân địch hoàn toàn đắc thắng.
Một hôm, trong mùa đông năm đó, hoàng thái hậu ngồi một mình trong cung, nghiên cứu tỉ mỉ những điều khoảng trong bản thỏa ước.
Bà ngồi một mình, tên thái giám Lý Liên Anh đứng hầu gần đó, túc trực để chờ lệnh sai khiến. Nhiệm vụ của tên thái giám phải để mắt nhìn mọi cử chỉ, để tai nghe mọi lời nói của hoàng thái hậu để thi hành mệnh lệnh. Bà thái hậu dùng tên thái giám để sai vặt, còn ngoài ra bà coi như phần tử ngu độn, không đáng để ý.
Sáng hôm đó, bầu trời ảm đạm, tuyết sương lạnh lẽo, bà ngồi một mình, đọc đi đọc lại những điều khoản trong thỏa ước. Với trí giàu tưởng tượng của bà, những điều khoản càng thêm linh động.
Theo bản thỏa ước, từ nay trở đi và tiếp tục mãi mãi về sau này, người Anh, người Pháp và những người ở các nước ngoại quốc đến đây, ở trên đất nước này với tư cách đại biểu cho chính phủ họ. Bọn người này đến, lẽ tất nhiênm họ đem theo vợ con, gia nhân, đầy tớ, gia đình họ, binh lính họ. Bọn người bạch chủng man di đó có dịp kết thân với những thiếu nữ người Hán trẻ đẹp, một nguyên nhân của sự hỗn loạn.
Bản thỏa ước còn cưỡng bách bà hoàng thái hậu kiệm nhiệm nhiếp chính vương phải trả cho bọn người ngoại quốc hàng ngàn lạng vàng. Ôi! Còn đâu là công lý, là lẽ phải. Tự dưng vô cớ lại đem quân đến đánh phá một dân tộc rồi cưỡng bách dân tộc đó phải bồi thường chiến tranh?
Lại còn những điều khoản khác cũng rất phi lý. Trung Quốc phải mở rộng hải cảng, giang cảng cho tàu bè ngoại quốc lui tới, kể cả giang cảng Thiên Tân, chỉ cách xa kinh thành có 150 cây số. Không những người họ mà còn tất cả hàng hóa của họ được thông thương khắp trong nội địa Trung Hoa. Người dân thấy hàng hóa của người ta híp mắt lại. Lại một nguyên nhân sinh ra hỗn loạn.
Theo bản thỏa ước, Trung Quốc phải mở rộng cửa đón nhận những người đi truyền giáo. Bọn người này có quyền đi lại trên khắp lãnh thổ, muốn ở đâu tùy ý, để mê hoặc, dụ dỗ dân chúng tôn thờ những vị thần lai căng. Kinh nghiệm đã thấy, những tôn giáo du nhập chỉ đem lại cho quốc gia nhiều tai họa.
Đó, đại cương những điều khoản của bản thỏa ước, những điều khoản tai hại nặng nề cho xứ sở. Bà ngồi một mình trong một cung vắng vẻ, một ngày ảm đạm, tiết mùa đông. Bọn a hoàn dọn bàn ăn, bưng cơm lên, nhưng bà không đụng đũa. Trời đã xâm xẩm tối, bà không để ý về thời gian, không ai dám nói một lời, mời bà xơi cơm hay đi nghỉ. Tên thái giám rón rén bưng lại để gần bà, ấm nước trà xanh, thứ trà bà ưa dùng, nhưng bà cũng không đụng tới.
Bà ngồi, thức suốt đêm, bản thỏa ước đặt trên mặt bàn trước mặt. Về gần sáng, bà hất bản thỏa ước sang một bên, bà vẫn ngồi không đứng dậy. Những cây nến đỏ gắn trên giá nến bằng vàng cháy hết, thái giám lại thay tiếp. Bà ngồi lặng yên, hai tay ôm cằm, trong một tư thế trầm tư mặc tưởng. Ấu đế, con bà mới được năm tuổi, chỉ được chính thức bước lên ngôi rồng trị vì vào ngày mừng sinh nhật năm thứ mười sáu. Trong thời gian khoảng cách mười năm, bà phải đảm nhiệm chức vụ quốc trưởng, một trọng trách vô cùng nặng nề. Một nước đất đai vô cùng rộng lớn, bà không sao tưởng tượng được, lịch sử dân tộc có thời Bàn Cổ với một dân số khổng lồ không thể ước lượng nổi. Dân tộc đó coi bà như một ngoại nhân. Trong thời bình, cai trị một dân số như thế cũng đã là một gánh nặng khủng khiếp. Hiện nay, nước bị rách nát, giặc giã nổi lên như ong, tên Hùng cầm đầu một bọn giặc chiếm giữ Nam Kinh, nơi xưa kia nhà Minh lập kinh đô. Triều đình phái quân đội đi tiễu trừ, nhưng chưa triệt hạ được tên soán nghịch. Hai bên cam cự, đánh nhau mãi, dân chúng lâm vào tình trạng phá sản, không làm ăn gì được, chết đói. Bà thái hậu cũng thừa hiểu quân đội hoàng triều cũng không hơn gì quân nghịch, vì lương hậu thất thường, một tháng có, mười tháng không, bắt buộc họ phải vào các làng mạc kiếm lấy cái ăn.
Người dân nhìn thấy cửa nhà bị thiêu rụi tan hoàng, thóc lúa, trâu, bò bị cướp phá, đồng ruộng bị bỏ phế, họ căm thù cả hai bên, giặc cũng như quân đội hoàng triều.
Bổn phận bà phải cải thiện, cải tổ lại quân đội, mới mong hùng mạnh, được dân chúng tin tưởng.
Lại một vấn đề nữa cũng nan giải, đè trĩu trên vai bà. Đó là tính một người phụ nữ chấp chính cầm quyền. Người Hán không mấy thiện cảm mấy đối với một phụ nữ lãng đạo quốc gia. Người ta quan niệm, người đàn bà dù sao cũng kém cõi không bằng người đàn ông. Lịch sử Trung Quốc đã chứng minh điều đó. Người dân liệu có tin tưởng một phụ nữ như bà lãng đạo luồng máy quốc gia sẽ đem lại công bằng, cơm no, áo ấm cho dân không?
Bổn phận bà phải chứng minh bà có đủ khả năng để lái con thuyền quốc gia trong cơn sóng gió.
Nhưng tất cả gánh nặng, trọng trách đó, trọng trách lớn nhất chính là bản thân bà, làm sao tự khắc kỷ, tự chế phục được mình. Bà cũng tự biết bà còn rất nhiều khuyết điểm, những cạm bẫy cám dỗ của trái tim non nớt hăng say, cá tính phức tạp bà còn rất nhiều nhược điểm. Lòng bà vẫn ấp ủ một dục vọng chưa được mãn nguyện, bà mơ ước một người đàn ông, người đó cả tinh thần lẫn thể chất hoàn toàn phải hơn bà, nghĩa là bà có thể đặt tin tưởng vào người đó. Người như thế là ai, hiện ở đâu? Nghĩ đến vấn đề đó, mộng tưởng của bà chấm dứt, bà đứng dậy, thấy lạnh tự trong đáy lòng, từ trong tâm hồn lạnh ra. Lý Liên Anh tiến lại gần.
- Tâu thái hậu, mời thái hậu đi nghỉ.
Người thái giám đưa cánh tay bà vịn vào đưa bà về tư phòng. Người nữ tỳ ngồi chờ ở cửa.
Trời đã hửng sáng, bà nằm yên trên giường, kiểm điểm lại những ý nghĩ chiều hôm trước. Bà có nhiều trọng trách, đè trĩu hai vai, nhưng bà nhận thấy có đủ sức, đủ lực để gánh vác. Bà đang ở trong tuổi thanh xuân, khí huyết phương cương, tinh thần minh mẫn, điều kiện cần thiết để đảm nhận những công việc khó khăn, nặng nề. Là một phụ nữ, nhưng bà đã sinh ra đức kim thượng. Bà tránh không theo những vết xe cũ của những người đàn bà có quyền thế trong tay, muốn lúc nào cũng đứng trên tột đỉnh hơn cả mọi người cả người con lên ngôi, trị vì. Đối với con bà lên ngôi thiên tử, bà muốn được mai danh ẩn tích không muốn giẫm chân lên quyền của con. Trong thời gian đảm nhiệm chức vụ nhiếp chính, bà muốn giữ một thái độ ôn hòa, thận trọng đối với tất cả mọi người, xếp đặt mọi công việc nội trị, ngoại giao, ổn định tình thế để cho con lên chấp chính sau này. Bà sẽ giao lại cho con toàn vẹn lãnh thổ, tất cả quy về một mối rồi bà rút lui, an hưởng thanh nhàn, bà không muốn tranh giành quyền với con. Bà sẽ chứng minh cho quốc dân biết triều đại của bà sẽ thái bình, thịnh trị. Bà còn trẻ, có thiện tâm, thiện chí, bà sẽ đạt tới đỉnh. Bà đứng dậy, vững lòng tin tưởng, tâm hồn phấn khởi.
Từ nay, đình thần có một vị tân vương, một người đàn bà tuy cương nghị nhưng rất ôn hòa, không nhìn ai thẳng vào mặt, cả những tên thái giám, nói năng ôn hòa, lịch sự, bất luận phẩm trật, cấp bực, dáng điệu rất uy nghi, đường bệ. Không ai có thể biết được chuyện thầm kín, riêng tư, những tư tưởng, ý nghĩ, mơ vọng của bà. Bà hoàng thái hậu sống cô đơn, nơi thâm cung sau những bức tường thành cao ngất, bất khả xâm phạm.
Để khởi diễn một kỷ nguyên trong đời bà, bà dời tư cung dọn đến ở Ôn cung, trong hoàng thành, nơi đó gọi là Tây Lộ. Ôn cung có tất cả sáu phòng lớn, nhiều hoa viên và một thư viện đồ sộ có tới ba mươi sáu ngàn cuốn cổ thư. Trước Ôn cung có chín con rồng vàng bằng sứ, tô điểm đủ màu sắc như một tấm bình phong. Tấm bình phong có tác dụng vừa để trang trí và trấn áp tà thần. Sau tấm bình phong là một gian phòng rất rộng, gian phòng dùng làm nơi thiết triều, trước mặt là một sân lát đá hoa. Trước mỗi gian phòng có một cái sân lớn. Bà chọn một gian phòng tiếp kiến các vị thân vương và các quan trong triều. Bà ở một gian phòng, từ đó bà có thể đi thẳng vào phòng ngủ. Giường xây bằng gạch sát vào tường. Trên giường có trãi một tấm đệm bọc vóc vàng, xung quang giường có căn tấm màn the màu vàng thêu những bông hoa lựu màu đỏ mà bà ưa thích. Sau gian phòng ngủ có thiết lập một ban thờ Phật, trên có một pho tượng Phật bằng vàng, hai bên có hai vị Bồ tát;Quan âm và Thế Chí. Đằng sau ban thờ có một khuôn cửa vào một gian phòng, bọn thái giám ẩn kín ở đó, sẵn sàng hầu hạ, phục vụ bà.
Cung điện hoa mỹ, tráng lệ.Trong cung bày biện, trang trí những đồ đạt rất quý, trên phủ những tấm thêu bằng vóc đỏ. Bà cũng cho đem lại những đồng hồ của các nước Tây phương sưu tập, những chậu bông, những lồng chim, những chiếc đệm thêu, đàn chó, những sách của bà, chiếc án thư, chiếc tủ kính bày những đồ mỹ thuật trang trí. Cáckhuôn cửa sơn son thiếp vàng, trên mỗi khuôn cửa có mái hiên mạ vàng. Trong tư phòng, những khuôn cửa hình bán nguyệt xung quanh có gắn đá hoa, chạm trổ rất tỉ mỉ công phu, trông ra một hoa viên kín, những bức tường có cẩn đá hoa. Dưới những bức thông cổ thụ, hương bay ngào ngạt, phía xa một thảm cỏ xanh ngắt.
Phía trong cùng hoa viên có một gian phòng, cửa lúc nào cũng đóng kín. Bà thái hậu giữ chìa khóa gian phòng đó.
Giữa khung cảnh lặng lẽ, trang nghiêm đó bà thái hậu trẻ thường tha thẩn đi chơi một mình, nét mặt trầm ngâm, tư lự. Chỉ những người nào mạnh khỏe, cường tráng mới có thể thấu hiểu những trận bão lòng của bà trong một nếp sống bà đã tự vạch ra.
Ngày nào bà cũng dậy rất sớm, trời chưa tỏ sáng. Bà ra gian phòng thiết triều. Với chính sách ôn hòa, lễ độ, bà không ngự triều một mình, bà cho mời bà Đông cung đến cùng chủ tọa. Bà tuyên bố, ngai rồng tạm dể không cho đến khi ấu đế thành niên. Bà khướt từ không ngồi trên ngai, xung quanh có các thể nữ, thái giám đứng thị hầu. Hai bà nghe những sớ, điệp của các thân vương và các quan quì trước bệ rồng đọc lên. Cung thân vương đứng bên tay mặt của chiếc ngai bỏ trống.
Một hôm mùa đông, lưỡng cung cho vào bệ kiến hai thần dân đến khẩn cầu triều đình cho quân tiễu trừ tên phản loạn Hùng ở tỉnh Nam Kinh, một tỉnh ở miền Nam. Đó là hai viên tuần phủ của hai tỉnh miền Nam bị quân giặc đánh đuổi, hai vị quan này đến xin tạ tội vì để hai tỉnh thất thủ.
Bà hoàng thái hậu nghe lời tâu, bừng bừng nổi cơn lôi đình, có lẽ nào để cho một tên giặc tung hoành phá hoại cả một quốc gia trong khi con bà còn ấu trĩ vị thành niên. Bất cứ giá nào cũng phải tổ chức lại quân đội hoàng gia và phong nhiều người lên cấp tướng, cầm quân đánh giặc. Trong những địa hạt khác nhau, bà không thể nào dung tha được, không thể để chúng hoành hành, đe dọa, chiếm đoạt toàn quốc. Nếu để lâu, chúng thêm vây cánh, việc tiểu trừ sẽ trở nên khó khăn.
Cũng ngày hôm đó, theo thường lệ, Cung thân vương đến xin tư yết (audience privée). Thân vương thấy nét mặt bà thay đổi khác, lạnh lùng, kiêu căng, cương quyết. Đó là một sắc thái đa diện của bà. Thường nhật bà rất nhã nhặn, ôn hòa, gần xa ai cũng biết, nên dân chúng đã đặt cho bà mỹ danh là một hiền mẫu, là Quan Âm năng cứu khổ, cứu nạn. Nhưng bà cũng có một sắc thái tương phản, rất độc ác, tàn bạo. Hôm đó, Cung thân vương thấy bà không phải tứơng mạo của vị Phật Quan Âm, thái độ của một hiền mẫu, nhân từ, khoan dung, đại độ. Bà uy nghi, hùng dũng, phẫn nộ vì sự yếu hèn nhu nhược của đình thần. Bà hỏi:
- Viên tướng chỉ huy đạo quân hoàng triều hiện nay ở đâu? Tên Trương Quế Phân đâu? Làm sao hắn dám tự tiện để cả một đạo quân bao nhiêu người ngồi chơi không trong khi quân giặc chiếm hết tỉnh này đến tỉnh khác ở miền Nam. Nếu như thế này mãi, một ngày kia giặc chiếm hết nước, quân đội còn để dùng làm gì?
Cung thân vương tâu:
- Tâu thái hậu, quân đội ta không thể ứng phó khắp các mặt trận cùng một lúc.
- Dù sao cũng phải ứng phó. Bổn phận làm tuớng phải thế, phải biết tiên liệu những gì có thể xảy đến, chỗ nào quân giặc tấn công, nơi nào quân giặc định tấn công, phải đem quân tấn công trước để tiêu diệt chúng.
- Tâu thái hậu, hạ thần mạn phép đệ lên thái hậu một giải pháp. Chúng ta đang đình chiến với quân hồng mao, bọn này yêu cầu chấp nhận một vị tướng của họ để tổ chức cuộc tiểu trừ quân thảo khấu. Trước kia quân bạch chủng tán trợ tên giặc Hùng, vì hắn nói có đạo Thiên Chúa; bây giờ họ đã biết tên Hùng là một thằng điên khùng. Như thế là một thắng lợi lớn cho triều đình.
Bà thái hậu ngồi trên ngai, suy nghĩ. Những ngón tay búp măng của bà đặt trên hai tay ngai, như những chuỗi kim cương, gõ lắc cắt trên gỗ. Các đầu ngón tay bà có đeo tháp bằng vàng. Bà hỏi:
- Trương Quế Phân có biết đề nghị của quân hồng mao không?
- Tâu thái hậu, hắn có biết nhưng hắn không chịu nghe theo. Hạ thần biết vị tướng đó có tính câu nệ, hắn nói chẳng thà cả nước bị giặc tàn phá còn hơn đi đầu cạnh ngoại nhân đến cứu mình.
Hoàng thái hậu nghe mấy lời đó, đột nhiên sinh lòng thiện cảm với tướng Trương Quế Phân. Bà hỏi:
- Vì lẽ gì hắn không muốn?
- Tâu thái hậu theo ý hắn, ngoại nhân đề nghị giúp mình chẳng qua vụ lợi. Họ sẽ yêu sách một cái gì tương xứng với sự giúp đỡ của họ.
Mấy ngón tay đeo đầy nhẫn của bà nắm chặt hai tay ngai. Bà nói lớn:
- Hắn nhận xét rất đúng, rất đúng. Họ sẽ đòi chiếm đoạt những vùng họ giải tỏa. Bây giờ ta mới biết tên Trương Quế Phân biết trông xa. Việc này tối quan trọng, ta muốn dềnh dàng, phải tranh thủ thời gian, phải lập tức tấn công quân giặc, phải giải tỏa Nam Kinh. Nếu giết được tên Hùng, hàng ngũ của chúng sẽ bị tán loạn ngay.
Cung thân vương lạnh lùng trả lời:
- Tâu thái hậu, hạ thần xin mạn phép trình bày một yếu điểm. Hạ thần ngờ những lời khuyến dụ và chiến lược của thái hậu cho tên tướng Trương Quế Phân có được vững vàng, theo đúng binh pháp không?
Bà thái hậu nguýt dài, mắt nhìn sang một bên:
- Ta không hỏi ý kiến thân vương.
Giọng bà nói nhỏ nhẹ, mềm mại, song thân vương thấy mặt bà tái đi, người run lên, cơn phẫn nộ lên đến cực điểm.
Mấy lời tường trình đó đã chạm mạnh vào lòng tự ái của bà. Thân vương nghiêng đầu, cố nén lòng căm phẫn rút lui ngay lập tức. Khi ông hoàng này đi khỏi, bà xuống ngai ra ngồi ở án thư, thảo tờ sắc lệnh cho tên tướng Trương Quế Phân.
- Sắc lệnh:
(Sau mấy lời chào hỏi, xã giaọ..)
"Mặc dù, hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, tướng công đã đến lúc phải nỗ lực, tận dụng tất cả khả năng, uy lực sẵn có với sự tán trợ của quý bào đệ Trương Quốc Chuân, triệu thỉnh y ở Quảng Tây về, đem đại quân tiến về An Huy. Bước đầu tiên khởi để vây hãm Nam Kinh. Quân giặc chiếm cứ Nam Kinh đã chín năm nay, quân đội ta phải lo thu hồi phần lãnh thổ đó, tiêu diệt quân thảo khấu.
Để phụ giúp tướng công trong công việc bình định, phải cấp tốc triệu thỉnh viên tướng Lý Thường Giám chuyên về vấn đề đánh du kích. Hắn là vị tướng gan dạ và tận trung với ngai vàng. Hẳn tướng công cũng chưa quên viên tướng đó đã đánh bại quân giặc ở Tương, Hoài. Tướng công nên kết nạp hắn dưới trướng, đem quân vây hãm Nam Kinh, mỗi ngày nên thắt chặt vòng vây. Nếu quân giặc tấn công Quảng Tây, tướng công phái Lý Thường Giám đem quân tiễu trừ, tướng công có hai nhiệm vụ, giết bằng được tên tướng giặc Hùng, đập tan tất cả những cuộc nổi dậym nếu có. Tướng công không phải tâu trình những sự khó khăn, phải kiên trì để vượt mọi khó khăn nguy hiểm. Tướng công phải nổ lực hy sinh, đoạt công đầu chiếm Nam Kinh, triệt hạ được tên giặc Hùng. Một phần thưởng đích đáng sẽ giành cho tướng công".
Đó là đại cương lời lẽ hoàng thái hậu viết trong sắc lệnh. Bà đọc lại, đóng ngọc tỷ vào bản văn, giao cho tên thái giám đem đến cho Cung thân vương để sao lại, cất giữ trong văn khố quốc gia. Bản chánh gửi theo bưu trạm tống đạt cho tướng Trương Quế Phân.
Viên thái giám trở về nạp bà bản phái lai (chứng tỏ cung thân vương đã nhận được bản sắc lệnh, theo đúng chỉ thị thi hành). Nhìn bản phái lai, bà mỉm cười, đắc ý, hai mắt sáng ngời dưới hàng lông mi đen. Bà hỏi:
- Hắn có nói gì không?
- Tâu thái hậu, thân vương đọc hết bản sắc lệnh, ông có nói: "Một người đàn bà có chí khí như một bậc đại đế".
Bà mỉm cười, lấy ống tay áo che khuất. Bà hỏi:
- Thật thế à? ...Hắn nói thế à? ...
Tên tổng quản thái giám biết tính bà thích những lời khen ngợi, ca tụng, hắn bịa thêm cho câu chuyện thêm đậm đà:
- Muôn tâu thái hậu, chúng hạ thần vẫn thường nói với nhau, cùng một ý nghĩ với thân vương.
Hắn nói xong cáo lui đi ra, bà thái hậu chưa kịp có một lời nào phê bình hay khiển trách.
Bà ngồi một mình, vẻ mặt tự đắc, mồm chúm chím cười. Bà nghĩ sau này, khi con bà đăng quang, tức vị, không biết nên lựa chọn, đặt niên hiệu thế nào cho hay và thích hợp. Trước kia ba người mưu phản bàn nhau đặt vương hiệu là Chí Hưng, bà không ưng, hai tiếng đó nghe không được, rỗng tuếch, không có ý nghĩa gì hàm súc.
Theo ý bà, vương hiệu phải bao quát được ý nghĩa một nền thanh bình vĩnh cửu, bảo trì toàn vẹn lãnh thổ, dân được an cư, lạc nghiệp, nhà vua có đức lớn, độ lượng khoan hòa, thương dân như con đỏ (như bảo xích tử) thái bình, độ lượng, khoan hồng, bà muốn tìm những chữ nào lột được ý nghĩa đó, rõ ràng, minh bạch. Bà đã học được cách tìm vần, tìm chữ ở các ông thầy dạy bà về làm văn bài, thi phú. Bà suy nghĩ một lúc rồi quyết định dùng ngay tên con: Đồng có nghĩa là khắp tất cả và Trị có nghĩa là thái bình, thịnh trị. Kể sự lựa chọn đó cũng hơi táo bạo, đang lúc nhiễu nhương, giặc giã nổi lên như ong. Tuy vậy bà đã nhất quyết ổn định tình thế, đối với bà muốn là phải được. Để đạt được ý nguyện đó, bà nỗ lực làm việc.
Bà đã gây được tín nhiệm trong dân chúng. Mọi công việc trong nước, việc lớn, việc nhỏ, một mình bà đảm nhiệm, quyết nghị. Hàng ngày công văn xếp hàng đống trên án thư trong gian phòng thiết triều. Bà xem xét, giải quyết những chuyện lặt vặt như thuyên chuyển một viên chánh án ở một vùng nào, vì dân vùng đó ta thán viên quan đó nhũng lạm, hay một tỉnh nào vô cớ tăng giá gạo, hay thảo sắc lệnh cho tổ chức làm lễ cầu đảo ở vùng nào bị tiêu khô, hạn hán. Tuy những việc rất tầm thường bà cũng tự tay giải quyết cũng như những việc tối quan trọng, ở vùng duyên hải, hạm đội, chiến thuyền ngoại quốc đe dọa, hay lập quy chế về việc buôn bán nha phiến, do ngoại dân cầm đầu bảo trợ.
Mặc dù công việc trong nước bề bộn, nội trị, ngoại giao, bà cũng không sao lãng công việc trong nội đình. Bà để tâm ý săn sóc con, ngày nào cũng giữ con ở bên cạnh một khoảng thời gian rất lâu, mặc cho con tung tăng chạy chơi từ phòng thiết triều đến thư viện riêng, trong khi bà cặm cụi làm việc. Thỉnh thoảng bà ngừng lại ngắm con, sờ trán, hai bàn tay con, nhìn hai con mắt con, lòng đen, lòng trắng phân minh, sáng ngời. Bà để ý cả hàm răng con, xem lưỡi con, xem hơi thở con.
Vừa trông con lại vừa giải quyết mọi việc trong nước, bà cũng không sao nhãng những chi tiết lặt vặt trong nội đình. Bà xem xét những hóa đơn, bản kê khai những thực phẩm mua hay nhận được do công tiến, số tồn trữ lụa, vóc, không một tấm nào được xuất kho nếu không có phiếu do tự tay bà ký tên. Bà biết, nếu để quân gian phi xuất phát từ trong nội điện, một ngày kia sẽ lan tràn khắp trong nước. Bà rất uy nghi, đĩnh đạc, từ đầy tớ cho đến quan nhất phẩm triều đình ai cũng cảm nhận làn nhỡn tuyến lạnh nhạt và rất sắc sảo đanh thép của một nữ đế.
Tuy vậy, bà thưởng phạt rất công minh. Đối với những tên thái giám hay tữ tỳ trung thành, chăm chỉ, bà thưởng cho rất nhiều tiền và quần áo.
Còn những món quà thưởng tuy không bằng tiền bạc nhưng rất có giá trị. Trong những bữa cơm hằng ngày, phần nhiều thường những món sơn hào, hải vị, khi bà dùng rồi, bà gọi bọn thể nữ lại ban phát những món ăn còn lại. Bà tỏ tình ưu ái đối với thuộc hạ, mặc nhiên gây cảm tình sâu đậm đối với gia nhân, đầy tớ. Họ hết lòng phục vụ, trung thành với bà, người nào cũng muốn được bà để ý, trìu mến.
Bà cũng nghĩ đến hai món phần thưởng đích đáng giành cho Nhung Lữ (tước Vinh Lộc) và Cung thân vương. Bà chưa biết ban ân điển cho ai trước, việc này bà để sau sẽ quyết định.
Nhung Lữ có công cứu giá, phần thưởng phải thật đích đáng. Cung thân vương có công bảo vệ được kinh thành, không phải bằng binh lực nhưng nhờ tài khôn khéo thương lượng với quân thù, vẫn hay triều đình thiệt hại rất nặng nề. Bản thỏa ước đã cưỡng chế áp đặt rất nặng, bà cũng không quên ngay trong vòng tường thành ở kinh đô có bọn người da trắng đến sinh sống, đem theo cả bầu đoàn thê tử, gia nhân, đầy tớ. Tuy vậy chưa thấy có triệu chứng quân bạch chủng không thi hành lời đe dọa của họ phá hủy, san bằng kinh thành. Bà cố quên cung điện Viên Minh, những hoa viên tráng lệ, những hồ nước, giả sơn, những ngôi chùa xinh xinh như treo trên sườn đồi, những kho tàng có biết bao nhiêu của lạ vật quý tàng trữ qua nhiều thế hệ, gom góp trên bốn biển, năm châu, những thư viện phong phú kinh sách kim cổ, những đồ mỹ nghệ, những đồ đạc cực kỳ quý giá. Nghĩ đến cung viện Viên Minh bà liên tưởng căm giận Cung thân vương sao không kịp thời ngăn chặn bàn tay phá hoại của quân dã man để chúng tung hoành tàn phá. Sự tiêu hủy này không phải thiệt hại riêng cho bà, cho quốc gia, đó còn là một thiệt hại chung cho cả nhân loại. Bà quyết định phải tưởng thưởng xứng đáng công huân Nhung Lữ, ngoài việc cứu giá, hắn còn ngăn chặn được bàn tay ngoại xâm phá hoại.
Mặc dù trong thâm tâm bà rất căm thù Cung thân vương, song bà rất mực khôn ngoan không để phát lộ ra sắc diện. Bà sẽ cho triệu thỉnh thân vương vờ để vấn kế. Bà chờ, hôm nào thuận tiện sẽ cho triệu thỉnh. Hôm bàa cho mời thân vương đến là một ngày sau trận mưa tuyết lớn.
Sau bao tháng hạn hán, không có một giọt nước mưa, việc canh tác phải đình chỉ, ruộng đất nứt nẻ, dân gian đói khổ, ngày đêm làm lễ kỳ đảo. Những lời cầu nguyện như đã thấu đến thiên đình, nên đã giáng xuống những trận mưa tuyết lớn, tuyết tràn ngập ruộng vườn, phố phường. Những thửa đất khô khan, rắn như đá, nhờ có mưa, lúa đã nảy mầm. Vài hôm sau, lúa đã xanh mượt đầy đồng. Ở trong hoàng thành người ta xì xầm với nhau bà thái hậu đã bắt các vị thần phải chấp nhận lời cầu nguyện của dân gian.
Một ngày cuối đông sắp sang xuân, tiết trời mát mẻ, thái hậu cho triệu thỉnh Cung thân vương đến tư cung. Thân vương mặc chiếc áo trào màu lam sẫm, cũng như tất cả đình thần, thân vương phải tang chế trong ba năm. Thân vương điệu bộ có vẻ nghênh ngang, bệ vệ, làm bà phát ghét, nhất là cái lối chào hỏi không theo nghi lễ có vẻ suồng sã. Nhưng cần có sự hợp tác của hắn, bà cố nhịn, không hé một lời nào trách móc, than phiền. Bà nói giọng êm ngọt như mật:
- Thân vương cứ tự nhiên, đối với chúng ta không cần phải lễ nghi, kiểu cách. Thân vương là bào đệ của cố hoàng thượng. Trước khi về chầu thiên đế, hoàng thượng có di ngôn lại cần có sự hợp tác của thân vương.
Được mấy lời khích lệ, thân vương đến ngồi ở bên tay mặt ngai. Bà nhận thấy ông này dễ bị phỉnh gạt, xiêu lòng. Bà vào đề:
- Tôi có ý định tưởng thưởng viên quản ngự lâm quân. Tôi chịu ơn cứu giá của viên quản đó, trong khi họa phản loạn mưu định hãm hại. Viên quản đó tận trung báo quốc, việc đó đáng nên tưởng lệ. Trong lúc phong ba, bão táp, lòng trung kiên của hắn không hề bị lay chuyển. Tuy thân mạng tôi cũng không có gì là quan hệ song nếu giá thử tôi chết, quân phản loạn sẽ soán nghịch ngôi báu, thế tử bị hãm hại. Tôi tưởng thưởng cho viên quản đó không phải vì tôi mà cho con tôi hoàng đế, cho tất cả toàn dân, vì nếu mưu đồ của bọn loạn thần thành công, triều đại này phải cáo chung.
Cung thần vương không nhìn bà, ông rất thính tai, trí óc sáng suốt, suy đoán rất nhanh, ông hiểu ngay ẩn ý trong lời bà trần thuyết đó.
- Tâu thái hậu, thái hậu định ân hưởng gì?
Từ Hy biết chọn đúng lúc để nói lên ý định của bà có đã lâu; Bà nói thẳng không cần phải quanh co, rào trước đón sau.
- Từ khi Tải Thản chết, chức vụ quân cơ mật viện vẫn khuyết tịch, ý tôi muốn bổ nhiệm Nhung Lữ vào chức vụ đó.
Bà nói xong, ngẩng cao đầu, nhìn thẳng vào mặt thân vương để xem sắc diện có phản ứng không? Thân vương vẻ mặt vẫn thản nhiên.
- Không thể được.
- Sao lại không thể được? Ý ta muốn là phải được.
Thân vương và thái hậu cả hai đều có nét mặt lạnh lùng. Đột nhiên thân vương vẻ mặt trở nên cương quyết, ông nói:
- Tâu thái hậu, hiện nay ở trong này có nhiều lời xầm xì, đồn đãi rất bất lợi cho thái hậu. Tôi hết sức đả phá để bảo toàn danh dự cho ngôi báu và tộc đảng. Tôi không sao bịt được mồm thiên hạ.
Từ Hy tảng lờ làm ra vẻ ngây thơ, hỏi lại:
- Người ta đồn gì?
Bà còn trẻ quá, rất có thể chuyện này có thật, nhưng bà làm ra vẻ ngây thơ, vờ như không hiểu, không biết. Thân vương còn ngờ ngợ, ông đã quyết định không nên bới ra. Ông ngập ngừng một lúc lâu, rồi nói:
- Nhiều khi người ta hỏi tôi, ấu vương có phải là chính thống không?
Bà Từ Hy quay mặt nhìn đi chỗ khác, hai mắt chớp chớp, lấy chiếc khăn tay lụa để lên mồm, che hai môi run run. Bà nói như rên rên:
- Mấy người đối nghịch với tôi đã chết, tôi tưởng thế là xong, chuyện đã êm, sao lại còn nảy ra lắm chuyện nữa?
- Tôi mạn phép nói ra vì uy quyền, vì thanh danh của thái hậu. Tôi không có ẩn ý gì khác, tôi không thuộc về địch thù của thái hậu.
Đột nhiên bà nổi cơn lôi đình.
- Đáng lý thân vương phải giết ngay những đứa nào cả gan lăng mạ đến tôi. Bọn đó phải triệt hạ ngay không một chút do dự. Nếu thân vương không dám, thân vương báo cho tôi biết, tôi sẽ xử trị lấy.
Có thật bà bị hàm oan không? Chuyện này không bao giờ ông rõ hư thực. Thân vương không nói gì, ngồi im.
Bà đang ngồi, đứng nhỏm dậy nói:
- Tôi không cần thảo luận với thân vương. Ngay ngày hôm nay, tôi sắc phong Nhung Lữ xung vào chức vị quân cơ mật viện đại thần. Nếu tôi nghe thấy ai dám vu cáo, tôi sẽ...
- Tâu thái hậu, thái hậu sẽ xử trị ra sao, nếu tất cả đình thần, mọi người cùng xì xào một luận điệu đó?
Bà cúi đầu sát mặt thân vương, bất chấp mọi lễ nghi.
- Tôi sẽ bắt chúng phải câm họng, tôi ra lệnh cho thân vương phải im, cấm không được nói.
Lần này là lần thứ nhất suốt trong bao nhiêu năm, một sự xích mích bộc lộ công khai giữa hai người. Tuy nhiên, muốn giữ tình thân thiện không bị đổ vỡ, cung thân vương hịu khuất phục, ông nói:
- Tâu thái hậu, nếu có điều gì xúc phạm đến tôn uy, xin thái hậu tha thứ.
Ông nói xong, đứng dậy, khấu đầu để cáo lui.
Với giọng mềm mỏng để vỗ về, bà nói:
- Tôi không hiểu sao tôi lại nói với tôn thân vương như thế, tôi đã chịu ơn thân vương rất nhiều. Đáng lẽ tôi phải xin lỗi thân vương.
Bà giơ cao một bàn tay, ngăn không để cho thân vương phân trần, bà nói tiếp:
- Thân vương hãy thong thả, đừng đi vội. Tôi có ý định muốn giành cho thân vương một ân điểm đặc biệt nhất. Thân vương sẽ được vinh thăng: Tối cao ngự tiền cố vấn đại thần, với một nguyệt bổng tương xứng với chức vụ. Theo điều khoản trong sắc chỉ của tôi đúng ra của chúng tôi, với sự đồng ý của bà đồng nhiếp chính với tôi, tước quận công cố hoàng thượng ân thưởng cho thân vương sẽ trở thành thế tật.
Thân vương hết đổi ngạc nhiên được đặc thù, vinh thăng một tước hiệu cao tuyệt đỉnh. Ông khấu đầu một lần nữa để cảm tạ hoàng ân, cung kính trình bày:
- Muôn tâu thái hậu, hạ thần không dám xin một ân thưởng nào để làm tròn sứ mạng được giao phó. Hạ thần đã hết lòng phục vụ huynh trưởng va cũng là cố hoàng thượng. Ngày nay hạ thần cũng lại phục vụ thế tử cũng là đương kim ấu chúa và phục vụ lưỡng cung cũng là nhiếp chính vương. Thái hậu xem như vậy hạ thần có bao nhiêu trọng trách, hạ thần không cần phải được ân thưởng mới làm tròn nhiệm vụ.
- Thân vương phải chấp nhận lời đề nghị của tôi.
Một cuộc đấu khẩu, giằng co, rất nhã nhặn, lịch sự giữa hai bên, một bên đề nghị ân thưởng, một bên khước từ, rồi rốt cuộc đi đến một sự thỏa thuận, cung thân vương chấp nhận.
Thân vương nói:
- Xin thái hậu cho phép hạ thần được khước từ chức tước về hai chữ thế tập. Theo tục lệ trong họ hạ thần, không muốn con cái sau này được hưởng thụ chức viï của ông cha. Về quyền vị, chức tước, con cháu hạ thần phải tự tạo lấy không thể ỷ lại vào ông cha chúng.
Bà thái hậu nghe nói cũng thấy hợp lý.
- Được rồi, vấn đề đó để lại sau này sẽ quyết định, bây giờ tôi muốn tôn thân vương chấp nhận cho tôi một đặc ân.
- Xin phụng chỉ.
- Tôi muốn tôn thân vương cho phép tôi kết nạp lệnh nữ Nhung Chuân làm nghĩa nữ và lập làm công chúa hoàng gia. Được như thế tôi rất mãn nguyện và yên chí công huân của thân vương trong việc diệt trừ phản loạn đã được đền đáp phần nào.
Cung thân vương chấp thuận, con gái ông được tuyển trạch vào cung, lập làm công chúa. Cô này khéo chiều chuộng, phục vụ bà thái hậu, tỏ ra rất mực trung thành. Bà cho phép cô được dùng rèm bằng vóc vàng ở cửa xe song loan, một quyền riêng cho các công chúa cùng huyết thống.
Kế hoạch bà khởi thảo dần dần được thực hiện. Bà làm rất thận trọng, đắn đo, suy nghĩ, không hấp tấp, vội vàng. Trong các dự án của bà, có khi xen kẽ một hạt giống rất nhỏ, một sở vọng, bà để cái hạt giống đó nằm yên trong một năm, hai năm, hay có khi cả mười năm, cái hạt giống đó trồi mầm, nảy rễ.
Mùa hạ đến. Gió đông nam thổi tới, đem theo sương mù, mưa bụi và mùi mặn mặn ở ngoài biển đưa vào. Bà hoàng thái hậu thích nước, bà vẫn thường thưởng ngoạn các hồ nước, song ngòi, ao lạch, bà chưa có dịp nhìn thấy biển cả. Về hè thời tiết mỗi ngày một nóng, sau những bức tường thành, không khí có vẽ nặng nề, ngột ngạt, bà nghĩ càng thấy tiếc cung Viên Minh ở Nguyên Minh Nguyên. Hiện nay ở đó chỉ còn lại hoang tàn, đổ nát. Vấn đề tái tạo, bà chưa có thể giải quyết được. Nhưng còn lại một cung nhỏ hơn gần biển gọi là Dương Hải cung. Sao bà không cho sửa sang lại làm một nơi để nghỉ mát vào mùa nóng?
Bà ra chỉ thị cho sửa sang gấp rút.
Bà quyết định đi thừa lương ở Dương Hải cung với các thể nữ, thái giám.
Tuy đường rất ngắn, chưa đầy một cây số ngàn, nhưng sự di chuyển rất ồn ào, rộn rịp, song loan, võng, lọng, cờ xí, một đội lính kỵ mã đi dàn hầu, ngự lâm quân đi trước mở đường đề phòng mọi sự bất trắc. Bà thái hậu biết ở Dương Hải cung có ba tòa lâu đài rất đẹp. Đã có một mùa xuân, bà đến đó dự lễ cúng vị tổ nghề trồng dâu chăn tằm. Bà ngự thuyền rồng, ngao du trên biển hồ, nơi đó được mệnh danh là Tam Hải, bà thưởng ngoạn bọn thái giám và nhân viên ở các phủ bộ trượt tuyết trên lớp tuyết dày ở mặt hồ, nơi đó gọi là Bắc Hải. Biển hồ có đã lâu, do một vị hoàng đế nhà Nguyên ở triều đại trước sáng lập. Ông vua thủy tổ, triều đại nhà Minh là người Hán đã cho tu bổ, sửa sang cung điện thật nguy nga tráng lệ, bắc những chiếc cầu nhỏ đến các cù lao nhỏ giữa hồ, dựng lên những viên đình, chạm trổ, sơn, vẽ rất cầu kỳ. Có những tảng đá lớn, hình thể rất đẹp từ các tỉnh miền Nam và Tây Bắc đem đến để trang trí các hoa viên. Người ta cũng thấy những cây cổ thụ được chăm nom, săn sóc rất kính cẩn như người, những cây đó được phong tước hầu, tước bá. Ở điện Quang Minh có những pho tượng Phật lớn, người ta gọi là Ngọc Phật; tuy pho tượng không bằng ngọc song trạm trổ rất công phu một tảng đá trong suốt ở Tây Tạng. Tiên đế Càn Long rất thích Dương Hải cung nên ông đã đặt tên rất hoa mỹ cho các cung điện ở đó như Thủy Hoa Tinh cung, Phong Lan điện, Tuyết cung...
Dương Hải cung có nhiều chuyện rất thần kỳ, bà thái hậu biết qua các sách bà đọc. Bà thích nhất Mạc Tưởng cung. Theo truyền thuyết, vua Càn Long cho xây dựng cung này cho Hương ái phi. Nàng, nguyên là vợ của hoàng tử Kashgaria ở Thổ Nhĩ Kỳ, vua Càn Long say mê sắc đẹp nàng, muốn đoạt đem về cung. Vua Càn Long phái một đạo quân đánh hoàng tử Kashgaria, ông này bại trận, tự sát. Vua Tàu đắc thắng, bắt nàng công chúa ông hằng mong ước, như chiến lợi phẩm. Nàng công chúa một dạ trung thành với chồng, nhất định không chịu phục vụ ông vua. Mất bao nhiêu công trình, huyết hãn, tốn công, tốn của, ông vua mới chiếm được nàng. Tuy đã có được nàng trong tay, ông vẫn chưa thõa mãn được lòng dục vọng, ông cố chiều chuộng dỗ dành, cho xây cất một cung điện tuyệt đẹp, nàng ra đó nhìn về cố quốc nay xa xăm. Bà hoàng thái hậu hết lời khuyên can vua không nên theo đuổi nàng ta nữa.
Một hôm mùa đông, khi ông vua đang bận cúng lễ, bà hoàng thái hậu cho triệu nàng công chúa Hương đến, bà cho nàng tự chọn một trong hai đường: Một là theo ý vua, hai là chết. Nàng công chúa bằng lòng chết để trọn nghĩa với người chồng trước. Bà hoàng thái hậu cho người đưa nàng đến một gian phòng xa, nàng lấy dây lụa, thắt cổ tự tử, chết. Người thái giám thân tín đến cấp báo cho vua biết, ông vua đang làm lễ, vội vàng chạy đến, nhưng hỡi ơi, nàng đã ra người thiên cổ.
Bà Từ Hy ở một lâu đài lớn nhất, gần biển, đó là Từ Hòa cung. Bà thích hoa viên có núi non bộ, những hồ nước, những dải đất trồng hoa. Không như ở Viên Minh bà cùng các thể nữ ăn mặc hóa trang các tiên nga, nhởn nhơ đi chơi ở hoa viên. Từ ngày đức vua băng hà, ở đây bà cho diễn những vở tuồng có nội dung triết lý nhân sinh.
Trong khung cảnh sơn dã, cỏ cây đó, khi bà thấy những mưu định thầm kín của bà đã chín mùi, cần đem ra thực hiện bà cho gọi Nhung Lữ đến. Không bao giờ cùng một việc bà cho thi hành một lúc hai quyết nghị để không ai có thể đoán những mưu đồ thầm kín của bà. Vì thế bà để bẳng cách hai tháng từ ngày gặp con gái Cung thân vương làm nghĩa nữ. Người ta có thể ngờ bà cho gọi Nhung Lữ đến để thõa mãn một dục vọng thầm kín, nhưng bà quá khôn ngoan, dù có muốn cũng không bao giờ làm như vậy.
Bà xem các kép hát đóng trò toàn là thái giám. Không có một đào hát nào vì cố thái hậu đứt tiên đế Càn Long là một đào hát. Để tỏ lòng cung kính, người ta cấm đàn bà không được làm nghề đào hát. Hôm đó người ta diễn vở tuồng "Đứa trẻ mồ côi, dòng họ Thiệu". Sự tích này bà biết rõ lắm.
Để khỏi mếch lòng bọn kép hát, bà vừa ăn kẹo vừa làm ra vẻ chăm chú coi hát, nhưng sự thật trong óc bà đang theo đuổi những ý nghĩ thầm kín. Làm sao bà không cho gọi Nhung Lữ đến ngay đây trước mặt tất cả mọi người cho hắn biết quyết nghị của bà? Nhưng trước khi công khai phong cho hắn chức Quân cơ mật vụ đại thần, phải biết trước hắn có nhận không? Bà ra hiệu bảo tên thái giám Lý Liên Anh đến gần.
- Ra truyền cho người anh họ ta vào trình diện.
Tên thái giám khấu đầu, lùi ra, mỉm cười, vừa đi vừa bẻ khục tay. Bà làm ra vẻ mê coi hát. Các thể nữ vây quanh bà, tuy đứng coi hát nhưng mắt lúc nào cũng phải để ý đến bà, xem bà có sai bảo gì không? Vì thế người thể nữ Mai thấy bà nhìn mình, liền vội vàng chạy đến, cúi đầu trước mặt bà, Bà truyền:
- Đứng sát gần ta.
Bà thái hậu ghé mồm sát vào tai người thiếu nữ nói rất nhỏ không ai có thể nghe thấy, trong khi các kép đang hát trên sân khấu.
- Ta không quên những lời ta đã hứa với con, hôm nay ta cho thực hiện lời hứa đó.
Mai nghe bà nói, cúi gầm mặt để che giấu khuôn mặt ửng đỏ.
Bà mỉm cười nói:
- Con cũng nhớ được lâu nhỉ?
- Làm sao con có thể quên lời thái hậu đã hứa với con.
- Ta cho thực hiện lời ta đã hứa.
Trong ánh nắng chan hòa, hình bóng một con người cao lớn, đầu ngửng cao, dáng điệu hiên ngang, tiến lại khán đài phía giữa dành riêng cho hoàng gia. Nhung Lữ mặc bộ nhung phục tang chế màu lam sẫm, chiếc kiếm treo bao bằng bạc sáng loáng đeo ở dây lưng lủng lẳng bên hông. Bước chân mạnh bạo, vững vàng, hắn đến dưới chiếc bàn, ngừng lại, khấn đầu. Bà thái hậu nghiêng đầu khẽ đáp lễ, ra hiệu bảo hắn ngồi bên ngai. Nhung Lữ do dự rồi ngồi xuống.
Bà làm như không để ý đến hắn một lúc lâu, anh kép nhất tiền ra sân khấu, hát một bài, hai mắt bà chăm chú nhìn lên sân khấu. Đột nhiên không quay đầu lại bà nói:
- Ta có ý định đã lâu việc tưởng thưởng anh sao cho tương xứng với công lao anh cứu giá ấu chúa và ta.
- Tâu thái hậu, hạ thần chỉ mong làm tròn bổn phận một thần dân.
- Vẫn hay vậy, nhưng anh đã có công lớn cứu tử.
Nhung Lữ lại nhắc lại:
- Đó là bổn phận của hạ thần.
- Có lẽ anh tưởng tôi đã quên, không có gì ta quên hết. Dù anh muốn hay không ta cũng tưởng thưởng, ý tôi muốn anh phải chấp nhận. Anh được bổ sung vào chức vụ của anh loạn thần Tải Thản vẫn để khuyết tịch.
Nhung Lữ nghe nói có vẻ nóng nảy, bực bội:
- Tâu thái hậụ..
Vừa mới nói, bà thái hậu giơ tay cản lại, không cho nói.
- Anh phải chấp nhận. Ta cần đến sự hiện diện thường trực của anh. Bây giờ tôi biết tin cậy vào ai? Vẫn hay Cung thân vương hết dạ trung thành. Tôi chắc anh cùng một quan niệm đó. Tôi cũng tin cẩn hắn song không có tình.
Nhung lữ khẽ lẫm bẫm, nói:
- Xin thái hậu đừng nói thế.
Trên sân khấu, tiếng hát, trống, phách ầm ầm, bọn thể nữ la hét, họ liệng lên sân khấu hoa và kẹo thưởng cho bọn kép hát.
- Lúc nào tôi cũng mến anh.
Nhung Lữ ngồi yên không ngoảnh cổ lại.
- Tôi biết anh cũng thương mến tôi.
Nhung Lữ vẫn ngồi yên không nói gì.
Bà không nhìn lên sân khấu, quay lại nhìn thẳng vào mặt Nhung Lữ, bà hỏi:
- Có phải thế không anh?
Nhung Lữ hai mắt nhìn lên sân khấu, khẽ nói:
- Tôi không muốn vì tôi mà cơ nghiệp sụp đổ; bây giờ bà đã lên tột đỉnh danh vọng.
Anh làm cố vấn, tôi có thể bất cứ lúc nào cho mời anh đến, anh sẽ cùng tôi gánh vác, lo toan công việc trong nước. Bao giờ cũng vậy, nhiếp chính vương cần có sự hợp tác của các thân vương, các vị cố vấn và các quan trong triều.
- Nếu cho gọi tôi mà không có sự hiện diện của các vị cố vấn khác tôi không tuân theo.
- Anh sẽ phải tuân lệnh.
- Nếu như vậy sẽ thương tổn đến thanh danh của bà.
- Ta có cách bảo vệ thanh danh, ta sẽ chọn một người để cưới cho anh làm vợ. Nếu anh có một người vợ trẻ đẹp sẽ bịt mồm tất cả mọi người.
Nhung Lữ hai hàm răng rít lại, nói như người huýt sáo:
- Tôi không lấy vợ.
Trên sân khấu một danh ca chạy ra chào khán giả rồi ngồi xuống ghế. Người ta đem lại cho người ca sĩ một chén trà và một chiếc khăn. Người này bỏ chiếc mũ nặng trịch trên đầu, lấy chiếc khăn lụa úp lên mặt. Trong rạp tuồng nhỏ ở hoàng cung, bọn thái giám thỉnh thoảng bưng lại cho khán giả những chiếc khăn nhúng vào nước nóng có tẩm nước hoa, vắt kiệt. Lý Liên Anh bưng lại bà hoàng thái hậu trên một chiếc khay bằng vàng một chiếc khăn nhúng nước nóng, thơm ngào ngạt. Bà sẽ đặt lên hai bên thái dương, lau hai bàn tay. Khi người thái giám đi khỏi, bà lại tiếp tục nói rất khẽ:
- Ta hạ lệnh cho anh phải lấy thiếu nữ Mai. Anh không có điều gì phải thắc mắc. Một người con gái rất hiền, nhu mì, nết na, người đó lại yêu anh.
- Lệnh bà có thể nào bắt trái tim tôi, tâm hồn tôi tuân theo ý của lệnh bà?
Bà thái hậu nét mặt giận dữ:
- Tôi không bắt anh phải yêu nó.
- Nếu người đó nết na được như lệnh bà nói, tôi rất có lỗi, vì lấy người ta trái với tâm ý tôi.
- Nhưng nếu nó biết anh không yêu nó mà nó vẫn lăn vào lấy anh, như thế anh nghĩ sao?
Nhung Lữ ngồi im suy nghĩ.
Trên sân khấu, một ca sĩ trẻ mới vào nghề, đang gân cổ hát, trong lúc đó các thái giám bưng những khay bánh kẹo đi qua các hàng ghế khán giả. Không ai để tai nghe một anh kép non hát, tất cả mọi người quay lại nhìn bà thái hậu. Bà cảm thấy những con mắt tò mò đang để ý nhìn bà, bà nghĩ nên cho Nhung Lữ rút lui.
Bà nghiến răng ra quyết nghị:
- Anh không được trái lệnh của tôi. Anh phải chấp nhận cuộc hôn phối này và cùng ngày hôm cưới anh nhận chức cố vấn. Bây giờ cho phép anh rút lui.
Nhung Lữ đứng dậy, kính cẩn khấu đầu. Hắn im như thể là hắn đã chấp nhận. Bà sẽ nghiêng đầu đáp lễ rồi quay mặt lên sân khấu làm như có vẻ mê say, thích thú về tích tuồng đang diễn.
Trong đêm khuya tĩnh mịch, bà nhìn lại trong trí nhớ cảnh trên sân khấu. Bà không nhớ khi Nhung Lữ đi rồi, họ diễn những tích gì. Lúc đó bà vẫn ngồi yên tại chỗ, tay cầm chiếc quạt, tuy mắt nhìn lên sân khấu nhưng không thấy gì, trong lòng chỉ thấy đau nhói. Bà chỉ yêu một người, yêu đến trọn đời. Bà muốn người đó là một người tình, không muốn nhận người đó là một người chồng.
Như con chim bị nhốt trong lòng, lăng xăng muốn tìm chỗ thoát ra ngoài nhưng không có một chỗ nào có thể lọt được ra, tâm trạng bà lúc này mông lung suy nghĩ, chợt nhớ một lần Cung thân vương nói chuyện về nữ hoàng Anh Cát Lợi. Ta đã tự tạo, tự chiếm lấy ngôi cửu ngũ.
Nhưng quyền lợi có thích hợp cho người đàn bà không? Bà nằm trằn trọc suốt đêm trên chiếc giường rộng lớn, không sao ngủ được... Tiếng chiêng đánh hai tiếng, đã sang canh hai. Bà thao thức nằm yên, trong lòng buồn bã đau đớn. Đã lỡ sinh ra làm đàn bà, sao bà không giữ hoàn toàn bản năng là một người phụ nữ, từ khước ngai vàng, lấy chồng, lấy người mà bà thương yêu. Làm sao bà lại có tham vọng để tâm hồn ray rứt, xác thịt giày vò? Sự hưng, vong của triều đại có can dự gì đến bà?
Bà đã thấy thực trạng của bà, bà có phụ tính về sở dục những nguyện vọng thầm kín, nam tính với khát vọng quyền lực. Sự hùng vĩ và quyền uy là hai thứ cần thiết nhất cho bà. Tình mẫu tử của bà đối với con không hẳn thuần túy là phụ tính. Bà rất sáng suốt và cương nghị, hiểu ngôi vị của mình, đối với con ngoài tình mẫu tử, máu huyết, bà còn đứng trên cương vị hoàng thái hậu, con trai là hoàng đế. Sự vui thích về tình mẫu tử đối với bà chưa đủ. Nghĩ thật oái oăm, một trái tim biết rung động, đa tình, đa cảm, lại có một khối óc siêu nhân. Bà nằm yên không trở mình, âm thầm khóc. Bà nghĩ ta chưa biết yêu, ái tình đối với ta chưa có đủ mãnh lực để ta phải từ khước hết thảy vì ái tình. Vì sao vậy? Vì ta chưa hiểu rõ thế nào là tình ái. Nếu ta giới hạn về ái tình, tim ta sẽ khô héo, mà nếu ta chịu khuất phục sự cám dỗ của tình ái, ta sẽ căm thù người yêu của ta.
Tiếng chuông lại đổ, tiếng người lính tuần canh kêu to: Canh ba. Tâm trí bà miên man nghĩ về ái tình, trong lòng vô cùng buồn bã. Nếu dự tính của bà thành. Nhung Lữ chịu lấy thiếu nữ Mai, bà có thể chắc chắn sẽ gặp hắn trong một căn buồng bí mật ở trong cung. Người thái giám sẽ lo việc canh phòng, nếu sự trung thành của tên này xét thấy có điểm nào đáng ngờ, ta chỉ truyền một câu là mũi dao đâm thẳng vào giữa tim.
Nếu suốt đời bà chỉ được gặp người bà yêu vài lần, bà đã thật sung sướng, mãn nguyện, như được cả một kho tàng. Bà có thể ngự trị trên trái tim mình không? Có thể được bao nhiêu lâu? Trong khi bà ngự trên ngai vàng, có một người đàn bà nằm bên cạnh Nhung Lữ. Dù sao hắn cũng chỉ là một thằng đàn ông, hắn liệu có nhớ trái tim hắn là của bà hoàng thái hậu, chứ không thuộc người đàn bà trong vòng tay hắn?
Bà nghĩ thế, lòng nổi cơn ghen, nước mắt chảy ràn rụa, bà ngồi nhổm dậy, quẳng chiếc gối thêu ra xa, bà ngồi bó gối, nức nở, âm thầm khóc không ra tiếng.
Chiêng lại đổ, tên lính cầm canh hô to: Canh tư.
Bà đã thấm mệt, lại nằm vật xuống giường. Dù sao tâm hồn vẫn là của một người đàn bà, nữ nhi thường tình. Một người đàn bà tài ba, mưu lược mà cũng mưu cao, vọng lớn, tình duyên bị lỡ làng. Nước mắt lại tuôn rơi rạt rào.
Đột nhiên, bà cảm thấy trong lòng nổi lên một hung khí. Nếu theo tiếng gọi của trái tim, nếu vì sự ghen tuông thường tình, cục diện đời bà sẽ hoàn toàn thay đổi. Nhưng không, tính cương nghị, lòng quả cảm đã gạt bỏ tất cả để phụng sự cho một mục tiêu cao cả.
Bà lẫm bẫm khẽ nói một mình: "Dù sao ta cũng phải chiến thắng lòng dục vọng nhỏ nhen". Tin tưởng vào sức mạnh của tâm hồn, bà phấn khởi. Bà tổng kê những ý nghĩ, tư tưởng, gạt bỏ những cặn bã, những ý nghĩ bậy bạ, điên khùng, lòng tự cao, tự đại, mơ tưởng một gia đình trong hoàng cung một nơi vắng vẻ...không khi nào hắn chịu nghe theo làm một việc ô nhục, mờ ám đó.
Nếu nàng không chịu từ khướt tất cả để yêu chàng thì vì lòng tự ái, chàng không khi nào yêu chàng một cách lén lút, âm thầm.Chàng còn ít tuổi, trong trắng. Bà đã được hưởng trái đầu mùa, lần đầu tiên trong đời chàng, kỷ niệm đó bà giữ vững trong kí ức. Không bao giớ hắn chịu chiều theo ý bà lần thứ hai.
Bà nghĩ mối tình ta đối với chàng in sâu trong tâm khảm, âm thầm mà bền vững và chàng sẽ tuyệt đối trung thành với ta. Nghĩ như thế bà thấy tâm hồn thư thái, trở lại bình tĩnh.
Tiếng chuông lại đổ, người lính cầm canh hô to:
- Trời đã sáng, tứ phương vô sự.
Bà ấn định một ngày rất gần để làm lễ thành hôn cho người thiếu nữ Mai.Việc cưới gả này bà muốn càng sớm càng hay. Có một vấn đề cần phải giải quyết, người thiếu nữ này không có nhà riêng, phải cần một nơi trú định ngoài cung điện trong hoàng thành. Bà cho gọi viên tổng quản thái giám đến. Người thái giám này, lâu nay phè phỡn rượu thịt, ăn uông suốt ngày.
Khi người thái giám đến trình diện, bà đang đọc sách, ngước mắt nhìn hắn, bà nói có vẻ khinh bỉ:
- An Đắc Hải, ta xem ý nhà ngươi độ này bê tha quá, ăn lắm, uống nhiều, mỗi ngày mỗi mập.
Tên thái giám làm ra nét mặt rầu rầu, thưa:
- Tâu thái hậu người ta bảo con là cái bong bóng trâu, nếu người ta chọc thủng, nước ở trong chảy ra, chứ không phải mỡ. Tâu mẫu hậu, con bị phù thũng.
Nét mặt bà nghiêm nghị, nghe tên thái giám biện bạch, bào chữa. Việc lớn, việc nhỏ, không có một việc gì qua mắt được bà. Tuy có biết bao nhiêu việc đế lo nghĩ nhưng bà vẫn để ý mọi việc trong nội đình từng chi tiết nhỏ. Bà nói:
- Ta biết mi ăn uống vô độ, độ này lo làm giàu. Mi coi chừng đừng có tham lam, nhớ rằng ta để ý đến hành vi của mi.
Tên thái giám khúm núm thưa:
- Tâu thái hậu, chúng hạ thần biết không việc gì qua mắt được đức bà.
Hai mắt bà rất nghiêm khắc, như nảy lửa, nhìn An Đắc Hải. Tên thái giám cúi đầu không dám ngửng mặt lên nhìn bà, nhưng hắn biết hiện đang có luồng nhỡn quang chiếu vào hắn. Hắn sợ lắm, toát mồ hôi. Thấy tên thái giám đứng khúm núm trước mặt, sợ sệt, mồ hôi nhễ nhại, bà mỉm cười, nói:
- Mi trước kia còn dễ nom, làm kép hát đóng trò, bây giờ người mỗi ngày một béo sưng, bụng phệ, làm sao còn hát lỏng, đóng trò được nữa?
Thấy bà thái hậu dịu giọng, hắn đã bớt sợ, cười, hắn cũng thích làm kép hát, hắn thưa:
- Xin tuân theo lệnh thái hậu, con sẽ tự hạn chế việc ăn uống. Bà thái hậu đã có vẽ vui vui, nói tiếp:
- Ta cho gọi mi đến đây không phải để nói chuyện về mi. Ta ra lệnh cho mi, lo liệu, xếp đặt lễ cưới cho người thiếu nữ Mai kết hôn với Nhung Lữ viên quản gia ngự lâm quân. Mi cũng biết hắn phải lấy thiếu nữ Mai rheo lệnh của ta.
- Tâu thái hậu, hạ thần xin phụng chỉ.
Hắn biết hết những gì trong cấm thành. Từ Lý Liên Anh cho đến tên thái giám trẻ nhất, các a hoàn, thị tỳ, việc lớn, việc nhỏ, ai biết tí gì cũng đều đến nói cho hắn biết. Bà thái hậu nói tiếp:
- Người thiếu nữ đó không có cha mẹ, họ hàng. Ta phải nhận làm họ nhà gái. Với tư cách nhiếp chính. Ta cũng làm đại diện cho ấu đế, nhưng không thể cho đặc quyền như một vị công chúa, nên ta không thể thân chinh dự lễ. Vậy nhà ngươi đưa thiếu nữ Mai về nhà người cháu ta là quận công Hậu. Nàng được rước đi với tất cả các nghi lễ. Người anh họ ta sẽ đến đó đón dâu.
- Tâu thái hậu. Thái hậu đã ấn định ngày nào chưa?
- Ngày mai, nhà ngươi đưa thiếu nữ Mai về dinh quận công. Ngay hôm nay hãy đến báo cho cháu ta biết để sửa soạn nhà cửa. Có hai bà cô già tượng trưng cho họ nhà gái. Mi cũng đến báo cho viên quản ngự lâm quân nói ta đã ấn định ngày một là ngày cưới, làm lễ đón dâu. Khi mọi việc xong xuôi hoàn hảo, mi đến nói cho ta biết.
- Tâu thái hậu, hạ thần xin tuân chỉ thi hành.
Người thái giám khấu đầu lui ra ngoài. Bà lại cúi xuống đọc sách, có vẻ như mải miết đọc dở một đoạn sách, không ngửng đầu lên.
hai hôm liền sau ngày hôm đó, bà mải mê đọc sách suốt ngày cho đến đêm khuya. Bọn thái giám phải túc trực, hầu hạ, buồn ngủ quá, lấy ống tay áo che mồm, vừa đi vừa ngáp. Bà đọc rất chậm như để hết tâm trí vào trang sách. Bà muốn có kiến văn rộng, nên chọn đọc những sách có đề tài mới lạ, chưa từng biết, bao quát tất cả mọi lãnh vực. Vì vậy suốt hai hôm, trong khi cử hành hôn lễ của thiếu nữ Mai, do lệnh của bà, để không muốn nghĩ đến việc cưới xin đó, bà nghiên cứu, đọc một cuốn sách về y học chính pháp.
Nhờ đọc sách, bà biết con người ta có tất cả 365 xương, bằng số ngày trong một năm dương lịch, người đàn ông có 12 chiếc xương sườn mỗi bên, 8 dài, 4 ngắn, người đàn bà có 14 chiếc xương sườn. Bà biết máu của người chồng, người vợ và con đổ chung sẽ hòa tan, máu của hai người lạ không thể hòa tan được. Bà cũng biết được những cơ cấu bí mật của loài cá.
Suốt hai hôm bà không thể rời khỏi thư viện hoàng gia, ngoài trừ hai bữa cơm và đêm về cung.
Sang sáng ngày thứ ba, Lý Liên Anh đến bá cáo. Ở xa đã nghe thấy tiếng ho của hắn. Bà ngửng đầu hỏi:
- Có việc gì?
- Muôn tâu thái hậu, viên tổng quản thái giám đã trở về. Bà gấp sách lại. Lấy chiếc khăn tay lụa gài ở trên vai áo bằng một chiếc khuy ngọc thạch.
- Truyền cho hắn vào hầu.
Viên tổng quản thái giám - Truyền cho hắn vào hầu.
Viên tổng quản thái giám bước vào là lễ khấn đầu.
- Mi muốn trình gì, nói gì, ra đứng sau lưng ta.
Bà thái hậu nghe phúc trình của tên thái giám, bà nhìn ra ngoài sân, cửa mở rộng, những bông hoa cúc vàng óng ánh dưới ánh nắng.
An Đắc Hải ra đứng sau lưng bà, tâu:
- Muôn tâu thái hậu, hạ thần xin tâu trình: Mọi việc được tốt đẹp, hoàn hảo, cuộc nghênh hôn đã được cử hành đúng theo nghi lễ, viên quản ngự lâm quân có cho xe song loan đến đón dâu ở dinh quận công Hậu. Hai bà cô già của quận chúa, theo lệnh thái hậu có đi phù dâu. Cô dâu lên xe, khóa cửa, kéo rèm che kín. Bọn phu khênh kiệu về nhà viên quản ngự lâm quân. Hai bà già ngồi chung một song loan. Khi đến nhà viên quản ngự lâm quân có hai người đàn bà già họ hàng với chú rể ra đón dâu vào nhà. Viên quản đứng ở ngưỡng cửa với bà con, họ hàng để tiếp dâu vào nhà.
Bà thái hậu hỏi:
- Người ta có đánh phấn cho cô dâu không?
Tên thái giám vội vàng trả lời:
- Tâu thái hậu, có. Người ta có đeo trên trên mặt cô dâu tấm mạng trinh nữ bằng lụa hồng, theo tục lệ. Người ta cò gài trên mạng che mặt một chiếc yên ngựa bằng bạc, nhỏ xíu. Chiếc yên ngựa kiểu Mông Cổ, chú rể được thừa hưởng của ông cha để lại. Cô dâu vào nhà chồng, bước qua một lò than hồng. Hai vợ chồng quỳ trước bàn thờ, làm lễ cảm tạ trời đất quỷ thần, ông tơ bà nguyệt đã se duyên hai người. Mấy bà già đưa cô dâu vào phòng, đặt cô dâu ngồi trên giường.
- Ai cởi áo ngoài cho cô dâu?
Tên thái giám cười, nói:
- Tâu mẫu hậu, viên quản thái giám, hắn làm chủ nhà. - Ta biết, tính hắn bướng bỉnh, kỳ cục lắm.
Tên thái giám nói tiếp:
- Người ta có bưng cho hai vợ chồng mới hai bát rượu nóng có phủ vóc đỏ. Hai người uống rượu, trao đổi chén cho nhau. Xong lễ hợp cẩn, mọi người ra ngồi bàn dự tiệc.
- Tiệc có lớn không?
- Tâu thái hậu, cũng vừa phải, không sang quá mà cũng không sơ sài quá.
- Rồi lẽ tất nhiên, họ ăn bánh tráng, cháo gà, biểu dương sự trường thọ.
Viên thái giám chờ một câu hỏi thế nào cũng có, việc này quan trọng nhất, ở đâu cũng vậy, dù sang, hèn, ngày hôm nhị hỷ.
Một lúc sau, bà hỏi:
- Thế nào, cô dâu, chú rể đã giao hoan chưa?
Bà hỏi câu đó, hạ thấp giọng, tiếng nói thay đổi khác hẳn trước.
- Dạ, tâu thái hậu, đã. Con thức suốt đêm đến tảng sáng con ở đến nói cho con biết: Theo tục lệ, đến nửa đêm, chú rể đã lấy con dao ở cán cân, cắt chiếc mạng trinh nữ. Đến gần sáng, mấy bà già đưa cho chú rể coi chiếc vải đệm ở giường có giây vết máu. Cô dâu còn trinh tiết.
Bà thái hậu ngồi im. Tên thái giám đằng hắng ho tỏ vẻ đứng chờ lệnh. Bà làm như quên hẳn hắn đứng đó.
- Được rồi mi đã làm đúng lời ta ra lệnh. Mai ta có thưởng.
- Thái hậu nhân đức quá.
Bà ngồi im, mắt nhìn những bông hoa cúc vàng ở ngoài sân. Một con bướm đến đậu trên một cành hoa đỏ, xòe hai cánh vàng. Là điềm tốt hay xấu. Bà sẽ hỏi hội đồng khâm thiên giám, bà nghĩ có lẽ không thể là một điềm cát tường, vì xuất hiện trong lúc bà tan nát cõi lòng. Bà thấy vô cùng đau đớn, việc này chính bà tự xếp đặt, tự tạo ra.
Bà đứng dậy, bọn thái giám theo sau, trở về tư dinh.
Từ hôm đó, tất cả mọi việc, ý nghĩ của bà đều hướng về con. Người con là niềm an ủi duy nhất để hàn gắn vết thương lòng. Những đêm vắng vẻ, âm thầm, bà trằn trọc trên giường không sao ngủ được, trí tưởng tượng giày vò, bà đến giường con nằm. Bà ôm con sát vào lòng, ru con ngủ.
Cậu nhỏ tuấn tú mạnh khỏe, nước da trắng hồng như trứng gà bóc, các thể nữ thường ca tụng: "Cậu này có nước da tuyệt đẹp, trắng nõn, mịn màng như da con gái". Cậu nhỏ thể chất rất đẹp, trời lại phú cho tính thông minh, đĩnh ngộ. Năm cậu lên bốn tuổi, bà mẹ đã lựa một thầy dạy học. Khi cậu lên năm đã đọc thông, không những chữ Mãn Châu mà còn cả chữ Hán. Cậu cầm cán bút như người lớn, chữ cậu viết đã bay bướm, nét chữ rắn rỏi, mạnh bạo, chắc lúc lớn lên nét chữ tuyệt xảo. Cậu có trí nhớ khác thường chỉ nghe đọc qua một trang sách, cậu nhập tâm, nhớ liền. Bà thái hậu đã cấm thầy dạy không được khen cậu quá, sợ làm hư nết con trẻ. Bà bảo thầy dạy cậu nhỏ:
- Tôi cấm không được so sánh cậu nhỏ với các trẻ khác cùng lứa tuổi. Chỉ được tùy theo sự chăm chỉ, cố gắng của cậu mà nói cho cậu biết khi xưa, vào trạc tuổi cậu, đức tiên đế Càn Long học giỏi hơn nhiều.
Tuy bà thái hậu dặn dò viên giảng huấn dạy dỗ con bà phải khiêm nhường, lễ độ, nhưng chính bà đã tập nhiễm cho con tính nết vô cùng kiêu ngạo, tự cao, tự đại. Bà không cho phép viên giảng huấn ngồi trước mặt con bà. Nếu cậu nhỏ tỏ ý ghét vị nào, không thích, bà đuổi vị đó ngay, không cần nghe phân trần, phải trái. Bà đuổi viên giảng sư chỉ nói một câu:
- Đó là theo ý của hoàng đế.
Tuy được hết sức nuông chiều, sống trong cảnh vương giả, cậu nhỏ vẫn giữ được bản tính rất tốt, nếu không đã bị tập nhiễm thói hư, tật xấu. Cậu cho địa vị của cậu là một sự rất tự nhiên, cậu lại có lòng trắc ẩn, từ tâm. Nếu thấy người thái giám bị roi vọt hay con nữ tỳ bị bà thái hậu véo tai, vì trái ý bà, vương nhi nom thấy động lòng trắc ẩn, òa lên khóc, van lơn mẹ tha tội cho họ.
Thấy con có tính đa cảm, đa sầu, bà thái hậu nghĩ liệu sau này con có đủ nghị lực, can trường để cai trị một dân tộc vô cùng lớn lao không? Bà yên chí, vì nhiều lúc bà thấy con cũng lên cơn thịnh nộ, phong độ một quân vương. Một hôm bà phải can thiệp xin cho tên thái giám Lý Liên Anh đã làm vương nhi vô cùng tức giận. Ông vua tí hon truyền lệnh cho tên thái giám Lý Liên Anh ra mua một hộp đàn của một hiệu bán đồ chơi ngoại quốc. Tên thái giám được lệnh của bà là nếu vương nhi sai bảo làm bất cứ việc gì, phải đến trình bà, bà có chấp thuận mới được làm. Tên thái giám đến tâu với bà về việc vương nhi sai đi mua một món đồ chơi ngoại quốc, bà gạt đi không cho. Bà nói:
- Ta không muốn cho con ta chơi một thứ gì của ngoại quốc. Nhưng để khỏi làm trái ý vương nhi, mi ra chợ mua mấy con múa rối như con cọp con giống gì khác làm bằng tre phất giấy để vương nhi chơi.
Tên thái giám tuân lệnh ra chợ mua đem về một gói những con vật nhỏ bằng nan giấy xanh, đỏ, nói dối không tìm thấy cửa hàng người ngoại quốc. Cậu nhỏ biết tên này man trá, cậu nổi cơn phong ba, bão táp. Cậu đang ngồi trên chiếc ngai tí hon, đứng dậy, hai tay khoanh trước ngực, đi quanh phòng, hai mắt trợn trừng.
- Quẳng đi, mi cho ta là một đứa con nít hả? Lý Liên Anh, sao mi dám trái lệnh thiên tử? Vì tội khi quân, mi bị tùng xẻo. Quân lính đâu?
Cậu nhỏ nghiệm nghị ra lệnh võ sĩ đem tên thái giám ra pháp trường về tội nghịch mạng hoàng đế. Các võ sĩ ngập ngừng không dám thi hành ngay mệnh lệnh, phải chờ bà thái hậu can thiệp để cứu tên thái giám. Bà chạy đến bảo cậu nhỏ:
- Con ơi, con không thể giết một người như thế được. Con hãy còn nhỏ, chưa thể thế được.
Cậu nhỏ trả lời mẹ một cách rất chững chạc, uy nghi:
- Tên thái giám đã nghịch mạng đối với hoàng đế Trung Quốc.
Bà thái hậu hết sức kinh ngạc, cậu nhỏ đã biết phân biệt cá nhân của cậu và ngôi vị của cậu. Bà không biết trả lời làm sao. Bà phải tìm lời dịu dàng để cậu nguôi cơn giận.
- Con phải nghĩ đến hậu quả của công việc con làm. Lý Liên Anh phục vụ con rất đắc lực, tên đó rất trung thành, con quên rồi sao?
Ông vui tí hon nhất định không chịu, nằng nặc đòi phải giết tên thái giám, bà thái hậu không biết làm sao phải ra lệnh cấm đao phủ không được thi hành.
Nhân xảy ra câu chuyện đó, bà thái hậu nghĩ, con cần phải có sự dạy bảo, phải có một người đàn ông, trong chức vụ người cha để giáo huấn.
Bà không do dự cho gọi Nhung Lữ đến. Theo lệnh bổ nhiệm, bây giờ Nhung Lữ làm quân cơ mật vụ đại thần. Từ ngày hắn làm lễ thành hôn, bà chưa gặp hắn lần nào. Để tránh những con mắt tò mò, bà mặc chiếc áo đại trào, tiếp Nhung Lữ trong điện thiết triều, xung quanh bà có các thể nữ đứng dàn hầu.
Nhung Lữ bước vào, hắn không mặc nhung phục nhưng với phẩm phục một vị đại thần, áo vóc thêu kim tuyến, đi hia nhung, cổ đeo một sợi dây lớn có gắn châu báu, đầu đội chiếc mũ có gắn viên ngọc đỏ. Bà nhận thấy Nhung Lữ lúc nào cũng có một dáng điệu rất phong độ, đường hoàng, dáng dấp uy nghi, chững chạc. Trái tim bà rung rung như con chim bị nắm chặt trong lòng bàn tay. Bà phải cố nén nỗi lòng, những ý nghĩ thầm kín chỉ riêng một mình mình biết, một mình mình hay.
Bà để cho người anh họ quỳ trước mặt, không cho người đến nâng dậy. Bà nói giọng rất thản nhiên, hai mắt có vẻ mệt mỏi, nhưng rất nghiêm nghị. Sau mấy câu khách sáo chào hỏi, bà nói:
- Con ta đã đến tuổi đi ngựa, bắn cung. Ta còn nhớ khanh có tài kỵ mã và sạ liệp. Ta muốn khanh đảm nhiệm một chức vụ mới: Dạy ấu đế cưỡi ngựa và bắn cung.
Nhung Lữ vẫn quỳ, không ngước mắt lên nói:
- Tâu thái hậu, thần xin phụng chỉ.
Bà nghĩ thầm nom hắn có vẻ hiên ngang, nét mặt lúc nào cũng rất thản nhiên, không thấy hắn nói ra hay lộ vẻ gì về người vợ mới cưới, hắn yêu đương hay ghét bỏ. Ta càng nghĩ càng thấy đau buồn.
Với vẻ mặt rất thản nhiên bà ra lệnh: - Bắt đầu từ ngày hôm nay, buổi sáng ấu để học chữ do giảng sư đảm trách. Buổi trưa và chiều khanh luyện cho con ta học cưỡi ngựa và bắn cung. Hàng tháng, ta tự kiểm điểm lấy sự tấn bộ về hai môn học đó và xem xét cách thức khanh dạy bảo.
- Hạ thần xin tuân lệnh.
Từ ngày đó buổi sáng cậu nhỏ học các giảng sư, đến qúa trưa cậu nhỏ đến với Nhung Lữ.
Một người như Nhung Lữ hình vóc dũng sĩ, phải tốn bao nhiêu tâm trí, công trình khó nhọc để huấn luyện một thằng nhỏ. Thấy thằng nhỏ cưỡi ngựa, phóng chạy như bay, chưa biết sợ là gì, người dũng sĩ lo ngại sợ xảy ra chuyện chẳng lành. Cậu học trò vương giả này có con mắt nhìn rất chính xác, cánh tay cứng rắn, có thể trở thành một người thiện xạ. Khi bà thái hậu có các thể nữ đi tháp tùng đến xem xét việc tập luyện của con, bà sung sướng khi thấy con tập luyện rất tiến bộ.
Mối tình liên lạc giữa bà hoàng thái hậu, ông thầy dạy võ và cậu học trò võ mỗi ngày một thêm khăng khít. Bà tỏ lời khen ngợi rất khiêm nhường:
- Con tôi tập luyện tấn tới, cái đó là lẽ tự nhiên không có gì lạ.
Trong lòng bà vừa đau buồn vừa sung sướng, song bà không phát lộ trên nét mặt. Bà thấy hai người được gần gũi, khăng khít như hai cha con.
Một hôm, cung thân vương vào bệ kiến, tâu:
- Tâu thái hậu, hạ thần cho triệu thỉnh về kinh hai vị tướng: Trương Quế Phân và Lý Hồng Chương.
Theo lệ thường như mọi ngày, lúc đó bà thái hậu sắp ra xạ trường cùng với đoàn thể nữ. Bà nghe cung thân vương đến tâu, bà đứng dừng lại ở ngưỡng cửa phòng tiếp tân. Thân vương là người duy nhất được bà nói chuyện trực tiếp, đối diện, vì thân vương là bào đệ của cố hoàng thượng. Tuy vậy bà giận lắm vì thân vương đã tự ý đến, không có lời bà triệu thỉnh. Không có một người nào dám tự tiện làm như vậy.
Bà cố nén sự bực tức, dáng điệu uy nghi, bà quay trở lại, lên ngồi trên ngai. Với tư cách hoàng thái hậu, kiêm nhiện quyền nhiếp chính vương, bà muốn thân vương phải đứng dưới. Khi thấy thân vương, không có lệnh của bà, tự tiện đến ngồi ở cạnh ngai phía tay mặt sau khi đã làm lễ khấu đầu, bà tỏ vẻ lạnh lùng, ngồi im không nói; vì không tiện nhìn vào thẳng mặt thân vương, bà nhìn chiếc khuy áo bằng ngọc xanh ở cổ áo thân vương.
Thân vương không chờ thái hậu nói, ông đã lên tiếng trình bày mục đích cuộc hội kiến.
- Tâu thái hậu, nếu là việc thường có thể giải quyết được một mình, hạ thần không dám đến làm phiền thái hậu. Hàng ngày hạ thần nhận được công văn ở miền Nam gởi tới báo cáo về chiến tận chống quân phán loạn.
Bà thái hậu nói với vẻ lạnh lùng:
- Ta cũng đã rõ về chiền trận đó, nên cách đây một tháng ta đã hạ lệnh cho tướng Trương Quế Phân đổ quân vây hãm Nam Kinh.
Thân vương vô tình không biết bà thái hậu trong lòng bực tức, ông nói tiếp:
- Tâu thái hậu, quân ta có bao vây Nam Kinh song bị đẩy lui. Cách đây 15 hôm, quân giặc tuyên bố ý định tấn công Thượng Hải. Những nhà buôn lớn ở tỉnh đó, người Hán và người da trắng, lo sợ không tin cậy vào quân đội hoàng triều, đã tự lập quân đội riêng để bảo vệ tỉnh đó.Vì vậy, hạ thần cho triệu thỉnh về kinh hai tướng để trình bày đường lối, kế hoạch đối phó.
Để tỏ vẻ bất mãn, bà nói:
- Thân vương có nhiều sáng kiến.
Câu nói đó làm Cung thân vương hết sức ngạc nhiên. Thường nhật, bà thái hậu tỏ ra có nhiều thiện cảm với thân vương và thường tán thưởng những quyết nghị của ông. Ông rất trung thành một lòng phục vụ triều đình; tình thế trong nước rối ren, ông đảm nhận rất nhiều trọng trách... Ông nghĩ dù có tài ba thế mấy, bà thái hậu chỉ là một người đàn bà, mà là một người đàn bà thì không thể điều binh khiển tướng để đương đầu với mặt trận khốc liệt ngày nay đã làm rung chuyển đến nền móng của cả một quốc gia, triều đại nhà Mãn Thanh đang bị đe dọa nghiêm trọng... Quân giặc như vết dầu loang, lan tràn khắp các tỉnh miền Nam, bao nhiêu đô thị, quận, huyện bị tàn phá, làng mạc, mùa màng bị đốt cháy, dân cư lầm than, lòng người phân hóa. Nạn nhân của chiến cuộc có đến hàng triệu, suốt mấy năm khói lửa, quân đội hoàng triều xem ra bất lực. Cuộc nổi loạn như một trận cháy rừng không sao dập tắt được. Thấy tình thế, mỗi ngày một trầm trọng, Cung thân vương cho triệu hồi hai tướng Trương Quế Phân và Lý Hồng Chương về kinh để thảo luận đường lối chống giặc. Khi hai tướng tới kinh, thân vương nghĩ sáng kiến này liệu bà thái hậu có đồng ý không? Trong thâm tâm ông rất ghen tức, bà thái hậu để ý và tán thưởng những lời bàn bạc của Nhung Lữ, cho là xác đáng, quan hệ. Tuy nghĩ vậy nhưng ông không để lộ ra ngoài. Ông có nghe nói bà rất để ý những sáng kiến của Nhung Lữ. Ông chưa kiểm chứng những lời đồn đó có đúng hay không, chỉ có thể hỏi viên tổng quản thái giám mới biết rõ hư thực.
Ông cố nhịn nhục trước thái độ kiêu hãnh của bà, ông nói:
- Tâu thái hậu, hạ thần tự biết có lỗi đã đi vượt quá nhiệm vụ. Tuy vậy công việc của hạ thần cũng nhằm để phục vụ hữu ích cho quốc gia và vương triều.
Cái lối tự phụ, tự giải thích ấy, bà thái hậu ghét lắm. Với một giọng rất lạnh nhạt, bà nói:
- Tôi không nhận lời xin lỗi của ông. Cái đó không cần thiết, lỗi hay không ông tự hiểu.
Thân vương nghe càng thêm kinh ngạc, ông đứng dậy, nghiêng đầu chào, ra đi. Tính ông cương trực, không chịu khuất phục trước người đàn bà tự phụ, tự cao, tự đại:
- Thưa thái hậu, thần xin cáo lui. Xin thái hậu tha thứ thần đã tự ý đến.
Ông đi ra, dáng điệu hiên ngang, đầu ngửng cao. Bà thái hậu nét mặt suy tư, nhìn theo. Bà cho hắn đi, lúc nào cần bà cho gọi hắn đến. Bây giờ bà cho hỏi về tình thế miền Nam ra sao; khi đã biết rõ tự sự bà có thể hoặc chấp nhận hay gạt bỏ những lời đề nghị của hắn. Bà sai Lý Liên Anh đi gọi viên tổng quản thái giám An Đắc Hải đến, mắt còn ngái ngủ, lấy ống tay áo che mồm ngáp ngắn, ngáp dài. Bà truyền:
- Truyền cho hai viên tướng Trương Quế Phân và Lý Hồng Chương, ngày mai vào chầu ở Long điện. Có thiết triều. Truyền cho Cung thân vương và đại thần Nhung Lữ vào chầu, truyền cho hai người này biết được sự hiện diện của họ vào ngày mai ở Long điện, rất cần thiết.
Cung thỉnh Đông cung thái hậu đến sớm một giờ hơn mọi khi. Có nhiều việc tối quan trọng cần phải giải quyết.
Bà quay lại bảo Lý Liên Anh:
- Mi ra nói với đại thần Nhung Lữ, hôm nay ta bận không đến xạ trường. Mi thưa với ông để ý cho con ô mã ăn uống đầy đủ. Ta sợ con ngựa đó kén ăn, bất kham.
- Phụng chỉ.
Tên thái giám đi, mấy phút sau trở lại. Bà ngồi suy nghĩ mấy lời nói của Cung thân vương hồi nãy. Bà quay lại thấy Lý Liên Anh đứng khúm núm bên cạnh. Bà quát hỏi:
- Mi muốn gì? Sao cứ đến quấy rầy ta.
- Tâu thái hậu, ấu đế khóc vì thái hậu không đến coi chiếc yên mới. Cố vấn đại thần cung thỉnh thái hậu quang lâm.
Nghe tên thái giám tâu, bà đứng dậy liền, bà không muốn cậu con "Cưng" của bà khóc. Đoàn thể nữ tháp tùng bà đi thẳng ra xạ trường.
Cậu nhỏ rất đẹp, vóc người vạm vỡ hồng hào, thật đúng là con nhà nòi. Bà thái hậu đứng lại ngắm con trước khi cậu nhỏ nom thấy bà. Cậu ngồi ngay ngắn, chiễm chệ trên chiếc yên mới bằng da màu hung hung. Chiếc yên đặt trên tấm nệm bằng da đen, có thêu nhiều màu sắc. Con ô mã cao lớn, hai cẳng chân ngắn của cậu nhỏ xoạc ra, đầu đội mũ, hia nhung, mũi hia đính ở gót bằng vàng, mới chấm chiếc bàn đạp. Một chiếc đai nạm ngọc thắt ngang chiếc áo ngoài màu đỏ; chiếc áo xẻ ra hai bên để lộ chiếc quần màu vàng tươi. Cậu nhỏ chuyện trò rất vui vẻ với Nhung Lữ, tiếng nói trong trẻo, hai người quay mặt vào nhau, có vẻ rất âu yếm thân mật. Thốt nhiên, nhác nom thấy mẹ, ấu đế reo lên:
- Má! Má coi chiếc yên Nhung Lữ cho con này.
Bà để ý nhìn chiếc yên, nhận thấy đẹp quá, tình cờ mắt bà gặp mắt Nhung Lữ, bốn mắt nhìn nhau, cảm thông, cùng một ý nghĩ, cùng hãnh diện. Cậu nhỏ giơ cao chiếc roi ngựa. Bà hạ thấp giọng, bảo Nhung Lữ:
- Anh có biết hiện có hai vị tướng ở miền Nam lên đây không?
- Tôi có nghe nói.
- Bọn họ định cho các nhà buôn ở Thượng Hải tự lập một đạo quân, đặt điều khiển dưới quyền của ngoại nhân. Anh cho biết ý kiến.
- Công việc cấp thời là diệt trừ phản loạn. Hiện nay chúng ta phải đương đầu với hai mặt trận: Diệt nổi loạn, chống ngoại xâm. Nếu chúng ta đồng thời đánh cả hai, chúng ta bị đè bẹp. Theo tôi diệt phiến loạn trước, ngoại xâm sau, như vậy mọi kế hoạch đi đến mục tiêu đều tốt. Khi nổi loạn dẹp xong, chúng ta tập trung hết lực lượng chống ngoại xâm.
Bà gật đầu tán đồng ý kiến đó, mồm vẫn mỉm cười, người ngoài mới nom tưởng bà đang để ý cậu nhỏ cưỡi ngựa, phóng nước đại, chạy trên bãi cỏ.
Nhung Lữ quất ngựa, phi nước đại đuổi theo cậu nhỏ. Bà thái hậu với các thể nữ đứng ngắm nhìn hai người kỵ mã, một lớn, một nhỏ. Hai người là niềm thương yêu nhất đời của bà, mối tình đằm thắm, khăng khít, ngự trị trong tâm hồn bà. Người con trai, tuy còn nhỏ, song đã tỏ ra mạnh bạo, can trường, người kia to lớn, hùng tráng, cả hai ngồi thẳng trên yên ngựa, phóng chạy nước đại. Người lớn quay mặt về người nhỏ, dặn dò, chỉ bảo, nâng đỡ nếu chẳng may cậu nhỏ bị té. Cậu nhỏ, đầu ngửng cao, mắt nhìn thẳng, tay cầm cương có vẻ thành thạo. Bà nghĩ: "Con ta thật hùng tráng, uy nghi, đúng tinh tướng một vị hoàng đế".
Hai người kỵ mã dừng ngựa ở bên kia trường đua bà thái hậu lấy khăn tay vẫy chào, quay gót trở về cung, hàng thể nữ đi sau tháp tùng.
Ngày hôm sau, vừa mới hửng sáng, trời âm u, gió lạnh, hai bà thái hậu đã đến chủ tọa buổi họp cơ mật viện. Qua tấm rèm bằng lụa vàng, ở ngoài không nhìn thấy, hai bà thấy các quan cơ mật, bước vào phòng họp. Cung thân vương lớn nhất đi đầu. Viên tổng thái giám hô to danh tánh mỗi vị trước khi bước vào phòng họp, riêng có Cung thân vương không đợi thái giám kêu to, tự tiện bước vào. Lý Liên Anh cúi xuống sát tai bà thái hậu mật tâu:
- Tâu thái hậu, vì tôn uy thái hậu, hạ thần xin mạn phép tâu trình: Cung thân vương bất chấp lễ nghi triều đường đã tự tiện bước vào không đợi gọi đến danh tánh.
Tên thái giám này đã nhận thấy có những vẻ khác trên nét mặt bà thái hậu, hắn đã đánh hơi biết có sự thất sủng của thân vương.
Tuy bà thái hậu làm ra như không để ý lời hắn tâu, song hắn biết bà đã nghe hết. Bà đã ghi nhận điều thất lễ thứ hai của ông hoàng này. Bà không hấp tấp, vội vàng hành động, phản ứng ngay, bà muốn chờ xem còn những gì hơn nữa không. Có thể nào thân vương lại là cừu địch của bà. Bà chỉ tin cậy có Nhung Lữ, người này hiện nay đã có vợ.
Bà xua đuổi trong óc những ý nghĩ chia rẽ. Có điều bà lo ngại những âm mưu phản lại triều đình, phản lại bà. Cung thân vương sống ngoài cấm thành, đi lại dễ dàng, muốn đi đâu tùy ý, không như bà bị nhốt trong bốn bức tường thành, giam cầm trong cung điện, lầu son gác tía. Có thể nào thân vương âm mưu sau lưng bà? Hắn nói trung thành, nhưng có gì bảo đảm. Bà nghĩ thế thở dài, cảm thấy cô đơn, vì số phận đã an bài. Bà Đông cung ngồi bên cạnh, lúc nào vẻ mặt cũng như mơ mộng, không để ý theo dõi buổi họp. Bà này ghét nhất phải dậy sớm, mong cho cuộc họp chóng xong để về ngủ lại. Trước đại hội đồng, cung thân vương quỳ trước ngai rồng trán chạm đất, đọc bản tường trình ông cầm ở tay. Ông đọc to, rõ ràng, trịnh trọng, nhấn mạnh từng chữ, từng câu, như ông lần một chuỗi hạt ngọc quý.
Ngồi sau bức rèm, bà Từ Hy nghe đọc, bà cắn chặt môi. Ý bà không muốn nghe Cung thân vương đọc bản phúc trình. Sau bức màn lụa, tiếng nói của bà rõ ràng, lanh lảnh như tiếng chuông đồâng:
- Nhị vị, chúng ta muốn được nghe hai vị tướng lãnh trình bày trước ngai rồng.
Cung thân vương đứng dậy nhường chỗ cho tướng Trương Quế Phân ra lạy trước ngai rồng.
Theo niên tuế, tướng Trương được ra trình bày trước, song từ khước:
- Muôn tâu thánh thượng, hạ thần xin cho bạn đồng đội tướng Lý Hồng Chương, nhân danh cho chúng hạ thần được tâu trước bệ rồng, vì tướng Lý là tổng trấn ở Giang Tô, đặt đại bản doanh trong tỉnh Thượng Hải. Tuy tướng Lý niên tuế mới có 39 song là một vị tướng có uy tín, xuất sắc nhất, hạ thần xin mạn phép tâu trình và tiến cử.
Lại một lần nữa, Cung thân vương theo sáng kiến riêng, không đợi lệnh bà hoàng thái hậu, ông nói:
- Tướng Lý Hồng Chương tiến lên.
Sau bức màn the, bà hoàng thái hậu, lòng phẫn nộ lên đến cực độ. Tuy vậy bà cố nén sự uất hận, để chờ cho xong công việc trong nước được giải quyết. Tướng Lý Hồng Chương tiến lên, ra quỳ trước ngai rồng bỏ trống, ông trình bày hiện tình đất nước.
Bà thái hậu để tâm trí nghe tờ phúc trình của ông. Qua tấm màn the, bà không nom rõ Lý Hồng Chương, nhưng nghe tiếng nói sang sảng, rõ ràng, trang trọng, bà nhận thấy văn từ rất giản dị, chữ dùng rất chính xác. Bà nghĩ người này có thể hữu ích, dùng được, bà cố ghi nhớ trong óc nội dung bản phúc trình. Tuy vậy bà không nói gì, trong lòng còn đang căm thái độ của Cung thân vương.
Sau một phút im lặng, bà đặt một câu hỏi. Tiếng bà đột nhiên phát ra sau bức màn the làm hai ông tướng giật nảy người:
- Hai người quyết định ra sao về bọn đánh thuê, người ngoại quốc tập trung để bảo vệ Thượng Hải?
- Tâu thái hậu, bọn lính đánh thuê đó được tập luyện thuần thục, mặc dù bọn người đó rất ngạo mạn, kiêu căng, hạ thần không dám từ khước sự trợ giúp của họ. Hạ thần định nhường quyền chỉ huy đạo quân đó cho một người hồng mao tên là Gordon.
Tiếng bà thái hậu sau bức rèm nói ra:
- Ở đây có ai biết tên Gordon không?
Cung thân vương ra nghiêng đầu trước bệ rồng, tâu:
- Tâu thái hậu, do một sự ngẫu nhiên, hạ thần được biết tên đó.
- Ngẫu nhiên thế nào?
Tất cả mọi người hiện diện lúc đó, đều nhận thấy sự bất mãn của bà thái hậu qua giọng nói tẻ nhạt, duy có thân vương vô tình không để ý.
- Tâu thái hậu, khi nghe tin bọn ngoại xâm phá hủy cung điện ổ Nguyên Minh Nguyên, hạ thần vội vàng chạy đến để xem có cứu vãn được phần nào chăng. Khi hạ thần tới nơi, ngọn lửa bốc cao lên tận trời, không cách gì đàn áp được ngọn lửa. Hạ thần thất vọng đành đứng nhìn ngọn lửa hoành hành. Tình cờ lúc đó có một người hồng mao, cao lớn, nước da xanh, tóc hung hung đỏ, chống chiếc gậy tre, đứng cạnh hạ thần. Hạ thần để ý nhìn, thấy lạ quá, người này vẻ mặt cũng rất đau buồn, trước sự tàn phá khủng khiếp. Người đó đến gần hạ thần, nói tiếng Hán rất thông thạo, tỏ ý rất xấu hổ về người đồng chủng của hắn đã làm những việc quá tàn bạo, đốt phá, cướp bóc. Những tấm gương lớn, đồng hồ, những tấm bình phong bằng ngà voi khảm xà cừ chạm trổ, những súc vóc lụa, xếp thành một đống lớn làm mồi cho ngọn lửa.
- Thôi, im.
Sau bức màn the, tiếng nói nghẹn ngào của bà thái hậu.
Cung thân vương cố nói:
- Tâu thái hậu, hạ thần nom thấy một người lính Phú Lăng Sa mua của một tên cướp, với vài đồng tiền, một chuỗi hạt trai của hoàng gia. Ngày hôm sau hắn bán chuỗi hạt đó được mấy ngàn mỹ kim.
- Im.
Cung thân vương đã nói không chịu thôi, cố nói cho hết:
- Tâu thái hậu, hạ thần xin được phép nói tiếp:
Hạ thần có hỏi Gordon: "Sao ông không ngăn cản lính tráng của ông để họ làm càn như vậy? ". Hắn có hỏi vặn lại: "Thế tại sao ông vua của anh lại sai một viên tướng đem quân ra đây mai phục, giết 14 sĩ quan và binh lính của chúng tôi. Quân đội của chúng tôi không đề phòng, tin tưởng vào lá cờ trắng, biểu hiện cho cuộc đình chiến được cả hai bên thỏa thuận ký kết? ". Tâu thái hậu hắn hỏi vặn lại như vậy, hạ thần biết trả lời làm sao?
- Im đi.
Bà thái hậu hét lên, bà đã nhận thấy ý nghĩa bóng bẩy, trách khéo bà. Thân vương cả gan, công khai, trách khéo bà đã sai thân vương Sinh, một tướng Mông Cổ đem binh mai phục, đánh úp bọn đại diện ngoại quốc. Bà thái hậu giận tím gan, cắn môi, ngồi im. Cung thân vương khấu đầu trở về chỗ. Mọi người nín thở, chờ lệnh phát ra sau bức màn the vàng.
- Ta chấp thuận cho tên hồng mao đó phục vụ triều đình.
Tiếng nói của bà trầm tĩnh và cương quyết. Bà nghĩ một lúc nói tiếp:
- Nếu xét ra cần, ta có thể chấp nhận sự trợ giúp của bọn ngoại nhân.
Bà cho bãi triều.
Trở về cung, bà thái hậu ngồi yên, suy nghĩ, suốt hàng mấy tiếng đồng hồ, không ai dám đến gần hỏi han gì. Bà thấy đáng lo ngại về Cung thân vương, người được bà tin cẩn, bây giờ xem ý có vẻ tự phụ, tự đắc với chức vị. Như thế này có phải một điềm báo vương quyền đến hồi suy tàn, mạt vận không?
Bà cố lục lại trong ký ức, những gì đã xảy ra trong năm qua. Bà nhớ ngày 26 tháng tư dương lịch, có trận bão cát lạ lùng, tàn phá cả một vùng rộng lớn. Giữa trưa trời tối đen, rồi nổi lên một trận cuồng phong vô cùng dữ dội, những cột cát cuồn cuộn bốc lên. Con sông chảy dài từ Bắc Kinh đến Thiên Tân dài 65 cây số, ngang 6 thước, sâu 3 thước, bị ngập cát, các tàu bè, thuyền ghe như đậu trên đống cát. Trận bão cát kéo dài suốt 36 giờ, nhiều người chết, có những người bị gió thổi bay xuống hố chết ngộp, người bị cát làm mù cả hai mắt, người sợ quá hóa điên. Ở trong hoàng cung mới có 3 giờ chiều, đã phải thắp đèn, đốt nến. Có điều kỳ lạ, giữa hai cột cát, tối đen mù mịt,mặt trời le lói sáng, nền trời vẫn trong trẻo.
Sau cơn bão cát, phải mất hết bao nhiêu ngày để xúc hết những đống cát lớn, quét dọn lại cho sạch sẽ. Hội đồng khâm thiên giám đệ lên ngai rồng bản nhận định, xác định ý nghĩa trận bão cát vừa qua, một điềm tối quan trọng vì sự kiện vừa xảy ra có liên quan đến các vì tinh tú, sẽ xảy ra một cuộc nội loạn lớn trong nước, giết hại nhiều sinh linh. Nhưng sẽ có một vĩ nhân ở Phương Tây đến, một vị cứu tinh, ra giúp nước, đem lại thanh bình cho trăm họ.
Nhớ lại điềm trời đã báo trước, bà thái hậu thấy phấn khởi, vững lòng tin tưởng cuộc toàn thắng đã được tiên tri.
Thắng lợi gì nếu không phải diệt trừ mầm mống cuộc phản loạn ở Miền Nam? Còn tên Gordon ứng vào có người khách lạ ở phương Tây đến? Như thế bà có gì phải lo ngại. Bà tự ý ra quyết nghị cho Cung thân vương hiểu bà có toàn quyền hành động, đứng trên cương vị một nhiếp chính vương.
Bà muốn cho thực hiện ngay đường lối, kế hoạch đã tự vạch ra. Tên thái giám lén vào mật báo: "...Đã hai lần thân vương cung đến yết kiến bà Từ An, có ý chê trách bà quá nhu nhược, khuyên bà không phải phục tòng, khuất phục bà Từ Hy, em họ của bà".
Tên thái giám có tật xấu, thích xúc xiểm, xúi bẩy, gây oán thù giữa người này, người khác. Tuy trên mặt làm ra vẻ bực tức, nhưng trong thâm tâm thích thú bởi chuyện người, châm ngòi chọc tức, có khi gắp lửa bỏ bàn tay. Hắn bảo, thân vương Cung nói với bà Từ An: Nhung Lữ bàn gì, nói gì, bà Từ Hy vẫn để tai nghe; đối với ấu đế, hắn làm như một người cha đối với con. Thiên hạ đồn đãi đã lâu, ông không tin, bây giờ ông lấy làm tiếc, thấy nhiều triệu chứng, bắt buộc phải tin.
- Câm ngay mồm.
Bà thái hậu đang ngồi, nghe tên thái giám mật tấu. Bà hết sức kinh hoàng, việc tối mật của bà bị bại lộ, bà đứng phắt dậy, vạt áo bay tung, hai mắt long lên. Tên thái giám thấy thái độ bà, hắn sợ quá, vội lẩn ngay ra ngoài. Hắn lui ra, trong lòng mừng thầm, hạt giống gây công phẫn, căm thù hắn mới gieo đã phát triển một cách mạnh mẽ.
Bà thái hậu đến ngay cung bà Từ An, miệng lưỡi ngọt ngào, hàn huyên, hết chuyện này, đến chuyện khác, kèm lời phỉnh nịnh. Đang chuyện trò vui vẻ, mặn mà, bà đột nhiên thay đổi nét mặt, giọng nói. Bà bảo bà Từ An:
- Thưa chị, mục đích em đến thăm chị là nhờ chị giúp em một tay để hạ thân vương Cung. Hắn có vẻ kiêu ngạo, lộng quyền, vượt ra ngoài cương vị của hắn. Hắn không còn kiêng dè, ý muốn hạ uy quyền của chị em ta. Em nói thật tình vì chị chứ không phải vì em.
Bà Từ Hy nhận thấy mấy lời đường mật bà vừa thuyết đã cảm hóa được bà Từ An. Vẫn còn cái gì phảng phất từ hồi thơ ấu trong cái thể chất gầy còm, ốm yếu, nét mặt bệnh hoạn đột nhiên ửng hồng.
Bà Từ Hy tiếp tục thuyết phục:
- Em biết trước chị đồng ý với em. Chắc chị cũng nhận thấy bữa hôm thiết triều Cung thân vương đã xấc xược nói trước em, trước mặt đình thần. Càng nghĩ, em càng thấy còn nhiều điều có thể nói là phạm thượng nữa. Hắn tự tiện vào điện thiết triều không cần chờ thái giám xướng danh. Dù hắn có nghĩ đã có công cứu tử tôi, hắn cũng không có thể vượt quá giới hạn, lộng quyền được.
Bà Đông cung cố bào chữa, bênh vực thân vương, nhưng lý lẽ yếu ớt, không đánh đổ được ý kiến của bà Từ Hy. Bà chỉ nhấn mạnh một điểm: Dù sao thân vương tỏ ra rất trung thành.
Bà thái hậu hỏi vặn lại:
- Hắn chẳng có công cứu tử em là gì?
- Vẫn hay vậy, song không vì thế hắn lộng hành được.
Hai môi đỏ chót của bà thái hậu bĩu dài, tỏ vẻ khinh bỉ.
- Một người có chí khí rộng rãi có khi nào khoe khoang, kể công lênl, công việc, bổn phận mình phải làm. Mà, hắn đã cứu tôi thế nào? Chính tôi hạ lệnh cho hắn đến Nhiệt Hà. Theo chỗ em xét, hắn chẳng có công lênh gì hết.
Bà ngồi im một lúc rồi táo bạo nói thêm:
- Người có công cứu sống em là Nhung Lữ. Chính Nhung Lữ đã nắm bàn thay kịp thời của người cầm con dao đang định sát hại em.
Bà thái hậu làm như không để ý đối tượng mình ngồi im, bà nói tiếp, hai mắt long lên như nảy lửa, hai thay khua lên một cách hùng hồn:
- Chị có nhận thấy giọng nói của hắn khi nói với chị em mình không? Hắn nói lớn tiếng, cho bọn mình là bọn đàn bà ngu xuẩn không biết gì?
Bà Từ Anh nhếch mép cười, bà nói chua chát:
- Phải, chị đây mới thật là ngu muội. Chị tự biết không cần ai phải vạch mặt.
- Không phải em ngu hay chị ngu, em xin chị đừng nói thế. Mà tỉ dụ, chúng mình có ngu thật hay sáng suốt bọn đàn ông bao giờ cũng có vẻ khinh thị phụ nữ, cho làa trí lự thấp kém, không bằng họ. Dù có thế ra nữa, thân vương Cung đối với chị em mình cũng phải có lễ độ, chúng mình là nhiếp chính. Thái độ hắn phải khác không thể thế được. Tất cả đình thần đều là đàn ông, có hai chị em mình là đàn bà, chúng mình sẽ chết. Chị giúp em một tay để hành động cho nhất trí, cho kịp thời, để lâu không được.
Trong việc thuyết phục, bà Từ Hy dùng song song hai đòn tâm lý, thỉnh thoảng nhắc đến nhũ danh bà Từ An khi còn nhỏ, để gây thiện cảm, mặt khác bà trợn mắt, nheo mày làm ra vẻ dữ tợn, nên chi bà Từ An phải vội vàng chấp thuận.
- Thôi để tùy em, thế nào em cho là phải thì em làm.
Được câu chấp thuận đó, dù có miễn cưỡng, bà thái hậu đứng dậy, khẽ nghiêng đầu chào, cáo lui đi ra. Các thể nữ bà Từ An đứng xa chỉ lấy mắt quang sát bà Từ Hy từ lúc đến lúc về, không nghe được một lời nào.
Người đàn bà đẹp, gian hùng, gian ác đó làm việc gì không hấp tấp, vội vàng, biết chờ cơ hội cho chín mùi nghiên cứu kỹ càng kế hoạch.
Bà đã chờ rồng rã suốt cả một năm trời tin thắng trận, diệt trừ quân phiến loạn ở miền Nam. Người hồng mao Gordon không hấp tấp lâm chiếm ngay, ông rất chu đáo, không muốn bị tổn thất dù nhỏ, nên ông yên cứu rất kỹ lưỡng địa hình, địa vật, những vùng phụ cận Thượng Hải để nắm chắc phần thắng lợi. Tuy bà thái hậu rất nóng lòng, bà cũng cố chờ, không thúc giục để ông Gordon được hoàn toàn tự do hành động.
Thật chẳng may, trong khi Gordon sửa soạn, xếp đặt mọi việc cho hoàn hảo, chu đáo thì có một người da trắng khác, tính kiêu căng, tham lam, lập một đạo quân gồm 2500 người, tuyển mộ thêm vào đó 5000 quân hoàn gia. Hắn muốn lập căn cứ, đặt đại bản doanh ở Đại Tân, một thị tứ nhỏ gần Thượng Hải, với mục đích tấn công thẳng Nam Kinh. Mấy ông quan sở tại người Hán, xác nhận với hắn, con hào quanh thành không sâu, nước cạn khô. Người này, ngu quá, nghe nói thế, tin liền, không chịu thân chinh đến tận nơi quan sát địa hình, địa thế. Sáng hôm khởi chiến, cuộc tiến quân vấp phải một con hào, bề ngang 10 thước, rộng mênh mông, nước ngập lên đến tận bờ và lẽ tất nhiên không có thuyền, phà. Viên tướng chỉ huy bắt quân lính phải qua hào; họ bắc ngang qua hào những chiếc thang tre đem theo để leo lên mặt thành, những chiếc thang được buộc nối tiếp bắc sang hai bên bờ, làm như chiếc cầu. Quân lính leo lên đến giữa dòng thang gẫy, chết đuối rất nhiều. Những người không bị chết đuối, bị quân giặc núp trên mặt thành bắn chết.
Tin thất trận đó đến kinh, bà thái hậu vô cùng phẫn nộ, lập tức hạ lệnh cho tên Gordon đem đạo quân tuyển mộ phản công, chiếm lại Đại Tân bị thất thủ. Gordon muốn công việc ông làm có tính cách đại quy mô, không muốn hạn chế trong một tiểu tiết, phục thù. Vả lại ông là người tính cương cường, không chịu khuất phục ai, ông chưa ra tay cần phải sửa soạn cho thật chu đáo. Mục tiêu của ông là đánh tan sào huyệt bọn phiến loạn,khi đã đánh thì phải toàn thắng bảo đảm chắc chắn. Ông luyện tập binh sĩ dưới trướng lối đánh thần tốc, trực diện, bắt buộc quân thù phải lộ diện chống đỡ và phải bị tiêu diệt. Liên lạc với Lý Hồng Chương, ông tập trung hết lực lượng đánh vào những tỉnh then chốt Trường Sa và Quế Sơn, những thị trấn gần Thượng Hải, rồi lần lần tiến thẳng vào sào huyệt quân giặc.
Cung thân vương vững lòng tin tưởng trước thái độ vui vẻ, niềm nở của bà thái hậu. Ông tự biết rõ tính nết bà này những chuyện cũ ông quyên hết, phần thì công việc đa đoan, ông tỏ ra đối với bà thái hậu có vẻ hơi suồng sã, những cử chỉ nhỏ nhặt, vụn vặt không đáng kể, bà thái hậu xét nét từng ly, từng tí nhưng không nói ra. Một hôm thân vương vào bệ kiến, quỳ trước mặt bà, ông đang suy nghĩ một việc quan trọng, ông đang quỳ, tự ý đứng dậy, không cần đợi lệnh. Nhanh như một con cọp cái vồ mồi, bà đứng dậy, nhảy chồm lên. Hai lông mày xếch ngược, bà hét ầm lên:
- Thân vương quên rồi hả? Luật lệ và nghi lễ triều đường bắt buộc mọi người phải quỳ trước ngai rồng. Luật lệ và nghi thức đó bảo vệ ngôi chí tôn vì sợ bất thần có sự phản trắc. Sao thân vương tự ý dám đứng dậy trong khi mọi người đang quỳ. Có phải thân vương âm mưu phản nghịch với nhiếp chính vương không?
Bà quay về bọn thái giám.
- Gọi võ sĩ cho ta, bắt Cung thân vương.
Cung thân vương choáng váng, hết sức ngạc nhiên, tưởng bà thái hậu đùa cợt nên ông chỉ mỉm cười. Các võ sĩ đã đứng vây quanh ông. Ông phản đối:
- Sao lại có thể thế này? ...Suốt trong bao nhiêu năm trờị..
Bà thái hậu không để cho ông bào chữa, bà nói át:
- Không một ai, một người nào, mặc dù đã có bao nhiêu năm phục vụ hay người trong hoàng tộc, không ai có quyền vi phạm luật lệ triều đường, đe dọa an ninh ngôi chí tôn.
Ông nguýt dài bà và để cho bọn võ sĩ dắt đi.
Cùng ngày hôm đó, bà xuống một chiếu chỉ có đóng ngọc tỷ và có câu phê của nhị vị lưỡng cung.
Chiếu Chỉ:
...Xét rằng Cung thân vương tỏ ra bất xứng với sự tin cậy của lưỡng cung và lộng quyền tự ý bổ nhiệm các cháu y lên những chức vụ quan trọng.
Thân vương bị huyền chức quân cơ mật vụ và những chức vụ khác trước kia được kiệm nhiệm.
Với tờ chiếu này, lưỡng cung khiển trách nặng nề thân vương có khuynh hướng phản loạn và mưu đồ soán nghịch.
Ngoc Tỷ
ký tên:
Đông Cung thái hậu Từ An
Tây Cung thái hậu Từ Hy
Không một người nào dám trực tiếp bênh vực thân vương rất đông người gián tiếp đến nhờ Nhung Lữ can thiệp. Nhung Lữ chưa muốn biện hộ ngay.
Nhung Lữ bảo người đến nhờ ông can thiệp rằng: "Cứ để quốc dân phê phán, Khi nguồn dư luận trong nước xem ra bất lợi, bà ta sẽ rút lại nghị quyết đó. Bà này rất khôn ngoan không bao giờ làm gì trái với lòng dân".
Mọi người nghe theo, chờ xem phản ứng của quốc dân. Những tiếng bàn tán, xì xào nổi lên trong dân chúng về sự độc tài, bất công của bà thái hậu đối với em ruột của cố hoàng thượng, thân vương là lương đống của triều đình, một người hết dạ trung thành. Người ta có nói đến Cung thân vương đã liều mình ở lại kinh thành khi giặc đến, trong khi vua, triều thần, hoàng gia bôn tẩu. Thân vương đã khôn khéo điều đình với ngoại nhân ký thỏa ước hòa hoãn.
Những lời dị nghị trong dân chúng đến tai bà thái hậu, nhưng bà là như không quan tâm để ý đến. Nét mặt bà rất bình tĩnh, thản nhiên, mơn mởn như một bông hoa sen, nhưng trong thâm tâm bà, bà suy nghĩ, đo lường mức độ uy quyền của bà, bà thấy thân vương chịu khuất phục, không phản khán, than phiền, oán trách nghị quyết của bà. Bà xuống hai chiếu chỉ có mang hai chữ ký của hai bà nhiếp chính. Chiếu chỉ thứ nhất nhằm giải thích cho dân chúng biết luật pháp quốc gia phải áp dụng đồng đều, xử phạt rất nặng cho mọi người coi thường phép nước, khinh mạn triều đình.
Trong tờ chiếu chỉ thứ hai, bà viết:
... Xét ra Cung thân vương đã biết hối cải những lỗi lầm. Lưỡng cung, nhiếp chính vương, hành động với một tinh thần công lý tuyệt đối, định công xét tội, thưởng phạt phân minh. Lưỡng cung không có dụng tâm bạc đãi một hiền thân như Cung thân vương, một lương đống của triều đình.
Nay, Cung thân vương được phục hồi nguyên chức trong viện quân cơ, nhưng bãi chức bí thư của ngai rồng.
Để cảm tạ hoàng ân, lưỡng cung mong thân vương đoái tội lập công, hết lòng phục vụ triều đình và từ nay không còn tà kiến, tà tâm, bỏ lòng ghen tỵ.
Cung thân vương được phục hồi nguyên chức, trở lại làm việc. Từ ngày đó, phong cách ông thay đổi khác hẳn, ý tứ, dè dặt, không khinh suất như hồi trước.
Như đã được quyết định, bà thái hậu đưa con bà lên ngôi cửu ngũ để chủ tọa các cuộc thiết triều. Bà đã dạy con tác phong của một vị hoàng đế. Ngồi trên ngai, đầu phải ngửng cao, hai bàn tay đặt yên trên hai đầu gối, ngồi im nghe triều thần đọc những sớ tấu, biểu chương. Cậu nhỏ phải ngồi ngay ngắn trên ngai, mặc áo long cổn vóc vàng, thêu rồng ngũ trảo (năm móng), có đính một viện hồng ngọc ở vai áo, đầu đội mũ bình thiên. Về mùa đông dậy thật sớm, về mùa hạ, trời mới tảng sáng, còn tối đất, bà thái hậu đã đánh thức ông vua tí hon dậy, dắt đi, nếu hôm nào đẹp trời, không có mưa gió, đến long điện, nơi thiết triều. Cậu nhỏ, cương vị hoàng đế, ngồi chễm chệ trên ngai rồng, còn bà thái hậu ngồi sau bức rèm the vàng, bà ngồi sát gần con để có thể ghé mồmm nói sát vào tai con.
Khi một vị lão tướng hay một vị quan to khả kính, đọc giọng đều đều một tờ sớ dài, ông vua tí hon ngoảnh cổ vào chiếc rèm, khẽ hỏi: "Con phải nói thế nào, hở má? ". Ông vua tí hon nhắc lại từng lời một, lời mẹ thổi vào tai.
Cuộc thiết triều có khi lâu hàng mấy giờ liền, cậu nhỏ ngồi mãi, mỏi thấy chán, quên địa vị của mình, quên lời mẹ dặn phải ngồi ngay ngắn, bệ vệ, cậu ngồi mân mê viên hồng ngọc đính trên vai áo hay đưa ngón tay quanh mình rồng uốn khúc thêu trên áo. Tiếng bà mẹ ngồi sau lưng bắt phải ngồi yên.
- Ngồi ngay ngắn. Mi quên mi là hoàng đế rồi à? Đừng có thái độ như một đứa trẻ tầm thường trong dân dã.
Quen được mẹ nuông chiều, không bao giờ mẹ nói xẵng, bây giờ thấy mẹ có vẻ gắt gỏng, cậu sợ quá, quay lại hỏi:
- Bây giờ con nói thế nào, hở má?
Suốt cả buổi thiết triều, ông vua tí hon chỉ có một câu đó, và như một cái máy phát thanh, nhắc lại những câu gì được mẹ thổi vào tai.
Bà thái hậu, hàng ngày, đọc những tờ trình của viên mảnh tướng Trương Quế Phân, bà thích thú như đọc những lá thư tình. Bà biết kết nạp vây cánh, trọng dụng những người có tài trí, co danh tiếng. Ngoài Nhung Lữ, bà mến chuộng nhất viên tướng này. Không như những người võ biền, ba hoa, khoe khoang, viên tướng này là một nhà nho học, nói ít làm nhiều, mưu lược, văn võ toàn tài. Bà không có cảm tình riêng tư với viên tướng đó, chỉ để ý vào kết quả công việc ông làm, theo dõi trong trí tưởng tượng những nỗi cực nhọc, gian truân, tập luyện, khích lệ ba quân, những sự vui mừng khi thắng thế.
Thấm thoắt, thời gian tang chế cố hoàng thượng do hội đồng khâm thiên giám ấn định sắp mãn, đã gần đến ngày cử hành lễ an táng. Bà thái hậu tập trung tất cả thể lực diệt trừ bọn phản loạn miền Nam. Bà muốn công việc đó phải hoàn tất trước ngày cử hành lễ mai táng.
Việc tống đạt thư văn, trên một lộ trình dài 600 cây số, hàng ngày có một chuyến đi, một chuyến về do các bưu trạm phụ trách, chạy bộ hay bằng ngựa, rất hoàn hảo, chu đáo.
Hằng ngày, lúc bình minh, một giờ trước khi thiết triều, bà thái hậu đến lễ ở ngôi chùa trong hoàng thành, bà quì trước bức tượng Đức Thiên thủ thiên nhỡn, hóa thân đức Đức Phật Quan Thế Âm, khấn vái kêu cầu, phù hộ cho tướng Trương Quế Phân được toàn thắng, đem vinh quang về cho triều đình, quốc gia. Các sư quì lễ trong khi bà đốt nhang, lầm rầm khấn vái, cắm nhang vào lư hương bằng vàng. Lòng thành của bà như được cảm ứng, mùa hè năm sau, tháng sáu âm lịch (tháng bảy dương lịch) đúng ngày 16 dương lịch, tướng Trương Quế Phân đã chiếm được vòng đai phòng thủ Nam Kinh. Khi đã phá vỡ được vòng đai phòng thủ ông cho nổ những địa lôi đặt ở tường thành. Sức công phá rất mảnh liệt, những bức tường thành nổ tung từng khúc, quân lính tràn vào như nước vỡ bờ. Họ thấy cung điện của "Thiên vương", có vài chục người cận vệ, cảm tử canh gác. Một trái bom thuốc nổ bắn vào, cung điện bốc lửa thiêu rụi, bọn lính gác ở trong lúc nhúc chạy ra như đàn chuột bị khói. Bọn người này chạy ra bị giết hết trừ có đội trưởng. Theo cung từ của người này, cho biết vua "Thiên Vương" đã uống thuốc độc tự tử chết đã hơn một tháng nay, người ta giấu kín, đặt người con lên kế vị, nhưng người con lên kế vị cha cũng đã bị giết.
Bà thái hậu nhận tờ phúc trình báo tin thắng trận của Trương Quế Phân, bà thảo mấy tờ chiếu bá cáo cùng quốc dân, quân của triều đình đã dẹp tan quân phản loạn miền Nam, thiên hạ được an hưởng thái bình. Bà ra thông tri cho phép mở hội trong toàn quốc ăn mừng thắng trận trong một tháng. Bà cho khai quật mộ của Thiên vương, chặt lấy thủ cấp, cho đem đi bêu khắp các tỉnh trong nước, để làm gương cho kẻ nào có mưu đồ phản nghịch. Bà ra lệnh cho đem nhốt trong ngục thất ở hoàng thành những tên giặc cò sống sót, bọn này bị đem ra xử giảo. Bà tuyên bố sẽ đi cùng với ấu đế đến lễ tạ trời Phật ở các đền, chùa hoàng gia và các lăng tẩm tiên đế đã phù hộ ch quốc thái dân an.
Khi Trương Quế Phân về triều, tâu trình lên ngai rồng thái độ lạ lùng và đáng thương của "Thiên vương" do những cung từ của tù binh bị đm ra hành quyết. Thiên vương là một người rất tầm thường, trí óc thấp kém, tính tự hào hay khoe khoang. Đến khi đại sự đã hỏng, tả, hữu, mỗi ngày một thưa thớt dần, hắn tuyên bố: "Đức tối cao có cho ta biết quyết định của ngài. Đức thiên phụ và người thiên huynh Jésus Crist ra lệnh cho ta mang xác phàn để trị vì các quốc gia và các giống người trên trần thế này. Ta không sợ một người nào. Các người theo ta nên lập nghiệp lớn hay tùy ý bỏ đi, ta không bắt buộc. Có hàng triệu thiên thần, một đạo quân thiên giới hùng mạnh đến phò tá ta, chiếm được thành tri của ta?
Tuyên bố huyênh hoang trước mặt ba quân, thế mà vào giữa tháng năm âm lịch, thấy tình thế thập phần nguy kịch, vua "Thiên vương uống thuốc phiện, giấm thanh tự tử. Trước khi chết, ông nói: "Không phải thiên phụ ta đánh lừa ta mà vì ta không vâng lời thiên phụ". Khi ông chết, xác ông được liệm bằng vóc vàng, thêu rồng, không có quan tài, đem mai táng trong một góc vườn bí mật trong hoàng cung. Bọn đồ đệ của ông định đặt con ông mới 16 lên ngôi. Bọn quân lính nghe tin chủ tướng giết chết, họ ra đầu hàng hết.
Trương Quế Phân quì trước ngai rồng, cố ấu đế ngự, kể tỉ mỉ từng chi tiết câu chuyện Thiên vương. Sau bức rèm the, bà thái hậu để tai nghe không sót một câu bài tường thuật. Bà hỏi:
- Xác tên giặc xưng vương đó chưa bị nát à?
- Tâu thái hậu, thật lạ lùng, họ tẩm bằng chất gì vẫn còn y nguyên. Xác được gói kín suốt từ đầu đến chân bằng một tấm vóc dày đã giữ thịt không bị tan rã.
- Tên đó hình thù thế nào?
- Tâu thái hậu, hắn cao lớn, đầu tròn và nặng, trán hói, bộ râu bạc. Theo chỉ thị, đã cắt thủ cấp hắn cho đem đi bêu khắp các tỉnh trong nước, còn xác đem hỏa táng trước mặt hạ thần. Hai người em của tên giặc bị bắt sống, suốt ngày kêu Thượng Đế- Cha ơi- Thượng Đế- Cha ơi. Hạ thần nghe thấy nhàm tai, cho đem chém cả hai.
Trước khi chiếc thủ cấp của tên giặc đem đi bêu khắp các tỉnh, thái hậu ngỏ ý muốn được nhìn tận mắt. Bà bảo:
- Đã bao nhiêu năm nay, bọn giặc gây cuộc binh đao triều đình tốn bao nhiêu công của mới tiểu trừ được. Ta muốn được thực mục sở thị, thấy cuộc thắng đó.
Một tên kỵ mã đem chiếc thủ cấp đó về kinh, đặt trong một chiếc giỏ mây, buộc ở cổ ngựa. Tên kỵ mã giao chiếc giỏ mây gói trong vóc vàng máu me, lấm láp cho thái giám Lý Liên Anh để đem vào trình thái hậu.
Bà thái hậu ngự trên ngai cao, truyền cho thái giám đặt chiếc thủ cấp xuống đất và mở ra để bà coi. Bà không rời mắt nhìn chiếc gói bọc thủ cấp; vuông vóc vàng từ từ mở để lộ ra một cảnh tượng hết sức hãi hùng kinh khủng.
Bà ngồi yên, tại vị trên ngai, nhìn khuôn mặt tên giặc, hai mắt mở trừng trừng, lúc chết không được vuốt mắt. Khuôn mặt máu me, lấm láp cho thái giám Lý Liên Anh phải đứng gần chiếc thủ cấp cũng thấy kinh rợn. Hắn lẩm bẩm:
- Mặt mày đúng một thằng tướng giặt. Dù có chết rồi nôm vẫn ra thằng giặt.
- Một khuôn mặt khá ngộ nghĩnh, không phải khuôn mặt một tên phản loạn. Thái giám, mi nhận xét không đúng, không phải mặt một tên sát nhân mà một thi nhân đã mất hết lòng tưởng vọng. Người này tự biết cuộc đời sẽ thất bại từ khi mới lọt lòng.
Bà nói xong thở dài, lấy bàn tay che mắt một lúc. Bà ra lệnh:
- Thôi, đem chiếc thủ cấp đưa cho tên kỵ mã để bỏ trong sọt. Một cuộc lữ hành dài bắt đầu. Trong mỗi đô thị, mỗi tỉnh, mỗi quận huyện, chiếc thủ cấp được cắm trên ngọn một chiếc xào dài, giơ cao cho mọi người được trông thấy. Lâu dần da chiếc thủ cấp khô cong rơi từng mảng thịt, còn lại chiếc sọ trắng hếu. Nơi nào chiếc đầu được bêu, nơi đó thái bình được vãn hồi.
Giặc "Thái Bình Thiên Quốc" đã được diệt trừ, chấm dứt vào năm 1865. Trong 15 năm, quân giặc đã tàn phá 9 đô thị, giết hại 20 triệu sinh linh. Vua "Thiên vương" không lập cơ sở, kinh đô một nơi nào. Với một bọn đồng đẳng đi theo, đi đến đâu gieo sự kinh hoàng đến đó, tàn phá, đốt hết nhà cửa, mùa màng, giết hại dân chúng. Có một số đông người bạch chủng, những ngày mất gốc, như những chiếc bọt bơ vơ giữa biển, cũng a tòng theo bọn giặc. Một số ít theo đạo Gia Tô, tin tưởng vào "Thiên vương" là người đồng đạo với họ, vì "Thiên vương tuyên bố ông làm theo lệnh của Christ. Bọn người này cũng bị giết chết.
Dẹp xong bọn "Thái Bình Thiên Quốc" quân đội của triều đình, nhờ có sự huấn luyện, tập dượt của Gordon, đã đánh bại hai đám loạn nữa, nhỏ hơn, một đám ở Vân Nam, một ở Thiểm Tây. Bà thái hậu cả mừng, bao nhiêu giặc đã được quét sạch, dân chúng nơi nơi được hưởng âu ca thái bình. Thế lực, uy quyền của bà như sóng cồn, mỗi ngày một dâng caọ.. Bà lo cũng cố địa vị của bà ở triều đường, bảo toàn an ninh, cường thịnh của triều đại.
Bà thái hậu không quên công lớn của tên tướng người hồng mao Gordon. Trong khi Trương Quế Phân cầm quân đánh chiếm Nam Kinh, tướng Gordon có sự trợ giúp của Lý Hồng Chương và quân đội hoàng gia, tiến quân đội tình nguyện về hạ sông Dương Tử. Nhờ có sự phối hợp của Gordon tấn công hạ du sông Dương Tử nên Trương Quế Phân mới thu được thắng lợi, chiếm được Nam Kinh. Trương Quế Phân đã tâu trình lên ngai rồng sự tán trợ đắc lực đó của ngoại nhân.
Bà thái hậu muốn được nom thấy người hồng mao đó nhưng theo luật lệ triều đường không một ngoại nhân nào được chấp thuận vào bệ kiến. Bà chú ý đọc rất kỹ các tờ phúc trình và lắng tai nghe những lời tâu trình về nguời đó.
Đây, một đoạn văn trích trong bảo phúc trình của Lý Hồng Chương.
... Sự cương trực, chí cương quyết của Gordon đã tạo nên sức mạnh. Y tuyên bố, có bổn phận diệt tan quân giặc để đem lại thanh bình cho dân chúng. Hạ thần chưa thấy một người nào được như y. Y đã dùng tư sản của y để cải thiện quân đội và giúp đỡ những nạn nhân bị quân giặc cưỡng đoạt tài sản, nhà cửa bị đốt phá.
Quân giặc cũng phải thán phục người đó có một tinh thần chí khí cao siêu và dẫu có thua cũng rất hân hạnh bị thua bởi người đó.
...
Bà thái hậu nhận được tờ phúc trình, ân thưởng cho Gordon đệ nhất đẳng huân công và mười ngàn lạng vàng, vì có đại công hợp tác với triều đình dẹp loạn. Nhưng khi những phu khênh lặc lè mười ngàn lạng vàng đến, Gordon lấy gậy đuổi đi, bọn phu ngơ ngác không hiểu thế nào.
Gordon từ khước không nhận vàng, tin đó nhanh như điện bay khắp trong nước. Không ai có thể tin nổi một người có thể khẳng khái từ chối không nhận một số vàng lớn như vậy. Gordon giải thích vì lẽ y từ khước không nhận một ân phẩm lớn lao như vậy. Khi đã chiếm lại được tỉnh Từ Châu, viên tướng Lý Hồng Chương đang say máu về đắc thắng, bao nhiêu quân giặc xin ra đầu thú, ông hạ lệnh giết hết. Gordon đã hứa với họ tha cho mạng sống nếu xin đầu hàng. Khi Gordon biết Lý Hồng Chương đã làm y bội hứa, y như phát điên, Lý Hồng Chương sợ quá phải lẩn trốn về nhà riêng ở Thượng Hải.
Gordon, mặt tái đi, hai mắt trợn lên rất dữ, hét lên:
" Không thể nào tao có thể tha thứ cho mày cái tội đó."
Với một ý chí sắt đá, không thể tha thứ, khoan dung được. Gordon đã viết một lá thư về ngai rồng, lời lẽ rất hiên ngang, mạnh dạn:
... Tổng tư lệnh Gordon rất cảm ơn những ân phẩm của hoàng thượng gởi cho. Song rất tiếc không thể chấp thuận được vì những trạng huống trong khi chiếm lại đô thị Từ Châu.
Kính cẩn xin hoàng thượng nhận nơi đây lòng biết ơn và cho phép khước từ tất cả: Huy chương và phẩm vật của hoàng thượng ban cho.
Gordon
...
Bà thái hậu đọc lá thư đó trong vườn ngự uyển, bà đọc đi, đọc lại hai lần. Bà suy nghĩ lời lẽ viết trong thư. Gordon là hạng người thế nào mà có thể từ chối những ấn phẩm, vàng bạc châu báu, danh vọng, phẩm trật, vì lẽ gì? Lần thứ nhất bà có ý nghĩ, trong đám người man rợ Tây phương, có những người không man rợ, không hung tàn, không vụ lợi. Trong sự yên tĩnh của hoa viên, ý nghĩ đó làm bà hoảng sợ, tâm hồn rung động. Nếu trong hàng ngũ quân thù có hạng người chí khí như vậy, mới thật đáng sợ, bà giấu kín trong đáy lòng sự e dè, sợ hãi đó, như ám ảnh tâm hồn bà.
Bà thái hậu lưu tướng Trương Quế Phân mấy hôm ở kinh thành, bà phân vân chưa biết quyết định ân thưởng như thế nào cho đích đáng công lớn của hắn. Bà có tính tự cao, tự đại, không cần bàn bạc, hỏi han ý kiến một nguời trong triều, từ các thân vương cho đến bá quan. Bà quyết định phong và bổ nhiệm cho hắn chức tổng đốc tỉnh Trực Lệ, dinh tổng đốc đóng ở Thiên Tân. Ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch, bà chủ tọa một đại dạ yến, cực kì long trọng để mừng Trương Quế Phân.
Trương Quế Phân ra trọng nhậm ở Thiên Tân cũng không được yên ổn nhàn hạ. Ông đến tỉnh đó được mấy ngày thì đột khởi một cuộc bạo động, dân chúng nổi lên chống đối các nữ tu sĩ người Pháp. Những nữ tu sĩ người Pháp ở Thiên Tân có mở một cô nhi viện, nhận các con nít bơ vơ, không cha, không mẹ, ai đem đến cho viện được thưởng tiền. Những người nghèo khổ, những quân bất lương đi ăn cắp con nít để đem bán cho viện mồ côi. Mấy người tu sĩ thấy có người bán con nít thì mua không hỏi han nguồn gốc. Khi cha mẹ con nít đến đòi con, các nữ tu sĩ không trả.
Chuyện đó đến tai thái hậu, bà cho triệu thỉnh Trương Quế Phân về triều để chất vấn. Bà hỏi:
- Vì lẽ gì những người ngoại quốc mua con nít người Hán?
- Tâu thái hậu, theo thiển ý hạ thần, họ mua trẻ nít để cải giáo, theo đạo của họ. Dân chúng ngu muội, mê tín lại hiểu lầm một cách tai hại, họ cho là ma dược của người Tây phương làm bằng mắt, gan, tim người. Để có vật liệu chế biến dược liệu họ mua con nít.
Bà thái hậu nghe lời tâu, thất kinh, bà hét lớn, hỏi:
- Thật thế à?
Trương Quế Phân vội trấn an:
- Tâu thái hậu, hạ thần không tin lại có thể thế. Các nữ tu sĩ thường nhặt những đứa trẻ của bọn hành khất, đã gần chết, ở ngoài đường phố hay những trẻ gái sơ sinh con những người nghèo vứt ở ngoài đường. Người ta cứu sống những trẻ nít đó rồi họ cho theo đạo giáo của họ. Những đứa trẻ bất hạnh chết được chôn trong nghĩa trang Gia Tô giáo, đối với họ như thế là một vinh dự.
Bà thái hậu không biết có nên tin vào lời tâu của Trương Quế Phân không, vì ông này tính dễ dãi, không bao giờ thấy cái gì nguy hại ngay cả với quân thù.
Thật chẳng may cho mấy dì phước, tháng năm năm đó ở viện mồ côi, có nhiều con nít chết. Một bọn người vô lại, những quân bất lương, đục nước thả câu, đi phao ầm lên, những nữ tu sĩ đã sát hại vô số con nít của thiên hạ đem đến gửi. Sự công phẫn nổi lên trong dân chúng các dì phước sợ quá, chấp nhận để các đại diện người Hán đến khám xét các cơ sở của các dì. Viên lãnh sự người Pháp cho việc khám xét là nhục mạ, ông thân chinh đến cô nhi viện, đuổi mấy người Hán đại diện, mặc dù tên cai đoan ở Thiên Tân đã can ngăn ông, sợ sinh ra tai biến, hậu quả không lường được. Viên lãnh sự kiêu ngạo không thèm nghe, bắt chính phủ hoàng gia phải gởi một viên quan cao cấp đến tòa lãnh sự. Viên chánh án ở tỉnh cố khuyên dụ dân chúng phải bình tĩnh; nhưng dân chúng trong cơn phẫn nộ kéo ùa ra nhà thờ và Cô nhi viện, dọa nạt các nữ tu sĩ.
Viên lãnh sự thấy thế, dại dột chạy vọt ra đường, định đến cứu các dì phước, tay ôm cầm khẩu súng sáu. Dân chúng nhào vô cướp lấy súng, ông bị giết chết, không ai biết ông chết vì sao, vì không nom thấy xác.
Cung thân vương đi cùng với Trương Quế Phân đến Thiên Tân để điều đình việc đó với người Pháp. Một dịp rất may cho triều đình nhà Mãn Thanh, ngay năm đó nước Pháp lâm chiến với Phổ Lỗ Sĩ, không muốn bận rộn về chuyện nhỏ nhen ở hải ngoại. Tuy nhiên bà thái hậu phải bồi thường thiệt hại cho nước Pháp 4000 lạng bạc là tiền bồi thường dân chúng Trung Hoa đã giết chết một người Pháp, và gây sự náo loạn cho nhiều nữ tu sĩ. Trường Hồ, tên cai đoan ở Thiên Tân được lệnh đích thân phải sang Pháp để thay mặt triều đình tạ lỗi với vua nước đó.
Vừa dàn xếp xong vụ lộn xộn ở Thiên Tân, Trương Quế Phân mới nhận được lệnh về kinh vì có công văn ở miền Nam gởi lên báo tin nơi đó lại lộn xộn. Tuy tên tướng giặc vua "Thiên vương" đã bị giết, ở Nam Kinh và bốn tỉnh, tình thế vẫn chưa được ổn định. Dân ở vùng đó cứng cổ, không quy thuận triều đình hay nổi loạn, chúng đã giết viên tổng đốc ở đó. Bà thái hậu ra lệnh cho Trương Quế Phân phải cấp tốc đến Nam Kinh để thay thế viên tổng đốc đã bị giết chết. Viên lão tướng xin bà thái hậu xét cho tuổi đã cao, sức yêu1, mắt mỗi ngày một kém, xin cho miễn đãm nhiệm một trọng trách. Bà thái hậu nhất định không nghe, bắt phải tuân lệnh, bà nói: "Dù khanh mục lực, nom không được tường, khanh vẫn có thể chỉ huy được thuộc hạ."
Ông tâu chưa xử xong vụ viên lãnh sự người Pháp do dân chúng người Hán sát hại.
- Khanh chưa xử bọn sát nhân đó à?
- Tâu thái hậu, viên quan người Pháp và người bạn của y là viên sĩ quan Nga La Tư muốn cho đại diện họ đến Pháp trường chứng kiến hành quyết. Lúc hạ thần lai kinh, chưa có đại diện của hai người đó. Hạ thần giao cho tướng Lý Hồng Chương đảm trách việc đó. Cuộc hành quyết đã được thi hành ngày hôm qua.
Bà thái hậu nói:
- Những thầy tu và người truyền giáo ngoài quốc, ý ta muốn cấm chỉ những hạng người này nhập cảnh. Họ là mầm mống sinh nội loạn, làm khó việc trị an. Khi khanh đến trọng nhậm Nam Kinh, khanh phải duy trì một đạo quân hùng mạnh, có kỷ luật nghiêm minh, đề phòng mọi biến cố, vì dân chúng có óc bài ngoại.
- Tâu thái hậu, hạ thần dự định cho xây đắp chiến lũy khắp dọc sông Dương Tử.
- Những bản hiệp ước Cung thân vương ký với ngoại nhân không có gì quá đáng. Song bọn thầy tu Gia Tô giáo đã quá lợi dụng, họ tự do đi lại khắp nước, họ làm như họ sống trên đất nước họ.
- Tâu thái hậu, thần cũng nhận xét đúng như vậy.
Viên lão tướng vẫn quỳ trên mấy chiếc gối đệm trên sân rồng. Theo lễ nghi triều đường phải bỏ mũ, để đầu trần, buổi ban mai, giá lạnh đến thấu xương tủy. Ông nói tiếp:
- Tâu thái hậu, mầm mống những vụ hỗn loạn do bọn thầy tu ngoại nhân gây ra, bọn đồ đệ của chúng hành hạ bạo ngược những người không theo đạo của chúng. Bọn thầy tu bênh vực bọn đồ đệ mà bọn lãnh sự bênh vực bọn thầy tu.
Tâu thái hậu, năm tới, hạ thần thiễn nghĩ nếu ký hòa ước với nước pháp phải duyệt lại toàn bộ vấn đề truyền giáo.
Bà thái hậu phẫn nộ, bà nói lớn:
- Ta không hiểu tại sao, một đạo giáo ngoại lai du nhập vào xứ ta, hiện đã có ba đạo rồi?
- Tâu thái hậu, hạ thần cũng không hiểu tại sao bọn ngoại nhân cố tình truyền bá đạo của họ vào nước mình.
Nhân năm đó Trương Quế Phân làm lễ trương thọ lục tuần, bà thái hậu mở đại yến khoản đãi ông và tặng ông nhiều phẩm vật quý giá.
Nhờ có uy thế đối với dân chúng, nên khi tướng Trương Quế Phân trở lại nhiệm sở, tổng đốc Nam Kinh, trật tự trong tỉnh được vãn hồi. Việc làm trước nhất của ông là truy tầm thủ phạm đã sát hại vị quan tiền nhiệm, kẻ phạm pháp bị xử tùng xẻo. Phạm nhân bị hành quyết công khai trước công chúng để làm gương cho kẻ nào manh nha phạm pháp. Dân chúng bu lại coi rất đông, đao phủ lấy chiếc dao sắc bén cắt một người sống ra từng mảnh nhỏ, lóc từng cái xương.
Dân chúng đứng xem cuộc hành quyết xong, lặng lẽ trở về, lặng lẽ trở về, làm công việc hàng ngày như thường lệ. Trên mặt hồ sen có những chiếc thuyền kết hoa, trên thuyền những cô đào non trẻ đẹp, gẩy đàn tỳ bà, ca hát với khách làng chơi, thưởng ngoạn tìm thú hoan lạc trên mặt nước. Trương Quế Phân sung sướng nhận thấy nếp sống cổ xưa vẫn được duy trì. Ông làm sớ tấu lên triều đình, sau khi dẹp xong loạn Thái Bình Thiên Quốc, trăm họ được an hưởng thanh bình, thạnh trị.
Ông tướng Trương Quế Phân đã leo lên tột đỉnh phú quý, danh vọng, song ông không thụ hưởng được lâu. Sang đầu xuân năm sau, ông được trời phật đón đi. Lúc ông đi song loan nghênh đón một vị thượng quan ở Bắc Kinh đến, đem theo tờ mật chỉ của bà thái hậu, ông có tính khi ngồi một mình thường ngâm đọc những đoạn trong Tứ thư, đột nhiên lưỡi ông cứng đờ. Ông ra hiệu cho quân hầu, quay xe lại, trở về dinh. Ông thấy xây xẩm mặt mày, hai mắt lừ đừ, trí nghĩ lộn xộn, ông nằm liệt trên giường ba ngày liền.
Sau khi bị lên cơn hai lần, ông cho gọi người con trai đến, để ông trối trăng:
- Ta xét mình sắp về cuối vàng. Ta chỉ tiếc còn nhiều công việc dở dang, nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Con hãy thay ta tiến cử Lý Hồng Chương lên hoàng thái hậu. Ta như bông hồng mai chưa biết tàn úa lúc nào. Khi ta đã về với tổ tiên, nằm trong linh cữu con liệu lo ma chay theo cổ lễ và rước các vị sư về tụng niệm cho ta được siêu sinh tịnh độ.
Người con nghe cha nói, òa lên khóc, bảo cha:
- Con xin cha đừng nói đến chết, con sợ lắm.
Hình như tinh thần ông sáng suốt, sạch sẽ trở lại, ông muốn được khênh ra vườn thưởng ngoạn những cây đào đang trổ hoa. Lúc ở vườn, ông lên cơn một lần nữa, nhưng ông không muốn về nằm trên giường. Ông sai khênh ông ra công đường đặt ông lên ngai rồi ông từ trần.
Khi ông viên tịch, trong thành phố xôn xao, bàn tán về hiện tượng có một ngôi sao đổi ngôi, dân chúng sợ điềm bất tường, sẽ có tai biến gì chăng. Ông mất đi, dân chúng vô cùng thương xót, mến tiếc ông như người bà con, họ hàng thân thích.
Hai hôm sau, thái hậu mới nhận được hung tin, bà âm thầm khóc một vị công thần, một lão trượng có công lớn với triều đình. Bà xuống chiếu, toàn quốc thọ tang ba ngày, và mỗi tỉnh cho xây một ngôi đền thờ ông như một vị khai quốc công thần, toàn quốc ghi ơn ông đã đem lại cho toàn dân an lạc thái bình.
Chiều ngày hôm sau, bà cho mời Nhung Lữ vào bệ kiến.
- Khanh nghĩ sao về lời di tấu của Trương Quế Phân xin tiến cử Lý Hồng Chương, để thay thế chức tổng đốc ở Thiên Tân?
- Tâu thái hậu, hạ thần nghĩ thái hậu có thể dùng Lý Hồng Chương tuy hắn là người Hán. Viên tướng đó rất trung thành, mưu lược, học thức. Thái hậu có thể tin cậy được, hắn là một trung thần đối với ngai rồng.
Bà thái hậu nghe lời tâu của Nhung Lữ, bà suy nghĩ, hai mắt nhìn thẳng vào người anh họ, bà nói:
- Chỉ có anh, tôi không thấy xin ân thưởng, anh đã giúp tôi rất đắc lực.
Nhung Lữ vẫn quỳ trước mặt bà, bà lấy chiếc quạt gấp lại, khẽ vớt trên vai hắn, bà nói tiếp:
- Anh phải thận trọng, chăm nom sức khỏe. Nội bá quan, văn võ, tôi tin cẩn, mến nhất có trương Quế Phân và anh. Trương Quế Phân nay đã ra người thiên cổ. Tôi nghĩ mà lo sợ thiên uy phẫn nộ, lấy hết những người trung tín rường cột của triều đình.
- Tâu thái hậu, đối với hạ thần, thái hậu bao giờ cũng thế, từ ngày còn thơ ấu.
- Anh đứng lên... đứng lên, ngửng mặt ta coi.
Nhung Lữ đứng dậy, người rất mạnh mẽ, cường tráng, rồi bốn mắt nhìn nhau một lúc.
Mùa thu năm sau, tòa khâm thiên giám chọn và ấn định ngày lễ quy lăng cố hoàng thượng. Từ ngày vua băng hà. Linh cữu có khảm các ngọc quý, quàn ở một ngôi chùa trong cấm thành. Để tỏ lòng tin cẩn, bà thái hậu giao cho Cung thân vương thu thập những tài nguyên trong nước để xây cất lăng tẩm, công việc xây cất hết năm năm mới xong. Cung thân vương phụng chỉ không phản đối, than phiền đảm nhận một công việc rất nặng nhọc và rất tế nhị, vì những tỉnh miền Nam, xưa nay có tiếng là trù phú nhất trong nước, đáng lý phải gánh vác một phần lớn nhưng suốt trong mấy năm qua, bị chiến tranh, loạn lạc bây giờ xác xơ, không thể cung cấp được phần do triều đình ấn định. Để có một ngân khoản mười triệu nén bạc, Cung thân vương phải cưỡng chế đặt ra một thứ thuế đánh trên khắp các tỉnh trong nước, các đòan thể, hiệp hội, thuế đánh vào tất cả các công dân, các quan lại ở tất cả các phẩm trật, từ những thượng thư, thân vương, tổng đốc, tuần vũ, thái giám và cả những người đi thu thuế.
Tóm lại, bất luận người nào, ở vào hạng người nào, địa vị nào, đều phải có phần đóng góp. Trong buồng the kín đáo Cung thân vương than phiền với vợ, người duy nhất ông mới dám tỏ bày hết tâm sự. Ông thở dài, nói: " Ta phải chiều theo ý con rồng cái, nếu ta làm phật lòng nó, rất có thể nó dám giết hết". Bà vợ trả lời: "Em nghĩ thấy cũng buồn, giá mình nghèo hèn, sống trong dân dã, có lẽ lại sướng hơn, được yên thân hơn."
Nhưng ông đã sinh ra ở nơi lầu son, điện ngọc, làm thân vương, ông phải có bổn phận khác người dân thường.
Cung thân vương phải mất năm năm trời để xây cất lăng tẩm, phần mất bao nhiêu năm tâm trí, huyết hãn để tạo ra có một ngân khỏan khổng lồ, phần phải lo trang trí trong lăng, đục những tảng đá lớn, chạm trổ thành những vệ sĩ, các giống vật: Voi, ngựa đứng chầu ở cửa lăng. Những tảng đá lớn lấy ở cách xa kinh thành 150 cây số ngàn, chuyên chở những súc đá lớn bằng những chiếc xe lớn 6 bánh phải 600 ngựa, lừa kéo, buộc vào hai chiếc thừng bện bằng gai rất dày, ở trong cốt bằng dây sắt, mỗi chiếc thừng dài 500 thước. Trên mỗi chiếc xe có viên quản kỳ cầm một lá cờ lớn của hoàng triều và bốn tên thái giám ngồi xung quanh. Đi độ nửa giờ, chiếc xe ngừng lại một lúc rồi lại tiếp tục đi khi nào có hiệu chuông đồng. Một người lính cưỡi ngựa, cầm cờ đi trước đoàn xe. Năm mươi tảng đá khổng lồ được vận chuyển như thế, đá về đến công trường đã có thợ đúc đá danh tiếng được lựa chọn bắt tay ngay vào việc.
Lăng làm toàn bằng đá hoa, ở giữa có một bệ mạ vàng cẩn ngọc nơi đặt linh sàng. Ở đây, một ngày mùa thu trong sáng, thi hài cố hoàng thượng được đặt trong cỗ quan tài làm bằng gỗ trầm hương, đánh bóng. Người ta buộc vào thi hài ông vua đã khô đét những thứ ngọc quý: Hồng ngọc, cẩm thạch, ngọc bích Ấn Độ, hạt trai, người ta gắn nắp quan tài bằng nhựa thông và nhựa cây Tây Hà liễu. Hai thứ nhựa này khi đã khô, rắn chắc. Hai bên sườn áo quan có khắc những chữ Phạn của nhà Phật. Xung quanh linh sàn, bọn thái giám gắn lên những cành tre những hình nhân bằng lụa, bằng giấy, tượng trưng quân hầu đi theo tiên đế về suối vàng. Trong thời cổ xưa, chưa được văn minh, người ta chôn những người sống cạnh mộ vua để theo hầu nơi chín suối. Bà cố hoàng hậu, chị lớn bà Đông cung, thi hài quản đã được 15 năm nay trong một ngôi chùa gần đó, để chờ song táng cùng với cố hoàng thượng cũng được đem về lăng, chôn dưới chân cố hoàng thượng trên một chiếc bệ nhỏ hơn.
Khi các sư sãi đã tụng niệm xong, lưỡng cung kiêm nhiếp chính và ấu đế sụp xuống lễ trước mộ rồi rút lui. Những ngọn nến được thắp quanh linh đài, ngọn lửa chập chờn, khi tỏ, khi mờ, chiếu vào viên ngọc gắn ở châu đài và những bức vẽ ở quanh tường... Những cánh cửa đồng được đóng kín lại; nghi trượng tang lễ trở về cấm thành.
Ngày hôm sau, khi lễ quy lăng đã viên thành, bà thái hậu cho công bố một chiếu chỉ, xét về công trạng và sự trung kiên của Công thân vương, bao nhiêu lỗi lầm của thân vương được hoàn toàn miễn thứ.
Chiều hôm đó, bà thái hậu dạo chơi tha thẩn một mình trong vườn ngự uyển. Ánh chiều như nhuộm hồng trên nền trời. Bà thấy bâng khuâng trong dạ, bà không có gì thắc mắc, bận lòng đáng phải buồn. Bà đã quen sống cảnh cô đơn. Sự cao sang, quyền quý tột đỉnh, lầu son, gác tía, gấm vóc phủ phê, bà phải hy sinh tất cả mới tạo ra được, phải trả một giá rất đắt. Dù là chúa tể thiên hạ, bà vẫn mang tâm hồn một phụ nhân, bà tưởng tượng nghĩ đến một gia đình nhỏ ấm cúng, người vợ sống cạnh chồng, sinh con, đẻ cái, đầy đàn, đầy lũ. Trong khi còn tang chế, thái giám báo tin bà hay. Nhung Lữ sanh con trai. Mai, vợ Nhung Lữ hạ sanh 3 giờ sáng một đứa trẻ khỏe mạnh, kháu khỉnh. Hôm đó, bà thấy buồn buồn, mấy lần bà nghĩ đến đứa trẻ mới sanh. Nhung Lữ cũng như mọi người phải thọ tang, suốt thời kỳ tang chế, nét mặt không lộ vẻ gì vui. Nghĩa quân thần, trong khi tang chế, sắc diện phải nghiêm chỉnh là bổn phận của một thần dân, nhưng chiều hôm đó, nghe tin vợ sanh con trai, liệu sắc diện có thay đổi, có vui không? Không bao giờ bà có thể biết được.
Bà thủng thẳng dạo bước trên những con đường nhỏ trong vườn, giữa những hàng cúc nở muộn, đàn chó theo sau. Cũng như mọi lần, bà lại cương quyết với ý chí sắt đá dập tắt lửa lòng, để tâm trí lo toan việc nước.
Hai năm sau, một ngày mùa hạ, bà thái hậu ngự lãm ở Dương Hải cung một vở tuồng hát bộ. Bà ngó thấy tên thái giám Lý Liên Anh đột nhiên đứng dậy, loay hoay tìm đường lẩn ra ngoài. Không có một việc gì, dù nhỏ cũng không qua được mắt bà. Bà ngoắt tay, gọi hắn đến gần.
- Mi định đi đâu? Đang ngồi coi hát, mi bỏ đi như thế, mi không biết mi vô lễ với người trên mi đang đóng trò trên sân khấu à?
Lý Liên Anh khẽ tâu:
- Tâu thái hậu, hạ thần sực nhớ ra một lời hứa với ấu đế. Hạ thần mãi coi hát, suýt quên.
- Hứa gì?
- Tâu thái hậu, ấu đế không biết nghe ai nói hiện có một thứ xe ngoại quốc, tự động, ấu đế có truyền cho hạ thần đi mua một chiếc. Hạ thần không biết tìm mua ở đâu? Hạ thần có hỏi tổng quản thái giám, ỵ.. Nói có một cửa hàng của ngoại nhân ở con đường gần cổng sứ quán. Hạ thần định đến nơi đó.
Bà thái hậu trợn mắt, xếch ngược đôi lông mày, nói:
- Ta cấm mi không được mua thứ đó.
- Tâu thái hậu, xin thái hậu rộng lòng thương cho phép con, nếu con trái lời ấu đế, con sẽ bị đòn.
- Ta sẽ bảo cho hắn biết, ta cấm chỉ không cho con đồ chơi của ngoại nhân. Ấu đế không còn là một đứa con nít.
- Tâu thái hậu, chính hạ thần đã nói là đồ chơi, vì hạ thần không có hy vọng tìm thấy một chiếc xe ma thuật ở trong nước ta.
- Đồ chơi hay không phải đồ chơi, dù sao cũng là một thứ ngoại lai, ta cấm chỉ. Ngồi xuống.
Lý Liên Anh phải tuân lệnh, ngồi xuống ghế. Vở tuồng diễn hôm đó, bà thái hậu mất hết cả hứng thú. Bà trở về cung, ngồi suy nghĩ một lúc, cho gọi viên tổng quản thái giám.
Mặc dù, tên tổng thái giám, người to béo, nôm cao ráo, hắn liếc mắt táo bạo nhìn bà thái hậu, bà biết tên này tính nết xấc láo, hạng vô sỉ. Người ta xì xầm An Đắc Hải không phải chính thực là một tên hạng quan, hắn có con ở trong nội thành. Bà không muốn nghe, không muốn biết chuyện riêng tư của hắn.
Bà đối với hắn rất nghiêm khắc. Bà hỏi:
- Sao mi dám âm mưu với Lý Liên Anh?
An Đắc Hải nói như người đứt hơi:
- Tâu thái hậụ.. Hạ thần âm mưụ..
- Phải, mi định mua cho con ta một chiếc xe ngoại lai.
Tên thái giám cố gặng cười.
Tâu thái hậu, thái hậu cho thế là âm mưu? Hạ thần nghĩ muốn ấu đế ấu có đồ chơi.
- Mi cũng biết ta không muốn người nào cho con ta những đồ vật ngoại lai. Sao mi làm lạc chí hướng con ta có tư tưởng vọng ngoại.
Tên thái giám năn nỉ kêu:
- Tâu thái hậu, hạ thần không có ý đó. Chúng con có bổn phận phải tuân lệnh hoàng thượng.
- Không được, nếu ấu đế muốn thứ gì, ta phải xét xem có hại không đã. Ta đã bảo mi nhiều lần ta không muốn hắn có những tật xấu như phụ vương hắn xưa kia. Nếu mi đã chiều theo ý muốn về việc này, thì mi sẽ chiều theo bao nhiêu thứ khác nữa.
-Tâu thái hậụ..
Thôi cút ngay, khuất mắt ta, quân bất trung.
Tên tổng quản thái giám nghe bà nói sợ quá. Đã lâu hắn được bà thái hậu sủng ái nhưng lòng quyến cố của chủ đối với tôi tớ không có gì là vững bền, nó như ánh nắng mùa xuân lúc ban mai. Lòng quyến cố mỗi ngày một giảm dần cho đến một ngày nào, rất có thể, đầu lùi khỏi cổ.
Tên thái giám quì dưới chân bà khóc nức nở:
- Tâu thái hậu, tất cả đời con thuộc về thái hậu. Lệnh thái hậu ban xuống con xin triệt để tuân theo.
Bà lấy chân hất hắn ra.
- Cút đi cho khuất mắt ta.
Hắn bò ra ngoài. Khi đến ngoài, hắn vội vàng đến cầu cứu một người có thể làm bà thái hậu nguôi giận. Người đó là Nhung Lữ. Nhung Lữ, lúc đó đang nghiên cứu những phúc trình để ngày mai đệ nạp lên ngai rồng. Nhung Lữ tiếp tên thái giám và hứa sẽ giúp hắn nói với bà thái hậu nhưng với điều kiện từ nay không quá nuông chiều, dễ dãi với ấu đế.
Hôm đó, Nhung Lữ ở rất lâu trong thư phòng, cô vợ trẻ đến nhìn trộm qua bức rèm, không dám hỏi han vì thấy nét mặt chồng rất nghiêm nghị. Người thiếu phụ đáng thương này cũng tự biết không chiếm trọn trái tim của chồng, chồng thương yêu được phần nào hay phần ấy, nàng bao giờ cũng rất lịch sự, chiều chuộng chồng. Nàng cảm thấy, không gần gũi chồng mặc dù ở cạnh chồng, đêm nằm trong vòng tay chồng. Tuy thế, nàng không lo lắng gì, vì chồng đối với nàng rất tốt. Nhưng dù sao nàng vẫn cảm thấy nàng không với tới được chồng vì cảm thấy như cách xa cả một bãi sa mạc.
Thời giờ trôi qua, đêm đã khuya, cô vợ nóng ruột thấy chồng ngồi mãi không đi ngủ. Cô rón rén đến gần chồng, sẽ sàng đặt bàn tay lên vai chồng, cô nói:
- Trời gần sáng, anh vẫn chưa đi nằm?
Chồng giật mình quay lại, nét mặt bơ phờ. Nàng âu yếm quàng tay qua cổ chồng, nói:
- Em xem anh có điều gì phiền não, nếu anh có điều gì lo lắng xin cho em biết với.
Chồng lấy vẻ tự nhiên trả lời:
- Ồ, những chuyện cũ xưa, nhưng vấn đề không bao giờ giải tỏa được, không cần phải để ý suy nghĩ. Thôi, đi ngủ.
Hai vợ chồng sánh vai cùng đi, đến cửa buồng ngủ, chồng vừa nghĩ sực ra, bảo vợ:
- Em có bầu lần này có thấy dễ chịu như lần trước không?
- Cám ơn anh, dễ chịu.
Chồng mỉm cười nói thêm:
- Chắc lần này em sinh con gái. Anh nghe người ta thường nói, có bầu con trai nặng nề, khó nhọc hơn con gái.
- Em sanh con gái anh có buồn không?
- Không, nếu con giống em.
Chồng sẽ nghiêng đầu chào rồi về phòng ngủ.
Ngày mai, khi chiếc "Lậu khắc" chỉ ba giờ quá trưa thái giám Lý Liên Anh vào tâu bà thái hậu, viên quân cơ Nhung Lữ đứng chờ ngoài cửa, nếu thái hậu xét giờ này có tiện cho phép y được vào bệ kiến.
Bà trả lời.
- Giờ nào tiếp người anh họ ta chẳng được. Mi ra mời ông vào.
Một lát sau, Nhung Lữ vào điện triều kiến, bà thái hậu ngồi chờ sẳn trên ngai. Bà ra hiệu, bảo tên thái giám lui ra ngoài. Bà bảo Nhung Lữ không phải quì, ra ngồi ở cạnh ngai. Bà nói:
- Đối với tôi, xin anh không cần phải giữ lễ. Anh cũng biết, tuy hiện nay tôi là hoàng thái hậu, anh cũng đã biết tôi khi tôi còn nhỏ, còn là con gái.
Gian điện rộng lớn, bà nói nhỏ, giọng dịu dàng, êm ái không ai có thể nghe thấy. Mặc dù Nhung Lữ vẫn sợ có người rình mò nghe trộm, không dám nói gì, chỉ ngước mắt nhìn bà một lúc lâu, lấy bàn tay mặt che mồm.
- Bỏ tay xuống anh.
Nhung Lữ bỏ bàn tay xuống, bà thấy hắn cắn chặt hai môi, bà nói:
- Răng anh trắng và chắc như răng cọp, anh đừng cắn môi, tội nghiệp cho đôi môi.
Nhung Lữ quay mặt nhìn chỗ khác.
- Tôi đến đây để tâu với thái hậu về ấu đế.
Đó là một mánh khóe của Nhung Lữ để đánh lạc hướng bà thái hậu. Bà nghĩ ngay đến con không nghĩ gì đến chuyện khác. Bà hỏi:
- Hắn làm sao?
Nhung Lữ thấy nhẹ nhõm, thoát được lúc nào hay lúc đó, chiếc dây tình ái như ràng buộc giữa hai người không bao giờ thôi. Hắn nói:
- Tôi rất lo buồn về vấn đề giáo huấn ấu đế. Gần bọn thái giám, ấu đế dễ bị tập nhiễm tính nết xấu xa, hư hỏng. Thái hậu đã biết cố tiên vương bị tai hại vì những chuyện tồi bại. Vấn đề giáo dục của ấu đế phải để ý săn sóc từ bây giờ, không, sợ trễ quá.
Bà nghe, đỏ mặt, không nói gì. Một lúc sau bà bình tĩnh trả lời:
- Ấu đế thiếu sự trông nom săn sóc của người cha. Tôi rất mừng thấy anh để ý về vấn đề giáo dục hắn như một người cha. Tôi rất lo ngại nhưng không biết làm thế nào, vì tôi là một người đàn bà. Tôi không thể nói ra, bảo hắn những chuyện mà tôi không muốn nghĩ, muốn biết tới. Đó là công việc thuộc phạm vi người đàn ông.
- Cũng vì thế, hôm nay tôi đến đây để bàn với thái hậu về chuyện đó. Ý tôi nên lo vợ cho ấu đế, càng sớm chừng nào tốt chừng ấy. Để cho hắn tùy ý lựa chọn một người vợ với sự chấp thuận của thái hậu. Ấu đế lấy vợ sớm hơn hai năm, nghĩa là năm 16 tuổi. Tôi nghĩ ấu đế lập hoàng hậu sẽ tránh khỏi bị tập nhiễm thói xấu, nết hư.
- Sao anh biết?
Nhung Lữ trả lời cộc lốc:
- Tôi biết.
Hắn không nói gì thêm. Khi bà để ý nhìn, hắn quay đầu nhìn chỗ khác.
Bà thở dài, anh chàng này giữ đúng lề lối, cương vị không sao dụ dỗ, mơn trớn được.
- Thôi được, tôi theo lời anh khuyên nhủ. Bây giờ cho tập hợp các thiếu nữ sửa soạn như tôi hồi nào. Ngày giờ đi chóng thật. Lúc này, với cương vị hoàng thái hậu tôi đứng lên lựa chọn. Anh còn nhớ không nhỉ, cố hoàng thái hậu ngày xưa không ưa gì tôi.
- Thái hậu đã chinh phục bà ta như đã chinh phục tất cả mọi người.
Hắn khẽ nói, đầu ngoảnh đi không quay về bà.
Bà mỉm cười, đôi môi đỏ, rung rung, bà muốn chọc ghẹo chơi song bà lại thôi, lại lấy vẻ bệ vệ của địa vị hoàng thái hậu:
- Được rồi, cứ đúng như thế. Cám ơn lời bàn, khuyên nhủ của anh.
Bà nói to, giọng rõ ràng, An Đắc Hải đến gần nghe thấy, Nhung Lữ đứng dậy, cúi rạp người chào. Bà thái hậu khẽ nghiêng đầu đáp lễ, Nhung Lữ đi ra.
Tên tổng quản thái giám trong lòng bồn chồn, lo lắng. Hắn tưởng địa vị của hắn vững như ngai rồng nhưng không thể nào rung lay. Các vua chúa, hết ông này đến ông khác, nhưng thái giám còn mãi nhất là tổng quản thái giám. Đột nhiên bà thái hậu lại giận hờn hắn. Trong lòng hắn vô cùng bối rối, hắn muốn ra khỏi cấm thành, hắn như bị nhốt suốt cả đời ở đây.
Hắn lẩm bẩm nói một mình "Suốt đời ta như bị nhốt trong này, không biết bên kia bức tường thành, thế giới ở ngoài ra sao? ". Hắn như sực nhớ một mộng ước xa xưa, đánh liều đến xin trình diện trước bà thái hậu.
- Tâu thái hậu, hạ thần cũng tự biết một thái giám đi ra khỏi kinh thành là trái với lề lối của triều đường. Nhưng từ nhỏ hạ thần vẫn có mộng ước được đi chơi thuyền trên con sông lớn để ngắm giang sơn cẩm tú của nước ta. Hạ thần đến xin thái hậu cho phép hạ thần đươc đi du lịch một lần trong ít lâu rồi hạ thần sẽ trở về.
Bà thái hậu ngồi yên nghe lời thỉnh nguyện của tên thái giám. Bà biết các thân vương, các quan trong triều, các thể nữ vẫn công kích sau lưng bà những ân huệ mà bà ban phát cho bọn thái giám. Lịch sử cũng ghi chép dưới thời ông vua nào các thái giám được biệt đãi nhất. Đó là dưới thời hoàng đế Phúc Linh cách đây 250 năm. Ông vua này thích đọc sách, ngồi thiền, sống cảnh tu hành, để mặc cho bọn thái giám muốn làm gì trong cung tùy ý. Có biết đâu bao nhiêu việc hư hỏng cũng vì bọn này.
Một hôm, Cung thân vương không nói câu nào, đưa một cuốn sách có ghi chép những sự tệ hại của bọn thái giám dưới đời vua Phúc Linh. Bà thái hậu đọc cuốn sách đó, trong lòng giận lắm, đọc xong lẳng lặng trao cả Cung thân vương, không một lời bình phẩm, nhìn thân vương với con mắt nghiêm khắc.
Bà suy nghĩ thái độ của bà đối với bọn hoạn quan, bà dùng bọn này để do thám, tên nào làm được việc bà thưởng rất hậu. Bà đối đãi với An Đắc Hải rất rộng rãi, không những vì hắn rất trung thành, lại có mẽ người đóng trò kép hát rất tài tình, đàn hát giỏi.
Bà nghĩ, tự bào chữa, nếu che chở bọn thái giám, nhiều cái phải bỏ qua làm ngơ, vì một người đàn bà lên cầm quyền bính không thể tin cậy vào ai. Bà cần có bọn đó, dùng để do thám những người nghịch với bà, phá những mưu đồ của họ có hại cho bà.
- Mi làm phiền ta quá. Nếu ta cho phép mi ra ngoài thành chơi, người ta sẽ dị nghị ta, cho ta vi phạm luật lệ quốc gia, lề lối của triều đường.
Tên thái giám thở dài rất não nuột. Hắn năn nỉ:
- Con đã hy sinh cả đời con, con tự hủy hoại thân thể, để không vợ, không con, nay con như bị nhốt trong bốn bức tường thành cho đến khi già, khi chết.
Hắn còn ít tuổi, đáng lý hãy còn trong tuổi thanh niên, tráng kiệt, tuấn tú, song vì chơi bời trác táng, nên người đã như giàa trước tuổi, xung quanh mồm đã in vết nhăn, hai má phinh phính, không còn là trai trẻ nhanh nhẹn. Bà thái hậu mến hắn vì giọng nói của hắn, êm dịu, nói năng rành rẽ gọn gàng, dáng dấp đường hoàng.
Bà thái hậu cũng tự biết bà có thiệc cảm với tên thái giám này, không những hắn có mẽ người, biết ăn nói mà nhất hắn rất mực trung thành, những lúc bà lo nghĩ ưu sầu, hắn cố tìm cách giải khuây, làm bà phấn khởi.
Bà thái hậu ngồi lần mần ngắm chiếc tháp móng tay bằng vàng ở ngón tay út, bà thủng thẳng nói giọng như mơ màng:
- Ta có thể cắt cử mi đi thanh tra cơ sở dệt, thảm của hoàng triều. Ta có đặt làm mấy tấm thảm đặc biệt dùng trong lễ thành hôn của con ta. Tuy đã hết sức dặn bảo cách thức làm song ta vẫn ngại người ta nhầm lẫn. Ta nhớ một lần bọn thợ dệt ở đó gửi lên những tấm vóc, màu vàng nhạt quá, không đúng màu sắc của hoàng triều. Mi đi Nam Kinh bảo họ màu vàng phải thứ vàng sẫm, vàng tươi, màu lam đừng làm lạt quá. Mi cũng biết màu lam sáng là màu ta ưa chuộng nhất.
Bà đã lấy quyết nghị, khi đã quyết nghị bà không do dự, cho thi hành và đối phó với búa rìu của dư luận.
Vài hôm sau, tên tổng quản thái giám đi Nam Kinh với một đội quân hộ tống. Đội quân hộ tống hùng hậu gồm 6 chiếc thuyền cắm cờ xí hoàng triều. Trên chiếc thuyền có tên thái giám treo huy hiệu long kỳ.
Tên thái giám lộng hành, hống hách, chơi bời trác táng không coi ai ra gì, dâm dật, làm nhiều điều càn rỡ, các quan miền duyên hà hắn đi ngang qua vô cùng tức giận. Cung thân vương nhận được công văn mật, tường trình về thái độ của tên thái giám. Ông vô cùng phẫn nộ, dựa vào thế lực của bà Đông cung xin bà ký vào tờ sắc chỉ, kết án tử hình tên thái giám hống hách, bất lương, vô sỉ.
Được tin tên thái giám bị hành quyết bà thái hậu vô cùng buồn bã, thương tiếc một tên đầy tớ trung thành với bà. Bà bị đau trong bốn hôm, bà mất ăn, mất ngủ, vô cùng tức giận bà Đông cung, nhất là Cung thân vương.
Bà kêu lên:
- Hắn đã biến cái con chuột nhắt thành một con sư tử cái.
Mấy hôm sau, bà có ý định đem Cung thân vương ra hành quyết.
Lý Liên Anh thấy ý định đó sợ hết hồn, vội vàng nhật báo cho Nhung Lữ biết.
Nhung Lữ tất tưởi đến ngay cung bà thái hậu. Đến thềm phòng ngủ của bà, thấy các rèm buông kín, bà nằm vật vã trên giường. Với một giọng lạnh lùng, cứng rắn, Nhung Lữ nói:
- Nếu bà còn nghĩ đến ngai vàng, xin bà đừng làm gì hết. Bà nên dậy, lo công việc như thường lệ. An Đắc Hải là một tên thái giám vô hại, bà nuông chiều nó quá, nó ỷ lại làm nhiều điều xằng bậy, càn rỡ. Như thế bà đã vi phạm luật lệ và tục lệ của triều đường.
Bà chấp nhận sự chỉ trích, phán đoán hợp lý đó, song bà cũng tự bênh vực. Bà nói:
- Anh cũng biết tôi phải dung túng bọn đó, ở trong này tôi sống cô đơn... Một người đàn bà lẻ loi chiếc bóng, sống thui thủị..
Nhung Lữ chỉ nói:
- Tâu thái hậụ..
Rồi rảo bước ra ngay.
Bà nghe lời ngồi dậy, tắm rửa, thay quần áo, ăn uống chút ít. Các thế nữ, a hoàn xúm lại hầu hạ, người nào cũng lặng thinh, không ai dám nói một câu. Bà thái hậu đi chậm chạp, dáng điệu mệt mỏi, đến thư viện. Bà ngồi luôn suốt mấy tiếng đồng hồ, nghiên cứu các tờ phúc trình ở các nơi gởi đến để trê bàn làm việc. Gần chiều bà gọi Lý Liên Anh đến bảo:
- Từ nay trở đi, mi làm tổng thái giám, thân mạng và công việc của mi tùy thuộc vào sự tuyệt đối trung thành, ngửng đầu lên thề một lòng, một dạ phục vụ bà.
Từ hôm đó bà thái hậu không còn tỏ ý căm thù Cung thân vương, thái độ bà vẫn như thường, tiếp nhận công việc của thân vương. Tuy vậy trong lòng bà ghét lắm, chờ một dịp nào thuận tiện bà sẽ triệt hạ cái tính ngông nghênh kiêu ngạo của hắn.
Mặc dù trong nước gặp hồi nhiễu nhương, hỗn loạn, công việc đa đoan, bà thái hậu vẫn không quên lời khuyên nhủ của Nhung Lữ, lập hoàng hậu cho ấu đế. Bà càng suy nghĩ thấy việc đó rất hợp với thâm ý của bà.
Con bà giống cả tinh thần lẫn thể chất, nhưng con bà cũng làm bà rất buồn lòng, nổi lòng không thể thộ lộ với ai, cả với tác giả của người con, bà sợ lỡ lộ chuyện. Con bà từ khi còn nhỏ, đã thích bà Đông cung với đồng bọn hơn mẹ ruột. Thường thường bà thấy con bà ở bên bà Từ An.
Tính bà tự cao, tự đại, nên cho đó là một việc tầm thường, tuy bề ngoài bà không lộ một vẻ gì thắc mắc hay khiển trách về việc đó, nhưng trong thâm tâm bà lấy làm lạ, sao con bà lại quyến luyến người khác hơn mẹ. Bà tha thiết yêu con, không muốn hỏi han gì con, tính tự cao, không muốn hạ mình nói hết tâm tư với thân vương Cung hay Nhung Lữ. Bà cũng chẳng cần phải hỏi, trong thâm tâm bà cũng biết tại sao con bà hay la cà ở bên dinh bà Đông cung, chỉ đến thăm mẹ khi nào có cho gọi đến. Con cái ở độ tuổi mới lớn thường làm mẹ khổ tâm, bực mình. Nhiều lúc mẹ không thể chiều theo ý con, bà cố rèn nắn con sau này thành một người hiểu biết, một người hữu ích hay hơn nữa một vị anh quân, minh chúa. Bà Đông cung lại khác hẳn, không chịu dạy dỗ lại còn ý nuông chiều, cậu nhỏ muốn gì bà chiều theo, vì bà hoàn toàn không có trách nhiệm.
Bà thái hậu thấy bà Đông cung có ý làm hư hỏng con bà, bà giận hầm gan, tím ruột. Rất có thể bà Đông cung đã lén lút cho mua chiếc đồ chơi ngoại lai, giấu kín trong cung để cho con bà chơi mà bà không biết. Chuyện này có thể lắm, không còn hồ nghi gì nữa, vì mỗi buổi sáng, sau khi bãi triều, con bà có vẻ vội vàng làm cho xong việc mấy thể thức về lễ nghi ở triều đường muốn đi ngay chỗ khác. Bà thái hậu để ý giữ con ở lại, đưa vào trong văn phòng ở thư viện, kiểm điểm, phê phán lại những sớ tấu, các triều thần trình bày lúc thiết triều. Bà thấy con bà lơ đãng không để ý vào công việc. Bà khiển trách, cậu nhỏ hét lên:
- Thế ra, ngày nào mấy anh già lẩm bẩm nói gì trong chòm râu, con phải để tai nghe và thuộc lòng sao?
Thấy con ăn nói hổn xược, bà giận quá dang tay, tát con mấy cái thật mạnh. Cậu nhỏ không nói gì, giương to hai mắt đẫm lệ nhìn mẹ, quay người định đi ra. Cậu định sang dinh bà Đông cung, ở đấy hắn được dỗ dành, nuông chiều. Chắc chắn bà Đông cung sẽ nói với cậu nhỏ tính nết cục cằn, hung bạo của người em họ, tính đó đã phát hiện từ khi còn nhỏ.
Thấy đứa con độc nhất, cứng đầu, cứng cổ, khó dạy, bà thái hậu nghĩ tủi thân, nghẹn ngào khóc. Bà thật khó nghĩ nếu chiều theo ý con, con sẽ hư hỏng, mà cho vào khuôn vào phép, theo lề lối, con sẽ oán hận, căm thù bà, tình mẹ con sẽ phai nhạt dần. Một mẹ, một con, vấn đề thật nan xử. Con bà không đem lại nguồn vui như bà mong muốn. Bà đã tận tâm vì con, bà đã cố gắng giữ gìn giang sơn nguyên vẹn để trao lại cho con lên trị vì.
Bà khóc một lúc, lấy chiếc khăn tay lụa gấm trên vai áo bằng một chiếc khuy cẩm thạch, lau khô nước mắt. Bà trở lại bình tĩnh, để tâm trí suy nghĩ tìm cách đối phó. Bà phải tìm cách nào để thay thế tình quyến luyến của con bà đối với bà Đông cung. Bà phải tìm một người đàn bà khác trẻ đẹp, nghĩa là bà phải lo kiếm một người bạn trăm năm cho con, nay đã đến tuổi trưởng thành. Bà nghĩ, thấy những lời bàn của Nhung Lữ nói với bà khi trước rất khôn ngoan. Kế thượng sách là lo lập hoàng hậu cho ấu đế, như thế mới có thể đả phá, diệt trừ ảnh hưởng xấu xa của bọn thái giám và nhất là bà Đông cung, một người đàn bà trầm lặng, làm hư hỏng tính tình ấu đế.
Bà ngồi lẩm bẩm nói một mình: "Ta có nhờ Sakota (nhũ danh bà Từ An) làm mẹ cho con ta đâu? Con người bạc nhược đó chỉ sinh được một đứa con gái ẻo lả cả tinh thần lẫn thể chất."
Càng nghĩ bà càng tức, hai tay đập vào nhau chan chát. Bà cho gọi Lý Liên Anh bây giờ là tổng quản thái giám.
Bà ra chỉ thị cho Lý Liên Anh: Các thiếu nữ đến trình diện, ngày giờ, nơi họp và những điều kiện để tuyển trạch. Những thiếu nữ phải có nhan sắc, thuộc các tộc đẳng Mãn Châu và không được hơn ấu đế hai tuổi.
Tên thái giám nghe bà thái hậu truyền lệnh, hắn nói hắn biết tính ấu đế và xin sáu tháng để sửa soạn. Bà thái hậu thấy thời gian dài quá những sáu tháng, bà chỉ cho phép nội trong ba tháng phải xếp đặt cho xong.
Vấn đề ấu đế, bà thu xếp được ổn thỏa, bây giờ bà để tâm trí vào công việc trong nước. Có một chuyện làm bà bực dọc nhất là sự ương ngạnh của quân xâm lăng Tây phương, yêu sách để cho sứ thần họ vào bệ kiến, nhưng không theo lễ nghi triều đường, không chịu quỳ lạy. Đã mấy lần bà nổi cơn lôi đình về những yêu sách hỗn xược đó.
"Làm sao ta có thể chấp thuận cho bọn đó vào triều kiến, họ không chịu quỳ trước ngai rồng. Lễ nghi chốn triều đường đã quy định, lẽ nào bậc chí tôn tự hạ để hạ cấp đứng thẳng người nói chuyện ngang hàng sao được? "
Như mọi khi bà gạt sang một bên không muốn nghĩ tới vấn đề nan giải đó. Một viên quan ở hàn lâm viện, Vũ Quả Tú có làm một tờ biểu chương xin cho các sứ thần ngoại quốc được vào bệ kiến, xin châm chước về lễ nghi, bà thái hậu từ khước, lấy cớ vấn đề đó đã có từ lâu, không thể chấp nhận một cách vội vàng, cẩu thả được. Bà cương quyết tuyên bố:
- Ta cấm chỉ bất cứ ai vào bệ kiến trước ngai rồng không tuân theo lễ nghi triều kiến, vì chấp thuận cho họ được tự do tức là khuyến khích bọn phản loạn. Bà ra chỉ thị cấm không cho phép một ngoại nhân nào được bước chân vào trong cấm thành. Bọn ngoại nhân mỗi ngày mỗi hống hách, rất khó chịu. Bà nhớ viên tướng Trương Quế Phân có kể cho bà nghe về việc dân chúng ở Hàng Châu nổi lên chống đối những người ngoại quốc đi truyền giáo, đã xui giục bọn thanh niên, nam nữ, cưỡng lời cha mẹ, phủ nhận các thần thánh, chỉ biết tin thờ có một vị thần ngoại quốc. Bà cũng còn nhớ, dân chúng ở Thiên Tân vô cùng phẫn nộ trước hành vi ngạo mạn của các linh mục người Pháp đã biến cải một ngôi chùa thành lãnh sự quán, họ ném hết những pho tượng ra đống rác.
Lúc đầu bà thái hậu không để ý, coi thường những chuyện đó, bây giờ bà suy nghĩ, bà lo sợ, cuộc xâm lăng của bọn đạo Gia Tô là một nguy cơ làm lung lay cả nền tảng quốc gia.
Bọn người theo Gia Tô giáo nhan nhản chỗ nào cũng có, bọn ngoại nhân truyền đạo của họ, tuyên bố vị Thần của họ mới đúng còn toàn là tà thần. Bọn nữ nhân ngoại quốc đi gieo rắc đạo giáo cũng không kém phần nguy hiểm. Họ có chịu ở trong nhà đâu, họ xông xáo đi khắp mọi nơi, len lỏi giữa đám đàn ông, cử chỉ, tác phong, như những gái điếm. Chưa ai thấy bao giờ một đạo tự phụ mình là chính thống, và miệt thị đạo khác. Hàng bao nhiêu thế kỷ, những đồ đệ của Khổng giáo, Phật giáo, Lão giáo, sống trong hòa đồng, biết tôn trọng lẫn nhau, đạo này không miệt thị đạo khác. Duy chỉ có bọn Gia Tô giáo phủ nhận tất cả, giữ độc tôn, chỉ có đạo của họ được tồn tại. Bây giờ, thời gian đã chứng minh cho biết, chỗ nào có bọn người truyền giáo xuất hiện, chỗ đó, ít lâu sau, bọn lái buôn Tây phương kéo đến, theo sau là hạm đội, chiến thuyền, thần công, đại bác...
Một hôm bà thái hậu bảo Cung thân vương:
- Sớm muộn gì chúng ta cũng phải loại trừ hết bọn ngoại nhân, trước hết là bọn Gia Tô giáo.
Thân vương mỗi lần nghe bà thái hậu nói về việc trừ khử bọn ngoại nhân ở trong nước, ông lo sợ vì nó sẽ xảy ra rất nhiều chuyện không hay. Một lần nữa, ông lại cố xin bà thái hậu thận trọng về việc này:
- Tâu thái hậu, thái hậu cũng đã rõ bọn ngoại nhân có những vũ khí rất mạnh, người mình chưa được biết. Xin phép thái hậu cho phép hạ thần thảo một quy chế để hạn chế hành động của họ với dân chúng trong nước.
Bà chấp thuận lời đề nghị. Tám hôm sau thân vương đệ trình bản dự thảo về quy chế. Bà nói:
- Hôm nay tôi nhức đầu, thân vương viết thế nào đọc cho tôi nghe.
Bà nói xong, nhắm mắt, ngồi yên nghe.
- Tâu thái hậu, từ ngày xảy ra cuộc xung đột giữa dân chúng với các nữ tu sĩ, hạ thần quyết nghị, từ nay bọn Gia Tô giáo chỉ có quyền nhận vào cô nhi viện những con cái các đồ đệ của họ.
Bà vẫn nhắm mắt, khẽ gật đầu, tỏ sự đồng ý. Cung thân vương đọc tiếp:
- Hạ thần cũng nêu một vấn đề, các hội truyền giáo ngoại quốc không được vượt ra ngoài nhiệm vụ về tôn giáo, không được bênh vực những đồ đệ người bản xứ phạm pháp, luật lệ quốc gia. Nói rộng nghĩa là các linh mục không được xen vào nội bộ cuộc trị an của triều đình.
- Câu đó rất đúng, hợp ý ta.
- Hạ thần cũng ghi thêm một vấn đề không kém phần quan trọng, các nhà truyền giáo không được yêu sách về sự "Bất khả xâm phạm", trú ngụ trong một lãnh thổ ngoại quốc. Phải chịu theo luật lệ của nước đó.
- Dĩ nhiên như vậy.
- Những phần tử bất hảo, phạm pháp không được lấy giáo đường làm nơi ẩn trốn.
- Đúng vậy, luật lệ quốc gia phải được hành xử trên toàn lãnh thổ.
- Đó là đại cương bản quy chế, hạ thần đã không đạt cho các lãnh sự quán ở kinh thành.
- Những điều đó rất hợp tình, hợp lý.
Thân vương nét mặt rất nghiêm nghị tâu:
- Tâu thái hậu, hạ thần rất khổ tâm tâu trình lên thái hậu, bọn ngoại nhân không chấp nhận bản dự thảo quy chế. Họ nhất định yêu sách kiều dân họ có quyền di chuyển trên khắp lãnh thổ nước ta và muốn làm gì tùy ý. Còn tệ hơn nữa, họ khước từ không chịu đọc bản dự thảo quy chế, tuy đã gởi cho họ theo đường lối ngoại giao. Chỉ có lãnh sự Hoa Kỳ trả lời, không phải là vấn đề chấp thuận, mà là trả lời đã nhận được bản cáo thị.
Bà thái hậu không sao nén được sự phẫn nộ trước thái độ ngạo mạn, hỗn xược của quân ngoại xâm. Bà mở to mắt, vỗ hai bàn tay vào nhau, đang ngồi trên ngai, bà đứng dậy, đi vòng quanh gian phòng, mồm lẩm bẩm những câu gì không rõ, tỏ vẻ vô cùng bực tức. Đột nhiên, bà im không nói, nhìn thẳng vào thân vương.
- Thân vương có nói cho chúng biết, như vậy là chúng tự tiện lập một quốc gia riêng biệt trong nước mình không? Mà còn nguy hại cho nước ta nữa, không một quốc gia nào mà lại có rất nhiều quốc gia, mỗi một phái tôn giáo của họ lại đặt ra thể lệ, luật pháp riêng biệt, chúng không thèm đếm xỉa gì đến luật pháp của nước ta.
Với vẻ mặt thất vọng, buồn buồn, thân vương trả lời:
- Hạ thần đã nói với các công sứ ở các quốc gia đó.
Bà thái hậu hét to, hỏi:
- Thân vương có hỏi bọn họ, nếu chúng mình cũng làm như họ, đến nước họ muốn làm trời làm đất gì, liệu họ có bằng lòng không? Chúng mình không tôn trọng luật pháp ở nước họ, làm như nước họ thuộc về lãnh thổ của nước mình thì họ nghĩ sao?
- Hạ thần có hỏi, được họ trả lời: Không thể đem so sánh văn minh của họ với trình độ văn minh của nước mình, luật pháp của nước mình không tiến bộ bằng luật pháp của nước họ, họ phải bảo vệ kiều dân của họ.
- Bà thái hậu nghiến răng ken két:
- Chúng nó nói thế mà vẫn cố sống, cố chết bám lấy đất này. Mình tống khứ, chúng không chịu đi.
Bà ngồi chịch xuống ghế:
- Ta biết bọn chúng, chỉ thỏa mãn khi nào chiếm được trọn vẹn nước mình, như chúng đã chiếm được Ấn Độ, Miến Điện, Phi Luật Tân, quần đảo Nam Dương, Javạ..
Thân vương không nói gì, ông cùng một quan niệm, một ưu tư như bà thái hậu.
Bà ngửng đầu, khuôn mặt rắn rỏi, cương quyết, mặt bà tái đi:
- Tôi nói, bất cứ với một giá nào, phải tống xuất bọn chúng ra khỏi lãnh thổ.
- Nhưng...
- Bắt buộc phải như vậy, với bất cứ giá nào, với một phương tiện nào. Ta phải để tâm làm bằng được cho đến khi nào ta nhắm mắt, lìa đời.
Bà đứng dậy, dáng điệu lạnh lùng, trầm tĩnh, thân vương đã hiểu cuộc hội kiến đã mãn.
Từ ngày đó, bà thái hậu như bị ám ảnh với một ý nghĩ duy nhất:
"Tống xuất hết bọn ngoại nhân ra khỏi nước."
Mùa thu năm ấu đế Đồng Trị vừa đúng 16 tuổi, bà thái hậu lo lập hoàng hậu.
Bà ra quyết nghị, vấn đề đó được đem ra tham khảo ý kiến đại hội đồng đình thần, đoàn thể các tộc đảng và các thân vương. Ngày giờ tuyển trạch do Tòa khâm thiên giám định. Sáu trăm thiếu nữ nhan sắc được triệu tập vào trong thành nội. Viên tổng quản thái giám Lý Liên Anh chọn trong 600 thiếu nữ lấy 100 người.
Một ngày nắng ráo, đẹp trời. Trong sân, trên bệ tường rực rỡ những bông hoa muôn màu, muôn sắc, bà thái hậu và bà Đông cung ngự ở lầu Trường Xuân dự kiến các thí sinh diễu hành đi ngang qua. Bà thái hậu thích nhất cung Trường Xuân, trong cung có treo các tấm bích họa nét vẽ rất khéo, nom rất sống động.
Ba chiếc ngai được đặt giữa gian phòng, hoàng thượng ngồi giữa, hai bên tả, hữu tay ngai có hai bà Đông cung và Tây cung. Ngai của hoàng thượng cao hơn một chút. Ấu đế mặc cẩm bào màu vàng, thêu rồng, đội mũ bình thiên có cắm một chiếc lông công, gắn ở mũ bắng một chiếc nút cẩm thạch màu đỏ tươi. Ấu đế ngồi rất ngay ngắn, nghiêm chỉnh, đầu ngửng cao. Bà thái hậu đoán biết con thích lắm, thấy hai má con đỏ ửng, hai mắt đen lánh, sáng ngời. Bà rất hãnh diện thấy con có mộtsắc đẹp dị thường. Trong thâm tâm bà có ý ghen, bà sợ một thiếu nữ nào nhan sắc chiếm hết tâm hồn con bà, tuy thế bà lại muốn chọn một người nào thật đẹp để con bà đuợc mãn nguyện, sung sướng.
Ba tiếng kèn đồng báo hiệu một cuộc diễu hành. Viên tổng quản thái giám đọc danh sách các thiếu nữ. CÁc thiếu nữ đi hàng một, ngang qua ngai vàng, ngừng lại, cúi gập mình chào, rồi ngửng mặt lên, hướng về phía ngai. Người ta thấy bọn thiếu nữ ở cuối phòng đi ra, lố nhố nhiều lắm, quần áo sặc sỡ, muôn màu nghìn tía, những chiếc mũ gắn đồ nữ trang, óng ánh dưới ánh nắng xuyên qua các khuôn cửa mở rộng.
Lại một lần nữa, tiếng kèn đồng nổi lên, bà thái hậu ngồi yên trên ngai, không quay đầu, hai mắt nhìn thẳng trước mặt, trông ra ngoài sân những bông hoa rung rinh trước gió, bà nhớ lại thời dĩ vãng xa xưa, lùi lại thời gian cách đây hai mươi năm, bà ở trong bọn thiếu nữ được đưa vào đây tuyển lựa. Nghĩ lại, thấy trong lòng ngao ngán, ông vua khi trước và người đang trị vì ngày nay, khác nhau một trời, một vực. Ông vua hiện nay vừa trẻ vừa đẹp, còn ông vua kiạ.. Nghĩ đến mà đau lòng, ốm yếu, bệnh hoạn, thân hình khô đét, hai mé trũng sâu, nước da vàng nghệch. Ông vua trẻ, đẹp ngồi cạnh bên bà, người thiếu nữ nào mà chẳng say mê. Bà nhìn chếch sang một bên, vào cuối phòng. Những thiếu nữ tiến lại, người này tiếp nối người khác, bước chân chậm chạp, người nào cũng đẹp, cũng xinh, xiêm y rực rỡ, thước tha bước tới. Lý Liên Anh đọc to danh sách từng người. Bà thái hậu kiểm điểm lại những chi tiết, lý lịch từng người, toàn những con nhà danh giá, lệnh tộc.
Không sao nhớ hết tất cả những bông hoa mới chớm nở,có người cao lớn, có người thấp nhỏ, có người dáng điệu còn ngây thơ, có người hình vóc nhỏ bé, có người vạm vỡ, khỏe mạnh.
Ấu đế chăm chú ngắm nhìn, không lộ cảm nghĩ. Buổi sáng trôi qua, mặt trời đã đứng bóng, những ánh nắng nhạt dần rồi tắt hẳn, trong gian phòng ánh nắng lờ mờ. Vừng kim ô ở chân trời chiếu những ánh nắng vàng nhạt vào những bông cúc đỏ ối ngoài sân. Người thiếu nữ cuối cùng đã đi ngang qua. Tiếng kèn thổi lên ba lần, báo hiệu cuộc diễu hành đã chấm dứt. Bà thái hậu cất tiếng, nói:
- Con, có người nào vừa ý con không?
Ấu đế cầm bản danh sách, lật các trang tìm, ngón tay trỏ chỉ vào một tên, nói:
- Người này.
Bà thái hậu đọc mấy dòng chữ, tiểu dẫn về người thiếu nữ đó:
Ái lan, tuổi 16, thứ nữ quận công Chung Hi, một cụ quản thủ chấp kỳ, nho học uyên thâm, danh gia lệnh tộc, dòng dõi chính thống Mãn Châu, nguyên thủy đã có từ bốn trăm năm nay. Người thiếu nữ hội đủ những yếu tố về nhan sắc, thân hình cân đối, khỏe mạnh, hơi thở nhẹ nhàng, học lực rất khá, tính nết thùy mị, đoan trang, khiêm nhường, ít nói.
Bà thái hậu đọc xong những dòng chữ tiểu dẫn, rất có thiện cảm. Bà nói:
- Mẹ không để ý nên không nhớ rõ đến người đó. Truyền cho trình diện lại.
Ấu đế quay đầu về phía tay trái, bà Đông cung hỏi:
- Thứ mẫu có nhớ người đó không?
Bà Đông cung trả lời làm mọi người sửng sốt:
- Ta có nhớ. Ta thấy nét mặt người đó rất nhu mì hiền hậu.
Bà thái hậu nghe bà Đông cung nói, trong lòng bà ghét quá, con mụ đó làm ra có trí nhớ, khôn ngoan, tuy vậy, bề ngoài vẫn niềm nở, nói:
- Chị nom tinh mắt hơn em. Em phải cho gọi con nhỏ đến, xem tinh tướng nó thế nào?
Bà ngoắc tay gọi một tên thái giám, tên này truyền lệnh cho tên tổng quản thái giám, một lúc sau, Ái Lan được đưa vào trình diện. Nàng tiến về phía ba vị ngồi trên ba chiếc ngai, ba vị này quay đầu lại, để ý nhìn nàng. Hình dáng người mảnh dẻ, dáng đi thướt tha, yểu điệu, đầu cúi thấp, hai bàn tay bị hai ống tay che kín một nữa, dáng dấp dịu dàng chân như khẽ chấm đất.
Bà thái hậu truyền:
- Tiến lại gần đây, con.
Với một dáng điệu rất uyển chuyển, người thiếu nữ vâng lệnh. Bà thái hậu nắm tay nàng, khẽ bóp. Bà thấy bàn tay nuột nà, cứng cáp, ấm áp, móng tay nhẵn nhụi. Bà ngắm khuôn mặt trái xoan của nàng, những nét tròn trĩnh, đều đặn, hai mắt to, sáng, lông mi dài, nước da mịn màng, hơi xanh, mồm vừa phải không nhỏ quá, hai vành môi như một nét vẻ của một danh họa, không nhỏ, không thô, vừa phải, cổ dài nhưng không gầy. Tóm lại về dung mạo, hình dáng người thiếu nữ có một thân hình rất cân đối, kiều diễm.
Bà thái hậu, vẻ ngập ngừng, hỏi:
- Việc tuyển lựa như thế đã thật đúng chưa?
Bà vẫn tiếp tục ngắm nhìn người thiếu nữ, cân nhắc, suy nghĩ, chiếc cằm nàng có bị lẹm không? Khuôn mặt nàng có vẻ già dặn đối với tuổi 16. Bà nói:
- Theo ý tôi, tướng mạo của người này vào hạng bướng bỉnh, khó dạy. Người dân bình thường cũng phải kén một người vợ ngoan ngoãn, biết phục tòng huống hồ vợ một hoàng đế càng cần phải biết thần phục.
Ái Lan đứng yên, đầu ngửng cao, mắt nhìn xuống. Bà Đông cung nói như để bênh vực:
- Chị xem nó có vẻ thông minh, đĩnh ngộ.
Bà thái hậu bác lời đó, bà nói:
- Em không cần người vợ của con em phải thông minh.
Ấu đế vừa cười, vừa nói:
- Mẫu hậu thông minh cho chúng con là đủ rồi.
Bà thái hậu cũng phì cười để tỏ ra bà có độ lượng hoan hỉ trong ngày trọng đại "Tuyển trạch hoàng hậu". Bà bảo con:
- Thôi tùy ý con, nếu con thích, mẹ cũng chấp nhận cho con chọn người thiếu nữ đó, nhưng sau này nó có cứng cổ khó dạy, đừng có trách mẹ nhé.
Người thiếu nữ phủ phục quỳ xuống úp mặt trong lòng bàn tay dưới mặt đất. Nàng cúi rập đầu lễ ba lần trước bà thái hậu, ba lần trước ấu đế, bây giờ là chủ nhân của nàng và ba lần trước bà Đông cung.
Làm lễ khấu đầu xong rồi, nàng đứng dậy đi ra, dáng diệu thướt tha uyển chuyển như khi đến.
Bà thái hậu nói một mình, giọng mơ màng:
- Ái Lan, cái tên nghe cũng hay hay.
Bà quay đầu về con hỏi:
- Thế còn những thứ phi?
Theo tục lệ, sau khi người thiếu nữ được chỉ định, phải chọn bốn người con gái đẹp để tuyển vào cung làm thứ phi.
Ấu đế có vẻ hững hờ như không để ý, bảo bà:
- Việc đó, con nhờ mẹ chọn lựa cho con.
Bà thái hậu rất hợp ý vì bà đã chủ tâm lập mưu, sau này muốn làm cho phai lạt mối tình cảm của hoàng hậu, bà sẽ dùng một thứ phi do bà lựa chọn để ly gián. Bà nói:
- Để đến mai hãy chọn vậy. Ta ngồi suốt cả ngày đã thấy mệt.
Bà đứng dậy mỉm cười với con. Thế là hết một ngày, quyết nghị trọng đại đã được thi hành.
Ngày hôm sau, bà thái hậu tuyển lựa bốn thứ phi. Hội đồng khâm khiên giám bấm quẻ, coi các vị tinh tú, đặt ngày cử hành ngày hôn phối. Hội đồng ấn định ngày 16 tháng mười dương lịch, vào giờ tý (nữa đêm).
Ngày hôm đó, Một vị đại thần ở tòa khâm khiên giám đi trước mở đường cho chiếc xe song loan, Ái Lan ngồi ở trong, buông rèm đỏ, tiến về cung hoàng thượng. Vị đại thần tay cầm một chiếc nến đỏ lớn, trên cây nến có khứa ra từng đoạn (mỗi đoạn lửa cháy hết trong bao lâu) canh chừng cho chiếc xe loan đến cung vua vào giờ hoàng đạo (giờ tý). Đúng giờ, sớm muộn độ một phút, hoàng thượng với các quan văn võ, lưỡng cung ra nghênh hôn. Ái Lan trên xe loan bước xuống có hai bà già đi kèm, hai người đàn ba khá đến đón và đưa trình lên hoàng thượng.
Hội hè, yến tiệc ăn mừng cuộc hôn phối kéo dài suốt một tháng. Ấu đế và hoàng hậu trở thành vị quốc trưởng của quốc gia, lưỡng cung phải từ nhiệm chức vụ nhiếp chính vương, chức vụ đó hai bà đã đảm nhiệm trong 12 năm nay. Một lần nữa Tòa khâm thiên giám phải coi lịch, chọn ngày lành, tháng tốt để hai bà làm lễ chuyển giao quyền bính cho tân vương. Hội đồng khâm thiên giám ấn định ngày 26 tháng giêng âm lịch cử hành. Ngày 23 tháng giêng, bà thái hậu xuống một chiếu chỉ cho châu phê, đóng ngọc tỷ (hiện bà còn giữ). Trong tờ chiếu, bà tuyên bố hai bà chấm dứt trọng trách nhiếp chính, giao hết trong trách cho đức kim thượng. Đồng thời, hoàng thượng cũng xuống một chiếu chỉ, tuyên bố, để tỏ lòng hiếu kính, đức vua phải tuân lệnh lưỡng cung đảm trách mọi việc trong nước? Tờ chiếu chỉ nói:
"Để tỏ lòng hiếu kính, vâng lệnh lưỡng cung, kể từ ngày hai mươi sáu, đầu tuần trăng, niên hiệu Đồng Trị thứ mười hai, trẫm đãm nhiệm trọng trách trị vì giang san xã tắc..."
Bà thái hậu thông tri cho quốc dân biết bà từ nhiệm trọng trách, giao hết quyền hành cho cho đức kim thượng để an dưỡng tuổi già. Nhiệm vụ bà coi như đã hoàn tất, bà giao lại cho hoàng thượng nguyên vẹn toàn lãnh thổ.
Bà bắt đầu một cuộc sống ung dung, nhàn hạ, bà không phải từ tờ mờ sáng phải dậy để ra thiết triều. Bà không bận bịu, lo lắng công việc quốc gia, không phải thưởng, phạt. Bà ngủ trưa muốn dậy lúc nào tùy ý, suốt ngày nhàn hạ, không phải lo lắng một việc gì. Sau bao nhiêu năm vất vả, buổi sáng, mờ mắt ngủ dậy đã phải lo toan việc nước, bây giờ bà chỉ nghĩ đến những cành mẫu đơn ngoài vườn. Trong một chiếc sân lớn nhất trong cung, bà cho đắp một giả sơn, trồng toàn mẫu đơn. Những cây mẫu đơn trồng trên giả sơn đã đâm chồi, nảy lộc, người ta đã thấy những nụ hoa màu hồng, màu đỏ hay màu trắng.
Mỗi sáng, có đến trăm đóa hoa mới nở, nhởn nhơ trước gió, chờ bà đến để thưởng ngoạn. Những ngày trước bà phải vội vàng liếc mắt nhìn qua một chút để còn đến đại diện thiết triều cho kịp.
Nhưng bây giờ bà dậy trễ hơn mọi khi, thay quần áo ngủ, bà ngủ mặc chiếc quần bó ở mắt cá chân, một chiếc áo lụa, ống tay rộng, khi tắm xong mặc chiếc quần khác, một chiếc áo dài lụa hồng, ngoài một chiếc áo lụa viền lam, ngắn đến mắt cá chân. Ngày hôm đó, bà muốn ở ngoài vườn suốt ngày với hoa, lá, chim muông, nên ăn mặc cho gọn gàng. Trong khi bà tắm, một viên thái giám già chải đầu, đội mũ, bà để ý các thể nữ dọn dẹp giường, gập chăn, quấn màn. Bà không cho phép bọn a hoàn, cả những thái giám hay các bà thể nữ già mó tay vào chăn màn của bà, vì bà cho bọn này không được sạch sẽ, người hôi hám. Bà để phần việc dọn giường cho các những thiếu nữ trẻ, mạnh khỏe, bà tự trông nom, săn sóc, chỉ bảo. Bà bắt đem ra sân giũ cho sạch, phơi nắng suốt ngày ba tấm nệm, chăn, màn, gối. Tấm ra phủ trên lát giường cũng được nhắc lên để lau chùi sạch sẽ tất cả những khe góc của chiếc giường đồ sộ và chiếc tán trên giường có rủ rèm xung quanh bằng vóc. Buổi chiều, lại đem ba chiếc nệm phơi ngoài sân đem trải trên giường, phủ lên trên tấm gấm vàng và những tấm mền lụa mềm nhũn, sáu chiếc mền lụa, sáu màu khác nhau: Màu hoa cà, xanh, hồng, xám, ngà, trắng. Tấm phủ giường bằng vóc vàng thêu rồng kim tuyến, những đám mây xanh. Trong những khe, nếp của chiếc rèm ở giường, người ta có khâu những túi nhỏ, đựng hoa phơi khô và sạ hương. Khi những thứ đó hết mùi thơm, người ta thay những túi mới.
Khi người thái giám chải đầu xong, chia mớ tóc làm hai, tết lại, quấn tròn trên đỉnh đầu, đặt chiếc mũ miện Mãn Châu lên đầu, gài chiếc mũ bằng hai chiếc thoa dài, cắm ở búi tóc. Bà thái hậu tự chọn lấy thứ hoa gài đầu. Ngày hôm đó bà gài đầu bằng mấy bông hoa lan nhỏ, mùi thơm nhẹ nhàng. Chải đầu, đội mũ xong, bà rửa mặt bằng xà phòng thơm, cọ rửa bằng nước thật nóng, rồi xoa lên da thứ kem làm bằng mật ong, sữa lừa và vỏ cam. Sau cùng bà đối mặt bằng một thứ phấn màu hồng nhạt, phấn rất mịn và thơm. Son phấn xong, bà chọn những đồ nữ trang. Bà cho đem lại bản kê khai các món nữ trang, chỉ cho biết số mục của chiếc hộp đựng nữ trang. Một thể nữ chuyên coi về các đồ nữ trang đi lấy chiếc hộp ở gian phòng bên. Xung quanh tường ở phòng đó, có những ngăn tủ có để những chiếc hộp bằng đồi mồi, đánh số thứ tự. Tủ có khóa, chiếc chìa khóa bằng vàng. Có bản kê khai từng món đồ. Có đến hàng ngàn hộp, nhưng toàn những đồ trang sức thường. Trong một gian phòng khác, có then khóa chắc chắn, ở trong đó có để những món trang sức rất quý giá, bà chỉ đem ra dùng trong những ngày lễ lớn. Hôm đó, bà mặc áo màu lam, bà đeo lam ngọc, hạt trai ở cổ hai bên tai, nhẫn, vòng tay.
Trang điểm xong, bà kiểm điểm lần nữa khuôn mặt bằng chiếc khăn tay lụa. Bà đính ở áo một dải lụa trắng Ấn Độ có in hoa màu vàng và màu lam. Sau đó, bà ra ngồi ở bàn ăn điểm tâm. Mỗi một món ăn đặt trên một chiếc đèn nhỏ để hâm cho nóng. Những món ăn bày trên bàn khoảng hai mươi món, bà lựa chọn tùy theo ý thích, mỗi món ăn chút ít, rồi ăn bát cháo kê nóng. Các thể nữ đứng ở xa, tiến lại bàn ăn, không dám nhúng đũa vào những món bà đã lựa chọn.
Hôm ấy bà rất vui vẻ, không rầy la, mắng mỏ, chờ các thể nữ ăn xong, còn thừa bà đem cho đàn chó. Khi bà bực tức, cáu giận, bà cho đàn chó ăn trước các thể nữ, bà nói chỉ có giống vật là có nghĩa hơn con người.
Ăn xong điểm tâm, bà ra vườn đến chổ núi giả trồng mẫu đơn. Mùa này các loài chim trở về, bà thích nghe tiếng chim kêu ríu rít. Khi thấy một con chim hót, bà cong môi bắt chước tiếng hót của nó, bà bắt chước rất khéo con chim liền bay đến đậu trên bàn tay bà. Bà bắt các thể nữ đứng ra xa, bà đứng yên giơ một cánh tay, bà lại bắt chước tiếng chim mai hoa, gọi một con chim mai hoa đang đậu trên cành trúc, bay đến đậu trên ngón tay bà. Nét mặt bà lúc đó rất hiền từ, nom rất khả ái, các thể nữ cũng phải thấy lạ, nét mặt đó có lúc trở nên rất cay nghiệt độc ác. Con chim bay đi, bà gọi các thể nữ lại bảo:
- Lòng nhân từ, thân ái cũng có thể cảm hóa được các loài cầm thú. Các ngươi nên nhớ bài học đó.
Các thể nữ rất đỗi ngạc nhiên về tính nết thất thường của bà, hôm nay rất đỗi dịu dàng, độ lượng, thế mà nhiều lúc bà tỏ ra rất cay nghiệt, để tâm oán thù những việc không đâu.
Trời quang đãng, mát mẻ, càng khiến bà thái hậu thêm vui vẻ, nụ cười luôn luôn nở trên môi. Đột nhiên bà muốn cho diễn một vở tuồng do bà đã soạn thảo. Bây giờ, con bà đã đảm nhiệm tất cả mọi việc triều chính, nên bà rất nhàn hạ, có nhiều thời gian chăm lo về hội họa, tập viết chữ cho thật đẹp, soạn các vở tuồng. Một người đàn bà tự cao, tự đại, có nhiều tài năng, nếu chuyên hẳn về một nghệ thuật nào đấy ắt có thể tinh thông, xuất chúng, nhưng nghệ thuật nào bà cũng mê thích và môn nào bà cũng giỏi. Bà như quên cuộc đời dĩ vãng vừa qua, lúc nào cũng bận bịu công việc trong nước. Từ ngày con bà chính thức lên cầm quyền, tuy bà không phải lo toan công việc ở từ đường, song nhờ đó công việc của bọn thái giám, thám tử, không việc gì mà bà không biết.
Bà đi chơi tha thẩn một giờ trong vườn, ăn xong bữa cơm trưa, bà vui vẻ bảo các thể nữ:
- Hôm nay trời đẹp nắng ấm, có gió hây hẩy mát mẻ các người có muốn coi một vở tuồng về "Đức Quan Thế Âm" không?
Mọi người vỗ tay hoan nghênh duy có viên tổng quản thái giám Lý Liên Anh nói với bà:
- Tâu thái hậu, hạ thần xin thái hậu lưu ý, các kép chưa được học bổn, chưa được tập dượt. Vỡ hát này rất khó diễn, rất tế nhị, những kép hát thủ vai nào phải biết võ vai đó, nếu không mất hết ý nhị của vở hát.
Bà càu mày, nói:
- Những kép hát có rất nhiều htời giờ coi lại bổn. Mi ra bảo họ ta chờ kéo màn trước giờ vận hành mới của "Lậu thủy" (Clepsydre). Trong khi chờ đợi ta tụng một biến Kinh phật tụng.
Dáng điệu uyển chuyển, thước tha, bà tiến về một ngôi chùa nhỏ, ở trong có bức tượng thạch Phật bằng bạch ngọc, ngồi trên một chiếc lá sen bằng bích ngọc, tay phải cầm một bông hoa bằng hồng ngọc. Ở bên tay mặt bức tượng có đức Quan Âm, bên trái có bức tượng Thọ Tinh. Bà thái hậu đứng ngay ngắn trước bàn thờ, không chịu quỳ, bà sẽ cuối đầu tụng kinh, lần tràng.
Ba lần mỗi hạt ở chuỗi tràng thì lẩm bẩm khẻ nói: Nam mô A di đà Phật. Khi bà lần đủ 108 hạt, bà đặt lên bàn thờ chuỗi tràng bằng gỗ trầm hương. Dù bận công việc gì, không bao giờ bà quên hằng ngày tụng kinh, lần tràng. Đức Phật một đức tối kính ngự trị trên trời cao và nhất là đức Phật Quan Âm mà bà sùng kính nhất. Trong đáy lòng bà, bà tưởng tượng đức Quan Âm là chị em với bà. Đức Qua Âm ngự trị trên thiên giới, bà ngự trị ở hạ giới. Có nhiều đêm khuya, bà như nói với đức Quan Âm:
"Chị ơi, chị xem em có nhiều điều lo lắng, phiền não. Ở trên thiên đình có bọn thái giám không, hở chị? Em tin là không vì em xem không có một tên nào đáng ở trên đó. Nhưng nếu không có thái giám, lấy ai hầu hạ chị và các thiên thần. Em chắc không có một người đàng ông nào tinh khiết được ở gần chị..."
Bây giờ bà có thời giờ nhớ lại những kỷ niệm xa xưa, Đã có một lần, bà đặt câu hỏi này với đức Phật Quan Âm:
"Có thể nào có một người tình thủy chung ở thiên giới chịu hạ phàm xuống đây không, hở chị? "
Bà dám nói tên người yêu của bà. "Chị ở thiên giới, có lẽ chị biết người anh họ của em là Nhung Lữ và chị cũng biết đáng lẽ em phải lấy người đó. Chị hãy cho em biết kiếp sau, chúng em có lấy được nhau không? Hay địa vị của em còn cao hơn nữa. Nếu chị cho em lên trời, đứng ở tay mặt chị, chị cho em đứng cao hơn một chút để bằng chị, như nữ vương Anh quốc, Victoria".
Đó, những lời bà tâm sự với vị nữ thần, nhìn khuôn mặt hiền từ, sáng ngớt của bức tượng, bà tự hỏi không hiểu thần linh có biết những gì bà giấu trong đáy lòng khong thể nói ra không?
Khi bà ở trong ngôi chùa bước ra, các thể nữ đi theo bà vào một chiếc sân khác. Ở đó có hai khóm cây đằng cổ thụ, hoa đỏ thẫm. Trong vườn, những chùm hoa tỏa ra mùi hương thơm ngào ngạt nơi con đường trước cung. Ngày nào bà cũng ra vường thưởng hoa. Bà đi qua chiếc sân đá, các thể nữ theo sau, qua một con đường hẹp đến một khuôn cửa uốn tò vò, bà bước vào trong rạp hát.
Rạp hát này không giống một rạp hát nào trong nước mà bà nghĩ cả gầm trời này không tìm đâu ra một rạp hát như thế. Một ngôi nhà gạch đồ sộ tám tầng, hình cánh cung, phía trước là một chiếc sân lớn. Ba tầng lầu trên để mũ mãng, xiêm y, đồ đạc, phong cảnh, hai tầng dưới đất là hai sân khấu chồng lên nhau. Sân khấu dành cho những vỡ hát có tính cách tôn giáo. Bà thái hậu để ý chăm nom nhất sân khấu trên, vì diễn những vỡ tuồng có các nhân vật ở thượng giới. Một ngôi nhà đối diện ở ngoài có những phòng nghỉ. Ngồi ở đó trông ra sân khấu, có một khung kính hình bán cung. Bà thái hậu có thể coi hát bất luận trời mưa, gió. Mùa hè người ta tháo những tấm kính, thay vào những rem bằng thứ the mỏng, có thể nhìn xuyên qua, tấm the còn có tác dụng để chắn ruồi, muỗi. Bà thái hậu rất ghét giống côn trùng, nếu một bát thức ăn có con ruồi đậu vào, bà cũng không muốn cho chó ăn. Trong căn nhà đó, có ba phòng cho bà tiện dùng, một phòng xếp đặt thành một thư viện nhỏ, nếu vở tuồng diễn không hợp ý bà, bà đến đó đọc sách, hai phòng nghỉ nếu bà buồn ngủ có thể đến ngủ ngay ở đó.
Ngày hôm ấy, bà đến nhà nghỉ, ngự trên chiếc ngai có trải đệm, các thể nữ đứng hầu xung quanh. Bà muốn coi vỡ tuồng chính bà soạn ra, xem vỡ đó diễn ra làm sao? Các kép hát than phiền vỡ tuồng đó khó diễn quá, dù sao cũng phải tuân lệnh bà, họ cố gắng đem hết tài nghệ, nên đã thành công mỹ mãn. Bọn kép đã làm được một chiếc bông sen thật lớn đặt ở giữa sân khấu, trong bông sen hiện lên đứt Quan Âm bằng xương, bằng thịt, hai bên có Ngọc Nữ, Kim Đồng đứng hầu. Những kép đóng vai đó điều được lựa chọn kỹ càng cả thanh lẫn sắc. Theo truyền thuyết, đức Quan Âm vạn phép muôn linh, ngài lấy cành liễu nhỏ nhúng trong lọ nước cam lồ, vẩy trên người đã chết, nhờ phép nhiệm màu, người chết sẽ hồi sinh lại. Bà thái hậu rất để ý về vấn đề ma thuật, bà muốn tìm tòi học hỏi nhiều về thần bí. Bà ưa thích những chuyện về ma thuật của Ấn Độ, do những tăng lữ phật giáo du nhập vào nội địa Trung Hoa, từ hơn một ngàn năm nay. Nếu tinh thông về yêu thuật, về phù thủy, bùa phép, những người ra trận mạc không những không sợ những mũi tên, hòn đạn mà dù gươm giáo có chạm đến người cũng không sao. Tuy bà nghi hoặc, không tin yêu thuật, song bà thường nghĩ đến dùng bùa phép yêu thuật để cầu trường sinh bất lão.
Vì thế, bà soạn những vỡ tuồng để trình diễn, những vỡ hát đó, phản ánh tâm tư của bà, những niềm hy vọng, tin tưởng vào thần quyền, thần lực, trí óc tưởng tượng những nhân vật, phong cảnh đến chỗ siêu phàm, thoát tục. Những vỡ hát như thế đòi hỏi ở các đào, kép một sự nổ lực phi thường. Chính bà xếp đặt những họat cảnh, khán giả tưởng tượng như đã chứng kiến cảnh bồng lai, tiên giới.
Cuộc trình diễn đã mãn, bà vỗ tay, khen ngợi tài nghệ các đào kép, bà tự hào về nghệ thuật, một trước tác của mình. Bà thấy đói, ra hiệu bảo thái giám dọn bàn ăn; về vấn đề ăn uống, bà có thói quen, dùng cơm bất cứ nơi nào. Bà nói chuyện với các thể nữ, hỏi han về vỡ kịch, khuyến khích mọi người có quyền phê phán vì bà muốn đạt tới chỗ toàn mỹ. Khi bà đã dọn xong, các thái giám xếp hàng dài, chuyền tay nhau, chuyển các món ăn từ trong bếp lên. Các thể nữ đứng ra xa, sang một bên. Bà ngồi vào bàn ăn, bà rất vui vẻ, bà nghĩ thấy thương hại các thể nữchắc đói lắm, mong đợi bữa ăn. Bà ăn xong sang bên thư viện để dùng trà. Hai thái giám đi theo sau, một người bưng một cái chén bằng ngọc, nắp vàng, đặt trên một chiếc đĩa bằng vàng khối, người nữa bưng chiếc khay bạc với một đôi đũa bằng ngà voi cẩn vàng, hai chiếc chén bằng vàng, đựng những cánh hoa hồng và kim ngân hoa phơi khô. Bà thái hậu ưa trộn những cánh hoa đó vào trong trà. Chỉ có bà mới biết trộn hai thứ đó vào trong trà bao nhiêu vào trà thì vừa.
Trong khi bà đang ngồi ung dung thưởng thức trà, bà đã leo lên tột đỉnh giàu sang, phú quý, như vầng trăng tròn trong sáng, bị một đám mây đen từ từ khéo đến che phủ. Tên tổng quản thái giám Lý Liên Anh diên trình, khấu đầu lom khom quỳ trước mặt. Bà hỏi:
- Sao mi đến quấy rầy ta?
Tên thái giám ngửng đầu, tâu:
- Muôn tâu thái hậu, hạ thần xin được mật trình.
Bà đặt chén trà xuống đĩa, ra hiệu bảo những thái giám đứng hầu lui hết ra ngoài. Bà truyền:
- Đứng lên, ngồi xuống đôn. Hoàng thượng làm gì?
Tên tổng quản thái giám vâng lệnh ra ngồi ở chiếc đôn,quay chiếc mặt nhăn nhúm, xấu xí về bà.
- Muôn tâu thái hậu, hạ thần vừa trộm được văn thư ở phòng lưu trữ. Trong một giờ nữa hạ thần phải để vào chỗ cũ.
Nói xong, tên thái giám đứng dậy, kéo trong túi áo ra một chiếc phong bì dài, quỳ xuống, hai tay dâng lên bà thái hậu. Bà mở ra đọc, mới nom nét chữ bà đã nhận ra nét chữ của tên ngự sử Vũ Công Tú. Bà đã khướt từ không cho dâng lên ngai rồng một tờ sớ xin cho ngoại nhân đột nhập cấm thành. Lần này tờ sớ gởi riêng lên hoàng thượng.
"...Với tư cách một nghĩa bộc của ngai rồng, hạ thần kính dâng lên thánh thượng tờ mật tấu này để chấm dứt sự bất hòa với liệt cường Tây phương. Hạ thần kính cẩn xin cho đại diện các nước ngoại bang được vào triều kiến. Như thế ngai rồng đã tỏ ra khoan dung và độ lượng, một đại nhân quân tử. Từ trước đến nay theo tập quán cổ truyền nước ta khước từ ngoại nhân được vào triều kiến, gây mối bất hòa giữa nước ta và các ngoại bang..."
Bà thái hậu đọc qua mấy dòng chữ, đùng đùng nổi giận. Họ dám cả gan làm trái ý ta? Họ định lấy con ta làm tấm bình phong để chống đối ta. Nếu họ tỏ ra không kính sợ ngai rồng, một ngôi chí tôn, phỏng còn gì là thanh danh, uy lực?
Bà liếc mắt nhìn mấy dòng chữ sau có trích dẫn một lời nói của một vị hiền triết xưa:
Mạnh Tử viết: Quân tử bất chấp lễ nghi tiểu nhân cầm, thú chi loại dã.
(Nghĩa: Người quân tử không nên chấp lễ nghi với hạng tiểu nhân, coi như loài cầm, loài thú).
Bà tức quá, hét lên:
- Tên ngự sử này dám lấy lời trong sách ra để dẫn chứng, đề nghị yêu sách của hắn. Bà đọc xong muốn xé tờ sớ ra làm muôn mảnh. Song lẹ, bà là người rất khôn ngoan, biết kìm hãm ngay lại ngay sự tức giận nhất thời. Tên Vũ Công Tú này là người khôn ngoan thận trọng, có nghĩa khí, lại la một người chí hiếu. Khi triều đình lánh sang Nhiệt Hà, khi kinh thành thất thủ, Vũ Công Tú không quản gian nan, nguy hiểm ở lại săn sóc mẹ già lúc đó đang bệnh nặng, gần đất xa trời. Ông ở lại để lo ma chay, tống táng cho mẹ.
Bà thái hậu rất cảm kích lòng trung hiếu của ông, nên bà nguôi ngay cơn giận. Bà đưa tờ sớ cho tên thái giám, cho đem đi ra.
- Mi lấy bản văn ở chỗ nào, lại để nguyên vào chỗ đó.
Sự vui vẻ của bà thế là tan biến hết. Tuồng hát cũng không làm bà vui trở lại. Bọn kép hát diễn trò, bà ngồi buồn thiu suy nghĩ, không buồn coi, không buồn nghe hát. Đến màn cuối cùng, có một hoạt cảnh rất huy hoàng, lộng lẫy, các thiên thần đến chầu đức Phật Quan Âm, ở dưới chân có độ hai mươi con khỉ sống, tượng trưng cho lũ quỹ đã bị phép nhiệm màu thiên giới chế ngự.
Màn kéo xuống, bà thái hậu đứng dậy, không một lời bình phẩm; các thể nữ còn mãi nghĩ đến màn hoạt cảnh, mãi sau mới nhận thấy bà thái hậu đã đi, bọn này hỗn độn, tất cả chạy theo cho kịp bà. Bà lấy tay xua, bảo bọn này đứng ra xa, bà trở về cung một mình, rồi cho gọi tên tổng quản thái giam Lý Liên Anh đến.
Tên thái giám vội vàng chạy đến, thấy bà ở thư viện. Tên thái giám đến thư viện, đứng yên, mặt xanh nhợt, đầu cúi gầm, hai mắt nhìn xuống. Giọng the thé, bà truyền:
- Truyền lệnh cho con ta phải đến gấp, diện trình trước ta.
Tên thái giám cúi đầu chào đi ra. Bà thái hậu ngồi yên chờ hồi lâu không thấy tên thái giám trở lại. Chờ đến một giờ vẫn không thấy tên thái giám mà cũng không có một chữ nào của hoàng thượng gởi đến. Mặt trời đã xế bóng, trong thư viện đã nhá nhem tối, các quân hầu rón rén đi vào thấp những ngọn đèn lớn. Bà thái hậu nóng ruột hỏi:
- Tên tổng quản thái giám đâu?
Một tên thái giám quỳ xuống tâu:
- Tâu thái hậu, viên tổng quản thái giám hiện ở trên Long điện ở phòng chờ.
- Làm sao hắn không vào?
- Tâu thái hậu, y sợ.
- Đi kêu hắn về gấp.
Lý Liên Anh ở ngoài sân tối đen, lướt như một cái bóng đen vào trong cung. Hắn quỳ xuống, bà thái hậu nhìn thân hình hắn đang quỳ mọp dưới chân. Bà nói giọng lạnh lùng nhưng đều đặn, rõ ràng:
- Con ta đâu?
- Tâu thái hậu con không dám.
- Mi không dám đem câu trả lời của hắn cho ta sao?
- Tâu thái hậu, hình như long thể khiếm an.
Hắn nói hai bàn tay úp lên mặt, giong nghẹn ngào.
- Hắn đau thật ư?
- Tâu thái hậụ.. Thái hậụ..
- Ta biết rồi, chỉ là một cớ thoái thác.
Bà đứng dậy, dáng điệu thản nhiên, rất yêu kiều.
- Nếu hắn không muốn đến với ta, ta đến với hắn.
Bà rảo bước đi rất nhanh, tên thái giám phải vội vàng chạy theo cho kịp. Bà không để ý tên thái giám theo sau. Các thái giám, a hoàn ở các gian điện, hành lang phải sửng sốt, lạ lùng thấy dáng điệu bà hấp tấp, vội vàng. Họ không hiểu chuyện gì, sợ quá, đưa mắt nhìn nhau. Lý Liên Anh chạy theo sau, không dám ngừng lại một nơi nào để nói cho bọn này biết chuyện gì đã xảy ra. Hắn mải miết đi theo thật nhanh cho kịp hình bóng uy nghiêm như muốn tung bay trong chiếc áo màu lam thêu kim tuyến.
Bà đi thẳng đến cung vua. Bà bước lên những bậc thềm đá hoa, đi ngang qua những bệ cao. Cửa cung đóng kín bà nhìn qua tấm rèm bằng vải mỏng, trong suốt. Con bà ngồi trong một chiếc ghế bành lớn có trải đệm, Ái Lan đứng cúi sát mặt con bà, đưa vào mồm những trái anh đào, những trái đầu mùa ở miền Nam vừa gởi lên tiến. Ông vua này thích ăn những trái anh đào. Đầu ông hất về phía sau ghế, đớp những trái anh đào, cười sặc sụa.Bà mẹ ít khi thấy con vui thích, cười như thế. Bọn thái giám và thể nữ của hoàng hậu thấy vua cười cũng cười theo, như một đám con nít.
Bà thái hậu, thình lình đẩy mạnh cửa bước vào, đứng ở thềm cửa, long lanh sáng quắc như một vị nữ thần hiện lên trên nền trời tối. Ánh sáng của hàng ngàn ngọn nến tỏ ra làm lung linh chiếc áo thiêu kim tuyến và chiếc mũ miện gắn toàn ngọc. Sự phẫn nộ hiện lên trên nét mặt bà. Hai mắt bà quan sát cảnh tượng. Bà nhìn con bà và Ái Lan, bà nói, giọng vô cùng dịu dàng song vô cùng hung dữ:
- Con, mẹ nghe nói con đau, mẹ đến tận nơi xem con đau đớn làm sao?
Ông vua vội vàng nhảy xuống ghế, quỳ dưới chân bà. Ái Lan vẫn đứng yên như một pho tượng, tay vẫn cầm chùm anh đào.
Hai mắt và vẫn chú mục vào con, bà nói tiếp:
- Ta xem con đau nhiều thật, để ta cho gọi ngự y đến chẩn mạch, săn sóc cho con.
Ông vua líu lưỡi không nói được, không đau cũng hóa ra đau, đau vì kinh hoàng. Bà quay mặt về hoàng hậu nói giọng rất đanh thép, sang sảng như những nhát dao chém:
- Còn mi, ta xem ý mi không để ý trông nom sức khỏe cho phu quân mi. Trong khi có bệnh, không được khỏe, phải kiêng ăn trái cây. Mi sẽ bị phạt về tính cẩu thả.
Ông vua ngậm niệng, nuốt nước miếng, lắp bắp thưa:
- Thưa mẹ, xin mẹ soi xét không phải lỗi Ái Lan. Hôm nay thiết triều suốt cả ngày, con bị mệt mỏi quá.
Hai mắt bà như nảy lửa, nhìn thẳng vào con một cách kinh khủng, bà tiến lên ba bước, thét lên:
- Quỳ xuống! Mi tưởng nay mi làm vua thì không còn là con ta nữa hả?
Ái Lan vẫn đứng yên không nhúc nhích, nàng đứng thẳng thắng, hiên ngang, tỏ ra không một vẻ gì sợ hãi. Nàng buông nắm anh đào cầm ở tay, đến nắm tay ông vua. Nàng nói khẽ:
- Không! Không phải quỳ.
Bà thái hậu tiến thêm lên hai bước, giơ cánh tay phải, một ngón tay chỉ xuống đất.
- Quỳ.
Ông vua ngập ngừng, do dự một lúc rồi dằn tay Ái Lan quỳ xuống, khẽ bảo nàng:
- Bổn phận của anh.
Bà thái hậu đứng yên nhìn con quỳ dưới chân. Gian phòng phẳng lặng, không khí vô cùng nặng nề, ghê rợn. Thủng thẳng bà buông thẳng tay bên người.
- Mi còn biết bổn phận với các bậc trưởng thượng. Trước mặt mẹ, dù con có làm vua chăng nữa, cũng chỉ là một đứa con.
Bà ngửng đầu nhìn quanh khắp gian phòng. Bà thét to:
- Mọi người ra ngoài hết. Để ta một mình nói chuyện với con ta.
Tất cả mọi người được lệnh lẩn hết ra ngoài, duy còn Ái Lan đứng lại.
Bà thái hậu chỉ vào mặt Ái Lan, nói:
- Cả mi nữa, ra hết bên ngoài.
Ái Lan, nét mặt ủ rũ, lúc đầu còn do dự sau lặng lẽ ra ngoài, đôi giày bằng vóc đi êm như ru đi không một tiếng động.
Còn một mình bà thái hậu ở lại, bà thay đổi một cách đột ngột, bất ngờ thái độ. Một phút trước, bà hung dữ bao nhiêu, thì một lúc sau, bà vui vẻ, niềm nở bấy nhiêu. Bà tủm tỉm cười, bàn tay xoa nước bông thom phức của bà xoa vào má con. Bà âu yếm bảo con:
- Đứng dậy con, ngồi xuống đây, mẹ con ta sẽ thảo luận.
Bà ngồi trên chiếc ghế bành, con ngồi trên chiếc ghế của Ái Lan. Ấu đế chưa hoàn hồn, người còn rung bắn, bà thấy hai môi con rung rung, hai bàn tay lẩy bẩy. Giọng vuốt ve, bình tĩnh, bà nói:
- Ở trong cấm cung, nội tẩm cũng phải có trật tự, lễ nghi. Trước mặt bọn thái giám và hoàng thượng, ta phải nêu rõ vấn đề tôn ti, trên dưới. Con này dù có là hoàng hậu cũng chỉ là vợ con ta.
Ấu đế ngồi im không nói gì, thè lưỡi liếm đôi môi khô bỏng. Bà nói tiếp:
- Mẹ nghe nói, con có ý định vượt quyền mẹ. Phải chăng, con có ý định tiếp các sứ thần ngoại quốc?
Ấu đế cố lấy lại vẻ tự tôn, tự đại cố hữu.
- Người ta khuyên con nên làm, nhất là ông chú con thân vương Cung.
Thế ý con có định làm không?
Không ai có thể biết hơn ấu chúa, giọng nói của bà tuy ngọt sớt nhưng vô cùng hiểm độc. Ấu đế xác nhận:
- Con sẽ làm.
- Với tư cách là mẹ mi, ta cấm.
Tuy bà giận lắm song quên ngay, nhìn nét mặt tuấn tú của con, cái mồm xinh xắn dễ thương, hai mắt to sáng quắc, tuy tính ương ngạnh bướng bỉnh, song bà đoán, ngày xưa khi con còn nhỏ, trong lòng sợ bà lắm. Bà nghĩ thấy lòng buồn. Bà muốn con bà phải có chí khí, quả cảm, đừng có tính sợ sệt vì sợ là yếu hèn. Nếu con bà sợ bà rất có thể sợ Ái Lan, rồi một ngày kia bị vợ cầm đầu. Ngày trước hắn thích đến bà Đông cung để được an ủi, nuông chiều. Bây giờ vì sợ mẹ, hắn cũng tìm nguồn an ủi ở Ái Lan, tuy lòng bà thường con vô bờ bến còn hơn cả Ái Lan. Bà đã tận tâm hy sinh cả một đời bà để tạo dựng cơ nghiệp cho con.
Trước con mắt nhìn soi mói của bà, ấu đế đưa mắt nhìn xuống. Tuy là đàng ông, nhưng lại có hàng lông mi dài và đen như đàn bà, phải chăng hình tướng đó đã thụ hưởng được của mẹ. Nếu người mẹ có thể truyền lại cho con được hình tướng, sao lai không truyền lai cho con được sự dũng cảm?
Bà thở dài, cắn môi, có ý muốn nhượng bộ.
- Việc người ngoại quốc chịu quỳ hay không trước ngay rồng, cái đó mẹ không cần lắm, bằng con, lúc nào mẹ cũng chỉ nghĩ đến con.
- Con biết lắn, con biết lắm. Mẹ làm gì cũng vì con. Con cũng làm một việt gì để đền đáp lại mẹ. Không phải về vấn đề chính trị, nhưng cái gì mẹ ưa thích. Một hoa viên? Một ngọn đồi biến cải thành hoa viên. Con có thể di sơn, và...
Tuy đang tức giận, song nghe con nói, bà cảm động quá.
- Mẹ có rất nhiều hoa viên và núi non.
Bà thủng thẳng nói thêm.
- Cái gì mẹ mơ ước, không có thể làm được.
- Cái gì vậy?
Ấu đế có vẻ băn khoăn muốn bà chấp thuận một thứ gì đó do ông đề nghị để bà nguôi hẳn cơn giận dữ.
Bà có vẻ trầm ngâm, thủng thẳng, nói:
- Thôi nghĩ làm chị..Đống tro tàn, con có thể làm sống lại được không?
Ấu đế hiểu ý bà nói. Bà nghĩ đến sự hoang tàn, đổ nát ở cung Viên Minh. Đã bao nhiêu lần, bà đã tả cảnh cho con nghe những mái chùa xinh xinh, những đình tạ, hoa viên giả sơn. Trong lòng bà vẫn hun đúc mối căm thù với bọn người ngoại lai.
- Nếu chúng ta cho tái lập lại cung Viên Minh; cung điện Viên Minh sẽ làm lại đúngnhư ngày trước. Con sẽ lập một thứ thuế mới vì con không muốn lấy tiền ở công khố quốc gia.
Bà như tán đồng ý kiến đó.
- Nếu con có thể làm lại được thì hay quá.
- Rất có thể.
Ông ngửng mặt lên nhìn sang bên. Đột nhiên bà cười.
- Một Viên Minh, một nơi đi thừa lương. Sao lại không?
Bà đứng dậy, ấu đế cũng đứng dậy theo. Bà lấy tay vuốt má con. Bà đi ra. Lý Liên Anh ở trong bóng tối hiện ra, để đi theo bà.
Con cái dù nghèo hèn cũng phải hành khất hay giàu sang, phú quý, nhiều khi làm trái ý cha mẹ làm cha mẹ phải buồn phiền.
Do thám tử mật báo, bà thái hậu biết con đã nói dối bà, không phải do khuyến nghị của Cung thân vương, ông đã chấp thuận cho các sứ thần ngoại quốc được vào bệ kiến, đứng bình thân trước ngai rồng, không phải quỳ. Cung thân vương đã nhắc lại cho hoàng thượng biết các tiên đế ngày trước đã khước từ đặt ân đó. Dưới triều đại Càn Long, một người Anh Các Lợi Lord Macartney vào triều kiến bằng lòng quỳ sát đất với điều kiện, một thân vương Mãn Châu phải quỳ sát đất trước tấm chân dung của hoàng đế Anh Cát Lợi, vua Georges. Khi bọn sứ thần khẩn nài xin vào bệ kiến, Cung thân vương tìm cớ này, cớ khác để trì hoãn. Chuyện khất lần đó kéo dài trong bốn tháng. Hoàng thượng đích thân chấm dứt tình trạng đó, chấp thuận cho sứ thần ngoại quốc được vào bệ kiến. Ông đã tỏ ra một sự nhượng bộ, nhu nhược, phương hại đến uy danh của Thanh triều.
Xuân qua, hạ tới, bà thái hậu chưa có ý định chấp chính, chăm lo việc nước. Bà ngồi làm việc trong thư viện, bà phác họa một đồ án xây dựng cung Viên Minh, trước khi cho gọi kiến trúc sư và các nhà thầu khoán đến để thực hiện giấc mộng của bà. Cung điện xây bằng gạch và đá hoa. Ở trong thư viện, Lý Liên Anh đã tâu rõ ý định của ấu đế. Bà đang vẻ, đặt bút xuống bàn, bảo Lý Liên Anh:
- Mi đi kêu Cung thân vương vào hầu.
Thân vương đi vào thấy bà đang đi quanh gian phòng rộng lớn, mấy khuôn cửa lớn mở rộng trông ra vườn. Những cây lựu, lá xanh thẫm, điểm những bông hoa đỏ tươi. Thân vương biết tính bà thích vườn hoa, cây cảnh, nên sau mấy lời chào hỏi, ông tâng bốc, khen:
- Tâu thía hậu, cây cối ở hoa viên thật phồn mậu, hạ thần chưa được nom ở đâu cảnh vật đẹp như đây. Thứ gì được thái hậu để ý dều có một sắc thái rất khả quan.
Thân vương đã có kinh nghiệm, lời ăn, tiếng nói, đối với "Mụ" này phải thận trọng. Thân vương nói nhỏ nhẹ, điệu bộ khiêm tốn, thần phục và hơi phỉnh nịnh.
Bà thái hậu khẽ gật đầu đáp lễ. Mấy lời ca tụng, tâng bốc, bà rất đẹp lòng và có thiện cảm ngay với thân vương, bà rất đồng ý với thân vương cùng chung quan điểm với bà, không tán thành hành vi của hoàng đế. Bà đề nghị:
- Ra hoa viên nói chuyện.
Bà ngồi trên một chiếc đôn bằng sứ, còn thân vương theo phép xã giao, tỏ vẻ cung kính, không dám ngồi ngang hàng, sau phải tuân lệnh bà, ông ngồi trên một chiếc ghế đan bằng trúc để hầu chuyện. Bà nói:
- Tôi không muốn làm phiền, mất thời giờ thân vương song tôi nghe nói hoàng thượng, con tôi, chấp thuận cho sứ thần ngoại quốc được vào bệ kiến, không bắt buột họ phải theo triều nghi, phủ phục. Việc đó làm tôi khó nghĩ quá.
- Tâu thái hậu, hoàng thượng có tính tò mò như con nít, nóng lòng muốn biết tận mặt ngoại nhân.
Bà kêu lên:
- Đàn ông tính nết lúc nào cũng như con nít.
Bà giơ cánh tay với bông hoa, nét mặt bâng khuâng suy nghĩ, tay bà lầ mần bứt từng cánh hoa vứt xuống đất. Thân vương ngồi im không nói gì làm bà bực mình. Bà nói giọng có vẻ gắt gỏng:
- Thân vương không khuyên can, ngăn cấm hắn hả? Thân vương là người cũ, biết rõ lễ nghi triều đường.
Thân vuơng giương cao cặp lông mày nói:
- Tâu thái hậu, hạ thần làm sau ngăn cản nổi công việc của hoàng thượng. Nếu hạ thần làm trái ý, sẽ bị khép vào tội khi quân và xử trảm.
- Thân vuơng cũng biết, tôi không cho phép hắn được làm càn, trái với nghi lễ.
- Xin đội ơn thái hậu. Xin thái hậu biết cho, theo hạ thần biết hoàng hậu có một ảnh hưởng mỗi ngày một lớn mạnh đối với hoàng thượng. Áp lực đó rất tốt đã trừ khử được sự giao du với bọn hoạn quan lôi cuốn hoàng thượng vào con đường hắc ám.
Với một giọng đanh thép, bà nói:
- Ừ, nhưng hoàng hậu chịu ảnh hưởng của ai? Năm thì, mười họa hắn đến thăm xã giao tôi, không thấy hắn nói gì.
- Tâu thái hậu, hạ thần không rõ.
Bà lấy bàn tay gạt trên vạt áo vóc những cánh hoa rớt.
- Chắc thân vương cũng biết, do người chị họ tôi, bà Đông cung.
Thân vương cúi đầu không nói gì. Ông nói mấy câu để bà nguôi giận:
- Hạ thần nghĩ không nên tiếp bọn ngoại nhân ở cung điện.
Bà tán thành:
- Cái đó dĩ nhiên.
Thân vương khôn ngoan đã lái câu chuyện sang một khía cạnh khác và trao đổi với bà nhiều ý nghĩ. Bà ngồi, mắt lơ đãng nhìn ánh nắng xuyên qua những cành lựu, đột nhiên bà mỉm cười, như đã tìm ra một ý kiến gì rất hay.
- Tôi có ý kiến này. Tiếp bọn họ trong Hồng Quang điện. Điện đó ở ngoài thành nội, bọn họ sao có thể biết được. Như thế bọn họ có cảm tưởng thỏa mãn được yêu sách của họ, sự thật mình không chịu nhượng bộ.
Trong thâm tâm thân vương rất ghét phải theo lời "Mụ", song thân vương cũng thấy thích thú "Chơi xỏ" bọn người ngoại quốc. Hồng Quang điện ở phía góc hồ giữa, con đường ranh giới ngoài thành nội. Ở đó, mỗi năm một lần, vào Tết Nguyên Đán, hoàng thượng tiếp sứ thần các rợ, các thuộc quốc, chư hầu.
Thân vương làm ra mừng rỡ, reo lên:
- Tâu thái hậu, trí thông minh của thái hậu thật biệt nhân xuất chúng. Hạ thần bái phục cao kiến đó. Hạ thần tuân theo ý đó để ra chỉ thị cho thuộc cấp sửa soạn tiếp tân.
Hôm đó, bà rất vui vẻ, lại được thân vương nồng nhiệt khen ngợi, bà mời thân vương đi theo bà vào trong thư viện coi họa đồ về cung Viên Minh.
Suốt trong một giờ, thân vương xem xét, ngắm nhìn đồ án. Ông được bà chỉ cho xem đồ án, những kiến trúc sắp đem ra thực hiện. Những con sông nhân tạo, quanh co uốn khúc, các giả sơn, những hồ nước, chỗ này, chỗ khác, những đồi làm bằng các phiếm đá tải từ miền Tây đến, trên có kỳ hoa, dị thảo, các mái điện lợp bằng ngói sứ, mạ vàng, những ngôi chùa ở các đỉnh đồi, xung quanh có một hồ nước lớn. Ông nghe bà tả cảnh, một công trình vô cùng vĩ đại, làm ông hết vía không nói được một lời. Nếu ông dám mở mồm ra nói thực hiện đồ án này, làm tiêu hao hết công khố, bà sẽ nổi cơn lôi đình và đem ra chém. Ông chỉ lẩm bẩm khẽ trong mồm:
- Ngoài thái hậu, hạ thần chắc không ai có sáng kiến tạo lập một cung diện nguy nga như thế.
Thân vương xin cáo lui đi ra đến thẳng viên quân cơ đại thần Nhung Lữ. Bà thái hậu đoán biết, buổi tối hôm đó trước giờ giới nghiêm, Nhung Lữ xin vào yết kiến.
Lúc đó, bà đang cắm cúi vẽ một ngôi chùa lớn với một ngọn bút lông nhọn hoắt. Bà không ngửng đầu lên, bảo tên thái giám:
- Mời ông quân cơ vào.
Biết tính Nhung Lữ không thích tính thất thường của bà, bà để yên cho hắn đứng một lúc lâu, bà cắm cúi vẽ, không ngoảnh đầu lại. Bà thủng thẳng hỏi:
- Ai đó?
- Tâu thái hậụ..
Như một thói quen, nghe tiếng nói trầm trầm của Nhung Lữ, bà thấy lòng nao nao, song hôm đó bà là ra vẻ hững hờ không để ý.
- À, anh, anh đến có việc gì? Anh không nom thấy ư, tôi bận lắm.
- Tôi đến đây có lý do, để trình thái hậu một việc. Xin thái hậu nghe, đã gần đến giờ giới nghiêm.
Đã lâu, bà nhận thấy Nhung Lữ như có quyền lực với bà. Ông là người duy nhất được bà nể, bà cũng biết ông rất yêu bà song nhất định không chiều theo ý bà. Hắn vẫn có óc tự chủ như hồi niên thiếu hai người đã đính hôn, bà có ý dềnh dàng để cho hắn đứng chờ. Bà đặt chiếc nắp ngọc trên nghiên mực, lau ngòi bút trong một chiếc chén nhỏ, công việc đó thường nhật bà sai thái giám làm, nhưng nay tự tay bà làm lấy. Nhung Lữ đứng chờ, thấy thái độ, cử chỉ của bà, đoán hiểu tâm trạng bà.
Bà đi suốt qua gian phòng rộng lớn, lên ngồi trên ngai. Theo tục lệ, Nhung Lữ đến quỳ trước ngai. Bà để mặt cho hắn quỳ, nhìn hai con mắt hắn nom vừa dữ, vừa như có vẻ nhạo báng mà lại dịu dàng.
Một lúc lâu, bà cất tiếng hỏi:
- Anh có thấy đau ở đầu gối không?
Với giọng bình tĩnh, Nhung Lữ trả lời:
- Cái đó không có gì quan trọng.
- Thôi anh đứng dậy. Tôi không muốn anh quỳ trước mặt tôi.
Nhung Lữ thủng thẳng đứng dậy, nom rất bệ vệ. Hắn đứng yên, bà để ý nhìn hắn từ đầu đến chân. Một lúc sau bốn mắt gặp nhau không chớp, không ai có thể bất chợp nom thấy, tên thái giám đứng trấn ở ngoài hành lang.
Bà nói giọng mềm mại, dịu dàng như một đứa trẻ xin lỗi:
- Thế nào, tôi dã làm gì anh không vừa ý?
- Bà làm gì chắc bà biết.
Bà thái hậu nhún vai.
- Tôi chưa nói chuyện với anh về cung Viên Minh tôi muốn tái lập lại. Tôi biết người nào sẽ đảm nhiệm việc tạo tác đó. Người đứng ra đảm nhiệm trông nom chắc chắn là Cung Thân vương. Tái tạo cung Viên Minh là sáng kiến của con tôi muốn dâng lên cho tôi. Đó là ý nguyện của hắn.
Nhung Lữ trịnh trọng thưa:
- Thái hậu cũng biết ngân khố không đủ tiền để xây cất cung điện đó. Phải đặt ra nhiều thứ thuế đánh vào các tỉnh.
Bà lại nhún vai nói:
- Không cần phải thu nhập tiền nong gì hết. Các tỉnh trong nước đem cống hiến, tùy theo mức độ mỗi địa phương đá, gỗ, ngọc thạch, thợ... Những thứ đó ở đâu cũng có.
- Thợ làm phải trả công chớ?
- Cái đó cũng không cần thiết lắm. Nhà Tần xưa kia đắp Vạn Lý trường thành có cần phải trả công đâu? Khi họ chết, nắm xương vùi tàn trong đống gạch, như thế đỡ tốn kém, ma chay, chôn cất.
- Trong thời gian đó triều đình nhà Tần đang cường thịnh không ai giám ho he, nói gì. Hoàng đế Tần Thủy Hoàng là người Hán không phải người Mãn Châu, đắp bức tường đó để bảo vệ cho dân, rợ Phiên khỏi tràn xuống. Bây giờ dân chúng có chịu hy sinh người và của để xây một cung điện cho thái hậu không? Thái hậu liệu có sung sướng gì ở trong những cung điện xây cất bằng xương người những kẻ vô tội? Tôi không thể tin thái hậu có tính độc ác như vậy?
Chỉ có Nhung Lữ là người duy nhất làm bà thái hậu phải rơi lệ. Bà quay mặt để che giấu.
- Tôi không độc ác.
Bà nói thêm, tiếng nói rất khẽ:
-Tôi sống, cô đơn... Cô đơn.
Bà lấy chiếc khăn tay bằng the hoa chùi nước mắt. Nhưng chiếc dây vô hình như ràng buộc hai người. Trong lòng bà muốn hắn đến gần bà, ít nhất nắm bàn tay bà.
Nhung Lữ ngồi yên như pho tượng, với một giọng trầm trầm hắn nói tiếp:
- Bà phải bảo ấu hoàng đã nghĩ nhầm cho việc tái lập cung Viên Minh, trong nước đang bị giặc giã ngoại xâm, đe dọa, dân chúng lầm than, nhất là những tỉnh ở trung tâm trong nước bị nạn lụt lội. Nói rõ cho ấu hoàng biết những việc đó là bổn phận của bà.
Bà quay mặt về hắn, hai con mắt buồn bã, long lanh nước mắt.
- Ôi, chao ôi! Nước với non, lúc nào dân chúng cũng khổ cực.
Hai môi bà rung rung, hai tay xoắn vào nhau.
- Làm sao anh không bảo nó. Anh là cha nó?
- Suỵt! Đừng nói gì về ấu đế.
Bà cúi xuống, những giọt nước mắt rơi lã chã trên vạt áo vóc hồng. Nhung Lữ nói:
- Làm sao bà buồn. Tôi tưởng như bà được mãn nguyện lắm thì phải. Bà muốn gì cũng có. Bà con muốn gì nữa? Ở trên đời này có người đàn bà nào quyền uy như bà?
Bà ngồi yên không trả lời, nước mắt vẫn rạt rào. Nhung Lữ nói như để an ủi:
- Triều đại này vững vàng ít nhất cũng trọn đời bà đã rèn luyện được một vị hoàng đế, bà đã lo vợ, mọi việc đã được hoàn hảo. Hai vợ chồng trẻ yêu nhau, chẳng bao lâu sẽ có hoàng nam.
Bà ngửng đầu, vẻ sửng sốt.
- Đã có rồi sao?
- Tôi không rõ, song trai gái quấn quýt, yêu nhau thế nào mà chẳng có sớm.
Nhung Lữ nhìn bà như có vẻ ái ngại.
- Cách đây mấy hôm, tình cờ tôi gặp hai người. Lúc đó đã khuya, tôi rảo bước ra cổng chính vì sắp đến giờ giới nghiêm. Tôi đi ngang qua viên đình Thanh Phong...
Bà lẫm bẫm khẽ nói:
- Nơi đó gần dinh bà Đông Cung.
- Lúc đó, cửa Viên Minh mở rộng, bất giác tôi liếc mắt nhìn vào trong. Trong ánh sáng lờ mờ, tôi thấy hai người quấn chặt lấy nhau như hai đứa trẻ.
Bà cắn chặt hai môi, cằm bà rung rung, nước mắt rạt rào. Khuôn mặt bà lúc buồn nom càng đẹp, Nhung Lữ không sao cầm được lòng. Hắn tiến lại ba bước, tiến thêm hai bước nữa đến sát bên bà. Suốt trong bao nhiêu năm nay chưa lần nào được gần gũi như thế. Hắn nói rất khẻ chỉ đủ bà nghe, người ngoài không ai có thể nghe thấy:
- Mối tình chúng ta thật là oái ăm, thâm sâu. Phải giữ kín trong đáy lòng. Phải đem hết tài năng, tâm trí gây dựng, củng cố triều đại hiện hữu này vì nó phát nguyên từ mối tình thầm kín giữa hai chúng ta.
Bà bị cảm xúc mạnh, lấy hai tay che mặt, nức nở khóc, vừa khóc, vừa nói:
- Thôi đi, đi. Để tôi một mình như tôi đã sống trong bấy lâu nay.
Bà khóc, tiếng khóc nghe lớn quá, Nhung Lữ phải ra đi sợ có ai nghe thấy. Hắn thờ dài, lùi ra theo như ý bà muốn.
Tuy bà che mặt khóc nhưng bà vẫn để ý quan sát các kẻ tay; khi bà thấy hắn ra cửa, bà bỏ tay ra, ngửng đầu, hai mắt ráo hoảnh.
- Ta chắc... Ta chắc... Ngoài con anh, anh không yêu ai hơn phải không?
Nhung Lữ đứng dừng lại, khoanh tay:
- Tâu thái hậu, có ba đứa.
- Con trai?
- Con trai.
Một lúc lâu, bốn mắt buồn bã, thương tiếc nhìn nhau, Nhung Lữ ra đi, bà ở lại trong gian phòng một mình.
Cuối tháng sáu dương lịch, hoàng đế Đồng Trị tiếp kiến các sứ thần Tây Phương. Bà thái hậu nghe lời tường thuật đầy đủ của viên tổng thái giám Lý Liên Anh.
Cuộc triều kiến bắt đầu 6 giờ sáng ở Hồng Quan Điện. Hoàng đế ngồi hai chân quặp lại sau một chiếc an thư thấp, trên một bục gỗ cao. Hoàng đế, chú mục quan sát những khuôn mặt lạ của bọn người bạch chủng, có thân hình cao lớn: Sứ thần Anh Cát Lợi, Pháp, Nga La Tư, Hòa Lan và Hoa Kỳ. Trừ có sứ thần Nga còn ăn vận quần áo thường màu sẫm, hai cẳng chân lồng trong chiếc quần hẹp, nữa người phía trên mặc chiếc áo ngắn cùn cỡn, họ không mặc đồ dài. Họ nghiêng đầu chào hoàng đế, không lay, không dập trán xuống đất, mỗi người đưa cho Cung thân vương một tờ giấy để đọc, đọc lớn cho vua nghe. Tờ giấy có những dòng chữ viết bằng Hán văn, lời lẽ tờ nào cũng giống hệt như nhau. Lời chúc mừng hoàng thượng lên ngôi, triều đại được thái bình, thịnh trị.
Hoàng thượng trả lời mọi người, lời lẽ cũng giống nhau, Cung thân vương trèo lên bậc, phủ phục, lễ rất thận trọng, dập trán xuống đất, hai tay kính cẩn nhận của "Hoàng điệt" một tờ phiếu chỉ. Trước bọn người ngoại quốc, ông theo thật đúng nghi lễ cổ truyền, có hàng bao nhiêu thế kỷ, theo đúng quy tắc của Khổng giáo. Khi lễ, mỗi lần đứng lên, quỳ xuống, hai tay ông giơ cao như hai cánh chim, những tà áo bay quanh ngươi, nét mặt hân hoan như được phò một minh quân, thánh chúa. Ông chuyển giao cho mỗi sứ thần một mảnh giấy của hoàng thượng. Các sứ thần lần lượt đặt lên trên án thư những ủy nhiệm thư và đi giật lùi ra ngoài. Mấy viên sứ thần này yên chí tưởng yêu sách của mình được toại nguyện, mình đã thắng chứ biết đâu, cả bọn họ được tiếp trong một cung điện thường không phải ở Long điện, nơi thiết đại triều.
Bà thái hậu ngồi yên nghe bản tường thuật của Lý Liên Anh, bà bĩu môi trong lòng bừng bừng tức giận. Sao con bà dám cưỡng lời bà như thế? Chắc con Ái Lan nó xúi giục, ỏn thót mới dám làm như thế, Bây giờ con bà nghe Ái Lan nó bảo gì cũng nghe còn hơn đối với mẹ ruột. Như Nhung Lữ đã nom thấy nói lại, bà tưởng tượng hai người quấn quýt, ôm lấy nhau, nghĩ thế lòng bà thấn nhói đau. Tại sao con bà không chiều bà, làm theo ý bà. Bà không từ bỏ việc tái tạo cung Viên Minh, trái lại bà còn muốn làm lộng lẫy, nguy nga hơn, vì con bà say mê Ái Lan. Đột nhiên như một mũi tên độc ở trên trời trớt xuống, một ý nghĩ kinh khủng thoáng qua trong óc bà. Nếu Ái Lan sanh con trai, như Nhung Lữ nói, kết quả cuộc ái tình, đứa con đầu lòng bao giờ cũng là trai như thế đương nhiên Ái Lan lên ngôi hoàng thái hậu. Bà lẩm bẩm nói một mình.
"Ta ngu thật, sao ta không nghĩ một ngày kia ta bị Ái Lan truất phế. Ta sẽ làm sao trong lúc đó, chẳng qua chỉ là một mụ già sống vất vưởng trong hoàng thành."
Bà quát đuổi tên thái giám ra ngoài.
Ngồi một mình, người ngay đờ như pho tượng gỗ, bà suy nghĩ, hoạch định đường lối để bảo trì quyền uy. Bà phá tan mối tình mà Nhung Lữ đã khuyên bà phải bảo vệ. Bà sực nhớ đến bốn cung phi chính bà lựa chọn hiện nay ở Diễm Hoa cung. Bốn người đó ở đây, chờ được vua cho vời đến. Hoàng thượng đang say mê Ái Lan, nên không nghĩ gì, thiết gì bốn người này. Bà thái hậu nhớ ra một trong bốn người rất đẹp, ít có... Bà chọn ba người vì con nhà danh giá tính nết hòa nhã còn người thứ tư vì có nhan sắc. Sao bà không lợi dụng bọn thứ phi này. Bà dạy dỗ, trang điểm cho bọn này để đem lên trình diện hoàng thượng. Bà sẽ lấy cớ, hoàng thượng thỉnh thoảng cũng phải tiêu khiển, thay cũ đổi mới, Ái Lan nghiêm nghị quá lại phải chung lo công việc triều chính, tính lại rất cẩn thận không thích hợp cho một người đàn ông còn trai trẻ, khao khát về nhục dục. Người thứ phi con nhà hèn kém, dân dã được tiến cử vào cung nhờ có sắc đẹp này nếu lung lạc được vua, kế ly gián Ái Lan và con bà đã thành công.
Xây dựng những mưu đồ đen tối đó, bà cũng tự biết là rất ác và thất đức, song bà không từ bỏ. Như bà bị cô độc, sống thui thủi một mình không ai dám yêu bà, vì sự ngăn cách về quyền thế, về địa vị. Nếu bà sợ vì lẽ nọ, lẽ kia, không dám làm, bà sẽ là một mụ già không tên tuổi, một mụ già không ai còn biết đến, tâm hồn, trí óc bà sẽ bị một lớp da tàn úa che kín. Hiện giờ bà còn trẻ, còn đẹp, bà phải xếp đặt để trở lại ngôi báu, nếu không muốn tên tuổi bị chôn vùi, sống cũng như chết.
Bà hồi tưởng lại thời thơ ấu, hoa niên. Bà là cô gái nhỏ, lo công việc hàng ngày. Khi ở với ông chú Muyanga, mẹ nàng góa bụa, ở nhà ông anh chồng như một tôi đòi. Đi đâu, cô nhỏ cũng phải điệu em nhỏ sau lưng, không thể chạy nhảy, nô đùa. Nàng thông minh, nhanh nhẹn, nên được giao phó làm đủ mọi việc. Suốt ngày làm việc trong nhà lo bếp nước, nấu nướng, vá may, bà còn được sai ra chợ, mặc cả mua con gà hay con cá. Đêm nằm co quắp cùng một giường với em. Nhung Lữ cũng không giúp gì được cho nàng, vì Nhng Lữ lúc đó còn trẻ, một cậu nhỏ vô tư lự. Nếu lấy Nhung Lữ, suốt đời chàng chỉ là một ngự lâm quân, rồi nàg cũng như mọi người chăm lo công việc trong nhà, bếp nước, nuôi con, trông nom sai bảo gia đình, đầy tớ... Nàng làm vua, nàng đã giúp đỡ, cất nhắc cho người nàng yêu. Thế mà chàng không biết ơn, còn lấy địa vị là anh họ chê trách.
Còn con bà, ngoài tình mẹ con, công lao dưỡng dục lại còn nhờ mẹ lên được tuyệt đỉnh cao sang, bây giờ lại quý vợ hơn mẹ. Khi còn thơ ấu, con bà quyến luyến người chị họ bà (Đông cung) còn hơn bà. Bà phải cắn răng chịu đựng nhận một ông vua hèn yếu, bất lực làm chồng là dụng ý giành ngôi báu lại cho con. Bà nghĩ lại thấy ghê tởm, những giờ phút phải ở bên cạnh ông vua đó, khuôn mặt nhợt nhạt, hai bàn tay nóng ran, gầy còm, bệnh hoạn... Bà nghĩ lại thấy não lòng.
Suốt trong mười hai năm ở ngôi vị nhiếp chính, một mình bà không quản gian nguy phải đối phó với nội loạn, ngoại xâm, để cho con tước vị làm hoàng đế. Mộ một mình bà đã có thể kìm hãm được sự tham vọng đất đai của người da trắng, các rợ Mông Cổ phải hàng phục. Bà đã đè bẹp những cuộc nổi dậy của người Hồi giáo ở Vân Nam, Quế Lâm. Con bà lên ngôi hoàng đế, trong nước thiên hạ được thái bình, an lạc. Con bà cũng biết bà có tài an bang tế thế, sao không thấy đến hỏi han bà những việc trọng đại, bà là người độc nhất mới có thể dìu dắt, giúp đỡ, giải quyết được.
Những ý nghĩ đó luẩn quẩn trong tâm trí bà, tạo nên một sức mạnh đen tối và táo bạo. Tất cả tâm trí bà hướng về một nổ lực, phản ứng lại một số phận đen tối rình rập chờ đợi, hãm hại bà. Bà quyết tâm với một ý chí sắc đá như một lưỡi gươm sắc, phá tan đám cỏ hoang, vạch một lối đi, tiến đến thành công.
Tuy nhiên, bà hành động trong mọi công việc, theo lẽ công bằng, bà cần phải có một lý do chính đáng.
Trong nước đã trải qua một thời kỳ dài hai mươi năm giặc giã, thiên hạ điêu linh; năm con bà đăng quang lên ngôi, năm đó duy nhất, trong nước được thái bình, an lạc. Bây giờ những cuộc nổi dậy lại phát sinh khắp nơi. Ở Đài Loan, một cù lao ngoài biển, dân ở đó đã sát hại những thủy thủ người Nhật trôi dạt vào bờ khi thương thuyền của họ mắc nạn, bị đắm. Vua nước Nhật phái chiến thuyền, quân lính đến hải phận Trung Hoa để hạch tội và tuyên bố hải đảo đó và những hải đạo phụ cận thuộc về lãnh thổ Nhật Bản. Cung thân cương đảm nhiệm ngoại giao vụ khán nghị sự vi phạm vào những hải đảo thuộc quyền Trung Hoa. Vua nước Nhật dọa sẽ tuyên chiến với Trung Hoa.
Không riêng một chuyện đó. Từ bao nhiêu thế kỷ nay, các vua chúa nước tàu cai trị các miền đất thuộc về An Nam, trước khi sự hoan nghênh của dân chúng các miền đó. Nhờ uy danh của hoàng đế nước tàu, dân chúng ở các miền đó được sống yên ổn, không nước nào dám dòm ngó, trừ ra có người da trắng. Trong thế kỷ trước, quân đội Pháp đã xâm nhập vào nội địa An Nam. Đã hai mươi năm nay, các cố đạo và các nhà buôn người Pháp thâm nhập vào trong lãnh thổ An Nam, ỷ sức mạnh cưỡng bách vua An Nam ký một hiệp ước thoái nhượng những tỉnh miền duyên hải Đông Bắc kỳ, viện lẽ có hải tặc Trung Hoa quấy phá.
Bà thái hậu biết hết không sót một chuyện gì, nhưng tâm trí bà để hết vào công việc tái tạo cung điện Viên Minh. Đột nhiên, bà quyết định những việc trọng đại trong nước, bà phải tự giải quyết lấy mới được. Bà nhất quyết cáo giác, con bà không chịu hoạt động, các thân vương chơi bời, phóng túng, vận nước lâm nguy, bắt buộc bà, một lần nữa phải lên cầm quyền để cứu nguy trăm họ.
Sang đầu mùa hạ, bà cho gọi những thứ phi trẻ đến. Bọn này, từ khi được tuyển vào cung, chưa được vua vời đến lần nào, bây giờ được bà thái hậu gọi đến, mừng lắm. Cô nào cũng xinh xắn, nõn nà, quây quanh bà thái hậu như một đàn chim xổng lồng. Bà thái hậu không thể nào nhịn được cười, nom mấy cô như đàn chim non. Chỉ có bà mở được phòng vua cho các cô vào. Bà nghĩ thương hại cho mấy cô nhỏ, đào tơ mơn mởn, bà vẫy tay đến gần bà.
- Đàn chim non của mẹ, các con cũng biết mẹ không thể đưa các con vào một lúc với hoàng thượng. Bà hoàng hậu sẽ ghen đuổi hết các con. Bây giờ bắt đầu bằng một người, các con cũng phải biết điều đừng tranh giành, ta chọn người nào đẹp nhất trong các con.
Bà thái hậu hồi tưởng khi xưa, bà còn trẻ, được tuyển vào cung, bị nhốt trong bốn bức tường. Trước những con mắt đầy hy vọng nhìn bà như một vị cứu tinh, bà không nỡ làm mủi lòng ba người khi một người được chọn. Bà nói:
- Ta không biết ai nên chọn, ai không? Các con chỉ cho mẹ.
Cả bốn người phá lên cười. Một người lớn nhất không được đẹp lắm nói:
- Tâu thái hậu, thái hậu nom cũng biết người đẹp nhất trong bọn chúng con là chị Nhài.
Tất cả mọi người quay nhìn cô Nhài. Cô này đỏ mặt, lắc đầu, lấy khăn tay che mặt. Bà thái hậu nói:
- Bỏ tay xuống, con. Mẹ nhìn coi xem nào.
Mấy cô kia gỡ tay Nhài xuống để bà thái hậu ngắm nhìn. Bà nhận xét cô nhỏ này không thẹn thò, bẽn lẽn, nhưng láu lỉnh, vui vẻ. Nét mặt đanh, hai môi đầy, có vẻ bạo dạn, hai mắt to, hai lổ mũi phập phồng, mũi nhỏ hơi nhếch. Tóm lại, khuôn mặt khác hẳn khuôn mặt Ái Lan. Ái Lan giống cha, nguyên là phụ đạo của hoàng đế, khuôn mặt sáng sủa, nhẹ nhõm, thân hình tầm thước, mảnh dẻ. Nhài, người nhỏ nhắn, mũm mỉm, nước da đẹp, trắng như con nít, hai má hồng môi đỏ.
Bà ngắm nhìn xong, thái độ bà thái hậu thay đổi đột ngột. Bà lấy tay gạt hết bọn thứ phi, mấy ngón tay đeo đầy nhẫn, bà che mồm ngáp. Bà bảo Nhài với giọng rất thản nhiên.
- Hôm nào tiện, ta sẽ gọi mi đến.
Bọn thứ phi kéo nhau đi ra, những ống tay áo thêu rộng nom như những cánh bướm, lóng lánh phất phơ bay.
Công việc thu xếp như thế tạm xong, bây giờ phải báo lên tổng thái giám đến hỏi con ả hoàn hầu cận hoàng hậu xem hôm nào hoàng hậu không đến gần vua được? Khi bà đã biết còn độ một tuần lễ nữa; trước ngày đó bà cho lại bảo trước người thứ phi Nhài biết phải sẵn sàng chờ bà cho gọi. Bà ra lệnh cho người thứ phi mặc áo màu hoa đào, không sức dầu thơm, việc trang điểm sẽ do bà tự đảm nhiệm lấy.
Đến ngày đã được ấn định, người thứ phi Nhài trình diện bà, theo đúng chỉ thị của bà. Bà ngắm người thứ phi từ đầu đến chân; bà bắt tháo bỏ những đồ trang sức rẻ tiền. Bà sai một thể nữ.
- Đem đến cho ta hộp đồ trang sức số 32.
Bà mở hộp lấy ra hai hạt trai đỏ, một viên hồng ngọc gài lên mái tóc Nhài phía tay trái. Bà cho đeo vòng, nhẫn bằng vàng. Người thứ phi nom thấy vàng thích quá cắn chặt đôi môi, nhìn bà tỏ vẻ biết ơn.
Trang điểm xong, bà cho đem đến một lọ nước hoa xạ hương, bà bảo người thiếu nữ xoa vào hai bàn tay, dưới cằm sau tai, xung quanh hai vú và ngang thắt lưng.
Bà bảo mọi người:
- Bây giờ các ngươi đi theo ta hết, lên cung hoàng thượng.
Bà đổi ý kiến. Sao lại đến cung hoàng thượng. Biết đâu Ái Lan có thám tử biết có sự hiện diện của bà, hẳn cũng sẽ đến, lấy cớ đến chào bà mẹ chồng. Nếu không có lệnh, hắn không thể tự ý đến cung thái hậu.
- Không, ta không dại gì... Ta biết hôm nay con ta có một mình, ta cho mời hắn đến đây. Sai nhà bếp làm mấy món hắn ưa thích, hắn ăn ở đây cùng với ta. Hôm nay đẹp trời cho kê bàn ra ngoài vườn, dưới bóng cây, cho gọi bọn nhạc công đến giúp vui. Hôm nay ta cho gọi bọn đào kép diễn một vở tuồng.
Bà sai bọn thái giám, a hoàn tống đạt khẩu lệnh của bà xuống các cơ quan liên hệ, cho thi hành gấp. Bà bảo người thứ phi:
- Còn con, lúc đó con ở cạnh bên mẹ, con pha trà hầu mẹ, khi nào mẹ ra lệnh con mới được nói.
- Xin tuân lệnh thái hậu.
Mọi việc được xếp đặt xong. Một hay hai giờ sau, có tiếng kèn đồng thổi, báo tin kiệu hoàng thượng đã đến, vào trong sân sau. Bọn thái giám tíu tít quanh những chiếc bàn bọn nhạc công sửa soạn hòa tấu.
Bà thái hậu ngồi trong cung đường, người thứ phi đứng hầu bên cạnh, đầu cúi, tay cầm chiếc quạt. Các thể nữ đứng xếp hàng cánh cung sau lưng bà.
Hoàng đế bước vào, mặc áo long cổn, vóc màu thanh thiên thêu rồng kim tuyến, đội mũ bình thiên có gù, tay cầm hốt ngọc. Đến trước mẹ, ông vua nghiêng đầu chào, không quỳ lạy vì nay là thiên tử. Bà mẹ ngồi yên nhận lời chào, không đứng dậy. Một cuộc hội họp như thế này mang một sắc thái riêng biệt, một ẩn ý, vì nếu theo đúng lễ nghi, tất cả mọi người hiện diện, lúc hoàng thượng đến, phải đứng dậy, cung nghinh. Các thể nữ đưa mắt nhìn nhau như thầm hỏi. Hoàng thượng làm như không để ý, ông đến ngồi trên một chiếc ngai thấp hơn phía tay mặt thái hậu. Ông ra mặt bảo bọn cận vệ ra hết ngoài sân. Bà thái hậu nói:
- Ta nghe nói hôm nay con có một mình. Để cho con đỡ buồn cho đến khi hoàng hậu đến được với con, ta muốn giúp con tiêu khiển. Hôm nay mát trời, chúng ta có thể bày bàn ăn ở dưới gốc cây, trong khi các nhạc công tâu nhạc. Con chọn lấy một vở hát nào con thích để cho đào kép trình diễn. Như thế thời gian trôi qua vui vẻ.
Bà nói giọng rất âu yếm, ngọt ngào, hai mắt đầy thiện cảm nhìn con, giơ bàn tay nõn nà nắm lấy tay con.
Ông vua mỉm cười, trong lòng thấy lạ vì ông thấy lâu nay bà hay chỉ trích, tỏ vẻ rất cay nghiệt. Đáng lẽ ông từ chối lời mời của bà, nhưng vắng Ái Lan, một mình ông không chịu nỗi sự cáu giận, phẫn nộ của bà. Thấy bà hôm nay, nét mặt rất tươi tỉnh, vui vẻ, ông không khỏi ngạc nhiên.
- Cám ơn mẹ, con chưa có gì để tiêu khiển cho hết ngày.
Bà thái hậu bảo người thứ phi:
- Bưng trà mời lang quân con.
Ông vua ngửng đầu nhìn người thứ phi, ông chăm chú nhìn không chớp mắt, nàng yểu điệu đến tên thái giám lấy chén trà, hai tay bưng lại mời vua. Hoàng thượng hỏi bâng quơ như không có người thứ phi trước mặt:
- Người này là ai?
Bà thái hậu giả đò, làm vẻ sửng sốt:
- Thế nào, con không biết nàng là thứ phi của con ư? Đó là một trong bốn người mẹ đã chọn lựa cho con. Sao lại có thể con vẫn chưa biết bốn người đó?
Ông vua có vẻ lúng túng, lắc đầu, mỉm cười.
- Con chưa cho vời đến, chưa có dịp nào.
Bà thái hậu mỉm cười:
- Theo phép lịch sự, con phải cho vời đến, ít nhất mỗi người một lần. Ái Lan cũng không nên ích kỷ quá, trong khi mấy người này mòn mỏi mong đợi.
Hoàng thượng không nói gì. Ông cầm chén nước, chờ cho bà thái hậu uống trước mới uống. Người thứ phi quỳ, hai tay đỡ chiếc chén không. Ông nhìn một lúc khuôn mặt tươi như bông hồng, nước da trắng mịn, mái tóc đen lánh.
Suốt cả ngày hôm đó, bà thái hậu gọi người thứ phi ra hầu hoàng thượng, quạt, đuổi ruồi, bưng nước trà, bánh ngọt, trong lúc ông ngồi coi hát, nàng đặt một chiếc ghế đẩu thấp dưới chân, đặt đệm bông dưới đầu gối, nàng săn sóc hầu hạ suốt ngày cho đến chiều tối. Người thứ phi đã lọt vào mắt xanh của hoàng thượng, ngài đã cười với nàng, nàng cũng cười, nàng không bẽn lẽn, rụt rè mà cũng không sỗ sàng, táo bạo, nụ cười hồn nhiên như với một người bạn đồng tuế.
Bà thái hậu thấy hai người đã có vẻ tương đắc, vui vẻ, cười cợt với nhau, tan hát bà bảo hoàng thượng:
- Trước khi con trở về cung, mẹ muốn bảo con một điều.
- Có điều gì xin mẹ dạy?
Ông vua ăn uống no say, vui vẻ lắm, lòng dạ thảnh thơi, người thiếu nữ trẻ đẹp, sở hữu của ông, lửa lòng phừng phực bốc cháy, ông muốn đến với ông lúc nào cũng được tùy ý. Bà thái hậu nói:
- Như con đã biết, sang xuân này, mẹ muốn đi ra ngoài kinh thành. Đã bao nhiêu năm nay, mẹ như bị nhốt trong bốn bức thành. Sao chúng ta không thể cùng đi ra viếng lăng tẩm các tiên đế. Một cuộc du hành dài độ 120 cây số, ta có thể bảo viên tổng trấn Lý Hồng Chương cho một đạo quân đi hộ giá. Mẹ và con tượng trưng cho hai thế hệ, không tiện cho thái hậu cùng đi trong cuộc tuần thú long trọng và nghiêm trang này.
Bà định cho người thứ phi Nhài này đi theo, lấy cớ để hầu hạ bà, đến đêm bà cho người thứ phi sang ngủ bên lều của vua. Ông vua suy nghĩ nói:
- Mẹ định bao giờ đi?
- Đúng một tháng nữa, lúc đó con cũng được rãnh rang như hôm nay, chúng ta đi vào những ngày mà hoàng hậu phải kiêng cữ, không đến gần được con. Khi con trở về, cuộc trùng phùng tái ngộ càng mặn nồng hơn.
Ông vua nghĩ thầm sao bà cụ thay đổi khác hẳn thái độ khi nói đến Ái Lan. Ai có thể đoán được thâm ý của bà? Đối với ông, bà có thể rất tàn ác, ghét bỏ mà cũng có thể rất tốt, rất nhũn nhặn, hiền từ. Suốt đời ông như bập bồng trôi nổi giữa hai thái cực.
- Thưa mẹ, nên đi lắm. Bổn phận con phải đến thăm lăng tẩm liệt thánh.
- Việc đó rất nên không ai có thể dị nghị được.
Bà thái hậu trong lòng mừng lắm, như người giăng cái bẫy, bẫy đã sập.
Tất cả mọi việc được diễn tiến hoàn hảo theo như kế hoạch bà.
Một đêm cách xa kinh thành, dưới bóng tối của các lăng mộ, hoàng thượng cho vời người thứ phi Nhài đến với ngài. Suốt ngày, ông phải quỳ cạnh bà mẹ, cầu nguyện các phần mộ. Ban ngày, buổi sáng nắng ráo, đến chiều có cơn giông tố rồi mưa rả rích, gió thổi rì rào, ấu đế buồn không sao ngủ được, cảm thấy vắng vẻ, lạnh lẽo, cô đơn. Vì sự tôn kính đối với tiền vương, lăng tẩm quanh lều ông, ông không thể bảo một thái giám hát hay đàn. Ông nằm nghe tiếng mưa rơi, bâng khuâng, ông nghĩ những người đã khuất, một ngày kia ông sẽ như những người đó, rồi một ngôi mộ sẽ mọc lên. Ông nghĩ thấy lòng nao nao buồn, con người sống có hạn, ông sợ bị chết non, ông rùng mình nghĩ đến người vợ trẻ yêu quý hiện nay ở cách xa ông. Trung thành lời hứa với hoàng hậu, ông sao lãng không hỏi han đến thứ phi. Nhưng cả vua và hoàng hậu không hay biết, không ngờ bà thái hậu cho người thứ phi Nhài đi tháp tùng, nên không nhắc lại lời hứa với hoàng hậu. Suốt ngày hôm đầu, lễ nghi trang nghiêm, ông làm như không để ý đến người thiếu nữ, nhưng trong đêm hôm mưa gió, một mình rằn rọc trong lều, ông không sao gạt người thiếu nữ ra ngoài tâm trí. Ông than phiền với tên thái giám hầu cận "Ta rét quá, rét đến xương tủy, rét buốt ghê gớm quá". Tên thái giám đã được Lý Liên Anh dặn nhỏ nên vội vàng trả lời ngay:
- Sao bệ hạ không cho vời đệ nhất thứ phi. Nàng sẽ ủ ấm bệ hạ, không thấy rét nữa.
Ông vua nghe nói rất hợp ý song còn làm bộ.
- Sao được, ở đây gần các lăng mộ tiên vương.
- Một thứ phi, cái đó không đáng kể.
- Ừ.
Ông vua chấp thuận, làm ra vẻ như bất đắc dĩ.
Ông đứng trong lều, rét run lẩy vẩy trong khi đó tên thái giám, dưới làm mưa năng hột, trong đêm hôm tối tăm, chạy đi gọi người thứ phi. Một lúc sau thái giám kiếm được Nhài, người cung phi đang ngồi co ro, dưới một cái dù. Những giọt nước long lanh trên hai má nàng, trên mi mắt, những mớ tóc ngoài khăn, nước chảy nhỏ giọt. Hai môi nàng đỏ chót, hai má nàng nóng bỏng. Khi người thứ phi đến, ông vua lẩm bẩm bảo nàng:
- Trẫm cho vời thứ phi đến, trẫm thấy rét quá.
- Tiện thiếp tuân lệnh đến đây.
Nàng cởi khăn quàng, áo lên nằm trên giường. Ông vua nằm bên cạnh nàng, người nàng nóng ran.
Trong lều bà thái hậu có thái tử vào báo cáo, vua đã cho vời thứ phi, bà thích thú, bà đã thành công, gian kết bà đã có kết quả, cái bẫy bà giương lên đã sập.Chiếc hạt giống bà gieo, bây giờ bà chờ đến ngày nó đâm chồi nảy rễ, cuộc xung đột ghen tuông thế nào cũng bùng nổ giữa Ái Lan và nhài. Bà biết tính con bà, bà biết trước thế nào Nhài cũng đắt thắng.
Mùa hạ đã trôi qua. Bà thái hậu thỉnh thoảng lại thở dài, bà thấy bà đã già, bà chờ cung Viên Minh tái lập xong, bà đến đó để dưỡng già. Bà nói bà đau xương, đau mình, răng long, có nhiều sáng bà không muốn dậy. Các thể nữ trong lòng không tin vì họ thấy bà vẫn trẻ vẫn đẹp. Khi bà nằm trên giường, nước da sáng. Bà vẫn trẻ trung, khỏe mạnh, khiến những người xung quanh lạ quá, hỏi nhau bà nói đau, không hiểu đau gì, có gì bí mật chứ thật ra nom sắc diện bà không thấy bà đau gì hết. Bà nói bà đau, chưa bao giờ bà ăn uống lại nhiều, ngoài hai bữa cơm chính lại còn quà bánh suốt ngày. Bà đi lại rất mềm mại, nhẹ nhõm, chẳng có vẻ gì đau đớn mệt mỏi.
Thế mà lúc nào bà cũng nói bà đau. Nhung Lữ và Cung thân vương đến xin yết kiến, bà từ chối, không tiếp. Bà cho gọi tên tổng quản thái giám, bà hỏi:
- Tại sao? Thế nào?
- Tâu thái hậu, người ta xì xầm, hoàng thuợng độ này thay đổi tính nết. Suốt ngày, ăn ngủ, chơi bời, rượi chè, đàn địch, đêm đêm hóa trang làm người dân, đi khắp các đường phố trong kinh thành với bọn thái giám và đệ nhất thứ phi.
Bà thái hâu nghe thái giám tâu làm ra vẻ kinh ngạc.
- Đệ nhất thứ phi, không có lý nào.
Bà đang nằm, bà nhỏm dậy rồi lại vật mình nằm xuống, rê rỉ.
- Ta đang đau, mi biết không? Ta đau nhiều. Ra bảo thân vương những tin tức con ta làm sằng bậy như thế làm ta chóng chết. Ta không thể làm gì được. Con ta bây giờ làm vua. Thân vương phải khuyên bảo, can ngăn. Con ta bây giờ không chịu nghe lời ta. Bọn ngự sử đâu? Họ phải có bổn phận để ý theo dõi hành vi của hoàng thượng.
Bà vẫn từ chối không chịu cho Cung thân vương vào yết kiến. Ông thân vương này viết một lá thơ, lời lẽ cứng cáp, phản đối kịch liệt hành vi ông vua. Ngày mùng 10 tháng 9 dương lịch, hoàng thượng xuống một chiếu chỉ tước hết quyền chức Cung thân vương và người con là Tuấn chinh, để nghiêm phạt ông đã dùng những lời lẽ khiếm lễ đối với ngai rồng. Tờ chiếu chỉ có châu phê và đóng ngọc tỷ.
Bà thái hậu quyết ra tay hành động. Bà cũng xuống một chiếu chỉ, bà ký tên và mang chữ ký bà Đông cung với tư cách là đồng nhiếp chính, phục hồi quyền chức hai cha con Cung thân vương bị vua tước đoạt.Bà không cần hỏi ý kiến bà Đông cung, biết bà này tính nhu nhược, không dám phản đối. Bà thái hậu được tất cả mọi người từ trên xuống dưới kính nể, không ai dám làm trái ý bà. Cách xử trí nghiêm đoán này gia ân cho Cung thân vương là một người tượng trưng cho thế hệ cũ, làm mọi người vô cùng ngưỡng mộ bà, nhờ vậy uy danh của bà càng lên cao.
Ông vua trước khi có một quyết nghị phản ứng lại, ông mắc bệnh đậu trong một hộp đêm ở ngoài kinh thành, trong đêm hôm ông cải trang để chơi bời thỏa thích.
Tháng mười dương lịch, sau những ngày nóng sốt, những mụn đậu vừa vỡ, tình trạng ông đáng lo ngại. Bà thái hâu ngồi cả ngày trên đầu giường, bà không sợ lây vì hồi nhỏ bà đã lên đậu, nhưng không có dấu vết rõ. Bà phập phồng lo sợ. Nếu có thể, bà từ bỏ hết để trong lòng được thảnh thơi, khỏi phải nhiều điều phiền não. Ngay cả những ngày đen tối nhất, nguy hiểm nhất bà cũng không thể hành động với tư cách một người mẹ, cũng như không thể hành động với tư cách một người vợ.
Ngày 24 cùng tháng đó, tình trạng ông vua đã khả quan, nhiệt độ đã xuống thấp, nốt đậu đã vỡ, không đau đớn như khi trước, bà thái hậu xuống chiếu cáo tri cùng quốc dân sức khỏe hoàng thượng đã khả quan. Cùng ngay tuyên cáo cùng quốc dân, vua cho vời hoàng hậu đến. Từ ngày vua lên đậu mùa, hoàng hậu không dám bén mảng đến phòng vua, vì hoàng hậu đã có thai.Được lời ngự y nói không sợ bị nhiễm bệnh, hoàng hậu vộ vàng đến vì xa cách bao nhiêu lâu người nàng yêu quý. Trong khi vua lâm bệnh, suốt ngày nàng lên chùa lễ bái, cầu nguyện, nàng mất ăn, mất ngủ. Vì thế, thân thể bị gầy còm, sắc đẹp có phần kém xưa. Nàng vội vàng đến cung vua, không kịp trang điểm, nàng mặt chiếc áo màu khói hương. Nàng muốn nóng lòng đến ôm lấy ngay người nàng yêu, nhưng vừa bước tới ngưỡng cửa, nàng dừng ngay lại. Bà thái hậu ngồi cạnh giường vua nằm. Hai tay ôm lấy ngực, nàng thốt lên:
- Chao ôi!
Bà thái hậu lạnh lùng hỏi:
- Sao lại kêu "Chao ôi"? Chao ôi là thế nào, đã sắp khỏi bệnh. Mi mới đáng hai tiếng "Chao ôi", nom mì vừa xanh vừa vàng như một mụ già. Thật là không may cho con tao, mi nang đứa con của con tao trong bụng.
Ông vua tiếng yếu ớt bảo khẽ mẹ:
- Con xin mẹ, mẹ tha thứ cho nó.
Ái Lan không sao nén được lòng tức giận. Sau bao nhiêu ngày mong đợi, lo sợ, mất ăn, mất ngủ, nàng như mất sự kiên nhẫn. Bản tính nàng cương trực, trí óc thông minh sáng suốt biết lẽ phải trái và có tính khác người là dù thế nào, nói thẳng không sợ và không chịu khuất phục trước uy quyền, vũ lực.
Người nàng bé nhỏ, yếu đuối, đứng thẳng người, mắt nhìn thẳng như có vẻ thách thức, bất chấp hiểm nguy.
- Nếu bà xét tôi có tội, bà cứ việc trị. Tôi không xin bà thái hậu một ơn huệ nào để tha tội. Lòng tức giận của bà đối riêng với tôi, nếu phải chịu tội, tôi xin chịu tội, tội vì không vừa ý bà.
Nàng nói mấy câu đó to tát, rõ ràng, hai môi nàng cắn chặt vào nhau.
Bà thái hậu nhảy xổ đến nàng, hai cánh tay giương thẳng tát tuối bụi vào hai bên má, tát vô hồi, cào cấu, những chiếc tháp vàng chạm ngọc móng tay cào rách mặt nàng, máu chảy chan hòa.
Ông vua bệnh tình vừa mới thuyên giảm phần nào, nom thấy cảnh não lòng, ông rên gừ gừ. Tiếng yếu ớt, nói không ra hơi:
- Thôi xin cả hai, để cho tôi chết. Sống làm sao được như người rớt xuống sông giữa hai dòng nước.
Ông nằm quay mặt vào tường, nức nở khóc. Hai người đàn bà vội vàng chạy lại giường vua, bọn thái giám chạy ùa vào. Bà thái hậu sai người đi gọi ngự y khẩn cấp đến ngay. Vua vẫn khóc, không ai có thể khuyên can hay có phương cách nào làm ông hết khóc. Ông vật vã trên giường suốt mấy tiếng đồng hồ rồi hôn mê, không biết gì hết. Ngự y quỳ trước thái hậu, giọng rầu rầu, tâu:
- Tâu thái hậu, y học của con người đành chịu khuất phục, vô kế khả thi. Thiên tử bị trù ếm, hạ thần không có cách gì ngăn cản được ngài về chầu tiên đế. Nhưng các ngự y trong triều và hạ thần đã biết trước thế nào cũng xảy ra một tai ương. Tâu thái hậu, ngày mùng 9 tháng 10 dương lịch, mới cách đây có 48 tiếng đồng hồ, có hai người Mỹ đến kinh thành. Họ đặt trên mặt đất một vật gì lạ lắm, có một ống dài để nhìn lên trời. Tâu thái hậu ngay lúc đó, sao hôm mọc lên sáng lắm, hạ thần có nhìn thấy một vết đen trên sao. Chắc hẳn họ thư phù gì ngôi sao đó, chúng hạ thần sợ sẽ xẩy ra một biết cố, biến cố đó đã ứng vào ngày hôm nay.
Bà thái hậu thét lên gọi Lý Liên Anh, bà nói bà không tin câu chuyện vừa kể. Tên thái giám quả quyết chắc chắn là đúng, hắn quỳ dập đấu xuống đất.
Thế là chấm dứt cuộc đời ngắn ngủi của ấu chúa. Khi ông vua thở hắt ra, người đã lạnh ngắt, bà thái hậu đuổi tất cả mọi người ra ngoài, hoàng thân, quốc thích, các quan trong triều tự động đến như để chứng thực sự ra đi vĩnh viễn của ấu chúa. Bà đuổi tất cả thái giám, thể nữ, a hoàn, hoàng hậu cũng phải lui ra ngoài như tất cả mọi người. Bà bảo Ái Lan:
- Cả mi nữa, lui hết ra ngoài. Để một mình ta với con ta.
Hai con mắt bà không có vẻ gì hung dữ nhưng lạnh lùng, buồn thảm. Bà làm như tình mẫu tử còn thâm sâu muôn phần hơn tình nghĩa vợ chồng.
Ái Lan phải tuân lệnh. Chồng nàng nay đã chết, nay bà này có toàn quyền hành động.
Ở lại một mình, bà ngồi cạnh xác con, nghĩ đến đời mình, thân phận mình từ nay, nghĩ đến cái chết đột ngột của người con độc nhất. Bà chưa thể nào khóc được. Bà nghĩ đến bà, từ nay nắm trọn quyền, quyền của một vị chúa tể. Trên đời có một bà là duy nhất, biệt nhân xuất chúng, tuy là đàn bà nhưng trên hết mọi đàn bà, trên mọi lãnh vực, một người có tài tế thế an bang, vô tiền khoán hậu, ngay cả phái nam cũng ít người có thể sánh nổi với bà, khi nhu, khi cương, ý chí cương quyết như sắt đá.
Bà ngắm khuôn mặt con, người mà bà mang nặng đẻ đau, khuôn mặt trẻ, xinh xắn, nét mặt bình tĩnh, tuy đã chết, nom như người ngủ. Bà hồi tưởng lại khi con bà còn nhỏ, bà quý con hơn nén vàng. Nghĩ thế hai mắt bà rưng rưng lệ, bà nức nở khóc, hai giòng nước mắt chảy hai bên má, rớt xuống vạt áo. Bà nắm tay con, vuốt ve, đặt lên má bà, bà làm như con bà khi còn nhỏ. Có những tiếng nói kỳ lạ từ trong đáy lòng phát xuất, như một thác máu dồn lên tim. Bà rên rỉ:
- Ối, con ơi! Nếu mẹ biết nông nỗi này, mẹ chiều con cho con chơi chiếc xe lửa, chiếc xe lửa của ngoại nhân, con thích thứ đồ chơi đó mà mẹ cấm đoán.
Đột nhiên, lòng thương xót con tập trung tất cả ý nghĩ vào thứ đồ chơi đó, mấy năm trước bà cấm đoán, hai hàng lệ lã chã tuông rơi, quên hết mọi việc, như tất cả bà mẹ có đứa con duy nhất đã chết.
Giữa đêm khuya khoắt, cánh cửa phòng hé mở, một người đàn ông bước vào. Bà đang cúi mặt vào xác con, thút thít khóc, không để ý nghe thấy tiếng chân đi vào trong phòng. Bà thấy có một bàn tay khẽ đặt lên vai, bà quay đầu lại khẽ nói:
- Anh.
- Vâng, tôi. Tôi đứng chờ ở cửa ba giờ đồng hồ. Sao bà thức khuya thế? Các tộc đảng xôn xao, lo đặt lên ngôi kế vị trước khi trời sáng, trước khi dân chúng biết tin vua băng hà.
Bà gạt ra ngoài tất cả những tình cảm vụn vặt thường tình, để tâm suy nghĩ, xếp đặt một đường lối bà đã hoạch định từ lâu, đem áp dụng, thi hành, phòng sự bất ngờ xẩy tới. Bà nói:
- Người con trai của em tôi năm nay lên ba. Tôi đã chọn để lên kế vị. Cha hắn là em thứ bảy của cố lang quân, tiên đế tôi.
Nhung Lữ nhìn bà, quan sát hai con mắt đen lánh, trên khuôn, mặt xanh xao, quả cảm, hai môi mắm lại, vẻ cương quyết.
Với một giọng nói lạnh lùng, khó hiểu, Nhung Lữ bảo bà:
- Đêm nay, thái hậu có một sắc đẹp kinh rợn. Trước nguy cơ bà lại càng đẹp thêm. Bà như có một sức gì huyền bí ẩn tàng trong người.
Bà ngửng đầu lên, đôi môi buồn thảm hé mở, hai mắt như dịu lại. Bà lẩm bẩm, khẽ nói:
Nói nữa đi anh. Nói nữa, em muốn nghe anh nói.
Nhung Lữ lắc đầu, sẽ sàng nắm lấy tay bà. Ngồi cạnh bên nhau, tay trong tay, hai người ngắm nhìn xác ông vua sóng sượt trên giường. Bà thấy Nhung Lữ người run lên.
- Anh ơi, con của chúng ta.
- Suỵt! Chúng ta không có quyền nhắc lại chuyện đã qua. Tai vách mạch rừng.
Đứng vậy, hai người không bao giờ được đả động, nói tới. Sau một phút im lặng, Nhung Lữ rút tay ra, đi lùi ra một bước, và sụp xuống lễ. Bà trở lại làm hoàng thái hậu còn hắn trở lại là một thần tử. Hắn nói khẽ, sợ có do thám:
- Tâu thái hậu, thái hậu đi kiếm ngay đứa trẻ. Hạ thầ đã tiên liệu, nhân dan thái hậu cho triệu thỉnh khẩn cấp viên tổng đốc Lý Hồng Chương. Quân đội đã kéo về, đóng đầy các cửa thành. Việc này không ai biết - gió ngựa buộc giẻ, người ngặm tăm. Đến tảng sáng, mẫu hậu đem đứa trẻ vào hoàng cung, quân đội trung thành đống trong tỉnh. Như thế không sợ người nào dám chống đối.
Bà như được trợ lực, cùng một động cơ thúc đẩy giữa hai người, cùng chung một ý nghĩ, tiến cùng một mục đích, bên trong là mối tình thầm kín, bên ngòai la nghĩa vụ của một trung thần, bà như thêm hăn hái hoạt động. Khi bà đi ra Lý Hồng Chương đã chờ sẵn ở cổng thành, nbà đi có mấy thái giám và thể nữ trng thành theo sau. Không ai thắc mắc hỏi sau Nhung Lữ lại lọt được vào cấm thành trong giờ giới nghiêm. Trong đêm kinh hoàng d0ó không ai dám hỏi han.
Bà thái hậu không do dự, thi hành ngay kế hoạch tiến thẳng tới đích. Bà ra lệnh cho thái giám Lý Liên Anh:
- Lấy cho ta chiếc song loan. Tuyệt đối không được nói một câu, không được làm gì náo động. Bảo phu lấy giẻ quấn vào chân.
Bà khóac chiếc áo choàng, lẳng lặng đi ngang qua các thể nữ, bước vào xe, kéo rèm che kín. Bà đi qua cổng bí mật ở sau dinh. Viên thái giám đi trước, dẫn đường, qua các đường phố vắng vẻ, tối om. Suốt ngày hôm trước, mưa tuyết, lớp tuyết dày, bọn phu đi êm, không một tiếng động. Bà đến tư dinh Chuân thân vương. Thái giám Lý Liên Anh gõ cửa, khi cửa vừa hé mở, thái giám vội vàng lọt vào, lấy bàn tay bịt mồm người ra mở cổng. Bà thái hậu vội vàng theo sau, vạt áo bay tung, đi ngang qua nhiều chiếc sân rộng. Mọi người trong nhà còn đang ngủ yên, trừ có người gác cổng, sợ quá, lặng thinh, không dám nói một câu. Tên thái giám chạy đi trước đánh thức vợ chồng ông thân vương dậy. Hai vợ chồng sợ quá, không hiểu chuyện gì, vội vang2 mặc quần áo chỉnh tề đi ra. Hai vợ chồng sụp xuống lạy bà khách mới tới nhà. Bà thái hậu nói:
- Em ơi, tôi không có thời giờ giảng cho em hiểu, con tôi chết rồị.. Em đưa cho tôi thằng nhỏ của em để lên kế vị.
Chuân thân vương thốt kêu lên:
- Xin thái hậu tha cho con tôi, không dám, không dám.
- Sao không dám, còn số phận nào cao quý hơn lên ngôi hoàng đế.
- Thật bất hạnh cho hạ thần, ngày nào cũng xì xụp lễ con... Trong họ hàng, người trên, người già cả, lộ bậy cũng vì gia đình tôi. Trời phật sẽ phạt cả gia đình nhà chúng tôi.
Ông vừa nói vừa khóc, rập trán xuống đất mạnh quá, đau đầu, ông ngất đi.
Đối với bà thái hậu, không có gì có thể ngăn cản được. Bà vào phòng thằng nhỏ đang ngủ, bà bế xốc nó lên, quấn tã ôm đem đi. Thằng nhỏ gừ gừ nhưng vẫn ngủ. Mẹ thằng nhỏ chạy theo kéo ống tay áo bà, van lơn:
- Đến chổ lạ, thằng nhỏ thức lúc thức dậy nó khóc, xin bà cho phép tôi đi theo nó vài hôm.
Bà thái hậu quay đầu bảo:
- Cho đi, nhưng đừng có giữ tôi lại. Tôi phải về hoàng thành lúc tang tảng sáng.
Bà đã thành công. Khi mặt trời lên, tiếng chuông đồng các nhà sư ở chùa tụng niệm, các truyền lệnh sứ rao trong phố đức vua Đồng Trị băng hà, tân vương lên tức vị.
Trong hoàng cung, ấu chúa thấy khác lạ, sợ quá, khóc thét. Chính mẹ ôm con cũng không dỗ được cho thằng nhỏ nín. Mỗi lần thằng nhỏ bỏ vú mẹ ra, ngửng đầu nhìn lên trần, thấy những con rồng chạm uốn khúc, nó lại sợ, khóc thét lên. Tuy sợ mà lại thích nhìn. Hai hôm sau, mẹ nó nhờ thái giám tâu lên thái hậu, thằng nhỏ khóc quá thành bệnh.
Bà thái hậu ngồi trong thư viện, đang họa bản đồ các cung điện, nghe thái giám vào tâu, bà vẫn vẽ không ngoảnh đầu lại, bảo thái giám:
- Cho nó khóc. Để cho nó biết ngay từ bây giờ, khóc vô ích, không được gì hết cho dù có làm vua chăng nữa.
Bà tiếp tục làm việc cho đến chiều tối, ngày mùa đông, chóng tối. Bà đặt bút xuống, ngồi suy nghĩ. Bà ra hiệu bảo thái giám đến:
- Mi ra gọi hoàng hậu vào đây, bảo đến một mình.
Người thái giám tuân lệnh chạy đi, vài phút sau Ái Lan đến trình diện; bà đuổi thái giám ra ngoài, bảo Ái Lan ngồi xuống ghế cạnh bà. Bà ngắm một lúc thân hình mảnh dẻ nàng, ăn mặc đại tang. Một lúc sau, bà hỏi:
- Mi không ăn uống gì hả?
- Thưa tổ mẫu, con không sao ăn được.
- Trên trần thế không còn gì lại cho mi.
- Thưa tổ mẫu, đúng vậy, không còn gì.
- Đừng trông mong, không bao giờ có gì. Nếu ta là mi, theo quách lang quân cho xong.
Ái Lan ngẩng đầu nhìn người đàn bà đẹp và vô cùng độc ác, thản nhiên ngồi bệ trên ngai. Nàng phủ phục quỳ xuống.
- Con xin phép tổ mẫu cho con được chết theo.
- Ta cho phép.
Hai người đàn bà nhìn nhau một lúc. Ái Lan tiến ra cửa, một thái giám đi sau đóng cửa, theo người thiếu phụ đáng thương đó.
Bà thái hậu ngồi yên trên ngai như một pho tượng đá, một lúc sau bà vỗ tay gọi thái giám:
- Ta cần làm việc, thắp hết các đèn lên.
Bà lại cầm trên tay ngọn bút lông. Thời giờ trôi qua trời tối đen như mực, bà sử dụng ngọn bút vẽ một bức họa đồ. Vẽ xong, bà đặt bút xuống ngắm, nhìn bức họa vừa vẽ. Những lâu đài, cung điện, tập trung xung quanh một cái hồ lớn. Bà mỉm cười trước bức họa, thấy thật tuyệt vời, hoàn hảo. Một lúc sau bà lại cầm lên ngọn bút lông, nhúng vào màu phẩm tươi nhất. Dưới sườn đồi, sau các cung điện, bà vẽ một ngôi chùa, hình dáng thanh tú, mái cong, ngói mạ vàng, tường ốp gạch sứ màu thiên thanh.
Đến nửa đêm, tên thái giám đằng hắng ở ngoài cửa. Bà lặng lẽ đứng dậy mở cửa. Tên thái giám tâu:
- Ái Lan không còn nữa.
-Nó chết làm sao?
- Thưa, thuốc phiện, giấm thanh.
Bốn mắt nhìn nhau một hồi lâu, trong sự hiểu ngầm, một ẩn ý.
- Thôi được, thế cũng xong, êm ái không bị đau đớn thể xác.