Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Truyện Dài >> Từ Hy Thái Hậu

  Cùng một tác giả


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 6299 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Từ Hy Thái Hậu
Buck, Pearl S

2.

TỪ HY
(Tây cung thái hậu; Hiếu Khâm)
Theo tục lệ cổ truyền, trong tháng đầu nàng phải tự nuôi nấng, chăm nom; không ai kể cả người vú nuôi, được ẵm đứa trẻ ra khỏi ngưỡng phòng.
Những gian phòng như bát úp, xung quanh chiếc sân rộng lớn, trồng toàn mẫu đơn, hoa đỏ chói, Yehonala phải ngồi cấm cung trong phòng. Nàng rất sung sướng, chứa chan hạnh phúc, trên được vua yêu dấu, dưới được mọi người quý mến, tâng bốc nàng là một hiền mẫu. Đứa trẻ sơ sinh được mọi người trầm trồ khen ngợi, nào là thằng nhỏ ẵm nặng tay, da dẻ hồng hào, hai mắt sáng, đĩnh ngộ, thông minh. Tất cả triều thần, văn võ bá quan, hoàng thân quốc thích, đủ mặt đến thăm mẹ con nàng, duy chỉ có Sakota không đến. Thái độ khó hiểu của Sakota, nàng rất thắc mắc, thấy nhói đau như chiếc gai đâm vào tim.
Theo lẽ bà hoàng thái hậu phải đến trước tiên, coi xem đứa trẻ thế nào và long trọng thừa nhận là thái tử. Nàng viết thư cáo lỗi, thoái thác, lấy cớ nàng không đến chơi thăm cháu vì tuổi nàng xung khắc với tuổi thằng nhỏ, nàng phải kiêng cử. Yehonala nhận được lá thư ngệch ngoạc có mấy chữ, nàng giận lắm. Nàng cố chờ cho đầy tháng thằng nhỏ xem sao. Ba hôm trước khi đầy tháng con, nàng viết cho Sakota một lá thư, sai Lý Liên Anh đem đến.
"Chị không đến thăm em và cháu, em nghĩ em cũng cần phải ẵm cháu đến để xin chị ra ân che chở, giúp đỡ cho cháu vì theo tục lệ và luật pháp, đứa trẻ là con chung của chị em chúng ta"
Nàng nói đúng, bà hoàng thái hậu đương nhiên có bổn phận trong nom đứa trẻ, dù không phải con ruột bà. Yehonala vẫn nghi ngại bọn thái giám sàm tấu những lời gièm pha, trí non nớt của Sakota không suy xét, sinh lòng đố kỵ. Ở trong cấm thành đầy rẫy những chuyện kéo bè, kéo đảng, ngấm ngầm định hại lẫn nhau, họ nịnh hót gièm pha bọn người có quyền thế, gieo rắc sự nghi ngờ, dựa thế vào bọn người có thể trục lợi riêng tư.
Vì con, Yehonala nhất định không muốn có chuyện xích mích với Sakota, mặc dù Sakota đối xử với nàng thế nào, nàng vẫn cố giữ tình thân thiện. Vì lẽ đó, Yehonala quyết định ẵm con đến chơi người chị họ.
Nàng đã sửa soạn từ lâu, đề phòng mọi thứ rất chu đáo cho con xuất cung, đi chơi. Nàng sai Lý Liên Anh đến mua ở tiệm kim hoàn nào khéo nhất ở ngoài phố, một chiếc dây chuyền nhỏ bằng vàng, có một chiếc chìa khóa nhỏ xíu cũng bằng vàng, để đeo vào cổ con. Nàng cũng đeo ở cổ một sợi dây chuyền, có gắn một chiếc chìa khóa nhỏ. Nàng đeo luôn trong người không bao giờ tháo ra. Chiếc khóa, chìa khóa sợi dây chuyền biểu hiện sự trói buộc thằng nhỏ phải ở trên trần thế này. Như thế cũng vẫn chưa đủ, thằng nhỏ phải làm con nuôi tượng trưng cho những gia đình, có con cháu đầy đàn ở trong các tộc phái. Nàng cảm thấy như cô đơn, không có ai là người tâm phúc. Nàng đắn đo, suy nghĩ tự vạch ra một đường lối để nương theo. Nàng chọn trong toàn quốc, một trăm gia đình quý phái, phúc đức, tặng mỗi gia đình một tấm lụa toàn tơ, mỗi gia đình cắt lại một miếng lụa nhỏ, nàng cho chắp một trăm miếng lụa nhỏ đó để may áo cho con. Chiếc áo tượng trưng cho một trăm gia đình quý phái, phúc đức gom góp lại, như thế các tà thần, ác quỷ cũng không dám hãm hại đứa trẻ. Ai cũng biết những tà thần, ác quỷ rất đố kỵ những đứa trẻ trai, đẹp đẽ, chúng gieo rắc bệnh tật hay gây tai họa sát hại. Bọn tà ma, ác quỷ sợ nếu cho lũ trẻ đó sống, sau này lớn lên sẽ là những địch thủ lợi hại của chúng.
Ba ngày trước ngày đầy tháng con, Yehonala ẵm con đến chơi chị Sakota. Nàng mặc chiếc áo vóc mới, màu hoàng triều, thêu những bông lựu nhỏ màu đỏ chói, đầu đội chiếc mũ miện bằng vóc đen có gắn hạt trai. Trước khi đánh phấn, xức dầu thơm, nàng xoa trên da mặt mỡ trừu nước. Nàng lấy ngọn bút lông, thấm vào mực kẻ đôi lông mày cong vuốt. Đôi môi nàng to son đỏ chót. Trên mười ngón tay, nàng đều đeo nhẫn, ngón tay cái đeo nhẫn ngọc thạch lớn. Những chiếc ống nhỏ như tháp bút bằng vàng cẩn ngọc được chụp lên các đầu ngón tay để bảo những móng tay dài. Hai bên tai đeo đôi bông bằng cẩm thạch và hạt trai. Đôi dày cao gót và chiếc mũ miện làm nàng cao hẳn. Nàng trang điểm xong, nom nàng tuyệt đẹp, các thể nữ trầm trồ khen ngợi.
Nàng ẵm con, thằng nhỏ mặc áo vóc màu đỏ tươi, thêu những con rồng nhỏ bằng kim tuyến. Hai mẹ con ngồi song loan đến cung bà hoàng hậu. Bọn thái giám đi trước báo tin, a hoàn, cung nữ đi theo hầu song loan. Khi đến nơi, Yehonala ở trên song loan bước xuống, đi thẳng vào cung. Trong phòng tiếp tân, nàng thấy Sakota người xanh xao, mặt mày hốc hác, vì từ khi sanh công chúa, vẫn chưa bình phục như xưa. Da dẻ bà khô đét, hai bàn tay gầy còm, nhỏ như bàn tay con nít.
Đứng trước Sakota gầy còm, ốm yếu, Yehonala người to lớn, nước da hồng hào, mạnh mẽ, tươi tốt, như một bông hoa mới nở.
Sau mấy lời chào hỏi xã giao, Yehonala nói:
- Em đến thăm chị, nhân tiện cũng nói về thằng nhỏ. Vẫn hay em sanh nó ra, nhưng bổn phận của chị đối với nó còn nặng hơn em. Em đến xin sự che chở, giúp đỡ của chị cho đứa con chung của chúng ta.
Sakota ngồi trên chiếc ghế bành, hơi nhích người nhỏm dậy, khẽ nghiêng đầu, nói giọng có vẻ buồn buồn:
- Suốt một tháng nay, em mới bước chân ra khỏi phòng, em ngồi xuống nghỉ ngơi cho khỏe.
Yehonala trả lời:
- Em chưa thể nào nghĩ được trước khi nhận lời hứa chắc chắn của chị về đứa trẻ của hai chúng ta.
Yehonala vẫn đứng yên, hai mắt hoăm hoắm nhìn thẳng vào Sakota. Hai mắt nàng đen và sáng hơn mọi lúc.
Sakota gieo mình ngồi bịch xuống ghế, lắp bắp nói:
-Nhưng... Nhưng làm saọ.. Em phải nói thế. Chị em chúng ta không phải chung một huyết thống ư? Hoàng thượng chẳng phải là chung của hai chị em mình đó sao?
- Em đến khẩn cầu chị cho con em, chứ không phải cho em. Thực ra riêng phần em, em không cần ai hết. Em chỉ muốn chắc chắn một điều, chị đứng về phía mẹ con em. Chị đừng có ý gì chống lại mẹ con em.
Cả hai người đều hiểu ngầm ý nghĩ của nhau. Yehonala muốn được lời hứa của Sakota không âm mưu khuynh đảo con nàng lên ngôi Đông cung thái tử kế vị phụ vương sau này. Sakota cố tình làm thinh vì nàng biết hiện nay một âm mưu đang manh nha nên nàng muốn tránh không hứa hẹn gì hết.
Yehonala đưa con cho a hoàn bế.
- Chị đưa tay cho em.
Nàng nắm tay Sakota, với một giọng nhẹ nhàng nhưng rất cương quyết, nàng bảo Sakota:
- Chị đoan với em không ai có thể làm ly tán, chia rẽ được hai chị em chúng mình. Số trời đã định, chúng ta phải cùng chung sống ở đây, chúng ta bao giờ cũng phải giữ tình máu huyết, phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, không bao giờ có thể là cừu địch, ám hại lẫn nhau.
Nói xong, nàng chờ Sakota trả lời. Sakota ngập ngừng không chịu trả lời khiến Yehonala nỗi lòng căm tức lên đến cực độ, hai con mắt nàng long lên, nàng nắm chặt hai bàn tay yếu đuối, mềm mại, Sakota đau quá, rơm rớm nước mắt. Yehonala chỉ nhắc lại một thói quen khi xưa lúc hai người còn nhỏ, mỗi khi Sakota hờn dỗi, bảo không nghe nàng bóp tay cho đến khi Sakota đau quá, phải khóc nàng mới thôi.
Yehonala thấy Sakota khóc, lờ như không biết, không xin lỗi; a hoàn bưng chén trà lại, nàng không uống.
Yehonala lấy lại sự bình tĩnh, nàng nói:
- Em không muốn ở lại đây lâu. Em đến để xin chị hứa cho em một điều, bao giờ em đã được lời hứa của chị. Lời hứa của chị, em giữ trọn đời em và đời con em. Em cũng xin hứa với chị như vậy.
Nàng có tính rất hách dịch, kiêu ngạo, đưa mắt nhìn khắp gian phòng, những người ngồi trong đó. Nàng ôm con đi ra, kéo lê chiếc áo thêu dài quét đất.
Chiều hôm đó, sau khi đứa trẻ đã được bú no nê, ngủ trên tay vú em, nàng cho gọi Lý Liên Anh đến. Nàng truyền cho triệu thái giám chưởng quản An Đắc Hải.
Viên chưởng quản thái giám đến, tâu:
- Tâu lệnh bà, hạ thần đang bận hầu hoàng thượng trong nội tẩm.
- Cho miễn.
Nàng ngồi bệ vệ trên chiếc ghế bành chạm như chiếc ngai, ngón tay chỉ An Đắc Hải ngồi xuống ghế, cho các thể nữ lui ra ngoài, giữ lại Lý Liên Anh và một a hoàn thân tín.
Lý Liên Anh làm như định lui ra ngoài, nàng truyền cho phép ở lại.
- Câu chuyện ta muốn nói ở đây là muốn nói với cả hai người, ta tin cẩn vào hai ngươi, coi hai ngươi như cánh tay trái, cánh tay mặt của ta.
Nàng khởi mào câu chuyện, hỏi những mưu mô của bọn người trong cấm thành, nghe bọn a hoàn thuật lại, nàng chỉ biết lõm bõm. Nàng hỏi viên thái giám:
-Những lời đồn đại có đúng không, có thật bọn chúng âm mưu, truất phế ngôi báu của con ta, một maị..
Nói đến đây nàng ngừng lại, vì nói đến hoàng thượng không ai được nói đến tiếng "Chết"
Viên chưởng quản thái giám, hai tay xoa chiếc đầu ta như cái giành, nói:
- Đúng thế ạ.
- Có gì, biết gì, cho phép mi nói.
- Tâu lệnh bà, tất cả các tộc phải có quyền thế ở đây đều nói với sức khỏe của đức kim thượng, ngài không thể nào có được một người con phốp pháp, mạnh khỏe như thế tử.
Hoàng hậu sanh công chúa ốm yếu, mấy vị thân vương đã có manh tâm làm phản, họ nói ra miệng họ sẽ cưỡng đoạt ngọc tỷ khi đức vua băng hà. Chao ôi! Triều đại này không được lâu dài, vua còn trẻ quá, hoành thái hậu lại rất nuông chiều. Lúc còn nhỏ hoàng thái hậu cho ăn nhiều chất ngọt, lại dùng nha phiến để chữa dạ dày. Năm đức vua chưa đầy 12 tuổi, bọn hoạn quan đã làm ngài hư hỏng, tập nhiễm tính dâm đãng. Năm ngài 16 tuổi tinh khí đã khô kiệt. Có thế nào kẻ hạ thần xin trình bày như vậy.
Nói đến đó, viên thái giám xòe hai bàn tay đặt trên hai gối, nói rất nhỏ, Lý Liên Anh phải cúi thấp để nghe.
Với nét mặt nghiêm nghị, đượm vẻ buồn buồn, hắn tâu:
- Tâu lệnh bà, để tránh hậu họa, phải tiên liệu biết ai là bạn, ai là thù.
Trong khi viên thái giám tâu trình, Yehonala ngồi rất bình tĩnh, nhìn thẳng viên thái giám, nét mặt thảnh nhiên không để lộ vẻ lo sợ.
- Người nào đối nghịch với ta?
- Tâu lệnh bà, trước hết phải kể tên thơ mật vụ Tải Thản.
- Tải Thản? Ta đã triệu dụng con y vào hàng thể nữ.
- Tâu lệnh bà lại còn người cháu của hoàng thượng Đoan Hoa và thân vương Túc Thuận. Tâu lệnh bà, ba người này là những cừu địch lợi hại nhất từ khi lệnh bà sanh hạ thái tử.
Nàng gật đầu, nàng không ngờ, không tưởng đến sự nguy hiểm đó. Một mình nàng phải đối phó với những thân vương. Anh em họ hàng ruột thịt với hoàng thượng. Nàng ngửng cao đầu hỏi:
- Thế những người nào là bạn của ta?
Viê chưởng quản thái giám đằng hắng ho.
- Tâu lệnh bà, trước hết phải kể Cung thân vương dịch Hoàng Tế, hoàng đệ của thiên tử.
Nàng nghĩ: "Thật chăng, hắn là bạn ta, đứng về phía ta. Nếu thế một mình hắn còn hơn bao nhiêu kẻ khác". Nàng con trẻ, thấy hơi có chút hy vọng, mừng lắm hai má ửng hồng.
An Đắc Hải nói:
- Tâu lệnh bà, Cung thân vương Dịch Tế có nói chuyện với một người bạn trong tộc phái, người đó có nói lại cho hạ thần biết, Cung thân vương nhận xét tướng mạo và khiếu thông minh tuyệt luân của lệnh bà, một là lệnh bà sẽ đem lại sự cường thịnh hai là sự sụp đổ hoàn toàn của triều đại.
Yehonala lắng tai nghe viên thái giám tâu trình, nàng cân nhấnc từng lời nói, ngồi yên suy nghĩ hồi lâu. Nàng thở dài rất não ruột nói:
- Nếu ta đem lại sự cường thịnh cho quốc gia, điều cần nhất phải có vũ khí.
- Tâu lệnh bà, đúng vậy.
- Có bùng binh, tướng giỏi, có vũ khí đầy đủ, dẹp được bọn ngoại xâm, nội biến mới đem lại sự phú cường, trăm họ an vui.
- Tâu lệnh bà đúng vậy.
Thôi cho người cáo lui, liệu trình với hoàng thượng, thái tử bị người ta hãm hại. Nhà ngươi tâu lên hoàng thượng một mình ta có thể bảo vệ được thế tử. Hoàng thượng cất nhắc ta lên một địa vị ngang hàng với hoàng hậu để chặn đứng những mưu toan có thể hại thế tử hay những âm mưu phản loạn, chiếm đoạt ngôi chí tôn.
Viên chưởng quản thái giám rất thán phục những kế hoạch khôn ngoan thần diệu đó. Lý Liên Anh múm mím cười, bẻ khục tay tỏ vẻ khâm phục.
- Tâu lệnh bà, hạ thần cố thuyết phục đức vua để ra ân tưởng thưởng lệnh bà. Ngoài nhân ngày đầu tháng thế tử, có lẻ không có ngày nào hợp hơn ngày đó để sắc phong lệnh bà.
Yehonala gật đầu nói:
- Hôm lễ đầy tháng thế tử rất hợp.
Nàng để ý nhìn hai con mắt sâu hắm, dưới cái trán của tên thái giám. Một nụ cười chớm nở trên vành môi, hai con mắt to đen lánh, long lanh sáng ngời lộ vẻ khôn ngoan, tinh quái.
Vào đêm trăng tròn, thế tử đã được một tháng. Bao nhiêu lo ngại tai biến có thể xảy ra, trong một tháng trời, nay đã được qua. Những bệnh các trẻ sơ sinh thường bị mắc phải như đi tướt, ọc sữa, ho, nóng sốt... Hôm đầy tháng, thế tử được mạnh khỏe, người phốp pháp, lúc nào cũng hau háu đòi ăn, ngày đêm người vú phải túc trực, sẵn sàng cho bú. Người vú này, Yehonala đã tự lựa chọn lấy, một người đàn bà trẻ, nhà quê, người tàu, đẻ con so, sữa người đó rất hợp để nuôi thái tử. Nàng không cần đến các ngự y để coi sức khỏe của người vú, nàng tự xem xét lấy, nếm sữa của người đó, xem có chua không, ngửi hơi thở để xem trong người có bệnh tật gì không? Nàng chăm nom người vú, cho ăn uống ngon lành, đầy đủ. Thế tử lớn như thổi, khỏe mạnh, thịt rắn chắc như con một người đi cày.
Ngày đầu tháng thái tử là một ngày khánh lễ, thiên tử xuống chiếu cho toàn dân trong nước liên hoan, mở các hội hè. Trong cấm thành, tiệc tùng ăn uống, du hí suốt ngày. Nhà vua sai thái giám đến hỏi nàng, trong các cuộc du hí, nàng thích nhất thứ gì?
Nàng bảo An Đắc Hải để tâu lên đức vua:
- Ý ta muốn được coi một vỡ tuồng. Từ khi ta vào trong này, chưa được coi tuồng lần nào. Cố hoàng thái hậu ghét bọn đào kép. Hồi còn thái hậu, ta chưa lần nào ngỏ ý đó rồi tiếp theo sau những tháng ngày có tang chế, các cuộc du hí bị cấm chỉ. Bây giờ thiên tử ra ân cho ta được mãn nguyện sở thích đó.
Nhìn khuôn mặt nàng hồng hào, có vẻ ngây thơ, hai con mắt tuyệt đẹp, An Đắc Hải nghe nàng nói chỉ mỉm cười.
- Tâu lệnh bà, chắc chắn thiên tử bây giờ không từ chối ý thích của lệnh bà.
Hắn nheo mắt, đầu gật gù, ý muốn ngầm bảo, nàng còn được thưởng một cái gì quan trọng gấp vạn lần một vở tuồng. Hắn vội vàng cáo lui để đệ trình lên đức vua ý nguyện đó.
Ngày hôm mở hội ăn mừng đầy tháng thế tử, tất cả sở nguyện, ước mong lớn nhỏ nàng đều toại nguyện. Hoàng thượng chọn đại điện quang huy làm nơi hành lễ và triết trào.
Mới khoảng đầu giờ tý, các triều thần, quan lại ở bốn phương trong nước đã tề tựu ở đại điện, các thái giám tấp nập, đi đi lại lại lo việc đèn đóm. Những chiếc đén lồng lớn treo ở rầm trên trần sơn son thiếp vàng, chạm trổ những rồng năm móng. Ánh đèn lung linh làm nổi bật những phẩm phục, xiêm y thêu kim tuyến, những đồ châu báu, kim cương, bạch ngọc, gắn ở ngai rồng. Trong muôn màu, nghìn tía, màu đỏ sẫm xen lẫn với màu hồng, màu lục... Vàng, bạc ngọc ngà chiếu lên muôn màu sắc.
Mọi người tề tựu đông đủ, túc trực, chờ thiên tử lâm trào. Vào giờ dần, ngọc giá xuất hiện, cờ tiết mao, phủ việt đi đầu, lính ngự lâm quân, quần áo nỉ đỏ. Đi đầu là các thân vương, tiếp theo các thái giám, cứ hai người một đi rất chậm, mặc áo màu hồng, thắt lưng mạ vàng. Ở giữa mười hai người khênh chiếc ngọc liễn, sơn vàng, hoàng thượng ngự ở trong. Tất cả mọi người hiện diện phủ nhục, đều rập trán xuống đất, tung hô:
- Vạn tuế... Vạn tuế...
Hoàng thượng bước xuống kiệu, tay mặt vịn vào hoàng tùng đệ, tay trái vịn vào viên cơ mật đại thần Tải Thản. Hoàng thượng bước lên ngồi an tọa trên ngai rồng.
Ông vua ngồi rất uy nghi trên ngai, hai bàn tay xòe đặt trên hai đầu gối. Ngài tiếp trước nhất cá thân vương. Bọn thái giám đem các cống phẩm của các thân vương, đình thần để mừng ngày đầu tháng thái tử. Những đồ cống hiến bày trên những chiếc mâm lớn bằng bạc có người khênh. Một thân vương đọc to bản danh sách những món đồ cống hiến của mình.
Sau lưng ngai rồng có kê một chiếc bình phong bằng gỗ thưa, chạm trổ, sơn son thiếp vàng, những con rồng ngũ trảo; Tấm bình phong đó che khuất Yehonala, hoàng thượng và các thể nữ tiếp tùng. Khi tiếp nhận xong các tặng phẩm, đức vua truyền cho vời Yehonala đến bái yết và để nhận món tặng phẩm riêng của nàng. Viên chưởng quản thái giám đến trước mặt nàng để chuyển đạt lời triệu thỉnh và hướng dẫn nàng đến trước bệ rồng.
Nàng đứng bình thân, người cao lớn, uy nghi, đầu ngửng cao, mắt nhìn thẳng, đứng một lúc rồi thủng thẳng quỳ xuống, đặt hai bàn tay xuống nền gạch, cúi đầu.
Hoàng thượng cất tiếng nói:
- Hôm nay, nhân ngày khánh hỉ của thái tử, trẫm tuyên phong mẫu thân của thái tử lên ngôi Tây cung thái hậu, tước vị và quyền hành ngang với hoàng hậu. Để khỏi có sự ngộ nhận, hoàng hậu được tuyên phong Từ An Đông cung thái hậu; Mẫu thân thái tử được tuyên phong Từ Hy Tây cung thái hậu. Đó là quyết định của trẫm. Quyết định này được ban bố trên toàn quốc, thần dân được thông báo.
Nghe mấy lời châu ngọc của vua phán, Yehonala sung sướng qua, nở nang mày mặt. Bây giờ, ai có thể ám hại được nàng? Nàng đã được chính thức sắc phong trước mặt văn võ bá quan, hoàng thân quốc thích. Ba lần rồi ba lần nữa, nàng rập trán xuống hai bàn tay đặt trên nền gạch, trước ngai vàng, bệ ngọc. Nàng đứng dậy, chờ thái giám đưa cánh tay, nàng vịn trở về hậu trường. Khi đã ngồi xuống ghế, nàng liếc mắt nhìn Sakota, Sakota không nói một lời nào với nàng.
Trong khi đức vua giáng chỉ phong tước, tất cả đình thần, văn võ bá quan, hoàng thân quốc thích đứng yên, trong điện phẳng lặng, chỉ có tiếng vua ban xuống.
Kể từ ngày hôm đó, Yehonala lên ngôi Tây cung thái hậu.
Chiều hôm đó, Từ Hy thái hậu được vua vời đến... Đã ba tháng nay, hai tháng trước ngày sinh thái tử, một tháng sau ngày sinh, nàng chưa được vua cho vời đến. Nàng rất sung sướng nhận thấy được vua sủng ái, không những đã sinh được hoàng nam mà cũng vì chính nàng. Nàng biết rõ trong ba tháng vắng bóng nàng ở long sàng, vua đã cho vời hết cung tần này đến cung tần khác, người nào cũng muốn được vua sủng ái mà bỏ quên nàng.
Chiều nay, nàng không biết bọn cung tần được triệu vào hầu có cảm hóa được lòng vua không?
Nàng vội vàng sửa soạn, theo viên thái giám đến đó, đứng chờ ở trước cửa cung.
Xa vắng con, nàng thấy rất khổ tâm; Giường của thằng nhỏ kê sát giường nàng. Gian phòng được xây cất trước khi sanh hạ thằng nhỏ, nàng thấy khó chịu phải nằm xa giường con. Dù cho một đêm, nhất là đêm đó, nàng phải ngủ xa con. Nàng sửa soạn phấn sáp xong, đeo đồ nữ trang, sức dầu thơm, mặc chiếc áo hồng. Trước khi đi, nàng đứng nhìn coi, đức trẻ trai kháu khỉnh, bụ sữa, đang ngủ say trên chiếc đệm lụa. Hai người đàn bà ngồi túc trực bên giường thằng nhỏ, người vú em và một a hoàn. Trước khi ra đi, nàng ân cần dặn bảo hai người:
- Trong khi vắng tôi, tôi tuyệt đối cấm hai người bỏ đi dù chỉ trong giây lát. Đến tảng sáng, khi tôi trở về thấy thằng nhỏ đau ốm, làm sao hay khóc lóc, hai người sẽ mất đầu với tôi. Hai người nghe hiểu chưa.
Hai mụ đàn bà thấy thái độ hung dữ của cô chủ, hết sức kinh dị. Người vú em sợ thất thần, a hoàn thấy lạ quá bình nhật cô chủ rất hiền hòa, sao hôm nay cô dữ thế? Mụ này nói nhỏ với người vú em:
- Từ khi cô này sanh được đức con trai, cô ta có vẻ lên mặt, tính hung dữ như con cọp cái. Người vú em thưa với cô chủ:
- Xin lệnh bà an tâm chúng con xin hết lòng trông nom thái tử, không giám một giây phút sao lãng. Muốn được chắc chắn, Từ Hy bảo Lý Liên Anh:
- Nhà ngươi phải ngồi thức ở cửa phòng suốt đêm nay. Nhà ngươi phải tỉnh táo, không để cho một người nào được phép ngủ say. Người vú em thưa:
- Chúng con xin cam đoan theo đúng lời chỉ dạy của lệnh bà.
Từ Hy dùng dằng mãi chưa thễ dứt ra đi, nàng cúi xuống nhìn con, da dẻ hồng hào, hai má phinh phính, đôi môi dày hai con mắt to, hai tai to, co thành quách, tướng mạo rất đẹp, thông minh, đĩnh ngộ. Thằng nhỏ nhờ ai được đẹp đẽ, tuấn tú. Nếu nó giông mẹ nó, nó không được hoàn toàn như thế. Giống cha nó ư? ... Nàng nghĩ đến đó, ngừng ngay lạị.. Nàng nắm bàn tay thằng nhỏ, duỗi mấy ngón tay nó, khi ngủ, mấy ngón tay quặp lại, nàng đưa lên mũi ngửi lấy lòng bàn tay con, dáng điệu của mấy người mẹ nựng nịu con. Ôi! Hiện nay nàng có cả một kho tàng quý báu.
- Tâu lệnh bà...
Tiếng nói An Đắc Hải đứng ở ngoài cửa, hắn thấy lâu, nóng ruột, giục. Bây giờ nàng đã biết hai người thái giám này thuộc phe nàng trong những đợt sóng ngầm ở trong hoàng thành, nên đối với hắn nàng rất mềm mỏng, nương nhẹ.
Nàng dừng lại một chút ở trước bàn đánh phấn, chọn hai món quà, một chiếc nhẫn vàng và một chiếc vòng cẩn hạt trai để cho con a hoàn và người vú em, tưởng thưởng sự trông nom, săn sóc cho con nàng. Nàng vội vàng đi ra, cho Lý Liên Anh đứng ở ngoài cửa một đồng tiền vàng, không nói một câu nào. Nàng đi với An Đắc Hải, Lý Liên Anh ở lại để bảo vệ thái tử.
Nàng cũng đem theo vàng để cho viên chưởng quản thái giám. Nàng chưa cho vội, còn xem thái độ hoàng thượng đối tiếp đãi nàng thế nào. Nếu mọi việc được tốt đẹp, nàng sẽ có thưởng cho tên thái giám. Người thái giám cũng hiểu ý đó. Nàng đi qua những hành lang nhỏ hẹp, bây giờ đã trở nên quen thuộc.
Ông vua nói:
- Đến gần đây, cạnh trẫm.
Đến phòng ông vua, nàng đứng ở ngưỡng cửa để hoàng thượng có dịp ngắm nghía, thưởng thức sắc đẹp, diễm lệ, cường tráng của nàng. Nàng thủng thẳng tiến lại gần vua với một dáng điệu thướt tha, yểu điệu như để khêu gợi. Thực ra trong lòng nàng không có một chút gì sợ sệt, tôn kính, nàng đã biết rõ chân tướng ông vua, nhưng bề ngoài nàng làm ra vẻ như bẽn lẽn, rụt rè. Đó là một lợi khí sắc bén của nàng để chinh phục tâm hồn người đàn ông, tâm trí bạc nhược như ông vua này. Không ai có thể bảo nàng là gian ngoan, quỷ quyệt.
Khi nàng đến bên long sàng, một chiếc giươnh rất lớn, rộng như cả một gian phòng, xung quanh có căng rèm bằng vóc vàng, tua bằng vàng. Đến gần nhìn rõ mặt ông vua, đột nhiên nàng thấy xúc động, nghĩ thương hại cho con người đang chờ nàng, như một tên tử tội, tữ thần sắp đón đi. Ông vua tuy còn ít tuổi, song như sức đã tàn, lực đã kiệt, cơ thể bị suy nhược trước tuổi.
Nàng vội vàng rảo bước lại gần, hốt hoảng, nói:
- Hoàng thuợng đau hả? Sao thần thiếp không nghe thấy ai nói?
Dưới ánh sáng của mấy cây bạch lạp cắm trên giá đèn. Ông vua nom tiều tụy quá, nước da vàng như nghệ, người gầy đét, trơ xương, nói thật nom như một xương người, ngồi tựa trên mấy chiếc gói bọc vóc vàng. Hai bàn tay mở rộng, lạnh ngắt như không còn cử động được đặt trên chiếc gối. Nàng ngồi ở mép giường, ủ hai bàn tay lạnh ngắt vào trong lòng bàn tay nóng ran và mạnh mẽ của nàng.
Nàng có vẻ lo lắng, hỏi:
- Hoàng thượng có mệt lắm không? - Trẫm không đau nhưng thấy người yếu quá.
Nàng lại gặng hỏi:
Thế bàn tay này?
Nàng nhấc bàn tay trái của vua, nói:
- Bàn tay này, thiếp thấy lạnh và cứng hơn bàn tay mặt?
Ông vua có vẻ luyến tiếc, buồn buồn:
Trẫm không thể sử dụng bàn tay đó như lúc trước.
Nàng kéo ống tay áo của vua lên, nom thấy cẳng tay trơ xương, như cái que, da vàng nghệch như ngà voi lên nước, chiếc áo vóc phủ kín.
Nàng nói giọng như rên rỉ:
- Tình trạng hoàng thượng như thế này, lạ quá, thần thiếp không nghe thấy ai nói.
Có gì đâu. Nửa người phía trái, máu không chảy đều, nên phát lãnh.
Ông kéo nàng lại sát người.
- Lại đây em, lên giường không một cung tần nào làm cho ta được thỏa mãn. Chỉ có quý phi, một mình quý phi, ta được vừa ý.
Nàng thấy ngọn lửa tình của ông bốc lên ngùn ngụt ở hai con mắt sâu hoắm, nàng vội vàng cởi áo, trèo lên giường để chiều theo ý muốn. Cuộc truy hoan kéo dài cho đến nửa đêm, nàng cảm thấy lòng buồn quá.
Một nước rộng lớn, bao la, dân số đông đảo, đặt dưới quyền trị vì của một người đàn ông ốm yếu, tinh thần bạc nhược, dâm dục quá độ?
Một nửa người đã bạc xuội, phát lạnh, tử thần kè kè bên cạnh không còn đủ sức, một người đàn ông bất lực như một tên hoạn quan, cố gắng hết sức không sao thỏa mãn được tình dục.
Đã nhiều lần ông như van lơn bảo nàng:
- Giúp trẫm... Giúp trẫm... Quý phị.. Quý phị.. Nếu không thể thỏa mãn lòng dục vọng khao khát, trẫm có thể chết. Nhưng làm sao nàng có thể giúp được. Ông bất lực như bị liệt dương, tạng phủ suy nhược quá, tuy lòng rất ham muốn, nhưng không thể nào được. Nàng biết không có cách gì giúp ông được, nàng dỏm dậy ngồi ở mép giường. Nàng ôm ông vào hai cánh tay như ôm một đứa trẻ nít, ông gục đầu vào ngực nàng, nức nở khóc, luyến tiếc từ nay không còn được hưởng cuộc hành lạc, cái thú vui duy nhất của ông không còn nữa.
Tuy tuổi ông còn rất trẻ, chưa đầy 30. ông đã như người già, vì dâm dục quá độ. Bọn hạng quan làm ông hư hỏng, chơi bời từ lúc tuổi còn non nớt. Các ngự y trong triều chỉ cho thuốc trợ lực, với một cơ thể bị tàn phá như thế, thần y, thánh dược cũng phải chịu không có cách gì lấy lại nguyên khí, chỉ chờ tử thần đến đón đi.
Biết chắc chắn sự thể, nàng ôm ông nép vào ngực nàng, tìm lời dịu dàng dỗ dành, an ủi, xoa dịu phần nào nỗi buồn bực của ông. Với sự khôn khéo của nàng, nàng đã chế phục được ông.
- Hoàng thượng trong người mỏi mệt, vì tư lự nhiều quá. Thần thiếp biết bọn sài lang Tây phương đe dọa hải phận nước ta, chiến thuyền, binh đội, vũ khí ùn ùn kéo đến các hải khẩu nước ta. Tuy thiếp là một tiện nữ song cũng biết chúa thượng ưu phiền, làm hao tổn sinh lực. Trong khi thiếp mang nặng đẻ đau, chúa thượng ưu phiền lo lắng, công việc nội trị, ngoại giao, giang sơn xã tắc như một trái núi đè trên hai vai. Xin chúa thượng cho phép thần thiếp được góp sức một phần nào vào công việc ở chốn triều trung. Như vậy, gánh nặng ưu tư của chúa thượng san sẻ được phần nào. Chúa thượng cho phép thần thiếp được ngồi sau tấm bình phong những buổi thiết triều, để được dự thính bá quan tâu trình sớ điệp. Thần thiếp sẽ nghiên cứu những lời tâu trình, phân tách, phán đoán những ẩn ý, thần thiếp sẽ phúc trình lên chúa thượng với lời đề nghị, còn sự phán quyết tối hậu ở quyền tối thượng.
Nàng dụng tâm nói như vậy để đánh lạc hướng những ý nghĩ tà khúc, dâm ô của người đàn ông đang chìm đắm trong nhục dục. Nàng khéo lái những chuyện tình dục sang vấn đề quốc gia đại sự, những sự lo âu về nạn ngoại xâm, tăng cường, củng cố ngai vàng, nay đã có thái tử sau này lên kế vị. Nàng cũng biết nếu ông vua biết suy nghĩ, lo lắng công việc trong nước, trong lúc rối ren không phải là nhỏ, như cả một trái núi đè trên vai. Nghe nàng nói, ông thở dài rất não ruột, ông ngồi tựa lưng vào mấy cánh gối xếp. Ông nắm hai bàn tay nàng, như để tâm sự, giao phó trọng trách.
- Lòng ưu tư của trẫm thật vô bờ bến. Dưới triều các tiên đế, quân thù ở phương Bắc kéo đến, nhờ có dãy vạn lý trường thành ngăn chặn được binh mã của chúng. Ngày nay trường thành không còn tác dụng nữa. Bọn người bạch chủng kéo đến đây như thác lũ, Pháp, Hòa Lan, Đức, Bỉ... Họ đến nước ta bằng đường biển. Không hiểu trên kia dãy trường sơn Kun Lun, lớn nhỏ có bao nhiêu bang trấn. Họ gây sự binh đao với nước ta để bán nha phiến, lòng tham của họ vô đáy, thế nào họ cũng không vừa ý, thỏa mãn. Bây giờ người Mỹ cũng theo chân họ đến đây. Bọn sau này ở đâu đến? Nước Mỹ ở đâu? Bọn người này xem ra còn biết điều hơn bọn kia. Nhưng nếu trẫm chấp thuận cho bọn người Tây phương ít nhiều quyền lợi, bọn người Mỹ cũng sẽ yêu sách phải được như thế. Năm nay họ đòi triều đình tái lập thỏa ước đã ký kết với họ. Trẫm không hứa hẹn, ký kết gì với quân bạch chủng.
Từ Hy nghe nói, tức lắm:
- Như vậy, chúa thượng không nên cho tái lập, ký kết gì hết. Làm sao chúa thượng lại phải làm trái với ý nghĩ của mình? Chúa thượng hạ lệnh cho phe đình thân phải thoái thác, không nhận một điều gì.
Ông vua nói giọng yếu ớt, buồn thảm:
- Vũ khí của quân bạch chủng kinh khủng lắm.
Từ Hy cau mặt trả lời:
- Mình khất quanh, tìm cớ hoãn binh. Hoàng thượng lờ không trả lời họ, không tiếp sứ thần của họ. Như thế mình tranh thủ thời gian để họ vẫn nuôi hy vọng tái lập lại những điều ước, như thế họ không có lý do gì để tấn công mình. Mình nên có thái độ lững lờ không thật là có mà cũng không thật là không.
Ông vua nghe nói rất cảm phục, thấy nàng rất thông minh, lanh lợi, mưu trí, ông thốt lên nói:
- Quý phi thật khôn ngoan, trong triều không ai có tài trí như thế kể cả hoàng đệ Cung thân vương của trẫm. Hoàng đệ thường thúc trẫm tiếp kiến bọn người bạch chủng và lập những thỏa ước mới với họ. Phải rồi, hắn định làm cho trẫm sợ, hắn nói bọn người đó có chiến thuyền lớn, những khẩu đại bác nòng dài bắn đi rất xa. Theo như ý hắn nói, mình nên thương lượng điều đình.
Từ Hy mỉm cười:
- Chúa thượng không nên quan tâm dù những lời đó là của Cung thân vương. Ở đây cách xa biển, có đại bác nào bắn tới hoàng thành. Nàng tin tưởng vào lời nàng nói, còn ông vua nghe người đẹp nói, ông vững lòng, tin lắm. Một lúc sau ông ngủ. Nàng ngồi cạnh ông cho đến gà gáy sáng. Đến bảy giờ, viên chưởng quản thái giám vào đánh thức vua dậy để ra ngự triều, đình thần đã tề tựu đông đủ. Khi người thái giám bước vào, Từ Hy ngồi nhỏm dậy, truyền lệnh, trước khi vua thức dậy:
- Kể từ ngày hôm nay ta sẽ dự trào, ta ngồi sau tấm bình phong sau ngai rồng. Đó là ý muốn của thiên tử.
An Đắc Hải cúi rập trán xuống nền gạch:
- Tâu lệnh bà, hạ thần rất hân hoan tuân chỉ.
Từ ngày hôm đó, sáng nào Từ Hy cũng dậy từ tờ mờ sáng. Dưới ánh sáng của những cây bạch lạp, bọn a hoàn tắm rửa nàng, chọn những chiếc áo lộng lẫy nhất, nàng ngồi kiệu song loan đến điện Thái Hòa, nơi thiết triều, Lý Liên Anh xách đèn lồng đi trước. Trong lúc thiết triều, Từ Hy ngồi sau bức bình phong, Lý Liên Anh vác thương đứng ở ngoài để bảo vệ nàng.
Cũng ngày hôm đó thái tử đến ở một cung riêng biệt. Viên chưởng quản thái giám được chỉ định trông nom, săn sóc. Cung thân vương được giao trọng trách về vấn đề an ninh.
Năm đó, trời rét sớm, đã nhiều tuần nay, trời không mưa, tuy đang độ giữa thu, những ngọn gió tây bắc thổi tới buốt lạnh, đem theo cát ở những vùang sa mạc xa xôi. Kinh thành như bị cơn mưa cát, chỗ nào cũng đầy cát, cát lọt vào nhà qua các khe hở. Duy có những mái cung điện trong cấm thành, những viên ngói bằng sứ, trơn tuột, cát không bám vào được, nên mái vẫn sóng sánh đưới ánh nắng.
Đến trưa, trời hơi ấm áp, những người già cả, mặc áo bông ra ngồi chơi ngoài cửa ở những nơi kín gió, con nít chạy nhảy nô đùa ở ngoài đường phố.
Về chiều, trời rét ngọn, già trẻ, lớn bé, chân tay bị cóng, máu trong người như đông lại. Từ nửa đêm đến sáng rét càng dữ. Trong khoảng thời gian đó, bọn hành khất ngoài đường phố không đủ quần áo ấm, phải chạy nhảy từ nửa đêm đến sáng cho trong người tăng nhiệt độ. Những loài muông thú, rét quá cũng không ngủ được.
Vào một hôm, hội đồng Khâm thiên giám báo tiết đại hàn; hôm đó Từ Hy dậy thật sớm để đi dự trào. Người a hoàn nằm trên một chiếc giường gần nàng. Khi nghe ở chòi canh đánh ba tiếng chiêng đồng, người a hoàn dậy, cho thêm than vào lò sưởi, nấu nước, khi nước sôi, a hoàn chế vào chiếc ấm đất có sợi bằng bạc, đến vén diềm màn ở giường Từ Hy khẽ đặt tay vào vai nàng. Mới khẽ đặt tay, Từ Hy đã thức giấc, nàng ngủ nhưng không say nên chỉ chạm sẽ vào người nàng đã dậy. Nàng mở mắt ngồi trên giường.
A hoàn rót một tách nước, hai tay bưng đến, nàng uống từng ngụm rất nhỏ, rất thong thả. Trong phòng tắm, chiếc bồn sứ, đầy nước nóng, bốc hơi.
Từ Hy xuống giường, dáng hiệu rất thanh nhã, mềm mại. Vài phút sau nàng ở trong phòng tắm. Tắm xong, a hoàn lấy thứ áo riêng để nàng mặc ra ngự trào. Chiếc áo bằng lụa ướp bông thơm, áo dài màu hồng lót lông thú, gài khuy đến cổ, ngoài mặc phủ chiếc áo sa, màu vàng thêu những bông phượng tròn. Nàng đi bí tất cả cao lụa trắng, chân mang giày kiểu Mãn Châu, hai gót cao đóng ở giữa đế... Khi chải tóc xong a hoàn đội lên đầu nàng chiếc mũ miện có gắn ngọc quý, những bông hoa nhỏ bằng vóc, những chiếc hạt trai cắm vào những chiếc que nhỏ bằng kim khí.
Cả hai người đàn bà, Từ Hy và a hoàn, lặng lẽ, không ai nói với ai một câu nào, người a hoàn dậy sớm, mỏi mệt, Từ Hy trong óc theo đuổi những ý nghĩ không được vui, tình thế trong nước mỗi ngày một khẩn trương. Nàng nhờ, chiều hôm qua Cung thân vương có nói với nàng:
"Trong bất cứ một quốc gia nào, người dân không cần biết ai cầm quyền cai trị mình,miễn là được sống, làm ăn yên ổn, có an ninh, thỉnh thoảng được du hí, đi coi hát, coi tuồng. Nếu trong nước hổn loạn, giặc giã, cướp bóc, không có an ninh, trật tự, họ đổ lỗi cho người cầm quyền. Thật bất hạnh cho chúng ta đang ở trong tình trạng đó. Nghĩ thật đáng buồn, vương huynh ta lại quá yếu đuối, ươn hèn. Ngày nay cả người bạch chủng và người Hán khinh thường ngai vàng, không còn thể thống gì nữa.
Từ Hy nói:
- Nếu không có quân ngoại lai bạch chủng ở ngoài biển vào đây, ta có thể vặn cổ bọn phiến loạn người Hán.
Cung thân vương nét mặt buồn buồn, nói:
- Đúng thế, nhưng biết làm sao bây giờ. Quân bạch chủng hiện đã xâm nhập vào trong nước mình. Triều đại mình phải chịu trách nhiệm.
Cách đây một thế kỷ, quân bạch chủng đã đến đây, ông cha mình mải mê thích thú những đồ đạc của họ đem đến cống hiến, nào là những đồ chơi tinh xảo, đồng hồ... Tưởng rằng họ đến đây du lịch, ở chơi ít lâu rồi họ nhổ thuyền đi, ngờ đâu một đứa đến được, thì chúng kéo đến hàng trăm, hàng ngàn, bám chặt lấy đất đai của mình, ở lỳ không chịu đi.
Thật cũng lạ tiên đế Càn Long, rất hùng mạnh, khôn ngoan, một triều đại rất dài cũng không thấu hiểu bản chất, dã tâm của người Tây phương.
Cung thân vương buồn bã, lắc đầu, nói tiếp:
- Có lẽ cũng do tiên đế Càn Long vì lòng hiếu khách, muốn giao hảo với bọn nước ngoài, nhưng bọn ngoại lai nói ngon ngọt, gạt gẫm, tiên đế không ngờ tưởng bọn người đó chính là quân thù của nước ta. Ngài vẫn thường tự ví ngài như người Mỹ Georges Washington, đồng thời với ngài và thường đùa gọi là bào đệ tuy chẳng quen biết hắn bao giờ.
Đó là tóm tắt câu chuyện giữa Cung thân vương và Từ Hy. Ông hoàng dạy Từ Hy học về môn lịch sử, thật là vất vả, khó nhọc.
Nàng ngồi nghe ông hoàng này nói, nhìn khuôn mặt đượm vẽ buồn buồn, mệt mỏi tuy còn rất trẻ. Nàng thầm so sánh người này với ông vua, diện mạo học lực gấp thập phần ông anh làm vua, một người ốm yếu cả về thể chất lẫn tinh thần.
Người a hoàn trình:
- Tâu lệnh bà sửa soạn xong rồi, xin lệnh bà dùng chút gì điểm tâm hay lệnh bà dùng một chén kê nóng nhé.
- Để khi về ta sẽ ăn. Ta cần để bao tử rỗng cho đầu óc được sáng suốt, minh mẫn.
Nàng đứng dậy, thủng thẳng tiến ra phía cửa, đầu ngửng cao. Đáng lẽ có các thể nữ tháp tùng, nàng chỉ tỏ vẻ nghiêm khắc khi nào cần, lúc thường đối với mọi người nàng rất nhã nhặn, ôn hòa, trời hãy còn sớm, nàng để yên cho mọi người ngủ không cho đánh thức dậy. Một a hoàn đi theo hầu là đủ, Lý Liên Anh túc trực ở cửa cung. Tuy nàng để cho mọi người ngủ không đánh thức dậy sớm song thường khi nàng dậy tất cả thể nữ cũng dậu theo, trong đó có Mai một thiếu nữ trẻ, con gái Tải Thản cơ mật viên đại thần.
Sáng hôm đó Mai đã đứng chờ nàng ở cửa. Trời rét buốt, người thiếu nữ da tím bầm, song dáng điệu rất óng ả, mơn mởn như một bông hoa hàm tiếu. Mai chưa đầy 18 tuổi, thân hình cân đối, nhỏ nhắn, tính nết dễ thương. Nàng được Từ Hy yêu mến mặc dầu cha nàng là một địch thủ tử thù, bất cộng đới thiên của Từ Hy. Từ Hy có tâm hồn cao thượng, công minh, chính trực, nên không bắt người con gái đó phải liên đới chịu trách nhiệm vào công việc của người cha.
Nom thấy Mai, Từ Hy mỉm cười, hỏi:
- Con dậy làm chi mà sớm quá?
- Tâu lệnh bà, con rét quá không sao ngủ được.
Từ Hy cười, nói:
- Để ta kiếm cho mi một người chồng, nó ủ cho ấm.
Từ Hy nói đùa câu đó, nàng không hiểu làm sao lại nói thế, nhưng khi tai nàng nghe lời nàng nói, nàng đoán có lẽ do ở bản tính. Ở trong nội thành, bọn đàn bà, ăn không ngồi rồi, xầm xì nhiều chuyện. Từ hôm lễ ăn mừng đầy tháng thế tử, những lời phao đồn truyền khẩu cho nhau, người ta xì xầm nói thiếu nữ Mai phải lòng Nhung Lữ, người quản ngự lâm quân, khi nào gặp chàng, Mai thường đưa mắt tống tình. Nhung Lữ có họ hàng, bà con với Từ Hy thái hậu, Từ Hy nghe lời đồn đãi, xầm xì đó, nàng lúc nào cũng để ý tất cả mọi việc lớn nhỏ, không có việc gì qua mắt được nàng.
Người thiếu nữ nghe bà thái hậu nói, mặt nàng bừng đỏ, trả lời:
- Tâu lệnh bà, con không muốn lấy chồnf, con chỉ muốn được gần gũi, hầu hạ lệnh bà.
- Làm sao lại không muốn lấy chồng? Ai cấm đoán việc đó mà được hay không được?
Sắc diện Mai lúc đó tái nhợt rồi lại ửng hồng. Nhắc nhở chuyện nàng đi lấy chồng là cả một sự tai hại cho nàng. Nếu thái hậu ra lệnh bắt nàng phải lấy chồng, nàng phải tuân lệnh, song trong lòng khổ sở vô cùng.
Thân hình thô kệch Lý Liên Anh, tay cầm chiếc đèn lồng xuất hiện, đứng thập thò ở cửa. Với một giọng nhỏ nhẹ yếu ớt, như thiếu sinh khí của một tên hoạn quan, hắn nói:
- Tâu lệnh bà đã trễ rồi ạ.
Từ Hy như sực nhớ ra.
- Ừ nhỉ, dù sao ta cũng phải đến coi qua thái tử đã.
Nàng có lệnh, sáng nào cũng phải đến chơi, thăm qua con trước khi đi dự trào. Nàng bước lên chiếc song loan rộng lớn, rèm buông kín, sáu người phu nhấc những chiếc đòn tre lên vai, nhịp nhành tiến về cung thái tử.
Song loan đến trước cửa cung thái tử, bọn thái giám đứng dàn chào, kính cẩn nghiêng đầu. Những cây nến lớn đỏ làm bằng mỡ bò gắn trên giá đèn bằng vàng, chiếu sáng gian phòng vương giả. Người mẹ âu yếm nhìn đứa con ngủ, nép vào người vú nuôi. Đêm đứa trẻ thức giấc, khóc, nhưng vú nuôi nằm cạnh cho bú liền nên lại ngủ. Từ Hy nhìn con, đột nhiên nàng thấy trong lòng rạo rực, nhớ nhà, nhớ họ hàng cha mẹ...
Đáng lý, nàng phải tự trông nom, săn sóc con, đêm con thức dậy, nàng phải nghe thấy tiếng con khóc, nàng phải cho con bú, phải nằm bên cạnh con. Nàng đã tự chọn con đường đời, không suy nghĩ trước, bây giờ phải theo đường lối như vậy.
Nàng tự trấn tĩnh, xua đuổi những ý nghĩ đó. Số phận đã an bài, suy nghĩ cũng vô ích. Nàng không những là mẹ của một đứa trẻ bình thường mà là mẹ của một Đông cung thái tử, một ông vua tương lai. Nàng phải lo lắng tự bây giờ cho đến ngày con nàng bước lên ngôi chí tôn, cai trị một số người khổng lồ sáu trăm triệu dân, nàng có một trách nhiệm không nhỏ với Thanh triều. Ông vua Hàm Phong này ươn hèn tinh thần thể chất bạc nhược, người con kế vị phải là một anh quân, minh chúa, hùng tráng, sáng suốt. Nàng cố rèn luyện đào tạo con trở thành thông minh, tuấn tú. Nàng hy sinh cả đời nàng để thực hiện mộng tưởng đó. Không như ngày trước nàng hay đến thư viện hay ngồi chơi với người thể nữ, thiếu nữ Mai. Lúc này nàng không ham về hội họa, có thể một ngày nào đó, nàng có hứng thú vẽ một tấm tranh.
Nàng lại bước lên song loan, rèm lại kéo kín để khỏi sương gió buổi ban mai. Hình ảnh đứa con ngủ như in sâu trong tâm khảm nàng.
Nàng có tham vọng một ngày kia lên ngôi hoàng thái hậu. Hiện nay nàng có một hoài vọng rất lớn, mong sao giữ được toàn vẹn lãnh thổ, để giao cho con sau này lên trị vì. Qua khe rèm ở song loan, nàng thấy ánh lửa của chiếc đèn lồng chiếu xuống mặt đường, tên thái giám đi đầu dẫn lộ. Trước thềm điện thái hòa, song loan ngừng lại, nàng vén rèm đã thấy Cung thân vương đứng đó nghênh đón.
- Lệnh bà đến hơi trễ.
- Tôi dùng dằng chơi với con nên đến hơi muộn.
Cung thân vương, với một giọng có ý chê trách, nói:
- Tôi chắc lệnh bà không đánh thức thái tử dậy. Thái tử phải cường tráng vì triều đại của thái tử sau này khó khăn lắm.
Nàng thủng thẳng trả lời:
- Tôi để thái tử ngủ không đánh thức dậy.
Hai người không nói gì nữa. Cung thân vương sẽ nghiêng đầu đi trước hướng dẫn, đi ngang qua một hành lang khuất, đưa nàng đến hậu trường. Từ Hy ngồi xuống ghế, bên tay mặt có người thể nữ Mai, bên tay trái có viên thái giám Lý Liên Anh. Tấm bình phong chạm những con rồng năm móng (ngũ trảo) sơn son, thiếp vàng, đèn ở trên trần chiếu xuống, vàng, son lóng lánh rất rực rỡ che khuất phía sau. Đứng ở ngoài không nhìn thấy phía trong, trái lại trong nhìn thấy rất rõ ở ngoài.
Qua những lổ hổng ở tấm bình phong, nàng nhìn thấy rất rõ gian điện Thái Hòa rộng lớn dưới ánh sáng lờ mờ của những chiếc bạch lạp. Trong điện đã đông đủ các thân vương, các quan ở tỉnh xa đến kinh thành vào lúc nửa đêm. Cuộc vận chuyển bằng những chiếc xe bánh gỗ bọc sắt, xe không có díp, xe chạy lộc cộc, phải lót lông thú, để ngồi cho đỡ sóc. Các quan không quản vất vả khó nhọc, đường sá xa xôi, để thân chinh đệ trình lên đức vua những sớ, điệp tối quan trọng. Đình thần văn võ, bá quan, thân vương tề tựu ở ngòai sân rồng, đứng từng bọn tùy theo chức tước, phẩm trật, mỗi cấp bậc có cờ hiệu bằng lụa hay nhung. Trời hãy còn tối đen, trong sân có những thớt voi bằng đồng chứa đầy dầu, ở vòi cắm một bó đuốc tỏa ra một ánh sáng vàng vọt, rung rinh.
Trong nội điện, hàng trăm thái giám, bận rộn, chạy đi, chạy lại trông nom những ngọn đèn lồng lớn, sửa sang lại phẩm phục, màu sắc rực rỡ, lẩm bẩm nói khẽ với nhau, không ai dám nói to tiếng. Một bầu không khí phẳng lặng trang nghiêm có vẻ huyền ảo đè nặng trong nội điện. Theo tòa khâm thiên giám ấn định sắp đến giờ hoàng đạo, giờ khai mạc, thiết triều, tất cả mọi người đứng yên tại chỗ, nét mặt trang nghiêm, mắt nhìn thẳng. Trước rạng đông một lúc, viên thị vệ thổi ống kèn đồng loan báo hoàng thượng đã xuất cung. Ngọc giá đi qua các cung điện rồi tiến về điện Thái Hòa vào đúng giờ dậu, trời vừa sáng rõ.
Viên thị vệ hô to:
"Cung nghênh thánh thượng lâm trào. Thánh thượng vạn tuế... Vạn vạn tuế"
Vừ dứt tiếng hô, ngọc giá tiến vào trong nội đình. Những là cờ tiết mao bay phấy phới trước ngọn gió buổi sáng. Đi sau hàng thị vệ, là đội ngự lâm quân, áo đỏ, nẹp vàng, Nhung Lữ đi đầu. Sau đội ngự lâm quân, một trăm phu áo vàng khuân ngọc liễn bằng vàng khối, hoàng thượng ngự ở trong. Cờ phủ việt, tiết mao, tàn vàng, tán tía đi kèm theo ngọc liễn.
Tất cả đình thần, văn võ bá quan, thân vương, thái giám phủ phục hô to:
- Vạn tuế... Vạn vạn tuế... Vạn vạn tuế...
Tất cả mọi người úp mặt vào trong lòng bàn tay đặt dưới sân rồng, chờ cho đến khi các phu khênh ngọc liễn leo lên những bậc đá hoa, đặt ngọc liễn xuống thềm rồng. Ông vua ngồi bệ vệ trên ngọc liễn, hai bàn tay khô đét, đặt trên hai đầu gối, mắt nhìn thẳng. Một bầu không khí trang nghiêm, phẳng lặng bao trùm. Tất cả mọi người phủ phục trước sân rồng, không nhúc nhích. Cung thân vương đứng bên hữu ngai rồng, đọc to tên các thân vương, văn võ bá quan theo ngôi thứ, phẩm trật. Cuộc thiết đại triều khai mạc.
Ở hậu trường, Từ Hy ngồi sát vào tấm bình phong, ghé tai vào lỗ hổng để nghe cho rõ không nói một lời nào. Nàng chỉ thấy đầu và hai vai hoàng đế, nhô lên hơi cao trên chiếc ngai. Người đàn ông này (Ông vua) ở xa nom có vẻ uy nghi lắm, nhưng đến gần thấy khác hẳn. Dưới chiếc mũ bình thiên, có những quả gù, để hở chiếc gáy vàng nghệch, ốm nhom, gáy của một người còn ít tuổi, bệnh hoạn, chứ không phải gáy của một thanh niên đang tuổi cường tráng, cổ rụt, vai so gầy như nõ, trơ xương dưới chiếc áo cẩm bào che phủ. Từ Hy nom thấy dáng con người được mệnh danh thiên tử, nàng vừa thương hại vừa kinh tởm, con người bạc nhược, bệnh hoạn. Với con mắt tinh lanh, nàng nhìn chếch bên ngai, thấy Nhung Lữ, một thanh niên cường tráng, khí huyết phương cương.
Nàng so sánh hai người đàn ông, thấy địa vị xa cách như hai thái cực.
Rõ ràng thật lứa đôi ta.
Làm ra con ở, chúa nhà đôi nơi.
Hiện giờ nàng chưa có thể cất nhắc chàng lên một địa vị cao. Đối với địa vị hiện nay của chàng, nàng phải giơ tay ra trước, nhưng làm sao có dịp thuận tiện để thực hiện mưu đồ thầm kín đó. Nàng cũng biết điều kiện tiên quyết, nàng phải có thế lực, thực quyền, trấn áp mọi người phải kiêng nể. Nàng phải đưa chàng lên một địa vị quan trọng, một phẩm trật lớn, không ai còn dám coi rẻ, khinh thường. Đột nhiên, nàng như có linh tính, hai mắt quay lại người thiếu nữ Mai đứng cạnh đó, người thiếu nữ mặt úp vào chiếc bình phong, hai mắt chăm chú nhìn...
Máu ghen nổi dậy, nàng nắm tay Mai. Vặn rất đau rồi mới buông, mồm như thét lên:
- Lùi ra xa.
Người thiếu nữ giật mình, quay đầu lại, sợ quá, nhìn thấy hai con mắt long lên của bà chủ nhìn mình như muốn ăn tươi, nuốt sống.
Từ Hy không nói một câu nào, nhưng hai mắt nhìn người thiếu nữ một cách kinh khủng. Mai cúi đầu, nước mắt chảy ròng ròng hai bên má. Từ Hy quay mặt đi chổ khác nhưng trong lòng căm lắm. Nàng cố nén, cố quên đi, để tâm trí vào quốc gia đại sự, học hỏi về đường lối chính trị.
Lúc đó, viên tổng đốc Lưỡng Quảng Danh Thám đứng trước ngai rồng. Ông này từ miền cực Nam đến đây bằng đường thủy và đường bộ. Ông quỳ trước ngai rồng, đọc to một tờ biểu chướng cầm ở hai tay. Ông đọc sớ như lối bình văn, ngâm nga, nhịp nhàng với vần điệu câu văn. Ông là một nhà túc nho, xuất thân khoa bảng. Chính tay ông thảo biểu chương, tường thuật tự sự, bài văn viết theo thể thơ đường, có nhiều chữ lắt léo, khó hiểu, những điển tích chỉ những bậc đại nho mới có thể quán thông. Từ Hy đem hết cả vốn liếng, mớ học vấn mới hàm thụ được để cố tìm hiểu ý nghĩa lời thơ. Chỗ nào không hiểu, khó quá, nàng đoán rồi suy diễn.
Tóm tắt nội dung bài biểu chương như thế này:
"Ở miền Nam nước ta, bọn lái buôn tây phương hống hách, hạch sách, quấy nhiễu, đứng đầu là quân Hồng Mao xúi giục. Đã xãy ra một chuyện không có quan hệ gì mấy, thần không dám tâu lên chúa thượng.
Thần cố nhịn không muốn gây cuộc can qua, tuy vậy quân ngoại lai tấn công bản bộ với những lý do rất tầm thường. Quân đội hoàng triều bị thất trận liên tiếp, giao phong trận nào thua trận đó. Hạ thần tổng đốc Lưỡng Quảng đã được nhuần mưa móc, thiên tử phong sắc bổ nhiệm, hạ thần muốn trăm họ an vui lạc nghiệp nên cố tránh cuộc binh đao. Hạ thần không thể nào phủ dụ quân man di, mọi rợ, vì chúng không hiểu một tý gì về văn hiến, văn hóa, tam cương ngũ thường.
Truy nguyên những sự bất ổn, gây cuộc can qua với nước ta cũng chỉ vì một mảnh vải không nghĩa lý gì. Chúng nói là cờ của chúng."
Hoàng thượng lẩm bẩm trong mồm mấy câu gì, Cung thân vương làm phát ngôn viên truyền lại:
-Thiên tử truyền vấn khanh định nghĩa chữ "Cờ".
Viên tổng đốc mặt vẫn cúi gầm, mắt nhìn xuống.
- Kính trình tôn vương lá cờ của bọn chúng là một mảnh vải xanh, đỏ rất tầm thường.
Hoàng thượng lại nói gì trong mồm, Cung thân vương nhắc lại, to tát, rõ ràng:
- Tại sao quân hồng mao lại giận dữ làm to chuyện về một mảnh vải, nếu mảnh vải đó rất hay hỏng, lấy mảnh vải khác thay vào?
- Kính trình tôn vương, quân hồng mao mê tín, dị đoan lắm. Bọn quân thô lỗ, man di đó tin ở miếng vải hình chữ nhật có ba màu: đỏ, trắng, xanh, là vía của một vị thần linh có phép thần thông. Quân mọi rợ kính trọng miếng dẻ đó, không ai được xúc phạm đến. Nơi nào, chỗ nào được cắm miếng giẻ, là nơi đó thuộc quyền sở hữu của chúng. Trong một trường hợp đặc biệt, chúng treo miếng vải lủng lẳng trên đầu cột buồm một thương thuyền chở bọn thảo khấu người Hán. Bọn giặc người Hán có thể ví như một mụn lở loét làm ung thối những tỉnh miền Nam qua bao nhiêu thế hệ. Ban ngày tụi nó ngủ đến đêm chúng đánh phá các ghe thuyền đậu ở bến và những làng mạc ở miền duyên hải. Người thuyền trưởng chiếc tàu đó cho bọn thảo khấu người Hán ở trên tàu dưới lá cờ. Hắn nghĩ hạ thần tổng đốc trọng nhậm không dám xúc phạm đến họ. Kẻ hạ thần tuy bất tài nhưng được thiên tử giao phó trọng trách, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, hạ thần truyền bắt giữ chiếc tàu đó và viên thuyền trưởng hạ ngục. Hạ thần cho gỡ mảnh vải bay phất phới trên cột buồm của chiếc tàu đó. Khi viên thượng vụ tùy viên người hồng mao John Bo
ring được tin đó, hắn nói hạ thần nhục mạ miếng giẻ linh thiêng ấy. Tụi nó bắt hạ thần thay mặt thiên tử chí tôn, phải đến xin lỗi hắn.
Cử tọa hiện diện nghe nói phải rùng mình, king ngạc. Hoàng thượng nghe nói thế cũng phải lạ lùng, ngài đứng dậy, nói:
- Xin lỗi? Vì lý do gì?
- Tâu bệ hạ, như thế đó, họ ngang ngược lắm.
- Cho khanh bình thân.
Cung thân vương nhắc lại:
- Thiên tử cho khanh bình thân.
Đó là một đặc sủng, viên tổng đốc phụng mạng.
Viên quan này người Hán đã cao niên, sinh quán một tỉnh về miền Bắc, rất trung thành với triều đại nhà Thanh. Nhà vua hậu đãi những sĩ phu, bổ nhiệm làm quan sau cuộc sát hạch thi đình, thi hội.
Vua hỏi:
- Nhà ngươi có xin lỗi không?
Lần này vua hỏi thẳng không qua trung gian của thân vương, tỏ ra đức vua rất chú trọng đến việc này.
Viên tổng đốc thưa:
- Muôn tâu thánh thượng, làm sao kẻ hạ thần lại có thể tự hạ đến xin lỗi chúng. Tuy là kẻ tầm thường, bất tài, song được đội ơn mưa móc, ngai rồng bổ nhiệm, giao trọng trách cai trị một vùng. Hạ thần phái viên thuyền trưởng và thủy thủ cùng bọn thảo khấu đến xin lỗi viên quan hồng mao. Nhưng tên Bo
ring trí độn và hợm hĩnh chưa lấy thế là vừa ý. Hắn sai bọn giặc đến bảo hạ thần, hắn muốn chính hạ thần phải thân chinh đến xin lỗi. Hạ thần truyền đao phủ chém đầu cả bọn để thị uy, làm gương cho người nào manh tâm tiếp tay với quân ngoại xâm, phá rối an ninh quốc gia.
- Như thế đã vừa lòng tên hồng mao chưa?
- Muôn tâu thánh thượng không có gì để cho họ được vừa lòng. Họ muốn gây xáo trộn, lấy cớ để gây một cuộc chiến nữa, chiếm đoạt thêm đất đai và kho liễm của ta. Tên hồng mao xúi giục, khuyến khích, tán trợ các cuộc lộn xộn để thực hiện âm mưu thủ lợi. Vì vậy, trái với luật lệ triều đình, tuyệt đối cấm chỉ không cho nhập cảng vào nội địa nước ta thứ thuốc phiện Ấn Độ, nhưng người hồng mao ngang nhiên khuyến khích đem lén lút thuốc phiện vào nước ta. Họ lấy cớ người Hán đem thuốc phiện vào bán cho dân chúng được thì người hồng mao, người Pháp, người Ấn Độ cũng có quyền làm. Tâu bệ hạ nha phiến đầu độc dân tộc mình làm cho tinh thần bạc nhược, thể chất yếu hèn. Lại còn một nguy cơ nữa, nhờ việc buôn bán lén lút nha phiến mà quân phiến loạn miền Nam đổi chác, chuyển vận vũ khí vào trong nội địa. Người Bồ Đào Nha tuyển mộ người Hán nói để làm phu, tên Bo
ring nhiệt thành tán trợ việc đó. Họ còn yêu sách thêm đất đai để xây cất, họ nói phần đất mình nhường cho họ không đủ. Quân hồng mao còn đề nghị mình phải mở các cửa thành để cho gia đình họ được tự do đi lại trong tỉnh Quảng Đông và sống chung với dân tộc mình. Người ta để ý thấy đàn ông hồng mao thích nhìn phụ nữ nước mình. Còn bọn đàn bà ngoại lai chẳng có chút gì thẹn thò, ý tứ, xông xáo các nơi không thua gì bọn đàn ông. Nếu ta chiều theo ý họ, bọn ngoại lai khác ghen tỵ, cũng đòi phải được ưu đãi. Tình trạng này rất nguy hại, làm sụp đổ nền móng văn hóa nước ta và ung thối dân tộc mình.
Hoàng thượng tán thưởng ý đó, gật đầu, ngài phán:
- Chúng ta không thể nào để quân bạch chủng ngang nhiên đi lại một cách tự do bừa bãi trong đường phố của ta.
- Muôn tâu chúa thượng, hạ thần đã nghiêm cấm. Hạ thần e quân hồng mao vin vào sự ngăn cấm đó để gây cuộc binh đao. Hạ thần, một kẻ bất tài, giữ một trọng trách quá nặng nề, hạ thần không dám quyết đoán đảm nhiệm.
Từ Hy ngồi sau tấm bình phong nghe hết sớ tấu, lòng căm phẫn của nàng lên đến cực độ, song phải cố nén lòng. Nếu nàng có thể can thiệp thì nàng đã lên tiếng rồi, nhưng nàng là một nữ nhi, không được tham khảo, nên phải ngồi nín thinh.
Hoàng thượng hỏi tiếp:
- Khanh có nói ý nghĩ của khanh cho tên hồng mao đó biết không?
Lòng phẫn nộ của ông vua lên đến cực độ, ông nói lớn, giọng như thét lên làm viên tổng đốc sợ thất thần, vì xưa nay chưa bao giờ thấy hoàng thượng nói lớn tiếng. Viên tổng đốc quay mặt về Cung thân vương, nói:
- Muôn tâu chúa thượng, hạ thần không thể nào tiếp tên hồng mao đó vì hắn láo xược nói, hắn chỉ nói chuyện với người nào ngang hàng với hắn. Nhưng làm sao hắn có thể ngang hàng với hạ thần đã đội ơn được sắc phong của chúa thượng. Nếu hạ thần tự hạ thấp xử ngang hàng với hắn, hạ thần phạm tội khi quân; hạ thần có sai thuộc hạ đến bảo cho hắn biết hạ thần thuận cho hắn vào yết kiến nhưng với tư cách một thuộc quốc, hắn phải quỳ. Hắn tự chối, không chịu.
Mặt rồng nổi giận, gật đầu xác nhận:
- Khanh nói hữu lý.
Được đức vua tán thưởng, viên tổng đốc tiếp tục trình bày:
- Muôn tâu chúa thượng tên Bo
ring còn yêu sách hạ thần phải nghiêm trị những ai dán bích chương, thuyết khẩu hiệu bài xích quân bạch chủng. Hạ thần biết những bích chương do người Hán viết, dán ở các cổng thành vào tỉnh. Tên Bo
ring đọc những bích chương đó tức lắm vì trong tờ bích chương nói quân bạch chủng là một man chủng, triều đình phải đuổi hết bọn man rợ ra biển.
Hoàng thượng như reo lên, ngắt câu:
- Vì lẽ gì có những bích chương đó?
- Muôn tâu chúa thượng, vì lẽ gì, hạ thần không rõ; hạ thần làm sao cấm được dân chúng dán những bích chương bài ngoại. Dân chúng vẫn được tự do phát biểu công khai tư tưởng chống đối. Hạ thần làm sao bịt được mồm dân chúng nếu cấm đối lại phát sinh tao loạn. Năm ngoái, hạ thần thị uy dân chúng, theo pháp luật, truyền cho quân đội dùng vũ khí diệt hết quân phiến loạn đã bị giết, nhưng còn sót lại một tên sẽ có ngay mười vạn tên khác. Quân phiến loạn được ngoại bang yểm trợ, khuyến khích, mưu đồ phế bỏ triều đại nhà Thanh, dân tộc Hán phải do người Hán cai trị.
Lời giải thích đó làm hoàng thượng bàng hoàng, toát mồ hôi. Ông lấy bàn tay mặt để che mồm, không muốn ai nom thấy hai môi ông run run. Sự thật ông rất sợ người Hán hơn bọn người bạch chủng. Với một giọng yếu ớt. Ông lẩm bẩm, khẽ nói:
- Không nên cấm đoán dân chúng, để mặc họ phát biểu tư tưởng.
Cung thân vương nhắc lại lời vua vừa nói. Tất cả thân vương, đình thần đang quỳ mọp xì xào tán thưởng lời vua vừa truyền xuống. Vua nói:
- Mai sẽ có quyết nghị.
Viên tổng đốc rập đầu chín lần xuống sân rồng, cáo lui, nhường chỗ cho một viên quan khác đến dâng sớ, biểu. Tất cả mọi người đều biết tại sao hoàng thượng để đến mai mới ra quyết nghị.
Suốt ngày hôm đó, Từ Hy ngồi một mình suy nghĩ, quên cả việc sai người ẵm con về chơi. Nàng tức quá, càng nghĩ càng thấy căm thù quân sài lang, nàng muốn vua cho đem quân tống cổ hết quân ngoại xâm ra biển, không cho phép một tên nào trú ngụ trên lãnh thổ.
Nhưng nghĩ lại lúc này chưa phải lúc nàng có thực quyền. Nàng cũng biết tự khắc phục mình trước, sau đó mới khắc phục được người. Nàng còn nhớ một câu trong sách văn tuyển.
"Người có đức độ, liêm chính, trị dân không cần hình luật, mà dân sự theo. Người trị dân không có đức độ, liêm chính, tuy có hình luật mà dân không theo."
Mấy lời nói đó để áp dụng cho một người đàn ông, đối với người đàn bà cầm quyền bính lại còn cần thiết hơn. Nàng nhận thấy có hai điều bó buộc: Nếu nàng sanh ra là đàn ông sẽ cầm quân chống xâm lăng; không biết kiếp trước nàng đã phạm tội gì để kiếp này sanh làm đàn bà. Trong khi quốc gia nghiêng ngửa, cần phải có chí dũng để bảo vệ non sông.
Nàng bận tâm suy nghĩ rất lâu, lòng lại hỏi lòng sao lại có sự oái ăm như vậy? Hiện giờ nàng là một người đàn bà vốn dĩ đã như vậy, nàng phải hành động với một tâm trí dũng cảm của một nam nhi trong một thể xác đàn bà.
Đêm hôm đó khi vào nội tẩm bệ kiến, nàng thấy ông vua mặt ủ, mày chau, lo lắng, sợ hãi, không còn thiết đến thú vui thường nhật, nhưng dù có nghĩ tới, ông cũng đã bất lực không sao thõa mãn được nhục dục. Có nàng bên cạnh, lòng phiền muộn của ông như vơi được phần nào. Ông nắm hai bàn tay nàng, vuốt ve, hỏi nàng một câu, nàng đã biết trước câu hỏi đó:
- Nên xử trí thế nào với tên hồng mao Bo
ring. Tội hắn có nên giết không?
- Xét tội trạng, nên chém đầu. Người nào xúc phạm đến long thể, khi quân phải tội tử hình. Nhưng xin lưu ý chúa thượng, muốn giết một con rắn độc phải đánh dập đầu, đánh một nhát chết ngay, nếu đánh trượt, nó sẽ quay lại cắn người đánh nó. Như vậy, muốn hạ tên đó, mình phải có một vũ khí hữu hiệu và thần tốc. Hiện mình chưa hiểu con rắn đó thế nào nhưng chắc chắn con rắn này quỷ quyệt và mạnh lắm. Thần thiếp xin đề nghị muốn hạ độc thủ phải tranh thủ thời gian, mình dùng kế cò cưa, không nhượng bộ hẳn mà cũng không khước từ hẳn.
Ông vua cố lắng tai nghe, da mặt vàng nghệch lại thêm những nếp nhăn vì lo sợ và bệnh hoạn, ông cố ghi nhận từng lời, như ở trên cho một vị thiên thần nói xuống, vẽ đường, chỉ lối.
- Quý phi quả là hiện thân của phật bà Quan Âm, lòng Trời run rủi được quý phi đến giúp trẫm trong lúc thiên nan, vạn nan này.
Ông cũng nói mấy câu tình tự, ông gọi nàng là "Tâm can của ông". Mấy lời tâng bốc của ông vua làm nàng hết sức cảm kích. Nàng nói:
- Đức Phật Quan Âm là một vị chí kính, chí tôn đối với thần thiếp.
Lời nàng nói tuy dịu dàng, mềm mại song rất đanh thép đầy nghị lực.
Ông vua đang nằm đột nhiên ngồi nhỏm dậy, truyền:
- Truyền cho viên thái giám cấp tốc triệu thỉnh hoàng tùng đệ vào bệ kiến có việc thượng khẩn.
Cũng như mọi người tâm hồn bạc nhược, ông vua này khi đã quyết định một việc gì, hấp tấp muốn cho thi hành tức khắc.
Tuy vậy, Từ Hy cũng phụng mệnh chuyển đạt truyền lệnh cho tên thái giám đứng túc trực ở cửa cung.
Vài phút sau, Cung thân vương vào yết kiến. Nhìn khuôn mặt đĩnh ngộ, sáng như gương của vị vương này, Từ Hy nghĩ thầm người này có thể đảm nhiệm thi hành sứ mạng. Cả hai người cùng đồng một ý nghĩ, một quan niệm.
Hoàng thượng vội vàng mời em ngồi xuống.
- Ngồi xuống... Ngồi xuống...
Cung thân vương niềm nở nói:
- Cho phép tôi đứng để nghe hoàng huynh chỉ giáo.
Cung thân vương đứng cạnh long sàn. Hoàng thượng với một giọng yếu ớt, ẻo lả, nhắc đi, nhắc lại từng tiếng như một người nói lắp, vừa nói vừa tìm câu nói:
- Đệ nàỵ.. Chúng mình... à tôi quyết định thế nàỵ.. đem quân đánh... đánh úp quân ngoại xâm. Tội chúng nó đáng chết lắm... à, này, tôi nghĩ...khi mình định hạ một con rắn độc... Nghĩa là, hoàng đệ có hiểu không...phải chém nó một nhát nó chết liền, nghiền nát đầu nó ra hay cắt đầu nó. Nếu nó còn ngắc ngoải nó quay lại thì chí nguy, chí nguy. Ấy vấn đề đại khái như thế...
Cung thân vương ngắt lời, nói:
- Đệ hiểu, hiểu lắm ý vương huynh. Mình không nên bạo động dùng binh lực diệt trừ chúng nó nếu mình chưa có gì bảo đảm chắc chắn hạ hẳn được chúng.
Ông vua, nét mặt rầu rỉ, nhăn nhó, nói:
- Đệ nói đúng như ý trẫm nghĩ. Việc triệt hạ bọn chúng, mình phải chờ thời cơ thuận tiện. Trong lúc này mình dùng kế trì hoãn, án binh bất động. Mình phải dùng dằn, kéo dài thời gian, chính sách "Cò cưa" chúng yêu sách gì mình cũng ậm ừ, không hẳn là nhượng bộ mà cũng không hẳn là không.
Cung thân vương nói:
- Nghĩa là mình tỏ vẻ khing bỉ chúng. Mình dử mồi như người ta dử con nít.
- Đúng vậy.
Ông vua nói đến đấy đã mệt lắm, ngã lưng xuống nệm vóc vàng.
Thân vương đứng suy nghĩ. Nếu ông vua tự nghĩ quyết định này, có lẽ ông muốn thụ động, không muốn rắc rối, lôi thôi sinh ra nhiều chuyện phức tạp, phiền phức. Ông nghĩ có lẽ Từ Hy đã mớm lời. Ông cũng nhận thấy lý luận rất vững vàng, xác đáng. Sau khuôn mặt mỹ miều Từ Hy có một khối óc lanh lợi, thông minh. Nàng còn trẻ quá mà là một phụ nữ. Liệu nàng có đủ khôn ngoan, kinh nghiệm lịch duyệt không?
Thân vương tâu:
- Tâu chúa thượng...
Ông vua xua tay không muốn nghe, với một giọng có vẻ bực bội, khó chịu, ông nói:
- Ta đã nói cứ thế mà làm.
Cung thân vương nghiêng đầu:
- Xin phụng chỉ chúa thượng, ngu đệ sẽ chuyển đạt thánh chỉ cho viên tổng đốc Lưỡng Quản.
Triều đại nhà Thanh sống trong sự hòa hoãn bấp bênh. Một buổi sáng mùa đông, cuối năm âm lịch, thái tử đã được chín tháng, Từ Hy thức giấc, thở dài rất nảo nuột. Suốt đêm nàng không sao ngủ được, trong óc miên man suy nghĩ hết việc này đến việc khác. Nàng tự thấy cô đơn, linh tính cảm thấy có gì nguy hiểm, như có âm mưu muốn ám hại hai mẹ con nàng. Nhớ khi còn con gái ở nhà, sáng ngủ dậy, thâm tâm nhẹ nhỏm, trí óc thảnh thơi, không có gì lo ngại, ưu phiền. Chiếc giường xấu xí nàng nằm chung với em gái thủơ nào, như một nơi kín đáo, không ai biết đến, một nơi bất khả xâm phạm, dưới sự trông nom, săn sóc của mẹ nàng. Ở đây, trong một nơi mông mênh, kín cổng, cao tường, đường ngang, lối dọc, nào cung, nào điện nguy nga, ở ngoài ai biết nàng, còn sống hay chết. Ông vua, người chồng nàng còn biết bao nhiêu cung tần, mỹ nữ. Nghĩ thế lòng quặn đau,úp mặt xuống gối, rên rỉ:
- Ối! Mẹ ơi!
Nàng gọi mẹ, không nghe có tiếng trả lời. Nàng ngẩng đầu lên, nhìn ra ngoài sân, ánh sáng lờ mờ, trời chưa sáng rõ. Mưa tuyết suốt đêm, ngoài sân, ngoài vườn một lớp tuyết dày, phủ kín, những cây thông nặng trĩu tuyết. Nàng nghĩ buồn quá, nỗi buồn thấu đến xương, đến tủy.
Nàng rất khỏe mạnh, hai cánh tay rắn chắc, ủ trong nệm, nóng ran. Máu trong người chảy điều hòa, trí óc sáng suốt, minh mẫn. Nàng chỉ buồn vì nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ họ hàng.
Nếu ta có thể về thăm mẹ, thăm người đã mang nặng đẻ đau ra ta.
Nàng nhớ lại khuôn mặt mẹ, hiền từ, thông minh, vui vẻ. Nàng muốn gặp mẹ, nói cho mẹ biết cảnh cô đơn của nàng ở trong cung cấm. Ở nhà ông chú phố Hàng Thiết, nàng sống nhàn hạ, ung dung, chẳng phải lo lắng sợ hãi, chẳng cần để ý đến ngày mai. Cả ngày giúp mẹ làm những công việc thường nhật, những sự cần thiết cho cuộc sống. Không cần sa hoa, lộng lẫy, một cuộc sống an nhàn, bình thản.
Nàng lại thở dài, gọi mẹ ơi, như một đứa trẻ. Làm sao nàng lại trở về ngôi nhà cũ nom lại khuôn mặt mẹ nàng.
Suốt ngày nàng băn khoăn với ý nghĩ đó. Lòng buồn cảnh vật cũng buồn, mưa tuyết rả rích, gió thổi vi vút suốt ngày. Trời u ám, trong nhà, giữa trưa phải thắp đèn. Cả ngày hôm đó, Từ Hy ngồi trong thư viện riêng, trong một cung nhỏ, gần đó. Nàng thu thập những sách cổ, những cuốn tranh cổ. Hôm ấy, lòng buồn, tuy đọc sách nhưng không thích thú. Nàng để thời giờ giở những cuốn tranh ra coi. Có một tấm nàng ưng ý nhất, tấm này dài hai thước, do họa sĩ Thiệu Mạnh Phúc vẽ từ triều đại Mông Cổ nhà Nguyên. Tấm tranh đã được năm trăm năm, phỏng theo lối vẽ của Vương Vệ, một đại danh họa cổ. Nàng ngắm nhìn tấm tranh, nét bút thật tuyệt luân, màu sắc hòa hợp, dịu dàng, cây cỏ, nước non, xa xa những ngọn đồi trùng điệp.
Trí tưởng tượng đưa nàng bay bổng ra khỏi bức tường thành, nàng đi ngao du một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, những suối nước chảy róc rách, những hồ lớn, rừng sâu. Bước chân tha thẩn đi men theo dòng sông, có chỗ đi ngang qua một chiếc cầu gỗ; leo lên núi có những đường hẹp, trải đá, ngang qua một thác nước chảy ầm ầm. Nàng xuống đồng ruộng qua những làng mạc nhỏ trong rừng thông, đi qua những thung lũng nắng ấm, có những bụi trúc, cây cỏ xum xuê. Nàng dừng chân ở một cái chòi của một ẩn sĩ rồi đến một cái vịnh nhỏ của một con sông uốn khúc. Trên mặt sông lẫn vào đám sậy một chiếc thuyền đánh cá rập rình trên mặt nước. Con sông chảy ra biển cả xa tít, màn sương che khuất.
Người thiếu nữ Mai, một hôm đã bảo nàng, tấm tranh này linh động, có tâm hồn nghệ sĩ kết tinh ở đây.
Cuộc đời con người trên trần thế cũng như những cảnh họa sĩ mô tả trong tranh, bao nhiêu quảng cam go, khổ cực phải đấu tranh, thăng trầm, vinh nhục, tương lai mù mịt sau này ra sao?
Sau một ngày buồn tẻ, chiều hôm đó ngài được đức vua vời đến. Vua hỏi:
- Trẫm xem ý quý phi lòng dạ để ở đâu không nghĩ gì đến trẫm. Tuy thân ở đây, tâm ở nơi khác.
Ông vua nắm bàn tay nàng, một bàn tay nõn nà rất đẹp nước da trắng nuốt, mịn màng.
- Phi nhìn coi bàn tay trẫm đây, bàn tay của quý phi không giống bàn tay của một người đàn bà nào.
Nàng thỏ thẻ thưa:
- Suốt ngày hôm nay, thần thiếp buồn quá, thần thiếp không nói chuyện với ai, hôm nay cũng không cho thái tử về chơi.
Ông vuốt ve bàn tay nàng khẽ nói:
- Có chuyện gì làm quý phi buồn phiền, quý phi ước mong điều gì đều được như ý cả mà.
Nàng muốn giải bày lòng phiền muộn, lo lắng sợ có âm mưu ám hại nhưng nghĩ lại thấy không nên nói, để ông phải lo sợ, ông trông cậy vào nàng, như một nguồn nghị lực của ông. Vì vậy, trước mặt ông, lúc nào cũng phải tỏ ra có nghị lực, quả cảm. Nàng cũng không biết giải gày tâm sự với ai. Không có ai là người tâm phúc, ruột thịt, nàng cảm thấy cô đơn, vui, buồn một mình mình biết, một mình mình hay.
Hai mắt nàng ướt đẫm lệ, rạt rào tuôn rơi, dưới ánh sáng ngọn bạch lạc, ông vua nom thấy, hoảng quá.
- Quý phi có điều gì bất mãn, buồn phiền? Trẫm chưa thấy bao giờ quý phi khóc.
Nàng rút hai bàn tay ở tay ông ra, lấy ống tay áo lụa chùi nước mắt. Dáng điệu chùi nước mắt của nàng nom rất khả ái. Nghẹn ngào, nàng nói:
- Suốt ngày hôm nay, thiếp nghĩ nhớ mẹ thiếp qúa, đột nhiên lòng nao nao buồn nghĩ đến mẹ. Thiếp đã không làm tròn chữ hiếu. Từ ngày phụng chỉ hoàng thượng vào ở trong này, thiếp chưa được thấy mẹ thiếp lần nào. Thiếp không biết mẹ thiếp có được mạnh khỏe không? Có khi mẹ thiếp qua đời rồi, thiếp có linh cảm nghĩ đến mẹ mà khóc.
Ông vua rất chiều nàng, muốn nàng được sung sướng, vui vẻ, nom nàng ủ rủ, buồn phiền, ông rất khổ tâm. Ông nói:
- Đi thăm mẹ là rất phải. Làm sao quý phi không nói ngay với trẫm. Mai quý phi về chơi thăm nhà. Đến chiều quý phi lại trở về đây, vắng quý phi một đêm trẫm không chịu được.
Thế là Từ Hy được phép chơi nhà một hôm thăm mẹ. Để tỏ lòng tri âm vua đã chiều theo ý nàng, nàng làm ra vẻ rất ân cần, đằm thắm với vua. Tuy nhiên, ngày hôm sau nàng cũng chưa về chơi nhà, nàng cho người đến báo trước cho ông chú biết để sửa soạn cửa nhà đón tiếp. Hai thái giám được phái đến nhà ông chú nàng, báo tin ngày mai vào giờ ngọ, nàng sẽ về thăm nhà. Sáng hôm nàng về chơi, nàng dậy rất sớm, trong lòng khoan khoái, nhẹ nhỏm, từ lâu chưa hôm nào nàng được vui vẻ như thế. Nàng mất một giờ suy nghĩ, sửa soạn quần áo, trang điểm sao cho hợp để về chơi nhà. Nàng bảo người a hoàn:
- Ta ăn mặc thường, không muốn lộng lẫy lòe loẹt, thiên hạ cho ta kiêu ngạo, hợm hĩnh.
- Tâu lệnh bà, lệnh bà cũng cần phải ăn mặc lịch sự uy nghi, nếu không thiên hạ đàm tiếu, họ cho là có ý khinh họ.
- Như vậy cũng gọi là thôi, không nên cầu kỳ, xa hoa.
Nàng đem hết áo ra để lựa chọn, ngắm nghía, chọn được một chiếc, rồi suy nghĩ bỏ lấy chiếc khác, chiếc sau cũng chưa được như ý. Cuối cùng nàng lấy chiếc áo vóc màu nhã nhặn hoa lan, mặt trong lót lông thú màu xám. Chiếc áo này, nàng không chú trọng vào hai ống tay và đường viền có thêu, nhưng lối áo, kiểu cách dị thường. Nàng rất ưng ý chiếc áo đó, còn đồ nữ trang, nàng chọn thứ bằng ngọc thạch. Để chiều ý a hoàn cố mời mọc, nàng ăn qua loa điểm tâm rồi bước lên song loan, người ta kéo rèm song loan che kín, bọn phu khênh vác đòn lên vai, cuộc du hành bắt đầu. Song loan đi ở trong cấm thành gần hai cây số. Từ Hy ngồi trong song loan, tính nhẩm con đường đi qua, hết cung này đến điện khác, bây giờ nàng đã thuộc đường lối trong nội thành. Hoàng thượng ra đặc ân cho phép nàng ra khỏi cấm thành qua cửa Ngọ môn, cửa này chỉ dành riêng cho vua. Khi song loan ra khỏi cửa Ngọ môn, nàng nghe thấy tiếng hô lính của viên chỉ huy ngữ lâm quân "Nghiêm". Nhận ra tiếng nói quen thuộc, nàng nghiêng đầu về phía trước khẽ vén rèm song loan, nhìn thấy Nhung Lữ đứng gần đó, mặt ngoảnh đi, gươm tuốt trần, người đứng ngay ngắn. Khi nàng đi qua, chàng vẫn đứng yên, không ngoảnh đầu lại, nàng đoán, hai má hắn đỏ bừng vì nàng đi sát gần bên. Nàng buông rèm xuống.
Vào lúc quá ngọ, khi song loan đến phố Hàng Thiếc, ngồi sau rèm, nàng đoán sắp đến ngôi nhà nàng ở khi còn nhỏ. Nàng ngửi thấy những mùi quen thuộc, mùi mở rán bánh, mùi long não, mùi khai nước đái con nít, cát bụi ngột ngạt. Trời rét ngọt, tiếng chân phu giẫm thình thịch xuống nền đất rắn chắc. Nhà cửa san sát, chiếu bóng xuống mặt đường. Nàng nhớ bóng nhà, lúc sáng ngả về phía Tây rồi dần dần và quá trưa đổ về phía Đông. Giữa trưa, trời nắng chang chang, chiếc song loan vô đến cổng nhà. Từ Hy thấy tất cả nhà đứng chờ ở cổng nhà. Phía trước có mẹ nàng và các anh, chị, em, bà con họ hàng, phía trái có một thiếu nữ, người mảnh dẻ, có lẽ em nàng, hai em trai, nàng không nhận ra, bây giờ đã thay đổi khác nhiều, đằng sau, người vú già Lư Mã. Khi chiếc song loan đến, người ở phố kéo ra đường đông nghẹt, đứng xem.
Nàng nhìn nét mặt hân hoan trịnh trọng của mọi người ra đón. Nàng xúc động quá trào nước mắt. Lòng nàng vẫn thế, đối với mọi người như ngày nào còn ở nhà. Nàng muốn nói lên cảm nghĩ đó. Tuy vậy nàng không thể vén tấm rèm ở xe, gọi tên từng người, vì bây giờ nàng là Tây cung thái hậu, con nàng là Đông cung thái tử, nàng không được suồng sả, cách thức phải tương xứng với địa vị. Nàng ngồi yên trên xe, bọn thái giám đi trước cho tới cổng nhà. Viên chưởng quản thái giám phải đi kèm song loan theo chỉ thị của hoàng thượng. Sáu người phu khênh song loan lên mấy bực thềm, đặt song loan xuống sân. Viên chưởng quản thái giám đến kéo bức rèm. Từ Hy bước ra ngoài. Ngôi nhà nàng ở hồi nhỏ, các cửa mở rộng, ánh nắng ngoài chiếu vào chan hòa. Nàng nhìn thấy những gian phòng quen thuộc, một gian phòng lớn, đồ đạc lau chùi bóng lộn, nền nhà rất sạch. Nàng nhớ lại đã bao nhiêu lần nàng quét nhà, lau chùi đồ đạc, bàn ghế... Một chiếc lọ cắm hoa giấy đỏ chói để ở giữa bàn, mấy ngọn nến mới nguyên cắm trên giá đèn. Người ta đã pha sẵn một ấm trà, mấy đĩa bánh ngọt ở trên mâm, có lồng bàn đậy.
Nàng vịnh vào cánh tay viên thái giám, gả đưa nàng đến ngồi trên một chiếc ghế cao ở phía tay mặt chiếc bàn, nàng ngồi, đặt hai chân trên một chiếc ghế nhỏ thấp. Viên chưởng quản thái giám lui ra cửa, báo cho mọi người biết có thể vào thiếp kiến Tây cung thái hậu, nàng ngồi vén xiêm y gọn gàng, hai tay khoanh trước ngực. Tất cả gia đình vào, từng người một, trước tiên ông chú, rồi đến mẹ, các anh em thúc bá sau cùng các em ruột nàng. Lần đầu, Từ Hy ngồi đường bệ theo đúng nghi lễ một vị hoàng hậu. Nàng uy nghi tiếp nhận mọi người đến bái yết, nhưng khi chú và mẹ đến khấu đầu, nàng ra hiệu cho thái giám nhấc hai người dậy và mời ngồi xuống ghế. Khi cuộc lễ triều kiến hoàn tất, không ai nói gì, lúc đó Từ Hy mới nói, nàng nhìn mặt từng người. Nàng muốn đứng dậy đi xuống nói năng, trò chuyện tự do như khi xưa, chạy, nhảy tung tăng khắp nhà. Nhưng nghĩ không tiện, viên chưởng quản thái giám lúc nào cũng kè kè bên cạnh, để ý từng cử chỉ của nàng. Nàng nghĩ cũng phải có một lúc nào tự do, muốn làm gì tùy ý. Tất cả mọi người trong gia đình quây quần quanh nàng, ngồi theo thứ bực. Các vị trưởng thưởng ngồi trên ghế, người trẻ đứng, mọi người chờ để nghe nàng nói, nhưng có người lạ đứng đó làm sao nàng có thể nói được. Nàng gõ mấy ngón tay trên mặt bàn (những ngón tay có đeo tháp bằng vàng) ra hiệu gọi viên thái giám lại gần. Nàng ghé vào tai viên thái giám nói:
- Cho phép nhà ngươi và tất cả thái giám lui ra ngoài. Ta về thăm nhà phải được tự nhiên, nếu ta nói gì nhà ngươi cũng nghe, ta cử động làm một việc gì nhà ngươi cũng để ý thì không được tiện.
Viên chưởng quản thái giám nghe nói thất kinh, lẩm bẩm nói:
- Tâu lệnh bà, lệnh thiên tử bắt buộc hạ thần không được rời lệnh bà.
Từ Hy nổi giận, nàng giậm chân, gõ tay trên mặt bàn, lắc đầu lia lịa, những quả gù hạt trai trên mũ miện rung rinh.
Tên thái giám Lý Liên Anh hầu cận, thấy nàng lên cơn thịnh nộ, sợ quá, biết chuyện chẳng lành, bèn kéo tay áo viên chưởng quản:
- Đại ca đem theo ý để lệnh bà muốn làm gì tùy ý. Đại ca nên đi nghỉ. Tôi ở gần, tôi để ý trông nom thay đại ca.
Viên chưởng quản phân vân không biết nên theo lệnh Từ Hy hay đức vua. Đứng lâu đã mỏi, hắn lui vào trong một gian phòng khác.
Khi viên thái giám đi khuất, Từ Hy thấy dễ chịu, không ai dòm ngó đến mình, còn Lý Liên Anh, nàng coi như một vật vô tri, vô giác.
Nàng xuống ghế, đến nghiêng đầu trước chú, hai tay ôm mẹ, nàng khóc gục đầu trên vai mẹ. Nàng nghẹn ngào nói:
- Mẹ ơi, con cảm thấy con ở trong cung cô đơn hiu quạnh quá.
Tât cả mọi người kinh ngạc, thấy nàng than thở, vì họ tưởng nàng vinh hoa tột bậc, sung sướng, hạnh phúc lắm. Mẹ nàng cũng không biết nói gì với con, chỉ ôm con, nước mắt vắn dài.Từ Hy nghĩ, những người nàng quý mến, yêu thương nhất, cũng không giúp ích gì được cho nàng. Vì tính tự kiêu, tự phụ, nàng đang gục đầu vào vai mẹ, nàng ngửng mặt cao lên, cười khanh khách, hai mắt còn ướt đẫm lệ, kêu lên bảo em:
- Lại đây, em, nhắc hộ chị chiếc mũ này, nặng quá.
Em nàng đến nhắc chiếc mũ ở đầu chị, Lý Liên Anh vội vàng đỡ lấy, hai tay kính cẩn đặt lên bàn. Lột chiếc mũ đi, Từ Hy trở lại một thiếu nữ vui vẻ như ngày xưa, mặc dù những đồ trang sức, xiêm y của hoàng gia. Cuộc nói chuyện thân mật bắt đầu, bọn đàn bà kéo đến gần nàng, vuốt ve hai bàn tay nàng, ngắm nghía những chiếc nhẫn vàng, thấy đẹp quá, reo lên:
- Da chị trắng quá, rất mềm mại. Chị dùng thứ kem gì thế?
- Chị dùng thứ cao của Ấn Độ, một chất kem làm bằng vỏ cam, phơi khô tán nhỏ. Thứ kem này còn tốt hơn mỡ trừu nhiều.
- Còn kem, chị mua ở đâu?
- Đó là kem sữa lừa.
Bọn đàn bà tự giới hạn, loanh quanh chỉ hỏi có thế, không ai dám tò mò hỏi nàng sống ở cấm thành thế nào? Ông vua (chồng nàng) đối xử với nàng ra sao? Con nàng (Đông cung thái tử) thế nào, sợ lỡ nói câu gì gở hay vô ý nói đến màu vàng, màu hoàng sắc, mà cũng rất kiêng kỵ vì nó gợi lên hai tiếng "Suối vàng", nghĩa là chết chóc. Không ai được nói câu ghê ghớm "Chết chóc", dù nói gần nói xa đối với thiên tử hay thái tử. Từ Hy không giấu nổi sự vui mừng, sung sướng nghĩ lại những ngày còn thơ ấu, ở nhà.
- Tôi cũng muốn ẵm thằng nhỏ về chơi cho mọi người biết, tôi có xin phép vị lan quân chí tôn của tôi. Người không ưng thuận, sợ đi đường gió máy, hay gặp vía vang trêu quở. Con chắc nếu mẹ nom thấy thằng nhỏ, mẹ cũng thích lắm. Con tiếc không ẵm về chơi cho bà ngoại ẵm. Hai mắt nó to thế này (nàng vòng ngón tay cái, ngón tay trỏ) nó bụ bẫm, da dẻ thơm phức, nó không quấy khóc, lúc nào cũng đói, háu háu đòi ăn. Những chiếc răng nó trắng nõn như hạt trai, nó đã đứng được vững.
Bà mẹ nghe Từ Hy khen con khen thằng nhỏ tuấn tú, đĩnh ngộ, khỏe mạnh, bà la lên:
- Im đi cô, im đi cô, thật cô chẳng biết gì. Nếu bọn tà thần nghe thấy cô khoe khoang con thế thì hay đáo để, Cô không sợ bọn tà ma quỷ quái chỉ rình bắt những đứa trẻ xinh xắn, dễ nom.
Nói xong, bà cụ quay đầu về bốn phương, nói thật to:
"Những người cô này nói với tôi sai hết. Tôi nghe người ta nói với tôi con cô này ốm nhom, ốm nhách, xấu xí, ngu đần".
Từ Hy phì cười, lấy tay bịt mồm mẹ lại.
- Con không sợ.
- Sợ hay không, đừng có nói.
Từ Hy chỉ cười. Nàng tung tăng đi chơi khắp nhà, nhìn những gian buồng rất quen thuộc, trêu ghẹo em gái, cô em bây giờ ngủ một mình một giường.
Ngồi một mình nói chuyện với mẹ, chuyện cửa, chuyện nhà, chuyện xa, chuyện gần, nàng hỏi mẹ có đám nào hỏi em chưa, nàng cố tìm trong cái hàng quý phái một tấm chồng cho em.
- Con sẽ tìm một chàng trai khỏe mạnh, bảnh trai, con nhà quý phái, con bắt phải lấy em con.
Mẹ nghe con nói thích lắm, bà nói:
- Nếu con có thể lo cho em con, việc đó hay lắm, một việc hiếu nghĩa đối với mẹ.
Thời giờ trôi qua vùn vụt, cả nhà vui mừng việc Từ Hy về chơi nhà. Đến quá trưa, người ta dọn lên một mâm cơm rất thịnh soạn. Lư Mã tíu tít lo sửa soạn, giục giã bọn nấu bếp làm thức ăn. Gần chiều viên chưởng quản thái nói với Từ Hy sửa soạn để cáo biệt.
- Tâu lệnh bà, gần đến giờ hồi loan. Hạ thần phải tuân lệnh chúa thượng.
Biết việc về bất khả khán, nàng vui vẻ gật đầu, nàng lại nghiễm nhiên trở thành bà Tây cung thái hậu, Lý Liên Anh đem vương miện, nàng đội lên đầu. Uy nghi dưới chiếc vương miện, nàng ngồi bệ vệ giữa gian nhà rộng. Bao nhiêu người trong nhà trở lại là thần dân.
Tất cả mọi người lần lượt đến chúc tụng cáo biệt, mỗi người nàng nói một vài câu và trao cho một món quà. Riêng Lư Mã được nàng cho tiền. Sau những lời chào hỏi cuối cùng, nàng dừng lại một lúc đưa mắt nhìn gian phòng. Nàng rất sung sướng khi được sống một ngày như khi còn ấu thơ. Nàng cũng biết chuyện về thăm nhà lần này là lần đầu mà cũng là lần chót, không bao giờ có cuộc hội ngộ như thế nữa. Tuy lòng nàng vẫn như xưa, song nàng nhận thấy cũng có sự thay đổi. Đúng thế nàng vẫn được mọi người mến yêu, nhưng sự mến yêu ngầm có ý trục lợi ở trong. Chú nàng nói gần, nói xa những món nợ ông không thể trả được, các em trai nàng muốn may mặc sắm sửa, bà mẹ ân cần nhắc lại lời nàng đã hứa kiếm một tấm chồng cho em. Nàng hứa hẹn, thõa mãn mọi người, nàng để tâm thực hiện những lời nàng đã hứa. Lúc chia tay bao nhiêu lời hàn huyên, bạn bè. Số phận đã an bài, nàng phải xa nhà, xa mẹ, anh em, họ hàng.
Khi nàng đã hiểu số phận như vậy, nàng trở lại vui vẻ, không bận bịu lúc chia tay. Nàng mạnh bạo bước ra ngồi trên xe loan, viên thái giám kéo rèm che kín.
Từ Hy trở về cấm thành. Khi song loan đến cửa Ngọ môn, đội vệ binh gác cổng đã đánh trống, khua chiêng, báo hiệu đã đến giờ đóng cổng thành. Bọn lính kèn, áo dài, thổi những chiếc kèn đồng lớn, giơ lên, giơ xuống nhịp nhàng, theo tiếng trống, tiếng chiêng, thổi lên từng hồi, trong bầu không khí phẳng lặng buổi chiều tà. Tiếng chuông đồng gõ lên ba hồi, báo hiệu hết ngày, trong cấm thành, nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Màn đêm từ từ buông xuống. Bọn lính tuần canh lên các chòi canh. Chiếc song loan qua cổng thành. Từ Hy ngồi trong xe loan cổng thành đóng lại.
Mùa đông năm đó, trời rét hơn mọi năm, những trận bão gió từ phương Bắc thổi xuống... Mọi sự sinh hoạt bị tê liệt.
Sự giao dịch với người ngoại quốc mỗi ngày một phiền toái, khó khăn, tình thế có vẻ khẩn trương.
Triều đình nhà Thanh tìm cách hòa hoãn cho đến khi tổ chức được một đoàn quân tinh nhụê để có thể đương đầu tự vệ. Nhưng chưa có kế hoạch chỉnh đốn binh mã. Một vấn đề trọng đại, sự tồn vong cả một quốc gia, vượt khả năng một ông vua quen sống an nhàn, hưởng thụ, ông lo lắng quá, mất ăn mất ngủ. Sự thanh bình bị một cuồng lực đe dọa. Cái gì sẽ thắng: Cuồng bạo hay ôn hòa?
Tình thế mỗi ngày một nguy ngập, ông vua cuống cuồng lo sợ không biết xoay sở cách nào trong lúc bối rối, ông nghĩ đến nhờ thần lực để phù trợ. Ông xuống chiếu tái lập một cổ lễ đã bỏ từ đời nhà Minh; nhân tiết thanh minh thiết lập trai đàn cúng lễ liệt vị Tiên đế hoàng triều. Trai đàn thiết lập trong một ngôi đền rất cổ xưa, tọa lạc một nơi rất rộng, có những cây thông cổ thụ hàng mấy trăm năm, thân cây vặn vẹo, ngả nghiêng trải qua mưa gió của thời gian. Không có tiếng chim muông, về mùa xuân chỉ có đàn hạc trắng đến làm tổ, đẻ trứng trên cây, sang thu đàn chim lại bay đi.
Hoàng thượng cùng các thân vương, đình thần đến làm lễ. Giờ hành lễ, một giờ trước rạng đông, sương mù dày đặc, nhìn không rõ mặt. Hai hôm trước ngày lễ, người ta lấy ở thư viện hoàng gia những bài vị của các Tiên vương nhà Thanh. Dưới bóng hàng thông dày đặc che phủ không một tia sáng lọt qua, trong đền ngoài sân tối đen, bọn thái giám phải thắp những ngọn đèn lồng lớn.
Lễ nghi đã sữa soạn xong chỉ còn chờ thiên tử đến hành lễ. Ngày hôm trước ông vua phải trai giới không ăn, không uống, không ngủ. Trong ba ngày toàn dân không được ăn thịt, ăn tỏi, dầu, mỡ, rượu và ca hát. Các tòa án đóng cửa ba hôm liền, không một vụ án nào được đem ra xét sử.
Trong khi trời còn tối đất, viên quan coi về phẩm vật cúng tế, báo cáo đã giết mấy con vật làm lễ, huyết để vào một chiếc chậu, đem chôn cùng với long. Các thân vương bá cáo bài văn tế đã làm xong, bài văn tế mà thiên tử đọc trước bàn thờ các vị Tiên vương, cầu xin cho triều đại được thịnh trị, toàn dân được an cư lạc nghiệp.
Khi bài văn tế được đọc xong thì trời vừa sáng, những con chim bồ câu trắng ngủ dưới mái hiên đình thức dậy. Xào xạc bay lượn trên những ngọn thông, những cây nến đã tắt. Gió thổi, bụi, cát bay xoắn ốc tròn trong đền dưới ánh sáng vàng nhạt mặt trời mới mọc. Xa giá hồi loan, hoàng thượng trở về hoàng cung. Dân gian lại tiếp tục công việc thường nhật, tin tưởng thiên tử đã làm lễ cầu an, xin trời phật, các Tiên đế hộ trì cho trăm họ an lạc.
Cuộc tế "Giao" Thiên Địa, Tiên vương, nhân tiết thanh minh đầu xuân để xin ơn trên phù hộ cho quốc thái dân an, hoàng thượng vững lòng nên đến tháng sáu âm lịch để tránh mùa hè nóng bức ở thành kinh, hoàng thượng quyết nghị đem lưỡng cung và triều đình đi nghỉ mát ở Di Hòa cung.
Đã lâu nhà vua đi nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng nhưng công việc quốc gia đa đoan, không sao đi được.
Hoàng thượng vẫn sợ khi vắng ngài ở kinh thành, bọn giặc người Hán nổi lên chiếm hoàng thành hay bọn người Tây phương, đột nhiên kéo hạm đội, chiến thuyền lên phía Bắc, như họ đã từng dọa nhiều lần. Nhưng những biến cố nguy kịch đó hiện nay không có, mà ví dù viên tổng đốc Lưỡng Quảng có gửi những tờ phúc trình khẩn cấp về tình thế thì kế hoạch đã hoạch định sẵn là chính sách trường kỳ, kéo dài thời gian, lúc này án binh bất động.
Một buổi chiều trăng tròn, Từ Hy với dáng điệu thướt tha, kiều diễm, mồm chúm chím cười, một nụ cười làm mê hoặc, ngây ngất người khác đến bảo ông vua:
- Hoàng thượng cho thần thiếp đi phò giá. Gió đồi núi trong lành rất thích hợp để thân thể khang cường.
Ông vua này cần phải tĩnh dưỡng, bồi bổ để phục hồi khí lực. Ông bị bệnh tê liệt trong năm năm nay, nhiều khi ông không thể đi được. Lúc đi ông phải vịn vào hai vai thái giám, làm như hai chiếc nạng. Ông không thể giơ cao hai bàn tay khỏi đầu. Nửa người về phía trái hoàn toàn bị tê liệt, cử động vô cùng khó khăn, nặng nề. Được một người đàn bà trẻ đẹp như để sưởi tấm thân đau đớn, bệnh hoạn, an ủi được phần nào, nên khi nghe nàng nói đi nghỉ mát để thân thể được tráng kiện, ông nghe ngay. Ông xuống chiếu cho tổ chức cuộc thừa lương trong một tháng nữa. Cung điện Viên Minh cách xa kinh thành 13 cây số.
Tuy dáng điệu uy nghi, đường đường một bà thái hậu song Từ Hy còn ít tuổi, có thanh niên tính, nên nghĩ đến chuyện đi ngao du miền sơn cước, trong lòng vô cùng thích thú, sung sướng. Sự thực, nàng không thích những cung điện đồ sộ, nguy nga, cổ kính, khắc khổ, số phận đã đem nàng đến giam hãm ở đó, nàng muốn có những tư thất riêng biệt, có những mảnh vườn xinh xinh, không ai biết tới, một nơi vắng vẻ, tĩnh mịch, để tĩnh dưỡng, nghỉ ngơi xa lánh những chuyện về quốc gia đại sự. Nàng nuôi ở trong cung một con chó cái, con chó này đã đẻ một lũ chó con, nàng chăm nom, tiêu khiển cũng như những con chim rất đẹp, đủ màu sắc, nuôi trong lòng. Tính nàng thích những con vật sống tự do theo thiên nhiên bay nhảy. Nàng bắt chước tiếng kêu con dế, thường đậu trên ngón tay nàng, và nàng tập bắt chước tiếng hót chim họa mi thường bay lượn trên đầu nàng. Nàng thích những con vật đó, chúng cũng mến nàng. Thỉnh thoảng, nàng đặt con ngồi trên đùi, hai mẹ con ngồi nhìn những chú vịt con mới nở, hay những con cho nhảy nhót, nô đùa. Những lúc đó tiếng cười của bà Tây cung rất hồn nhiên, các thể nữ phải mỉm cười, lấy quạt che mồm. Từ Hy không để ý người nào chê cười hay chỉ trích, nàng rất hồn nhiên như những con vật nàng đang đùa với chúng. Tuy chu vi cấm thành rộng lớn đến sáu cây số vuông, Từ Hy vẫn thấy bực bội, nàng muốn ra Viên Minh nàng vẫn thường nghe nói nơi đó, phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp.
Viên Minh, một nơi thừa lương, đã được xây cất cách đây hàng mấy thế kỷ, gần một suối nước chảy bất tận, nước trong suối rất mát, hương vị ngọt, người ta mệnh danh là Suối Ngọc. Vườn Viên Minh trước khi bị giặc tàn phá, hai thế kỷ sau, dưới triều tiên đế Khang Hy. Được trùng tu dưới triều vua Càn Long, một khu vườn bát ngát, có bề rộng, có bề sâu, có những chiếc cầu bằng cẩm thạch bắt ngang qua sông, do những rất tinh xảo được kén chọn vào làm. Vua Càn Long rất vinh dự Viên Minh, cảnh vật thiên nhiên lại được bàn tay con người tô điểm, một nơi thừa lương lộng lẫy, hùng vĩ.
Vua Càn Long nghe nói vua nước Pháp ở một xứ nào xa xôi, có những hoa viên rất đẹp, vua có hỏi những nhà truyền giáo và những nhà ngoại giao Pháp. Hồi đó các vua nhà Thanh giao hảo với người Tây Phương vì không hiểu dã tâm của họ. Khi vua Càn Long nghe các cố đạo tả cảnh những lâu đài, cung điện của vua nước Pháp, Càn long cũng muốn lập nên cung điện theo kiểu đó. Các nhà truyền giáo muốn lấy lòng vua Càn Long đem ở Ýở Pháp sang những họa đồ các cung điện vua, chúa Âu Châu. Vua Càn Long chọn lựa những kiểu mẫu hợp ý. Khi vua Càn Long băng hà, cung điện đóng cửa.
Người kế vị vua Càn Long (Vua Nhân Tôn) thích ở nhiệt Hà (Jehol). Ở đó cũng xây cất cung điện rất nguy nga. Ông vua này bị sét đánh chết vào một mùa hè có cơn giông tố. Vua Nhân Tôn lập thế tử lên kế vị tức là vua Đạo Quang thân phụ kim thượng Hàm Phong. Vua Quang Đạo tính tằn tiện, không muốn hao tổn công quỹ, nên về mùa nóng không đưa quần thần lên thừa lương ở Viên Minh.
Cuộc khởi hành lên Viên Minh, được tổ chức vào một buổi sáng mùa hạ lúc trời chưa sáng rõ trước sự hân hoan của mọi người. Tất cả đình thần, văn võ, bá quan, cung tần, mỹ nữ ở hai cung, các thân vương đều được đi theo hộ giá. Sáng hôm đó đẹp trời, đường đi ẩm ướt có sương mai. Từ Hy dậy rất sớm, ăn vận thuờng phục để đi về vùng quê, đồ trang sức, nàng chỉ đeo có chuỗi hạt traị.. Nàng sửa soạn xong đã lâu vua mới thức dậy.
Vào giờ mão, xe chuyển bánh, cuộc khởi hành bắt đầu. Đi đầu có năm lá cờ ngũ hành, cờ tiết mao, phủ việt, các thân vương, hoàng tộc, ngự lâm quân cưỡi ngựa dưới quyền chỉ huy Nhung Lữ cưỡi con ngựa bạch đi đầụ.. Tiếp theo là võng Từ Hy, có thái tử và người vú em. Tiếp theo là võng bà Đông cung (Từ An) rồi đến ngọc liễn vua ngự. Hai bà hoàng hậu này không nhìn mặt nhau đã hai tháng nay. Sáng hôm đó Từ Hy nhìn thấy nét mặt ốm yếu xanh xao của bà Đông cung, Từ Hy hối hận đã quá vô tình, nguyện từ nay thắt lại tình chị em.
Suốt dọc đường, đám rướt đi qua, có cắm cờ đuôi theo, như báo hiệu cho dân chúng biết giờ hoàng thượng đi qua, cấm chỉ đàn ông, đàn bà, con nít đến những quãng đường có cắm cờ. Đám rước đi qua những đường phố, cửa đóng im ỉm, không một bóng người qua lại, hoàn toàn phẳng lặng, không một tiếng động.
Khi đến Viên Minh, Từ Hy truyền làm bánh ngọt, bánh mặn, pha trà xanh, thứ trà bà ưa dùng, bà tắm rửa, mặt bộ đồ mát bằng lụa rồi đi nằm. Gió đêm ở đây mát rượi, hây hẩy, bà lạ chổ không sao ngủ được.
Bà đứng tựa cửa sổ nhìn ra ngoài, trong khi các viên chức tùy tùng, đi đường mệt mỏi, ngủ đã lâu. Chỗ cung nàng ở xây trên một mõm đất cao hơn trường thành, đứng ở đó có thể nhìn bao quát dãy núi ở xa dưới ánh trăng soi. Cảnh vật êm đềm, yên tĩnh, không khí mát rượi, ánh trăng khi tỏ, khi mờ, tâm hồn bà thư thái, thấy thiu thỉu buồn ngủ. Dưới bóng trăng thanh, gió đưa thoang thoảng mùi hoa huệ, tiếng ve sầu kêu ra rả trước mùa. Bà cảm thấy tinh thần sảng khoái, những chuyện chiến tranh, nhiễu loạn, tạm gác một bên, thân tâm thư thái do ảnh hưởng của ngoại cảnh. Bên tay mặt cạnh cung bà là cung Vân Phi, cung bà thái hậu Từ An.
Không nhất định phải là ngày mai, bà chờ hôm nào trong lòng thật thư thái, bà sẽ sang chơi nhà người chị họ, bà thái hậu Từ An, nối lại tình giao hảo. Nghĩ cũng thấy lạ, hai chị em lúc mhỏ sống chung nhà ở phố Hàng Thiết, giờ đây lại gần nhau, cùng chung một chồng. Ngồi miên man suy nghĩ, bà liên tưởng đến Nhung Lữ, nhớ lại một lần đã bốn mắt gặp nhau, đột nhiên trong lòng thấy muốn nghe tiếng chàng, muốn có chàng ở bên cạnh lúc này thì thích quá. Làm sao nàng không cho gọi chàng đến, nói là để hỏi han, bàn bạc một việc gì? Nhưng biết lấy cớ gì để gọi chàng đến. Cố tìm một lý do, bà sực nghĩ đến lời hứa với mẹ, kiếm một tấm chồng cho em. Như thế, lý do rất vững chắc, xác đáng, một câu chuyện như vậy cần phải bàn bạc với một người trong họ. Nàng có thể nói rõ với tên thái giám Lý Liên Anh không cần giấu giếm:
"Ta có một việc nhà cần phải giải quyết về lời ta hứa với mẹ ta. Ta muốn thảo luận với người anh họ, viên quản ngự lâm quân.
Trăng thanh, gió mát, trong không khí phảng phất mùi hương thơm ngát, trong lòng phơi phới, nàng cảm thấy sung sướng, hạnh phúc. Giữa khung cảnh thần tiên như thế này, người ta có thể làm được một việc gì khác thường.
Nàng buồn ngủ, leo lên giường nằm, xung quang các thể nữ đã ngủ, trãi đệm xuống nền nhà.
Sáng hôm sau, trời quang đãng, tuy không có gió rất mát trời, đêm qua, mưa ở mạn Bắc xa xa, Từ Hy thấy xung quanh, mọi việc như khác lạ, nàng hí hửng sung sướng như một đứa trẻ nhỏ. Nàng muốn đi xem tất cả cùng một lúc:cung điện, lâu đài, hồ nước, dòng sông uốn khúc, vườn hoa, đình tạ. Lại ở trong cung điện có bao nhiêu thứ tàng trữ từ hai thế kỷ nay của các vua chúa hoàng triều. Có hàng trăm ngàn tấm lụa, những bọc lớn lông thú ở Tây Bá Lợi Á, những đồ vật kỳ diệu của các nước Tây phương, những cống phẩm của Tây Tạng, Thổ Nhĩ Kỳ, Cao Ly, Nhật bản và các tiểu quốc chư hầu nhờ ơn thiên tử bảo hộ. Người ta cũng thấy đồ gỗ rất đẹp, những sản phẩm rất quý của các tỉnh miền Nam, những đồ trang trí bằng ngọc, bạc, vàng, những lọ cắm hoa bằng vàng có gắn những viên đá quý của Ấn Độ.
Theo lệnh thiên tử, chiều chiều gánh hát của hoàng triều diễn tuồng. Lần đầu khi vừa được tuyển vào cung, Từ Hy được coi tuồng thỏa thích, nàng đã đọc nhiều sách những tiểu thuyết lịch sử, nghiên cứu về hội họa, những bản văn cổ, nhưng khi nhìn lên sân khấu, thấy những nhân vật xuất hiện trước mắt bằng da, bằng thịt. Nàng tưởng tượng như đang cùng sống với các bà hoàng, bà chúa xa xưa. Khi tan hát, nàng đi ngủ, thấy lòng buồn khi coi một vỡ tuồng buồn, lòng thấy vui khi coi một vở tuồng vui, nhưng dù buồn hay vui nàng rất thích thú.
Tất cả những kho tàng chồng cất ở Viên Minh, nàng thích nhất là Bảo Quốc thư viện. Tiên đế Càn Long đã mất bao nhiêu công để thu thập những cổ thư từ 4000 năm. Nhà vua sai bọn nho sĩ sưu tầm, sao lục những cổ thư, rải rác khắp trong nước, kết tinh lại thành một kho tàng vô cùng có giá trị. Để đề phòng các giặc giã hay hỏa hoạn phá hủy, người ta chép mỗi cuốn sách làm hai bản, một bản lưu trong thư viện hoàng gia ở hoàng thành, một bản để ở thư viện Bảo Quốc Viên Minh. Từ Hy chưa được coi những cuốn cổ thư, vì những bản lưu trữ ở trong hoàng thành, trong cung Văn khế quốc bảo, mỗi năm chỉ đem ra một lần, nhân ngày lễ văn học. Những bậc đại nho đọc, trích lục và bình giải để hoàng thuợng thưởng lãm. Vua Thế tổ (Tần Thủy Hoàng) cách đây 1800 năm, dùng chính sách bạo ngược phần thư khanh nho (đốt sách, chôn sống học trò) hũy diệt nền văn hóa cổ để dễ bể cai trị. Để bảo toàn những khuôn vàng, thước ngọc của Khổng phu tử được lưu truyền mãi mãi cho hậu thế, nên Tứ Thư và Ngũ Kinh được khắc vào đá, cát trong cung Văn Hiến, các cửa ra vào bao giờ cũng đóng kín.
Viên Minh, Từ Hy chỉ đọc sách khi nào trời mát hay bà chán ngắm phong cảnh.
Thấm thoắt ở Viên Minh đã ba tuần, tuy bà còn rất nhiều công việc bận rộn nhưng cuộc đua thuyền rồng, ngao du ngắm phong cảnh, chơi với con những đêm vào hầu vua, tuy nhiên hình ảnh Nhung Lữ vẫn canh cánh trong lòng. Hình ảnh chàng như in sâu trong tâm não không thể nào quên được, muốn được trò chuyện, gần gũi chàng.
Một hôm, bà đã chán những thú vui thường ngày ở Viên Minh, bà quyết định thực hiện ý nghĩ, một hoài bão mà bà do dự nay lần mai lữa. Bà ra hiệu bảo Lý Liên Anh đến gần. Người thái giám này lúc nào cũng ở gần bà, như một tên cận vệ. Khi nom thấy ngón tay bà đeo đầy nhẫn ngoắc, anh vội vàng chạy đến, quỳ trước mặt, đầu cúi để nhận chỉ thị.
Bà nói rất rõ, dõng dạc:
- Có một việc làm bà băn khoăn suy nghĩ, là lời ta hứa với mẹ ta về viện hôn nhân của em gái ta. Mấy tháng trời đã trôi qua, ta vẫn chưa thực hiện lời hứa đó. Chắc ở nhà mẹ ta mong lắm. Nhưng ở đây có ai thân thích để ta bàn luận. Hôm qua ta nhớ ra viên quản ngự lâm quân là anh em họ với ta. Chỉ có hắn mới giúp ta được. Mi đi triệu thỉnh hắn vào trình diện ta.
Bà nói mấy lời đó trước mặt các thể nữ. Vì địa vị cao sang, bà làm gì phải minh bạch, không có việc gì gọi là bí mật. Mọi công việc phải làm giữa thanh thiên bạch nhật, mọi người nom và nghe thấy. Ra lệnh cho tên thái giám xong bà lại bệ vệ ngồi trên ngai, một chiếc ngai chạm trổ rất đẹp, cẩn Ngà Diến Điện. Bọn thể nữ nghe mấy lời bà truyền không ai tỏ vẻ ngạc nhiên.
Lý Liên Anh, bây giờ đã biết tính bà chúa, hắn phải tuân lệnh ngay, nếu chậm trễ bà nổi cơn lôi đình, sự nguy hại không thể nào lường. Không ai có thể nghi ngờ những ý nghĩ đen tối, không ai giám nói, giám hỏi. Lý Liên Anh còn nhớ, một hôm đã lâu, hắn được sai đi gọi Nhung Lữ, hắn đã dắt Nhung Lữ đến tận cửa phòng nàng. Khi Nhung Lữ bước vào, cửa phòng đóng kín, Lý Liên Anh đứng với một a hoàn hàng bao nhiêu giờ, chờ ngoài sân.
Chỉ có hai người a hoàn và Lý Liên Anh biết có Nhung Lữ trong phòng nàng. Đến chiều, khi Nhung Lữ ra đi, nét mặt có ý khác, không nói một lời nào, không nhìn người thái giám đứng đó. Đến hôm sau, Yehonala phụng chỉ lên hầu hoàng thượng. Mười tháng sau thế tử chào đời.
Ai biết... Ai có thể biết...?
Nghĩ đến chuyện trước đã được chứng kiến, Lý Liên Anh mỉm cười, hai tay xoa vào nhau, đi gọi Nhung Lữ vào hầu.
Ngày hôm xa xôi đó ở hoàng cung, lần đầu và cũng là lần chót, Từ Hy bí mật tiếp xúc với người anh họ. Sau ngày ấy bà tiếp người anh họ công khai giữa bọn thể nữ. Bà ngồi trên ngai trong một gian phòng rông lớn, bà chờ Nhung Lữ đến, khung cảnh này rất thích hợp. Những tấm tranh lụa treo trên tường, chiếc ngai dựa lưng vào tấm bình phong bằng bạch ngọc, xung quanh có bày những chậu bông, giữa một khung cảnh nguy nga, tráng lệ như thế bà thái hậu vẫn có những phụ tính, bà để ý nhìn con chó đang vờn bốn con mèo nhỏ. Bà ở trên ngai bước xuống, lại gần mấy con vật. Bà thủng thẳng đi khắp gian phòng giữa các thể nữ, khen người này có nước da sáng, người kia có mái tóc uốn đẹp. Khi bà nghe thấy tên giám tiến gần đến kèm theo có tiếng chân người mạnh bạo bước theo, bà vội vàng trở lên ngồi trên ngai, hai chân bắt chéo, hai bàn tay đầy nhẫn, với dáng điệu bệ vệ, uy nghi, bọn thể nữ mỉm cười, lấy quạt che mồm.
Nét mặt nghiêm nghị, dáng điệu uy nghi, hai con mắt lớn, long lanh, trong khi Nhung Lữ tiến lại gần, mặc bộ đồ quân phục, chiếc áo dài bằng vóc đỏ, quần nhung đen. Hắn tiến lên chín bước, mắt nhìn xuống, đến quỳ trước mặt nàng. Nhung Lữ ngẩng đầu nhìn người mà hắn thầm yêu rồi cúi mặt nhìn xuống.
Từ Hy nói với một giọng êm ái.
- Đã lâu, chưa gặp anh.
- Thưa lệnh bà cũng đã lâu.
Nàng ngồi trên ngai cao ngắm chàng, hai bên mép nhếch một nụ cười.
- Tôi có một việc muốn thảo luận với anh, vì thế tôi cho mời anh đến.
- Xin phụng chỉ lệnh bà.
- Em gái tôi đã đếnn tuổi cặp kê. Chắc anh cũng biết nó. Chắc anh cũng còn nhớ con nhỏ quê mùa, khó tính, lúc nào cũng nhăn nhó...
Nhung Lữ vẫn cúi mặt xuống nói.
- Thưa lệnh bà, tôi nhớ hết, quên làm sao được.
Từ Hy nghe mấy câu nói đó bao hàm bao nhiêu ý nghĩa trong lòng nàng thích lắm.
Ta nói em gái ta đã đến tuổi cặp kê, nó lớn lên, tính nết, hình vóc đã thay đổi, tính nết nó không còn như hồi nhỏ, người nó mảnh dẻ,cặp lông mày cong vút, đẹp như cặp mày của tôị..
Nàng ngửng lấy ngón tay chỉ, vuốt đôi lông mày lá liễu. Ta hứa gã nó với một ông hoàng, anh xem có ai xứng đáng để ta làm mối không? Anh hãy kể cho ta nghe các vị thân vương trong triều.
- Thưa lệnh bà, hạ thần sao có thể biết rõ hơn lệnh bà.
- Anh quen biết hết. Cái gì anh cũng am tường. Tôi chắc ở trong này, người ta có việc gì cũng đến vấn kế anh.
Nói xong, nàng ngồi yên chờ câu trả lời, thấy Nhung Lữ không nói gì, bà quay lại bảo bọn thể nữ:
- Các người hãy đi chỗ khác. Có các người, anh ta không nói gì được. Các người nghe chuyện rồi ngồi lê mách lẻo đi nói khắp tất cả. Thôi các người hãy lui ra để ta nói chuyện.
Bọn thể nữ được lệnh kéo nhau ra hết như một đàn bướm. Từ Hy, mồm mỉm cười, bước xuống ngai. Nhung Lữ vẫn quỳ yên không nhúc nhích, Từ Hy đến gần sờ tay vào vai hắn.
- Đứng lên, anh, không có ai nghe thấy chúng mình nói chyện, người thái giám có hắn ở đây cũng như không, nó như phổng không hiểu biết gì hết.
- Nhung Lữ uể oải đứng dậy, nhưng vẫn đứng cách xa nàng. Hắn khẽ nói:
- Tôi ngại nhất bọn hoạn quan.
- Ai chứ thằng này không đáng ngại. Nếu nó hở ra phản tôi một lời nào, tôi nghiến nát đầu nó như bóp nát một con ruồi.
Nàng vừa nói, vừa làm cử chỉ, xát ngón tay cái ngón tay chỉ.
- Anh ra ngồi đằng kia trên chiếc đôn đá, tôi đứng dậy. Anh không thấy đứng cách xa thế là đủ rồi đấy ư? Anh không phải sợ hãi gì hết. Tôi biết đối với anh cần phải giữ ý tứ. Tôi đã mãn nguyện được như ý, đứa con trai: Thế tử.
Nhung Lữ có vẻ giận giữ nói khẽ:
- Bà nên im không nên nhắc khẽ.
Từ Hy nhìn chàng với hai con mắt ngây thơ.
- Thế nào, nên chọn người nào cho em tôi?
Ngồi ở chiếc mép đôn bà chỉ, hắn suy nghĩ một lúc lâu.
Từ Hy lại hỏi tiếp:
- Bảy người anh em của hoàng thượng, người nào khả dĩ mình có thể chọn được?
Nhung Lữ nói:
- Nhưng dù sao không phải làm lẽ mọn?
Từ Hy nhìn chàng với vẻ ngạc nhiên.
- Tại sao lại không thể được? Chính tôi đây cũng làm lẽ cho đến ngày sinh hoàng nam.
- Làm lẽ vuạ.. Bây giờ lệnh bà đã lên ngôi hoàng hậu. Em gái bà hoang hậu không thể nào làm lẽ dù là làm lẽ một thân vương.
- Nếu thế chỉ còn đệ thất thân vương chưa có vợ. Nhưng hắn không được đẹp trai như mấy người kia, mồm to, nội chỗ hai mắt ti hí như vô thần, mặt nom buồn tẻ. Tôi mong em tôi không như tôi, chú trọng vào khuôn mặt.
Bà nhìn đi chỗ khác, hai con mắt dưới hai hàng lông mi dài, Nhung Lữ cũng quay đầu đi.
- Nét mặt của thân vương Chuân không có gì là ác. Theo ý tôi mặc mày dù sao không đáng kể nhưng đừng có tâm địa ác.
Từ Hy kêu lên:
- Diện mạo, anh không cho là quan hệ hay sao? Đừng tưởng là ông hoàng thế nào cũng được.
Nhung Lữ không phản đối, thủng thẳng nói:
- Diện mạo không, chưa đủ.
Từ Hy nhún vai:
- Được rồi nếu anh ưng thuận thân vương Chuân, tôi biên thơ cho bà bà cụ biết.
Thấy thái độ hờ hững, lãnh đạm của Nhung Lữ, đột nhiên bà nổi cơn tức giận, bà đùng đùng đứng dậy, ngụ ý muốn chấm dứt cuộc hội thảo. Bà nói giọng lững lờ:
- Nếu tôi đoán không nhầm anh đã lập gia đình rồi?
Cùng lúc đó, Nhung Lữ đứng dậy, dáng dấp bình tĩnh, mạnh mẽ.
- Hiện giờ tôi chưa lấy ai.
Đột nhiên bà lại đổi thái độ, mặt mày tươi tỉnh, giọng nói mềm mại như lúc trước.
- Nhưng phải lấy vợ chứ?
Hai tay bà chắp vào nhau, nét mặt trầm ngâm, suy nghĩ.
- Tôi mong anh kiếm vợ, lập gia đình đi.
- Vâng, cái đó cũng chưa gấp.
Hắn cúi đầu chào, lùi lũi đi ra, không nói một lời nào.
Bà đứng yên, không hiểu sao hắn lại nguây nguẩy đi ngay. Hai mắt bà lanh như chim cắt, thoáng nhìn thấy rèm che cửa động đậy. Có người do thám. Bà rón rén bước lại gần, lấy tay kéo mạnh rèm kéo cửa, thấy có bóng người nấp ở phía sau. Đó là người thiếu nữ Mai, con gái viên Tải Thản. Từ Hy hầm hầm, thét lên hỏi:
- Mi đứng làm gì ở đây?
- Người thiếu nữ mặt cúi gầm, sợ quá. Bà gạn hỏi?
- Nói mau, làm sao mi rình mò, dò la ta?
Mai nói rất khẽ như htở không ra hơi:
- Tâu lệnh bà, không phải con rình mò lệnh bà.
- Thế mày rình mò ai? Người con gái im không nói.
- Mày không trả lời tao hả?
Từ Hy nhìn người thiếu nữ, hình dáng như một đứa con nít, sợ quá, co rúm cả người. Bà không nói gì, xoắn hai tay lại, giật mạnh.
- Không phải tao, mày rình mò, mày để ý đến hắn phải không? Mày thấy nó đẹp trai hả? Mày mê nó hả?
Hai bàn tay đeo đầy nhẫn của bà ôm mặt con nhỏ, nó chỉ ngửng nhìn không biết nói sao, không dám tự vệ.
- Từ Hy lại lắc nó thật mạnh.
- Mày dám mê nó hả?
Người thiếu nữ đau quá, khóc thét lên, Từ Hy buông tay ra. Bà kéo tai nó mạnh quá, máu chảy nhỏ giọt ở đôi bông tai.
Với một giọng khinh bỉ, Từ Hy hỏi:
- Mày tưởng dễ thường người ta dễ yêu mày hả?
Người thiếu nữ vừa nói, vừa khóc:
- Thưa lệnh bà, con biết người ta không yêu con. Hắn chỉ yêu có...lệnh bà. Tất cả chúng con ai cũng biết.
Từ Hy không ngờ nó dám trả lời. Đáng lý bà đánh con này một trận nhừ tử về tội mạ ly, vu khống, nhưng trong lòng bà lại thấy thế làm thích thú, bà nên biết nên cười hay cho nó mấy tát để thị uy. Bà nghĩ cần cả hai. Nghe con nhỏ nói thật thà, ngây thơ, bà mỉm cười. Thấy các thể nữ ở ngoài sân thò đầu nhìn vào vì thấy ở trong ồn ào không hiểu chuyện gì, để giữ thể diện bà giang tay tát người thiếu nữ, tuy nghe đôm đốm nhưng không nghe đau đớn gì.
- Muốn sống cút ngay đi không thôi ta giết chết, mày làm tao xấu hổ quá. Tao không muốn nhìn mặt mày.
Bà quay đi, dáng rất yêu kiều, yểu điệu, trèo lên ngai ngồi, mồm hơi mỉm cười. Người thiếu nữ rón rén ra cửa rồi biến mất dạng ở các hành lang.
Từ ngày hôm đó, hình ảnh Nhung Lữ như càng in sâu trong tâm trì Từ Hy. Bà không tiện gọi hắn đến, nhưng bà muốn lập một kế làm sao năng gặp được hắn luôn, mà rất tự nhiên không phải e ngại, che mắt mọi người. Ban ngày, dù đi đâu hay làm gì, đêm ngủ, cựa mình dậy, hình ảnh hắn lúc nào cũng luẩn quẩn trong tâm trí. Nếu bà đi coi hát tuồng, bà hình dung, tưởng tượng như nét mặt chàng xuất hiện trên khuôn mặt các kép đóng trẻ, tiếng nói, tiếng hát của các kép, bà nghe ra tiếng nói, tiếng hát của chàng.
Ngày qua, tháng trọn, suốt cả mùa hè, bà như đã quen sống cảnh thừa lương nhàn hạ, bà lại càng mơ mộng đến cuộc tình ái. Trời như sinh bà ra để yêu thương, ngoài Nhung Lữ bà không thể yêu một người đàn ông nào khác.
Trong những đêm gần ông vua, nhiều khi nàng rất suồng sã, rất đa tình, ông vua rất yên chí tưởng nàng chân thành, thích thú được gần ông, nhưng thực sự nàng chỉ lấy ông làm một hình ảnh để tưởng tượng đến người khác.
Tuy vậy, nàng không phải là một hạng đàn bà chỉ sống trong tưởng tượng, nàng cần phải có sự tiếp xúc thật sự bằng da, bằng thịt. Những mơ mộng tưởng tượng, nàng chuyển sang địa hạt thực tế. Nàng mưu định phong quyền cao chức trọng cho Nhung Lữ có giữ chàng ở gần bên, dùng cái chiêu bài họ hàng, thân thích như một tấm bình phong để thực hiện những mưu đồ xấu xa như một cơn sốt kinh niên. Phải biết rõ những người thù ngịch với mình: Tải Thản cơ mật vụ đại thần, ghen ghét vì phải ở dưới quyền nàng, rồi hai thân vương Đoan Hoa và Túc Thuận. Nàng có một người tâm phúc là An Đắc Hải, viên chưởng quản thái giám. Nàng nheo mày, nhớ người ta đồn hắn không phải thực sự là một hoạn quan, hắn vẫn âm thần tư thông với các cung phi.
Nàng cũng không quên nghĩ đến người thể nữ Mai, con gái Tản Thản, nàng nghĩ không nên gây ác cảm với người thiếu nữ đó. Phải dùng con này như một người tâm phúc. Sao lại không biết lợi dụng mối tình của nó để phụ Nhung Lữ? Sao nàng lại có thái độ hung bạo, ghen tức? Phải tìm cách làm hòa việc đáng tiếc xảy ra hôm nọ. Nàng cho gọi Mai đến, phủ dụ, dỗ dành nó, hứa hẹn khi nào thấy thuận tiện, bà thái hậu sẽ làm mối cho nó lấy Nhung Lữ. Gán ép Nhung Lữ lấy nó có hai điều lợi, có cớ để cất nhắc Nhung Lữ lên một địa vị cao, khi hắn có một địa vị cao, nàng sẽ được gần gũi hơn. Bây giờ nàng đã hiểu, phải tương kế tựu kế mới đạt được mục đích. Nàng phải tìm cách để người yêu của nàng leo lên một địa vị cao, có phần trước.
Bà rất thận trọng xếp đặt kế hoạch, không hấp tấp vội vàng. Nàng chờ cho hết bảy hôm, Mai bị cấm không được vào hầu, hết hạn bảy hôm, nàng cho Lý Liên Anh gọi Mai đến. Người thiếu nữ được triệu thỉnh, vội vàng đến, quỳ trước mặt bà.
Từ Hy ngồi trên ngai phụng ở vạn Hoa cung, một cung nhỏ, nàng thích nhất. Người thiếu nữ làm lễ khấu đầu, quỳ trước mặt ngai, một lúc sau bà đứng dậy xuống ngai đến đỡ dậy.
Với một giọng âu yếm, bà nói:
- Mới có một tuần, nom mi khác trước, có phần ốm hơn.
- Tâu lệnh bà, thấy lệnh bà giận con, con hối hận quá, không ăn, không ngủ được.
Ngồi xuống con, bây giờ ta hết giận rồi. Ta muốn biết con có được mạnh không?
Bà chỉ chiếc ghế ch ngồi cạnh bà, nắm bàn tay Mai, bà vuốt ve.
- Con ơi, con muốn yêu ai, tùy ý con. Sao con không lấy tên quản ngự lâm, hắn vừa trẻ vừa đẹp trai?
Người thiếu nữ không thể ngờ tưởng được nghe những câu nói đó, ở chính miệng bà thái hậu nói ra. Nàng đỏ mặt, nước mắt ràn rụa, nắm chặt hai bàn tay bà thái hậu.
- Tâu lệnh bà, con tôn thờ bà...
- Suỵt... Ta không phải là thần, Phật...
Giọng người thiếu nữ run run:
- Tâu lệnh bà, đối với con, lệnh bà là vị phật Quan Âm hiện thân, cứu khổ, cứu nạn...
Từ Hy nở một nụ cười sung sướng:
- Thôi, thôi, đừng tâng bốc ta quá. Ta có một kế hoạch.
- Một kế hoạch?
- Phải có kế hoạch chứ.
- Xin tuân theo tôn ý lệnh bà.
- Kế hoạch đó, ta nghĩ như thế này. Sắp đến ngày đầy năm thế tử, có nhiều cuộc du ý, yến tiệc. Hôm đó ta mời người anh họ Nhung Lữ đến dự tiệc, để mọi người thấy hắn có họ hàng với ta, hắn được trọng vọng, ưu đãi. Kế hoạch đó để không ai dám dị nghị, ghen tức khi ta cất nhắc hắn lên một địa vị cao sang. Cũng vì con, ta có ý định nâng đỡ hắn để hắn có một phẩm tước ít nhất cũng phải ngang hàng với con.
- Tâu lệnh bà, nhưng...
Từ Hy giơ bàn tay:
- Con cứ yên chí, ta bảo gì hắn phải nghe theo.
- Con không dám nghi ngờ song...
Từ Hy thấy hai má nó ửng hồng.
- Con nghĩ thấy nóng ruột phải không? Còn những hai tháng nữa.
Người thiếu nữ lấy ống tay áo che mặt. Từ Hy cười nói:
- Phải vạch một con đường đi mới tới đích chứ.
Bà véo yêu má người thiếu nữ, hai má nàng càng thêm ửng đỏ. Bà cho cáo lui.
Cung thân vương nói:
- Trong 200 năm, người ngoại quốc đến buôn bán ở ta, chỉ giới hạn phạm vi hoạt động ở tỉnh Quảng Đông. Họ giao dịch thương mại với một số người Hán được triều đình cho phép.
Hạ qua đã lâu, bây giờ đang giữa mùa thu, nhiều hôm Từ Hy ngồi tha thẩn nhìn mặt trời lặn ở sườn non. Trong những chiếc chậu sứ, những cây cúc nở hoa đỏ, vàng rực rỡ. Nàng ngồi trầm ngâm, nghe văng vẳng bên tai tiếng người nói rời rạc như lá khô mùa thu rụng rơi lả tả.
Cung thân vương cất giọng nói to như để đưa nàng về thực tại:
- Thái hậu có muốn nghe tôi nói không?
- Nói đi, tôi nghe.
Thân vương có vẻ hoài nghi, nói tiếp:
- Thái hậu còn nhớ không, nước mình đã thất trận hai lần trong trận Nha Phiến. Sự thất bại đó đã cho chúng ta một bài học, chớ có nên coi thường những nước Tây phươngm không nên coi họ như những tiểu bang thuộc quốc. Nếu người dân họ tham lam, thô lỗ, không đáng đứng ngang hàng với mình, tuy thế, chúng lại có thể cầm đầu mình nhờ ở bạo lực, ở chiến cụ.
Mấy lời nói đó có một mãnh lực làm Từ Hy hết mơ mộng nhưng kỷ niệm về mùa hè năm ngoái. Nàng rất ghét phải trở về kinh thành, sống tù hãm trong bốn bức tường thành cao.
- Thân vương nói bọn chúng có thể làm chủ được mình, hả?
- Phải, rất có thể. Mình bất lực không giữ được bờ cõi. Chúng ta phải nhượng bộ tất cả yêu sách của họ, những số tiền vĩ đại mình phải trả, gọi là bồi thường chiến tranh, bao nhiêu hải khẩu, họ bắt buộc mình phải để cho họ sử dụng.
Một ngoại bang đã yêu sách được, những ngoại bang khác cũng ùn ùn vào đòi theo, họ dùng võ lực... Vũ lực là một thứ bùa hộ mệnh của họ.
Nét mặt ông rất nghiêm nghị. Thân hình to lớn của ông nghiêng về phía trước trên chiếc ghế bành ở dưới bệ ngai phụng trong thư viện quốc gia. Lý Liên Anh ngồi tựa lưng vào chiếc cột lớn khảm xà cừ đỏ.
Từ Hy hỏi:
- Mình kém về phương tiện nào?
Bà nghe thân vương trình bày, ba tức lắm, hai bàn tay nắm chặt hai tay vịn ở ngai. Hình ảnh Nhung Lữ hồi nãy hiện lên rõ ràng trong trí óc, bây giờ phai lạt, biến mất.
Cung thân vương nhìn Từ Hy chênh chếch, ông rất xúc cảm trước sắc đẹp mê hồn, thêm vào một khối óc thông minh xuất chúng.
Ông nghĩ làm sao rèn luyện khối óc đó nhận xét sáng suốt để phục vụ cho triều đại, cho quốc gia. Nàng còn ít tuổi quá, mà là một phụ nữ tuy vẫn hay không có một người đàn bà nào được thông minh như nàng. Ông nói tiếp:
- Người Hán đã tiến bộ nhiều, họ đã thức tỉnh. Văn minh cổ không hợp với thời đại ngày nay. Những bậc hiền triết dạy bạo lực là xấu, người chiến sĩ là đáng khinh vì chỉ có phá hoại và giết chóc. Những hiền triết sống ở những thời đại xa xăm, không biết có những quân man di, mọi rợ ở phương Tây. Dân tộc mình sống biệt lập, không tiếp xúc với các dân tộc khác. Mình tưởng như trên trái đất này chỉ có quốc gia mình. Bây giờ bọn giặc người Hán nổi lên chống lại triều đình, bọn họ không hiểu chúng mình là thù nghịch của họ mà chính bọn người Tây phương mới là quốc thù.
Từ Hy nhanh trí, suy luận rất nhanh, hiểu ngay ý nghĩa khủng khiếp về câu nói đó. Viên tổng đốc Lưỡng Quảng Diệp Danh Thám đã để quân bạch chủng xâm nhập vào thị trấn Quảng Đông.
- Thưa thái hậu, chưa hết, chúng ta phải tìm cách ngăn chặn. Như tôi đã nói, chắc thái hậu còn nhớ, cách đây chín năm, quân Tây phương đã oanh tạc những đồn lũy của mình ở Hà Khẩu, con sông chảy qua kinh thành, họ dùng võ lực, bắt buộc triều đình phải nhường cho một dải đất dọc theo duyên hải phía Nam để họ xây cất nhà cửa, kho đụn, doanh trại. Đồng thời họ áp bức mình phải giải tỏa tất cả các trục lộ giao thông với Quảng Đông; khi viên tổng đốc Lưỡng Quảng từ khi thi hành bản thỏa hiệp vẫn không thấy quân hồng mao phản ứng. Tuy vậy dân nước mình sẽ không được sống yên ổn, lúc nào cũng hồi hộp, lo sợ. Tuy quân ngoại lai có vẻ nhượng bộ, nhưng sự thật họ sửa soạn một trận chiến khốc liệt hơn, để dễ bề yêu sách.
Từ Hy rít lên, nói:
- Phải tống khứ chúng nó, không để chúng nó rãnh tay chiêu binh mãi mã, chờ cho đến khi mình có một đạo quân hùng mạnh.
- Tâu lệnh bà, tình thế phức tạp, rối ren, muôn vàn khó khăn, đâu có thể giản dị như thế.
Nói đến đây, ông thở dài, nhiều lúc như vậy, tình thế trong nước nhiễu nhương, ngoại giao, nội trị, không thể một sớm, một chiều có thể ổn định nổi. ông nói tiếp:
- Không riêng gì quân bạch chủng, thời đại của vũ khí, của bạo lực, cường quyền áp đảo tinh thần dân chúng, người Hán không có lời lẽ, phải, trái gì hơn làsúng đạn. Người Hán đã nói sức mạnh trên hết, chỉ có súng đạn mới giải phóng được con người. Đó, thưa Tây cung thái hậu, mình phải nhìn vào thực tế, thực tế phủ phàng, tất cả rối ren trong nước bắt nguồn từ đó. Nếu mình không vội thức tỉnh theo kịp trào lưu tiến hóa, nhìn thẳng vào cục diện, cải cách toàn diện, vì mình cai trị người Hán, mình không phải người Hán, đừng mong thế tử lên được ngôi báu sau này.
- Như vậy triều đình phải cấp khí giới cho họ.
Cung thân vương thở dài, nói tiếp:
- Chao ôi! Nếu mình cấp khí giới cho người Hán để đuổi quân ngoại xâm, người Hán quay mũi súng về mình trước vì đối với họ, mình là ngoại lai, dù rằng các Tiên vương của mình ở phương Bắc xuống lập nghiệp ở đây đã hai thế kỷ này. Như thế ngai rồng sẽ bị lung lay.
Không hiểu những lời trần thuật đó, bà thái hậu có nhận thức được mối nguy cơ hiện tại không? Ông nhìn thẳng vào khuôn mặt ngọc, không thấy thay đổi sắc diện, vì tâm tư của người đàn bà những cảm nghĩ phát lộ trên nét mặt. Cung thân vương trình bày, phê bình những khúc mắc của tình thế, Từ Hy lãnh hội và để tâm suy nghĩ. Nạn bạch chủng không những đe dọa Thanh triều mà trực tiếp ảnh hưởng, nguy hại đến bản thân bà và nhất là Đông cung thái tử. Bất cứ với giá nào, bà phải bảo toàn ngôi báu cho thế tử vì chính là con ruột bà và cũng do tình mẫu tử.
Cũng ngày hôm đó, khi Cung thân vương đi khỏi, bà trở về cung, sai người ẵm con đến. Bà chơi với con, ẵm trên tay cười cợt, thế tử bập bẹ hát những bài bà hát, bà dạy con tập đếm trên mười ngón tay, bà nựng nịu, đặt con xuống đất, thằng nhỏ chuệch choạng, sắp ngã, bà đỡ, nói những câu nói, làm những cử chỉ của các bà mẹ yêu con. Cùng lúc đó, bà suy nghĩ, phác họa trong óc kế hoạch để diệt quân thù. Cứu nguy quốc gia là lẽ tất nhiên nhưng việc bảo toàn con bà phải đứng lên hàng đầu. Chơi với con một lúc, bà lại giao cho vú nuôi.
Từ ngày hôm đó, bà để hết tâm trí, đọc những sớ, tấu, biểu chương các tỉnh gửi về, nhất là tỉnh Quảng Đông và các miền phụ cận. Ở đó quân bạch chủng đang yêu sách mở rộng phạm vi thông thương. Việc buôn bán đem lại những nguồn lợi rất lớn cho người da trắng và người Hán, nhưng cả hai vẫn chưa thỏa mãn, vẫn muốn làm khó dễ, yêu sách hết thứ này đến thứ khác. Từ Hy tức quá vì thời cơ chưa thuận tiện, còn sớm quá, chưa thể phái một đạo quân đi tiễu trừ. Khai chiến với quân ngoại xâm lại thêm cuộc nội loạn của người Hán sẽ đem lại kết quả bi thảm, ngai vàng phải sụp đổ, hoàng thượng phải thoái vị trước sự phẫn nộ của toàn dân. Trước những viễn ảnh đen tối đó, lúc này chưa thuận tiện, phải tìm cách diên kỳ, kéo dài thời gian, hòa hõan đến khi con nàng trưởng thành, tức vị. Lúc đó sẽ mở một trận chiến thư hùng, năm nay chưa thắng thì sang năm, bắt buộc phải đánh quỵ quân phiến loạn, khử trừ hết quân ngoại lai.
Sau trận mưa tuyết đầu mùa, viên tổng đốc Lưỡng Quảng gửi hỏa tốc một biểu chương: Nhiều chiến thuyền mới đến, thả neo gần Quảng Đông, chở vũ khí, chiến cụ, lợi hại gấp bội phần năm trước, có viên đại diện người hồng mao. Trong tờ biểu chương, viên tổng đốc tỏ vẻ sợ hãi và bực tức. Viên quan này nói, vì tình thế quá nguy ngập, ông không dám giời nhiệm sở, nếu không ông đã thân chinh đến kêu trình trước sân rồng, nói lên sự bất lực của ông không ngăn cản được chiến thuyền ngoại quốc vượt trùng dương đến cập bến nước ta. Ông xin đức vua ban lệnh khẩn cấp để đối phó, xin cho gửi hỏa tốc sắc chỉ, nguyện xin phụng chỉ thi hành.
Hoàng thượng nhận được tin cấp báo, lo sợ quá, liền cho họp Viện cơ mật để thảo luận.
Tất cả các quan trong triều hội thảo, nghị quyết tối hậu không do ở nơi hoàng thượng mà ở Tây cung thái hậu.
Tất cả mọi người, ai cũng biết, do Lý Liên Anh tiết lộ, mỗi đêm hoàng thượng cho vời Từ Hy, không phải chuyện ong bướm, mây mưa. Trong lúc ông vua say thuốc phiện, nằm trên long sàng; lơ mơ nửa thức, Từ Hy nghiên cứu rất lâu sớ điệp, biểu chương, cân nhắc từng chữ, phỏng đoán những hậu quả mỗi việc. Khi nàng đã nghiên cứu kỹ lưỡng, suy nghĩ, ra một quyết nghị, nàng lấy bút lông chấm vào đìa son, xóa bỏ những lời đề nghị: Khai chiến, trả thù, ám sát, thủ tiêu bọn người ngoại xâm.
Nàng ra lệnh:
"Điều đình,bất nhương nhi bất kháng, không hứa hẹn nhượng bộ mà cũng không đề kháng, không dùng bạo lực, bạo động. Lấy nhu thắng cương. Thời cơ chưa thuận tiện. Người ta yêu sách điều gì, cứ việc hứa nhưng bất thủ hứa. Đất đai, bờ cõi nước ta rộng lớn, hùng vĩ. Không vì một vết muỗi đốt ở ngón chân mà tự hủy cả thân thể."
Không ai dám cưỡng lại châu phê, vì dưới tờ sắc chỉ có đóng ngọc tỷ bằng son. Ngọc tỷ cất ở trong tráp để ở phòng vua, chỉ có một mình Từ Hy có quyền mở tráp lấy ra. Tờ công báo hoàng triều xuất bản hàng ngày, sáng lập đã được 800 năm, đăng tải các chiếu chỉ, sắc chỉm quyết nghị của vua ban bố, báo đó cũng đăng tải lời phê bình của Từ Hy. Báo đó được phổ biến gởi cho các quan đầu tỉnh, tổng đốc, tuần phủ, án sát, để quảng bá trong quần chúng những quyết nghị, biểu thị của thiên tử. Nói là ý chỉ thiên tử nhưng thực ra là ý chỉ của một người đàn bà trẻ, đẹp ở trong nội tẩm (buồng ngủ) hoàng thượng. Ông vua say thuốc phiện ngủ, có biết gì đâu.
Thấy mấy lời châu phê bằng son đỏ chói, Cung thân vương thất kinh. Khi gặp Từ Hy ở thư viện, ông bảo:
- Thưa thái hậu, tôi đạ trình bày với thái hậu, bọn người bạch chủng, tính nết nóng nảy, thô lỗ, cuồng bạo. Họ không được ôn hòa, tế nhị như người nình. Bọn chúng tính như con nít, thấy cái gì vui mắt, thích ý, vồ ngay lấy, bất luận lý lẽ ra sao. Mình dùng dằng, hứa suông với họ, nguy lắm, chúng sẽ phẫn nộ, cắn càn, rất tai hại cho mình. Tôi biết tưởng nên điều đình thẳng thắn với họ, nếu có phải mất ít tiền đút lót, cốt sao họ nhổ neo chiến thuyền, rời xa bờ cõi nước mình.
Từ Hy quắc mắt như nảy lửa hỏi:
- Chúng nó làm gì được mình? Thuyền bè của chúng có đi nổi 1500 cây số bờ biển nước mình không? Cứ để cho chúng quấy nhiễu tỉnh miền Nam. Chúng có thể nào xâm phạm đến hoàng thành, đến thiên tử?
- Theo ý tôi, rất có thể.
- Cứ để thời gian sẽ trả lời.
- Tôi chắc cũng không còn được lâu đâu.
Nom thấy nét mặt lo lắng, nghiêm nghị, một người đàn ông trẻ đẹp, nàng thấy thương hại, muốn làm cho khuây khỏa, nàng lảng sảng nói chuyện khác.
- Tội gì thân vương ôm gánh nặng vào người, chuốc não, mua sầu. Tôi biết tính ông đa cảm, hay lo xa những việc không đâu. Ông cũng nên thỉnh thoảng tiêu khiển như mấy người khác. Tôi không thấy ông đi coi bói.
Thân vương không nói gì cáo lui. Trong suốt thời kỳ ở Viên Minh, Từ Hy giữ gánh hát, lấy công nho đài thọ. Đào kép gánh hát sống rất ung dung, họ được ở một ngôi nhà ngoài thành. Những ngày khánh lễ, thái hậu truyền cho diễn một vở tuồng đặc sắc, cả triều thần đến coi, một đôi khi hoàng thượng cũng đến ngự lâm. Có những cuộc du hí, ngày tháng trôi mau, đông qua, xuân tới, trong nước vẫn hưởng cảnh thái bình.
Khi những cành mẩu đơn nở hao đỏ chói, triều đình rộn rịp sửa soạn khánh lễ, ngày sinh nhật Đông cung thái tử.
Mùa xuân năm đó, cảnh sắc rực rỡ, huy hoàng. Mấy trận mưa đầu mùa như tẩy uế những bụi bậm, không khí ấp áp; những ảo cảnh (mirage) phảng phất trong không trung, như một phong cảnh một xứ nào xa xăm. Nhờ có công báo phổ biến ngày khánh lễ, nên toàn dân hưởng ứng ăn mừng và sửa soạn những cống phẩm mừng ngày sinh nhật thái tử. Sự thái bình giả tạo chập chờn bao trùm tất cả các tỉnh trong nước. Cung thân vương không hiểu thái hậu có nhận thức không và có phương sách nào phòng hờ để kịp thời đối phó? Các thương thuyền, chiến thuyền của người da trắng vẫn neo ở hải khẩu gần Quảng Đông. Tuy đôi bên đã xảy ra nhiều va chạm, tình thế vẫn không khẩn trương. Viên tổng đốc Lưỡng Quảng vẫn tại vị và không chịu tiếp kiến viên sứ thần hồng mao Lord Elgin. Sứ thần ngoại quốc nhất định khi vào hội kiến, không chịu cúi đầu sát đất để tỏ vẻ cung kính vị khâm mạng của triều đình.
Viên tổng đốc Lưỡng Quảng Diệp Danh Thám, tự phụ với chức vụ cao cả, do thiên tử sắc phong và bổ nhiệm, không chịu tiếp một sứ thần ngoại quốc, nếu không theo đúng nghi lễ bái kiến. Cả hai bên, không bên nào nhượng bộ, giữ vững lập trường, bên nào cũng vì quốc thể.
Cảnh thái bình rất bấp bênh, được lúc nào hay lúc đó, người dân còn được yên ổn, thừa dịp tổ chức yến tiệc ăn chơi trong khi triều đình nhộn nhịp sửa soạn lễ khánh trúc. Tất cả mọi người và bất cứ ở đâu chỉ trông thấy hiện tại không nghĩ đến ngày mai.
Đối với bà Từ Hy, lễ này, bề ngoài là mừng sinh nhật của con bà, bà còn ẩn ý lợi dụng ngày đó để thực hiện một xảo kế, bà đã xếp đặt từ lâu nay có dịp đem ra thực hiện. Suốt cả mùa đông bà đã cố chờ một dịp thuận tiện, lòng phải dối lòng, tự quên đi. Tuy cả ngày cặm cụi đọc sách và các công văn, tài liệu, bà vẫn không quên ý nghĩ cất nhắc Nhung Lữ lên một địa vị khả quan.
Một hôm trước ngày khánh lễ, bà bắt gặp Mai, vẽ mặt tư lự, bà beo má nàng, nói:
- Con tưởng ta quên lời hứa với con ư?
Bà nhìn thẳng vào hai mắt Mai, người bà gọi là con, nàng hiểu lời bà nói.
Từ Hy có những động lực tư tưởng thầm kín khác. Bà rất quan tâm những biến cố trọng đại trong nước, lo lắng suy nghĩ, nhiều khi bà thức suốt đêm tìm phương thức để đối phó với tình thế. Chính Cung thân vương cũng không ngờ tưởng. Tuy vậy bà vẫn không quên dục vọng thầm kín. Vì thế, trong một đêm bà nửa thức, nửa ngủ trong vòng tay ông vua, bà nói sảng:
- Chà, tôi suýt quên.
- Quên gì, hả "Tâm can" của trẫm?
Đêm hôm đó, ông vua rất sung sướng, vui vẻ, vì ông đã thõa mãn được tình dục, không đến nỗi bất lực như mọi lần.
Từ Hy nói, giọng còn ngái ngủ:
- Chúa thượng cũng biết, viên chưởng quản ngự lâm quân là anh em họ với thần thiếp.
- Trẫm biết và cũng nghe thấy nói.
- Đã lâu, thần thiếp có hứa với Muyanga, chú ruột của thần thiếp, lời hứa đó, thần thiếp chưa thực hiện được.
- Sao vậy? Ái khanh hứa gì?
- Nếu hoàng thượng cho phép mời hắn đến dự yến, nhân ngày sinh nhật thế tử, như thế thần thiếp không còn băn khoăn.
Ông vua nói lộ vẻ ngạc nhiên, thấy khó nghĩ quá. Một viên quản, nếu cho mời viên quản ngự lâm quân dự yến thì bọn hoàng thân hạng dưới và vợ con họ ghen tức, vì bọn này không được dự.
Từ Hy hiểu rõ ý nghĩ của ông vua, nàng nói:
- Bọn người đê tiện thế nào chẳng ghen tức, nhưng dù có ghen tức, mặc kệ họ, đây là lệnh của chúa thượng.
Một lát sau, nàng từ từ lui ra xa ông vua, ngáp, nói thấy người mệt mỏi.
Đột nhiên, nàng rên gừ gừ như đau răng. Nàng bịa chuyện ỏe họe với ông vua, sự thực hàm răng nàng trắng nỏn chẳng đau đớn gì hết. Nàng định xuống giường xỏ chân vào đôi giày vóc, mồm nói:
- Tối mai chúa thượng đừng cho gọi thiếp, thiếp không muốn nói với người thái giám đến gọi thiếp không đến.
Ông vua nghe lời nàng, thấy cử chỉ hờn dỗi, ông ngại quá, ông biết tính nàng khó bảo lắm, khi không đã không bằng lòng việc gì, không ai nói nổi, ông xem ý tứ nàng không yêu ông, nên ông cần phải mua chuộc lấy lòng. Tuy vậy, ông cũng chưa chịu ngay, để nàng đi. Hai đêm liền, ông không cho gọi nàng đến, vì nếu cho gọi mà nàng không đến càng thêm bẽ, bọn cận vệ đàm tiếu. Nàng đã biết tính ông vua này, biết những nhược điểm của ông, vì đã nhiều lần ông cho người đem đến những phẩm vật để lấy lòng dụ cho nàng đến. Ông cũng nhớ vì ông từ chối không chiều theo ý nàng, nên nàng giận. Đã có một lần, ông phải sai một tên thái giám về mạn Nam để tìm mỏ con chim hồng hoàng (mỏ con chim này giống như ngà voi) một loại chim rất hiếm, người ta chỉ thấy có ở vùng Mã Lai hay Nam Dương quần đảo. Từ Hy muốn cứ thứ ngà đó để làm đồ trang sức, chỉ có các vua chúa mới có thứ ngà đó để bọc vào đai áo. Lúc đầu ông vua từ chối không sao tìm được thứ ngà đó, vì sợ nếu chiều theo ý nàng, các bà hoàng bà chúa ghen tức. Nàng đã dằn dỗi trong bao nhiêu tuần, rốt cuộc ông vua phải chiều theo ý muốn của nàng.
Ông vua than phiền với tên thái giám:
- Ta thật không muốn bị ràng buộc vào một người đàn bà, khó tính, khó nết như nàng.
An Đắc Hải tỏ vẻ cung kính, đồng ý với ông vua, hắn nói:
-Tâu chúa thượng đúng vậy, tất cả chúng con, ai cũng mến lệnh bà...trừ ra có vài người thù nghịch với lệnh bà.
Ông vua đã nhượng bộ nàng lần ấy, bây giờ ông cũng phải chiều theo ý nàng. Chiều hôm trước ngày đại yến, ông cho gọi Từ Hy đến, nàng trang điểm rất đẹp, rất vui vẻ như để tỏ lòng cảm tạ. Cũng chiều hôm đó, Nhung Lữ nhận được thiếp mời của hoàng gia đến dự yến ngày sinh nhật thái tử.
Hôm đại lễ, một ngày mát mẻ, trời quang đãng, buổi sáng lúc Từ Hy thức dậy đã nghe tiếng ầm ĩ ở ngoài đường phố trong kinh thành. Nhà nào cũng đốt pháo, tiếng pháo nổ đì đoành, lẫn tiếng chuông, tiếng trống, tiếng kèn. Tất cả các tỉnh, làng mạc trong nước, nơi nào cũng tưng bừng, nhộn nhịp. Hôm đó Từ Hy dậy rất sớm, bà có vẻ bận rộn hơn mọi ngày, đối với mọi người bà rất nhã nhặn, vui vẻ từ con a hoàn đến bà quý tộc trong hoàng phái. Khi bà sửa soạn xong, người ta ẵm thế tử đến, mặc chiếc áo đỏ tươi, đầu đội mũ miện theo phẩm trật. Bà ẵm con trên tay, trong lòng sung sướng, vinh hạnh. Bà hôn hít con, lẩm bẩm nói khẽ vào tai con: Ngày hôm nay, mẹ sung sướng nhất đời.
Thế tử nhoẻn cười, nước mắt chảy vòng quanh. Nàng không sợ gì hết cả tà thần, ác quỷ, ghen tức với bà. Trên trời, dưới đất, không có một người nào, một thế lực nào, hữu hình hay vô hình có thể làm hại được mẹ con bà. Địa vị, số phận, bảo trì mẹ con bà như một tấm mộc.
Giờ đã điểm, bà ẵm thế tử, gọi tất cả thể nữ, a hoàn đi tháp tùng, ra giữa cấm thành, đến điện Thái Hòa, đức vua ngự ở đó để tiếp nhận các cống phẩm. Nơi tôn nghiêm đó, diện tích rộng 350 thước trên 700 thước, một cung điện lớn nhất ở hoàng thành, hai bên có tả vu, hữu vu, sàn lát đá cẩm thạch. Thềm có năm bực, hai bên có rồng bằng đá chầu nên gọi là sân rồng. Mái điện lợp bằng ngói sứ, lấp lánh dưới ánh nắng. Không có một cọng cỏ, một chút rêu nào, vì lúc xưa khi xây cất, người ta có trộn một thứ độc dược vào vữa, nó có tác dụng diệt hết sâu bọ ngọn gió đưa lại.
Điện Thái Hòa, một nơi tôn nghiêm nên không một người đàn bà nào đến được, Từ Hy cũng không được vào. Nàng chỉ đứng nhìn mái ngói vàng rực, các khung cửa chạm trổ, những tấm bình phong sơn son thiếp vàng. Một ngôi điện nhỏ hơn ở kế cận.
Hoàng thượng ngự trên ngai rồng. Cung thân vương ẵm thế tử đứng bên cạnh ngai. Hoàng thượng tiếp nhận những cống phẩm của các thuộc quốc triều cống, sai thái giám đem dâng lên Tây cung thái hậu. Từ Hy nhìn các phẩm vật đẹp long sòng nội tất cả những món đồ cống hiến, nàng không thấy có một món đồ nào thật đẹp xứng cho con.
Một ngày không đủ nhận các đồ cống hiến, khi mặt trời lặn còn những món quà biếu của hoàng tộc và những quan liêu trung và hạ cấp. Khi trăng lên là lúc mở đại yến. Hoàng thượng, Đông cung, Tây cung đi trước theo sau là văn võ bá quan. Hoàng thượng ngồi riêng một bàn, chiếc bàn bên có Đông cung thái tử ngồi trên lòng hoàng thúc. Cung thân vương và hoàng thượng không rời mắt nhìn thế tử, tỏ vẻ vui mừng, sung sướng. Thế tử có hai mắt to giống thân mẫu, nhìn những chiếc đèn lồng có những quả gù rung rinh, lấp lánh, vương nhi lấy tay chỉ trỏ, cười, vỗ tay, thích lắm. Thế tử mặc chiếc áo vóc vàng thêu những con rồng nhỏ màu đỏ; chân đi đôi hài bằng nhung, trên đầu đội chiếc mũ vóc đỏ, gắn lông công, cổ đeo một sợi dây vàng. Bà Từ Hy đeo chiếc dây này cho con từ khi mới lọt lòng, bà tin chiếc dây đó bảo vệ được con bà, nó trừ tà, ếm quỷ. Mọi người nhìn vương nhi tấm tắc khen thầm, không ai dám nói to, sợ vía van.
Duy chỉ có một mình Nựu Cô Lộc Thị, bà Đông cung thái hậu, nhìn thằng nhỏ, bà buồn rười rượi, lộ trên nét mặt.
Theo phép lịch sự, hoàng thượng mời bà Đông cung dùng món gì, bà lắc đầu từ chối, nói không muốn ăn vì không thấy đói. Khi Từ Hy nói với bà, bà làm thinh như không nghe thấy. Có ai dám trách ông vua sao lại yêu thương bà Từ Hy hơn, vì bà đẹp hơn, thông minh hơn, dáng điệu yêu kiều hơn. Bà Từ An như con mèo ốm, hai tay gầy còm, đeo những chiếc nhẫn lớn hơn ngón tay, mặt loắt choắt, xanh xao, da dẻ nhăn nheo. Tuy bà Từ An lạnh nhạt khủng khỉnh, bà Từ Hy vẫn thản nhiên như không, mọi người ai cũng khen ngợi bà Từ Hy, trí lự quảng đại.
Xung quanh những chiếc bàn thấp hơn, có đến hàng ngàn thực khách, ngồi trên những chiếc đệm vóc đỏ, bọn thái giám, quần áo đủ màu sắc, đi đi, lại lại, hầu bàn. Ở đầu phòng có các mệnh phụ, phu nhân, vợ các thân vương, các vị quan trong triều, những hàng quí tộc, phía bên này có người thiếu nữ Mai, ngồi bên tay mặt bà Từ Hy, bà vẫn thường quay lại, cười nói với nàng. Cả hai người biết chỗ Nhung Lữ ngồi, ở một chiếc bàn, cách xa. Mọi người không khỏi ngạc nhiên thấy viên quản ngự lâm quân được mời vào đây dự tiệc. Có người lấy tay che nến hỏi nhỏ một tên thái giám đi ngang qua, người thái giám trả lời:
- Đó là anh em thúc bá với Tây cung thái hậu, đến dự tiệc theo lệnh mời của thái hậu.
Không ai dám hỏi gì thêm nữa. Trong lúc yến tiệc, bọn nhạc công hoàng gia gẩy đàn thổi sáo, đánh trống, còn bọn phường tuồng diễn những vở tuồng, để cho người nào thích coi thì coi.
Thế tử mỏi, ngủ, viên chưởng quản thái giám ẵm thái tử giao cho vú nuôi, những cây nến đã gần hết, bốc khói, bữa tiệc sắp cáo chung.
Cung thân vương truyền:
- Đem trà mời các vị quý tộc.
Bọn thái giám bưng khay trà đến mời các vị trong hàng quý tộc, viên quản ngự lâm quân không ở trong hàng quý tộc nên không được mời. Không một việc gì qua mắt được bà Từ Hy, bà biết hết nhưng vờ thản nhiên như không. Bà giơ bàn tay đeo đầy nhẫn, ngoắc tên thái giám Lý Liên Anh, tên này vội vàng chạy đến.
- Bưng chén nước trà này của ta. đem lại mời người anh họ ta.
Bà nói dõng dạc, rõ ràng. Bà lấy chiếc nắp sứ đậy trên chén trà, giao cho tên thái giám đem đi. Vinh dự, sung sướng được làm cận vệ thân tín cho bà Tây cung, Lý Liên Anh trịnh trọng bưng chén nước trà đến, Nhung Lữ đứng dậy, hai tay đỡ lấy. Hắn đặt chén nước xuống bàn quay mặt về bà Tây cung thái hậu, xá chín lần để cảm tạ khang ân.
Mọi người đang trò chuyện, ngửng lại, quay nhìn, bà Từ Hy làm như không để ý. Bà chỉ liếc mắt nhìn Mai nét mặt tươi cười. Viên chưởng quản thái giám ra hiệu cho bọn nhạc công tiếp tục, trong khi các viên thái giám bưng đồ nước lên.
Trăng đã lên cao, đêm đã khuya, mọi người chờ thiên tử cho lệnh giải tán. Thiên tử vẫn ngồi yên, một lúc sau ông vỗ tay, viên thái giám ra hiệu bọn nhạc công ngừng lại.
Từ Hy quay lại hỏi Cung thân vương:
- Bây giờ còn gì nữa hả?
-Thưa, tôi cũng không rõ.
Trong phòng tiệc phẳng lặng, tất cả mọi người quay nhìn ra phía cửa.
Hoàng thượng nghiêng người về phía Từ Hy nói:
- Quý phi nhìn coi về phía cổng cái.
Từ Hy nhìn ra phía cửa thấy sáu người thái giám khệ nệ khênh một chiếc mâm đúc bằng vàng khối, ở trên có một trái đào khổng lồ, nửa trái mạ vàng, nửa trái sơn đỏ. Trái đào biểu dương sự sống lâu, trường thọ.
Vua truyền cho Cung thân vương:
- Báo cho hiền mẫu của thế tử, món quà riêng của trẫm.
Cung thân vương đứng dậy nói lớn:
- Tặng phẩm của thiên tử cho hiền mẫu Đông cung thái tử.
Tất cả cử tọa đứng dậy, nghiêng đầu. Bọn thái giám khênh chiếc mâm trên có trái đào, đến trước mặt Từ Hy.
Thiên tử nói:
- Giơ hai tay đón lấy trái đào.
Từ Hy đặt mấy ngón tay trên trái đào khổng lồ, trái đào mở ra làm hai ở trong có một đôi giày bằng vóc hồng thêu những bông hoa nhỏ bằng kim tuyến, cẩn các thứ ngọc đủ màu sắc. Những gót cao đóng ở giữa đế, gắn toàn hạt trai hồng Ấn Độ che kín vóc bọc ở ngoài.
Từ Hy ngửng hai con mắt sáng ngời nhìn thiên tử.
- Tâu bệ hạ, thứ này ban cho thần thiếp?
- Phải, quà riêng mừng quí phi.
Một món quà, hàm súc một ý tứ táo bạo, tượng trưng cho tình nhục dục, sự sủng ái của ông vua đối với một người phi đa tình biết chiều chuộng theo thị hiếu.
Mấy hôm sau ngày khánh lễ, những bá cáo về tình thế nguy kịch ở miền Nam tới tấp bay về kinh thành. Chưa lần nào tin tức lại bi quan như lần này.
Viên tổng đốc Lưỡng Quảng có ý chờ cho hết hội hè đình đám, yến tiệc mới gửi biểu chương, nhưng ông không thể giấu giếm che đậy những nguy cơ ngày một gia tăng. Ông gửi hỏa tốc những công văn thượng khẩn lên kinh, báo cáo tên hồng mao Lord Elgin đang đe dọa nặng nề thành phố Quảng Đông, có nhiều tàu chiến mới cập bến ở Hà Khẩu, với một dân số khoảng sáu ngàn người. Quân đội hoàng gia không đủ sức chống cự. Không những thế, ngay ở trong tỉnh đầy rẫy quân phiến loạn, tự xưng là quân Gia Tô giáo. Người cầm đầu bọn thảo khấu này tên là Hùng, một tên điên khùng, tự khoác một sứ mệnh thiêng liêng do một vị thần ngoại quốc tên là Jésus sai xuống lật đổ Thanh triều.
Cung thân vương là người đầu tiên nhận được báo cáo, ông không dám đệ trình lên hoàng thượng. Từ hôm dự đại yến mừng Đông cung thái tử, hoàng thượng luôn luôn ở trong phòng không ra ngoài. Vì ăn uống quá độ, hút nhiều á phiện cho đỡ đau nhức, ông nằm liệt vị trên giường mặt mũi lơ láo, như dại, như ngây, như người mất trí. Cung thân vương nghĩ bàn luận với vua lúc này vô ích, nên ông cho người thông báo Từ Hy và xin được hội kiến gấp.
Từ Hy đến hoàng gia thư viện, ngồi sau tấm bình phong. Đi cùng với Cung thân vương có viên cơ mật đại thần Tải Thản, thân vương Đoan Hoa và thân vương Túc Thuận, người em nhỏ nhất của thiên tử. Bọn thái giám đi xa cũng nghe được bản tường thuật của viên tổng đốc Lưỡng Quảng, do Cung thân vương đọc.
Tải Thảm lẩm bẩm:
"Nguy quá... Chí nguỵ.. Chí nguỵ.."
Nhìn thấy con người thô lỗ, to lớn. Cổ rụt, vai u, Từ Hy nghĩ người như thế sao có thể là cha đẻ của thiếu nữ Mai, hình vóc thanh tao, kiều diễm.
Thân vương Túc Thuận giọng the thé như huýt sáo:
-... Nguy quá...
Cung thân vương nói:
- Tình thế nguy ngập, mình phải tính nước cờ sẽ đi, như thế này, viên chỉ huy hồng mao Lord Elgin sẽ chiếm tỉnh Quảng Đông, yêu sách triều đình phải được tiếp kiến.
Từ Hy đập tay lên bàn, nói lớn:
- Không khi nào.
Cung thân vương, giọng rất buồn, nói:
- Tâu lệnh bà, tôi xin mạn phép trình bày, mình chưa đủ sức, đủ lực để từ khước những yêu sách của quân thù quá mạnh.
Từ Hy vặn lại:
- Dùng lực không được thì dùng chước. Hứa hẹn nữa rồi mình trì hoãn không thi hành lời hứa, đã sao?
Cung thân vương phát biểu:
- Làm sao mình có thể hứa hẹn suông mãi được?
Viên cơ mật đại thần Tải Thản bước lại gần, nói:
- Cách đây hai năm, chúng ta đã đánh bại họ một lần khi tên hồng mao Saymour đột nhập vào Quảng Đông. Chắc ai cũng còn nhớ trận đó chúng ta toàn thắng. Chúng ta treo thưởng 30 lạng bạc một chiếc đầu hồng mao. Viên tổng đốc cho đem những thủ cấp đó bêu khắp phố phường. Chúng ta cho phóng hỏa kho đụn của tụi nó. Quân hồng mao cuốn cờ, xéo đi hết.
Thân vương Túc Thuận tán thưởng:
- Đúng...đúng...
Cung thân vương phản kháng, tuy còn ít tuổi không thể chống đối ra mặt, song ông cũng cố trình bày vì lỡ lầm một chút, hậu quả không thể lường được.
- Tuy quân hồng mao có rút lui nhưng không ít lâu sau họ kéo đại binh đến. Vả lại lúc này quân Pháp muốn cướp các nước chư hầu của Thanh triều ở bán đảo Đông Dương, họ liên kết với quân hồng mao chống mình. Quân Pháp lấy cớ, mình ngược đãi và hành quyết một viên cố đạo Pháp ở Quảng Tây. Người ta nói viên Lord Elgin nhận được chỉ thị của nữ hoàng yêu sách mình phải tiếp sứ thần của họ vào triều bệ kiến.
Từ Hy vẫn giữ vững lập trường, bà không thay đổi ý kiến, vì nể Cung thân vương, bà nhỏ nhẹ nói:
- Thân vương trình bày cũng hữu lý song tôi vẫn chưa hết hoài nghi. Chắc chắn người chị em tôi, nữ hoàng phương Tây không biết bọn thuộc hạ lợi dụng danh nghĩa của bà để đặt những yêu sách phi lý. Việc đó đã xảy đến khi mình trục xuất quân ngoại quốc.
Cung thân vương vẫn kiên trì, cố giải thích:
- Thưa lệnh bà, có lẽ lý do nổi loạn duy nhất là cuộc nổi loạn người Ấn Độ, tôi đã có lần trình bày lên lệnh bà cách đây vài tháng. Lệnh bà cũng đã rõ toàn thể Ấn Độ đã bị người Anh chiếm đoạt. Nhân vì có cuộc nổi dậy của người Ấn, một số kiều dân Anh và vợ con bị sát hại, người Anh dùng chính sách bạo tàn, thẳng tay đàn áp. Họ đã dẹp được cuộc nổi dậy ở Ấn Độ, bây giờ họ rảnh tay để tiếp tục chinh phục nước ta. Tôi sợ họ có ý thống trị nước mình như Ấn Độ. Ai có thể biết được lòng tham vô đáy của con người. Một dân tộc ở quần đảo bao giờ cũng thèm thuồng đất đai để mở rộng biên cương, bành trướng thế lực. Nếu chúng ta lùi bước, toàn thể nước ta sẽ bị lôi cuốn, đè bẹp. Vậy chúng ta phải giữ gìn lãnh thổ với giá nào.
Từ Hy nói lại để xác nhận:
- Phải, bất cứ giá nào.
Tuy nhiên bà không quan niệm sự nguy biến, tưởng chừng mọi việc sẽ được xong xuôi. Bà không tỏ vẻ quan tâm, bà nói:
- Dù sao Quảng Đông cách đây xa hàng vạn dặm, thành trì ta ở đây kiên cố, ta nghĩ cũng không nên quá bi quan. Vả lại, lúc này thiên tử khiếm an, không nên làm ngài buồn phiền. Chúng ta cũng sắp rời kinh thành, về mùa nóng đi thừa lương. Tạm đình chỉ các quyết nghị cho đến khi từ Viên Minh hồi loan. Ra chỉ thị cho viên tổng đốc Lưỡng Quảng thông báo cho quân hồng mao biết để còn làm tờ phúc trình về kinh, chuyển đạt các nguyện vọng của họ để hoàng thượng xét duyệt. Khi chúng ta nhận được phúc trình, chúng ta trả lời hiện nay thánh thể vi hòa, phải chờ đến mùa mát, thiên tử bình phục để ngài quyết định.
Viên cơ mật thốt kêu lên:
- Tuyệt diệu, tuyệt diệu.
Thân vương Đoan Hoa tán thưởng:
- Ý kiến đó thần diệu.
Thân vương Túc Thuận gật đầu lia lịa tỏ vẻ cảm phục.
Cung thân vương đứng yên, thở dài.
Từ Hy không muốn nghe tiếng thở dài não nuột, tuyên bố cuộc hội thảo bế mạc.
Ở hoàng gia thư viện đi ra, Từ Hy đến thẳng cung thái tử, ở đó trong bốn tiếng đồng hồ chơi với con. Bà đứng nhìn thằng nhỏ ngủ, khi thức dậy. Bà đặt ngồi trên lòng rồi bà đặt con xuống đất, thằng nhỏ nắm hai bàn tay bà, tập đi. Nhìn con, trong lòng sung sướng, hớn hở như thêm nghị lực tin tưởng vào một ngày mai sáng lạng. Lòng yêu con không sao kể xiết, đối với bà, thằng nhỏ là cả một kho tàng, tâm hồn đó, lẽ sống của bà. Bà ôm chặt con trong lòng, tiết rằng không thể ôm con trong người như khi nó còn nằm trong bụng.
Từ Hy trở về từ cung sau mấy tiếng đồng hồ chơi với con, lòng thấy khoan khoái, hớn hở, bà lại ngồi đọc, nghiên cứu những văn mật, biểu chương ở các nơi gởi về. Bà xem xét, cân nhắc, suy nghĩ, rồi gởi thảo quyết nghị, ký tên nhân danh hoàng đế.
Trước sang hè, bà cho tổ chức lễ thành hôn em gái. Bà chọn đệ nhất hoàng đệ, tên là Chuân, hiệu Ý Huân. Bà có cho mời thân vương Chuân vào tiếp kiến ở tư cung để có dịp nhận xét về tư cách và vóc dáng. Bà thấy hắn thân hình xấu xí, đầu to, nhưng tính nết thật thà, hiền lành, không có cao vọng, nhận lời ngay rất hân hạnh được kết duyên với em gái bà. Cuộc hôn lễ được cữ hành trước cuộc đi thừa lương. Hôn lễ được tổ chức giản dị vì hoàng thượng khiếm an. Chỉ có Từ Hy biết ngày nào giờ nào, cử hành lễ đón dâu đưa về dinh của thân vương Chuân ở ngoài cấm thành.
Ở Viên Minh, tuy mùa hè rất đẹp trời, trong sáng, hây hẩy mát suốt ngày, song một chuỗi ngày buồn tẻ, vì đức vua đang thọ bệnh, nên mọi cuộc du hí bị đình chỉ, không có ca nhạc, diễn tuồng, ca kịch. Những ngày nắng ráo tiếp tục trôi qua, Từ Hy vì thể diện, không đi chơi thuyền trên hồ sen. Bà sống biệt lập, không dám nói đến, nhắc đến hay có một đặc ân nào đối với Nhung Lữ, vì sau đại yến, có những lời bàn tán, xầm xì lan tràn, bốc lên như những ngọn lửa ngùn ngụt cháy trong rừng thông. Ai ai cũng nói, cũng biết bà với Nhung Lữ xưa kia đã yêu nhau, đính hôn. Tuy ở một địa cao sang, thế lực vững vàng, không sợ bị thương tổn đến danh phẩm, tuy vậy bà cũng cần phải đề phòng, e ngại sợ có hại cho bà, con bà. Bà tuy còn rất trẻ, tính lại đa tình, song bà rất kín đáo, biết kìm hãm dục vọng, hiểu được thái độ rất lịch sự, uy nghi.
Trở về kinh thành vào đầu thu. Năm đó, ngày lễ cúng thần nông, về "Cơm mới" làm rất giản dị, không rườm rà như mọi năm. Được mấy tháng yên ổn, Từ Hy tự hào cho chính sách hòa hoãn rất hay, tránh được nạn can qua với quân ngoại lai. Viên tổng đốc Lưỡng Quảng báo cáo những tin tức rất lạc quan. Quân bạch chủng rất hung hăng nóng lòng chờ đợi, song không có hành động gì, L.E ở hương cảng đập chân, đập cẳng, tỏ vẻ nóng ruột.
Từ Hy vẻ mặt tự đắc, tuyên bố:
- Các người coi ta nói có sai đâu, nữ vương Tây phương là bạn đồng hành với ta.
Duy có bệnh tình ông vua không thấy thuyên giảm làm bà buồn. Thực ra, bà chẳng yêu đương hay thương tiếc con người "Bệnh hoạn" đã mất hết tinh thần, trí não, không còn biết gì, nằm liệt giường trải vóc vàng. Bà chỉ sợ hắn chết, sẽ xảy ra nhiều chuyện rắc rối trong việc kế vị, thái tử còn nhỏ quá, tất phải lựa chọn một nhiếp chính vương. Sự lựa chọn, bầu lên một nhiếp chính là đầu mối cho những sự tranh giành, xung đột ghê gớm.
Lẽ tất nhiên, muốn bảo toàn địa vị cho bà và con bà, bất cứ với một giá nào cũng phải tự đảm nhiệm chức vụ đó. Bà phải chiếm được ngai vàng để truyền cho con sau này. Những tộc đảng Mãn Châu, có quyền thế, sẽ gây nhiều áp lực. Người ta, rất có thể, truất phế thái tử để lập một người khác lên thay thế. Lý Liên Anh cho bà hay có nhiều âm mưu manh nha đột khởi. Bà chỉ vững lòng tin tưởng ở sự trung thành tuyệt đối của Cung thân vương và viên chưởng quản thái giám, hai người này thực lòng có cảm tình với vua, với bà. Bà để ý thấy viên chưởng quản thái giám thực tình, trong lòng băn khoăn thấy ông vua gầy còm, ốm yếu, bệnh hoạn, hắn thường đứng chầu bên long sàng, ông nằm ngay như khúc gỗ, không nhúc nhích, nói năng gì. Có nhiều đêm, trong khi mọi người đã ngủ yên, viên chưởng quản thái giám đến gọi bà, vua muốn có người ngồi bên. Bà đến ngồi cạnh ông, trong gian phòng âm u, lờ mờ sáng, leo lắt mấy ngọn đèn dầu. Bà nắm chặt hai bàn tay ông, lạnh ngắt, cứng đờ, như không còn sinh khí, nét mặt bà cố lấy vẻ tươi tỉnh, dịu dàng để trấn an ông, Viên chưởng quản thái giám rất khâm phục lòng chung thủy, tính hiền hòa của bà, nên đối với bà hắn tỏ vẻ rất trung thành, kính ngưỡng như đối với vua. Hắn vào làm thái giám ở cung vua từ năm 12 tuổi, chính cha đẻ hắn đã tự tay thiến cho hắn, hắn hết lòng phục vụ ông "Chủ" quân vương. Hắn có tính xấu, táy máy, thấy cái gì thích ý là ăn cắp, hắn đã lấy của "Chủ" rất nhiều thứ trong các cung điện bao la ở cấm thành. Ai cũng biết hắn có rất nhiều châu báu, vàng bạc tàng trữ. Hắn cũng rất hung dữ, bạo tàn lấy dây thắt cổ hay lấy dao đâm người một nhát chết liền. Tuy vậy, trong trái tim "Cô đơn" có mấy lớp mỡ dày đặc ẩn tàng một cảm tình thiết tha, sâu đậm đối với ông vua. Khi hắn thấy ông vua gần đất xa trời, hắn đem lòng ngưỡng mộ đó đến một người đàn bà trẻ đẹp, khỏe mạnh, người mà ông vua yêu quý trên hết thảy mọi thứ ở trần thế, ông yêu người đó đến khi ông tắt thở.
Thật không ai có thể ngờ tưởng sẽ có một tin dữ dội đến như tiếng sét đánh ngang trời vào đầu mùa đông. Ngày hôm đó cũng như mọi ngày, trời u ám, tuyết rơi, gió lạnh. Ở ngoài đường phố, mọi việc buôn bán, sinh hoạt hằng ngày đình lại, trong hoàng cung dường như không có sinh khí, không thiết triều, mọi quyết định đều đình hoãn.
Ngày hôm đó, Từ Hy ngồi vẽ. Cô giáo dạy vẽ, ngồi bên cạnh, không nói năng, khuyên bảo gì hết, chỉ lấy mắt theo giỏi nét vẽ của người học trò vương giả. Từ Hy cũng biết khó thể vừa ý được cô này. Tuy bàa đã mất nhiều công trình tập luyện. Như vẽ một cành đào có hoa, bà nhúng ngọn bút lông vào nghiêng mực, chỉ vạch lên một nét là nom ra chiếc cánh cả bóng tối, sáng. Bà đã hoàn toàn thành công, cô giáo đã khen:
- Thưa lệnh bà, vẽ thế được lắm.
- Tôi chưa vẽ xong.
Bà lại nhúng bút vàao nghiêng mực, bà vẽ một cành nữa, cành này quấn vào cành trước. Cô giáo ngồi yên không nói năng, bình phẩm.
Từ Hy cau lông mày, hỏi:
- Thế nào? Cô không thích tôi vẽ như thấ hả?
- Thưa lệnh bà, không phải vấn đề thích hay không thích. Lệnh bà cũng đã rõ các đại danh họa không ai vẽ hai cành quấn lấy nhau như thế.
- Sao vậy?
- Về phương diện mỹ thuật, động cơ thuộc về bản năng không phải lý trí... Các đại danh họa không vẽ thế.
Từ Hy mở to mắt, cắn chặt hai môi, suy nghĩ sắp lý luận, nhưng cô giáo vẽ từ chối khéo, không muốn cãi lý với thái hậu, tuy là học trò mình.
- Nếu ý lệnh bà muốn vẽ hai cành như thế, cũng được tùy ý lệnh bà.
Cô giáo dạy vẽ nói xong ngồi yên, nét mặt suy tư, một lúc sau, cô ngửng mặt về bà "Học trò", nói tiếp:
- Thưa lệnh bà, lệnh bà vẽ theo kiểu "Tài tử", còn tôi là một nhà nghề chuyên nghiệp, tôi xuất thân ở một gia đình nghệ sĩ. Nếu lệnh bà không phải lo toan việc nước, chuyên hẳn về khoa hội họa, lệnh bà rất có thể thành một đại danh họa. Tôi nhận xét qua các tấm tranh lệnh bà vẽ. Bút pháp rất tinh vi, hùng mạnh, một thiên tài nếu chịu tập luyện, có thể phát triển mạnh. Song lệnh bà có ít thời giờ để vào nghệ thuật, lệnh bà còn phải gánh vác nhiều công việc trọng đại. Cô giáo chưa nói hết, chưa phát biểu hết cảm nghĩ. Từ Hy lắng tai nghe,hai mắt bà nhìn thẳng vào mặt cô giáo. Hai người đang ngồi bình tĩnh đàm luận, thì viên chưởng quản thái giám hớt hải chạy vào. Hai người ngoảnh nhìn hết đỗi ngạc nhiên thấy tên thái giám vẻ mặt hớt hải, thỡ hổn hển nói không ra lời, hai mắt trợn trừng, hai má bánh đúc, mồ hôi nhễ nhại. Hắn luống cuống kêu to:
- Tâu lệnh bà... Lệnh bà... Sửa soạn ngay tức thờị..
Từ Hy đứng dậy tưởng hắn đến báo tin có ai chết... Người nàọ.. Hay là...
Tiếng An Đắc Hải the thé:
- Tâu lệnh bà có sứ giả ở Quảng Đông đến. Tỉnh Quảng Đông thất thủ rồị.. Quân ngoại quốc đánh phá... đã lọt vào tỉnh... Tổng đốc bị bắt, cầm tù.
Từ Hy ngồi xuống, đó là tin về tai biến chiến họa, không phải tin có người nào chết.
Bà nói giọng rất nghiêm nghị, bảo tên thái giám đứng run lẩy bẩy:
- Bình tĩnh. Nhình mi, mới nghe ta tưởng như quân địch đã lọt vào hoàng thành.
Bà thu dọn các bút vẽ, cô giáo lặng lẽ cáo lui. Viên chưởng quản thái giám đứng chờ lệnh, lấy ống tay áo lau mồ hôi chảy nhỏ giọt trên trán.
- Đi mời Cung thân vương đến gặp ta, song mi trở về với hoàng thượng.
- Phụng chỉ.
Tên thái giám vái dài rồi lui ra.
Vài phút sau, một mình Cung thân vương đến. Ông biết được tin đó vì chính ông nhận công văn, ông mệt quá, thở không được. Chữ viết trong công văn do một người nào viết nhưng có đóng ấn của tổng đốc. Ông đem theo tờ công văm đó cho Từ Hy coi.
Sau khi đã đáp lễ thân vương, Từ Hy nói:
- Thân vương đọc tờ công văn đó cho tôi nghe.
Ông đọc rất thong thả, Từ Hy lắng tai nghe, hai mắt nhìn bó hoa lan vàng, cắm trong lọ ở giữa bàn. Sáu ngàn quân Tây phương tấn công các cổng thành và đã lọt vào trong tỉnh Quảng Đông. Quân lực hoàng gia có chống đối lấy lệ, rồi mạnh ai người nấy chạy. Quân giặc người Hán trà trộn trong dân chúng, làm nội tuyến, mở cổng thành để bọn giặc Tây phương kéo vào. Viên tổng đốc tìm đường thoát thân leo lên nóc các pháo đài trong tỉnh. Bọn sĩ quan lấy dây thả ông xuống. Người Hán làm chỉ điểm cho quân thù, ông liền bị bắt. Tất cả các viên chức trong tỉnh bị cầm tù, viên tổng đốc bị đày sang Calcutta, mãi tận bên Ấn Độ. Bọn người Tây phương rất hung hãn, phách lối, đặt một chính phủ lâm thời người Hán như để thách thức Thanh triều. Trong bản công văn có nói quân hồng mao còn yêu sách nhiều thứ, lệnh của nữ hoàng, họ cần phải trực tiếp hội kiến với hoàng thượng để giải quyết nhiều vấn đề.
Trong gian phòng ấm cúng, êm ả, một giờ trước đây, Từ Hy còn ung dung ngồi vẽ những cành đào có hoa, tin khủng khiếp này làm bà rụng rời chân tay. Bà nghe thân vương đọc tờ công văn, bà ngồi im, không nói một lời. Thân vương đưa mắt nhìn chỗ khác, trong lòng nghĩ thương hại cho người đàn bà trẻ, đẹp, cô đơn, ôngnóng lòng xem bà chỉ phán ra sao? Bà nói:
- Trước hết, chúng ta không thể nào tiếp kiến bọn khốn kiếp, ngoại lai ở trong hoàng cung. Riêng phần tôi, tôi vẫn hoài nghi bọn đó hành động lấy danh nghĩa nữ vương, có lẽ nào bà ấy lại sai bọn chúng làm càn. Tôi không thể đến một sứ lạ, xa xôi, tiếp xúc trực tiếp với nữ vưong để biết rõ thực hư, cũng như tôi không thể công bố cho quốc dân biết thiên tử đang lâm trọng bệnh. Đông cung thái tử còn nhỏ quá. Việc kế vị sẽ gây nhiều mầm móng tai hại. Dù sao đi nữa và bất cứ giá nào, cũng không thể cho người ngoại quốc vào đây dù với danh nghĩa nào. Phải trì hoãn, đợi thời cơ thuận tiện, hứa nữa, vì đang tiết mùa đông.
Những sự ưu tư, ý nghĩ của thân vương đối nghịch hẳn với những xét đoán, lý luận của bà thái hậu, ông không sao thông cảm nổi. Ông ôn tồn nói:
- Tâu lệnh bà, tôi xin nhắc lại những lời tôi đã nói, lệnh bà chưa biết bản tính những hạng người đó. Bây giờ đã quá trễ, lòng kiên nhẫn của họ lên đến tột độ.
- Hãy để xem sao, mình sẽ tính.
Bà không nói gì nữa. Thân vương cố biện luận, khuyên can, bà lắc đầu lia lịa, mặt tái đi, hai mắt có quầng, rất hung dữ, kinh khủng:
- Hãy để xem sao mình sẽ tính sau.
Từ Hy nghĩ thầm: "Thật là Trời giúp ta". Năm đó rét lạ lùng, cổ kim chưa năm nào rét như năm đó, sáng ngủ dậy, Từ Hy nhìn ra ngoài khung cửa sổ, thấy lớp tuyết dày gấp bội đêm hôm qua. Công văn chạy hỏa tốc từ Quảng Đông về kinh chậm hơn mọi khi 3 lần thời gian, khứ hồi phải mất hàng mấy tháng. Viên tổng đốc chết mòn trong ngục Calcutta, nhưng Từ Hy không cần biết. Hắn đã tận trung, tuyệt đối tuân theo chỉ thị của triều đình, đến khi sa ngã không ai đoái hoài. Chẳng may, nếu chết trong ngục, bà lấy đó làm cái gương cho người còn sống để phục vụ bà, "Tôi trung chết vì chúa"
Mùa đông thấm thoát trôi qua, xuân đến, nhưng một mùa xuân đầy thù nghịch và hổn loạn. Xuân năm đó, cây nảy mầm, trúc ra măng cũng chậm hơn mọi năm. Trong hoàng thành những cây huệ trổ hoa trên đám than củi có tro phủ, những cây mai lùn nở hoa trong lòng kính, trưng bày trong các cung điện. Trong khung cảnh mùa xuân nhân tạo đó, bà Từ Hy cho treo những lồng chim, tiếng chim líu lo hót làm bà vui thích. Vận nước suy vi, giang sang nghiêng ngửa, bà lo lắng nhiều hôm mất ăn, mất ngủ, thỉnh thoảng bà lấy thú tiêu khiển, mở lồng chim cho chim bay, đậu trên hai vai, trên bàn tay, mổ những hạt mà bà cắn ở răng. Bà cũng thích chơi đùa với đàn chó. Những con vật hồn nhiên, vô tri, vô giác đó là bà lãng quên được nổi sầu muộn, tâm hồn được cởi mở.
Đứa con trai bà còn nhỏ dại, thơ ngây, chỉ thích quấn mẹ, không yêu ai hơn bằng mẹ. Khi nom thấy mẹ, nó bỏ hết mọi người xung quanh, vội vàng chạy ra ôm mẹ. Đối với những người nào làm trái ý, có vẻ chống đối, bà rất thẳng tay, không một chút nhân từ, nhưng bà rất hiền hòa đối với kẻ dưới, những người có lòng yêu mếnbà. Vì thế bà nhắm mắt, bỏ qua những tính hư, tật xấu của tên thái giám Lý Liên Anh, vì tên thái giám này tận tâm phục vụ bà. Tên này có tật xấu hay ăn cặp vặt, tham nhũng, hay vòi tiền những người nào muốn xin ý kiến bà, để cầu cạnh một việc gì. Bà biết hết nhưng ngoảnh mặt làm ngơ. Bà không than phiền ông vua về tình trạng ốm yếu, bạc nhược, bất lực vì dâm dục quá độ. Vì ham của mới, ông thay đổi gái mỗi đêm, có khi ông bất lực với người ông thích; cho ông hạng gái tơ bồi tiếp thêm sức cho ông. Ngoài thể chất, không đáng kể, linh hồn ông bà nắm gọn trong tay, bà mặc để ông muốn làm gì tùy thích vì thực tìn, con người đó bà không yêu, không thích. Bề ngoài, bà tỏ ra vẻ dịu dàng, quyến luyến để che mắt mọi người và cũng trả ơn sự say mê đằm thắm của ông đối với bà.
Cung thân vương biết hết những chuyện thầm kín đó, mà Từ Hy cũng biết thân vương không là gì.
Bà suy luận trong khóe mắt, giọng nói của thân vương, hắn biến nhưng để bụng không nói ra. Bà âm thầm, khổ tâm sống cô đơn, chỉ những người tinh ý mới biết, bà kông thể thổ lộ tâm sự với ai. Thân vương không mê bà, vì vợ ông, một tuyệt sắc gia nhân, tính nết hiền hòa, đối với Từ Hy ông chỉ tận tụy trong chức vụ cố vấn.
Xuân qua, hạ tới, bà Từ Hy chưa quyết định có nên đi thừa lương ở Viên Minh không? Bà muốn đến đó để tỉnh dưỡng. Suốt cả mùa xuân, bà không bước chân ra khỏi cấm thành, bà nhớ đến cảnh trí thiên nhiên ở Viên Minh. Chưa bao giờ bà lại có ý thức như lúc này, muốn được sống giữa cảnh thiên nhiên, trời cao, núi non trùng điệp. Đêm bà không mơ tưởng đến chuyện tình dục, bà muốn hưởng cảnh trăng thanh gió mát, những khu vườn rộng lớn, xa xa núi non chập chùng.
Bà say xưa ngắm không chán mắt những phong cảnh vẽ trên lụa, rồi đưa hồn vào cõi mộng. Bà tha thẫn đi chơi dọc sông hay bờ biển, đêm ngủ trong rừng thông, trong một ngôi chùa có một bụi trúc che khuất. Khi tỉnh dậy, bà khóc, những cảnh vật đó đã tan biến, chỉ là một ảo giác.
Một hôm như một cơn giông bão đột khởi, những tin tức rất bi quan, bà như có linh tính báo trước từ lâu thể nào cũng có, đưa đến hoàng cung. Những sự ao ước, dự định đi thừa lương đành xếp hết lại. Những chiến thuyền Tây phương, theo duyên hải, ngược lên phía bắc. Những bưu trạm thay phiên nhau chạy suốt ngày đêm để tống đạt công văn thượng khẩn lên kinh thành. Làm sao công văn phải đến trước chiến thuyền quân địch đến pháo lũy Taku, tiền đồn phòng thủ Thiên Tân, một tỉnh cách xa kinh thành 20 cây số. Tất cả mọi người trong hoàng thành, lớn nhỏ, nghe thấy hung tin, hồn xiêu phách lạc. Ông vua đang nằm trên giường, lơ mơ, nghe tin giặc đến, ông giật bắn người. Ông ngồi nhổm dậy, truyền cấp tốc thuyết triều, cho triệu thỉnh toàn ban cơ mật vụ, thượng thư, thân vương, lưỡng cung đến dự trào ngồi sau tấm bình phong chạm rồng. Từ Hy đến vịn tay vào viên thái giám, ngồi trên một chiếc ngai lớn nhất. Một lúc sau, bà Đông cung Từ An đến; Bà Từ Hy theo phép lịch sự đứng dậy, nghiêng đầu chào bà. Bà Đông cung có vẻ đã già, tuy bà mới có 32 tuổi. Nhưng mặt bà dài thuỗn, hốc hác, buồn buồn, bà cố nhếch mép nở một nụ cười khi bà Từ Hy đến nắm tay.
Lúc này không ai để ý đến những làn sóng ngầm. Xích mích, bằng mặt không bằng lòng giữa những cá nhân khi tất cả quốc gia đang rung chuyển. Tất cả triều thần, văn võ bá quan, hoàng thân quốc thích, trong lòng hồi hộp lo sợ, lắng tai nghe Cung thân vương đứng giữa triều đường đọc to những tin tức khủng khiếp vừa nhận được. Hoàng thượng mặc áo lông cổn, ngồi trên ngai vàng, đầu cúi xuống lấy chiếc quạt lụa che kín nửa mặt.
Cung thân vương nói rõ tất cả sự thật phủ phàng, đau đớn. "Mặc dù những thiện chí, cố gắng liên tiếp của triều đình, quân Tây phương không chịu ở phương Nam, họ muốn bành trướng, xâm đoạt toàn lãnh thổ của nước ta. Những chiếc thuyền, bộ đội, súng ống, đạn dược, theo dọc duyên hải, ngược lên phía bắc. Chúng ta chỉ còn hy vọng, không biết những pháo lũy ở Hà Khẩu có đủ lực ngăn chặn được bọn chúng khỏi lọt vào Thiên Tân không? Nếu chẳng may chúng phá được Hà Khẩu, vào được Thiên Tân, giặc sẽ tiến thẳng về hoàng thành".
Tiếng rên rỉ buồn thảm lẫn tiếng thở dài của bọn người đang quỳ mọp trước sân rồng, đầu cúi gầm, trán chạm đất.
Cung thân vương ngập ngừng một lúc rồi nói tiếp:
- Nói ra bây giờ e còn sớm quá, song tôi nghĩ quân Man Di không chịu theo luật lệ của nước mình. Dám có thể chúng kéo đến hoàng cung, chúng ta không thể đuổi chúng về phương Nam. Mình phải có can đảm nhìn vào sự thật, không phải lúc còn mơ mộng. Tình thế thật phần nguy biến, tương lai đen tối, sầu thảm.
Khi Cung thân vương dứt lời, hoàng thượng tuyên bố bãi trào, ngài cần phải suy nghĩ, cân nhắc trước khi ra quyết nghị. Vịn vào hai cánh tay của hai hoàng tùng đệ, ngài ngự sắp bước chân xuống ngai, đột nhiên có tiếng lanh lảnh của Từ Hy sau tấm bình phong nói lớn lên:
- Đúng lẽ, tôi không có quyền phát biểu, song tôi mạn phép quyết nghị vì tình thế quá cấp bách.
Hoàng thượng ngập ngừng không biết nói sao, ngoảnh đầu bên trái, bên phải, cử tọa vẫn quỳ mọp, im phăng phắc, đầu cúi gầm.
Trong bầu không khí nặng nề đó, tiếng Từ Hy lại sang sảng vang lên:
- Đối với quân mọi rợ, man di đó, tôi đã nhiều lần khuyên can triều thần nên có thái độ kiên nhẫn. Tôi cũng đã nói nhiều lần phải cố chờ cho đến khi nào mình có thời cơ thuận tiện. Bây giờ tôi nhận ra làm như thế tôi đã phạm vào lỗi lầm. Tôi thay đổi ý kiến, tôi không dùng chính sách hòa hoãn, kiên nhẫn nữa, không hẹn hò gì hết. Tôi xin tuyên chiến với quân xâm lược. Vì sự tồn vong của quốc gia, một vấn đề sinh tử, tất cả mọi người phải đồng lòng hy sinh: đàn ông, đàn bà, con nít.
Nếu lời nói đó là lời nói của một người đàn ông, cử tọa đã hoan nghênh tán thành. Nhưng tiếng nói đây là tiếng nói một phụ nữ, dù cho người đó là thái hậu. Không ai nói gì tán đồng quan điểm hay phản đối. Hoàng thượng ngồi cúi đầu chờ xem có ai nói gì không. Thấy không ai nói năng, bàn soạn ra sao, ông lại vin vào hai cánh tay của hai người em, bước xuống ngai, đi ngang qua các đình thần đang quỳ mọp, ông bước lên ngọc liễn trở về cung.
Ông vua đi rồi, hai bà thái hậu cũng rút lui, hai người không nói năng gì, trừ mấy câu xã giao cần thiết. Bà Từ Hy nhận thấy bà Từ An muốn tránh né, hai mắt bao giờ cũng nhìn đi chỗ khác. Bà Từ Hy về cung chờ không thấy hoàng thượng cho người đến triệu thỉnh.
Bà cho gọi Lý Liên Anh đến, hầu mách, ban ngày vua cho vời một, hai cung nữ đến hầu, không thấy nhắc đến bà. Tin này hắn mách là do viên chưởng quản thái giám cho biết, vì hắn túc trực bên cạnh vua. Lý Liên Anh nói:
- Tâu lệnh bà, hoàng thượng không quên lệnh bà, song ngài sợ những biến cố có thể đột khởi. Ngài chờ xem các quan đại thần nghị luận ra sao.
Từ Hy kêu lên:
- Như thế này, đại sự hỏng rồi.
Bà công khai đã kích hoàng thượng, Lý Liên Anh làm như không nghe thấy gì.
Sáng hôm sau, bà nghe nói không chống cự lại quân ngoại xâm tây phương. Việc đó trái với ý nghĩ, đường lối của bà. Theo lời đề nghị của hội đồng liên bộ, hoàng thượng đề cử một phái đoàn, ba người có uy tín để điều đình với quân hồng mao ở Thiên Tân. Trong số ba người được đề cử có Quế Liên, nhạc phụ Cung thân vương, một người có tiếng khôn ngoan và thận trọng. Bà Từ Hy nghe tin này, bà rít lên:
- Hỏng, hỏng, ông già này làm sao đối thủ được với quân mọi. Ông vừa già nua, ốm yếu, quá thận trọng, ôm một mớ lý thuyết thánh hiền để nói chuyện với quân man di. Hỏng. Hỏng quá.
Bà xét đoán rất hữu lý. Ngày 04 tháng 7, ông già Quế Liên ký với quân giặc một bản thỏa ước. Bản thỏa ước đó, một năm sau, được đức vua phê chuẩn. Thỏa ước bị cưỡng bách ký kết dưới áp lực của sức mạnh, súng đạn và lưỡi lê, lại được sự hậu thuẫn của quân đội Nga, Mỹ, quân đội hồng mao và Phú Lăng Sa đã thu hoạch rất nhiều thắng lợi, được thõa mãn hầu hết các yêu sách. Theo thỏa ước này, hai quốc gia (Anh, Pháp) có quyền đặt lãnh sự tài phán ở Bắc Kinh, các nhà truyền giáo, thương mại, có đặc quyền đi lại trên khắp lãnh thổ Trung Quốc, không bị luật lệ bản xứ chi phối. Hán Khẩu một giang cảng ở trung tâm nội địa cách Bắc Kinh khoảng 1500 cây số được mở cho người da trắng thông thương. Họ có quyền xây các nhà cửa, cơ sở, doanh trại.
Từ Hy đọc xong những điều khoản trong thỏa ước, bà ngồi lỳ trong phòng ba hôm liền, không ăn, không ngủ, không thiết làm một việc gì. Bà cấm không cho các thể nữ, a hoàn vào phòng bà. Người a hoàn hầu cận thấy bà thế, lo ngại quá, ngầm báo Lý Liên Anh đến nói cho Cung thân vương biết. Bà Tây cung mấy hôm nay nằm liệt giường như một xác chết. Bà khóc hết nước mắt.
Cung thân vương được tin đó, vội đến cung bà thái hậu. Bà Từ Hy chịu cho tắm rửa, thay quần áo, ăn uống trở lại. Bà tiếp thân vương ở thư viện hoàng gia nghe thân vương trình bày lý lẽ về bản thỏa ước.
- Tâu lệnh bà, lệnh bà nghĩ coi một người có uy tín thận trọng như nhạc phụ tôi phải chịu khuất phục ký bản thỏa ước vì không còn cách nào hơn. Chúng ta không được do dự, không được lựa chọn. Nếu chúng ta khước từ họ, họ sẽ tiến quân lên kinh thành.
Từ Hy bĩu mồm:
- Chỉ là một cái lối cưỡng bách dọa nạt mình.
- Không phải họ dọa nạt. Tôi biết quân hồng mao họ nói gì là họ làm.
Thân vương nói đúng hay sai, bà cũng không nói gì. Sự việc đã rồi, bà đành khoanh tay, bà thấy lòng buồn vô hạn. Con bà còn nhỏ quá, làm sao cầm quyền bính, bảo vệ được nhà, được nước. Bà bồn chồn, nóng ruột, đứng dậy, như ngầm bảo thân vương cáo lui, bà trở về cung.
Suốt bao nhiêu ngày đêm, bà ngồi một mình nghiền ngẫm kế hoạch. Để dấu kín tâm tư, bà tỏ ra rất niềm nở, bặt thiệp với tất cả mọi người, chiều theo ý vua, chờ đợi thời cơ, bà luyện rèn tâm trí.
Quân đội tây phương đã được thỏa mãn các yêu sách, đóng quân tại chỗ, không tiến lên mạn Bắc.
Ngày tháng trôi qua, mùa hè sang năm, bản thỏa ước được đem ra phê chuẩn, bà đã làm việc phê chuẩn bản thỏa ước không thành tựu. Việc đó bà đã thắng không phải bằng lời nói hay dọa nạt nhưng bằng những mánh khóe bà lung lạc được ông vua hèn yếu.
Suốt một năm trời hết sức chiều chuộng ông vua đầu mày, cuối mắt, bà đã làm ông bị mê hoặc, tất cả tinh thần thể chất ông bà nắm được cả trong tay. Theo kế hoạch của bà, ông đã dùng thể lực mật phái, các sứ giả, nhờ các vị quan sở tại làm trung gian và môi giới, đút lót vàng bạc tiền nong cho bọn bạch chủng để họ không tiến quân lên mạn Bắc.
Các sứ giả được phái đi vào cuối năm trước, sang đầu năm sau, vua truyền lệnh cho tăng cường phòng thủ ở Hà Khẩu, với những vỏ khí mua lén lút của người Mỹ. Những sự kiện này do bà Từ Hy hoạch định, khuyến dụ vua trong phòng kín, trong khi bà giải trí cho vua, chịu khuất phục, chiều ý khích động ông, bà đọc những chuyện dâm ô, đĩ thõa của một loại sách bà lấy trong tủ sách của bọn hoạn quan.
Mọi người ở trong hoàng thành nhốn nháo, lo sợ, không biết vì lẽ gì mà vào đầu mùa hạ, những công văn thượng khẩn cấp báo, người tây phương không chấp thuận sự sửa đổi, trì hoãn việc thi hành thỏa ước đã được hai bên kí kết. Dưới quyền chỉ huy của viên thủy sư đô đốc, người hồng mao tên la Hope, hạm đội chiến thuyền của họ tiến về mạn Bắc, vượt quá tỉnh Thượng Hải. Người dân ở ngoài phố cũng như các triều thần cho là một sự dọa nạt, mọi người vẫn bình tĩnh, không sợ. Các đồn ải ở Hà Khẩu đã được phòng thủ đến mức tối đa, quân đội hoàng gia được tăng cường để khích lệ ba quân, nhà vua còn treo giải thưởng cho những đơn vị lập được chiến công.
Nhờ có "Hoàng thiên hậu thổ", án trợ, phù hộ, quân thù đã bị đẩy lui thực sự, ba chiến thuyền bị đánh đắm, giết được hơn 300 quân giặc. Được tin cấp báo thắng trận, vua hết sức vui mừng, cảm ơn bà Từ Hy đã có sáng kiến rất hay đem lại vinh quang cho Thanh triều. Nhân cơ hội đó bà khuyên vua từ khước hết không chấp nhận một điều gì. Thỏa ước vì thế không được phê chuẩn.
Quân bạch chủng cuốn cờ, rút lui, sự thanh bình trở lại. Cả nước ngưỡng mộ thiên tử cho là một vị anh quân, mưu thần, chước quỷ, đã biết lợi dụng thời cơ để hành động. Một trận toàn thắng rực rỡ, vẻ vang, nhờ về mưu thuật, dùng kế hoãn binh, hư hư thực thực, gieo rắc sự hoài nghi cho quân thù có một ý niệm sai lầm về thực lực của quân đội hoàng gia. Đúng vậy, đối với thần dân cả nước, hoàng thượng là một đấng anh quân, minh chúa, lỗi lạc, tài ba. Cương vị của ông sáng chói như vầng nhật nguyệt.
Tuy nhiên, cũng có nhiều người biết người nào trong bóng tối đã giật dây ông. Những người biết chuyện vô cùng ngưỡng mộ bà Tây cung, họ còn phao truyền bà có ma uy thần lực ám trợ, họ còn ca tụng bà có một sắc đẹp tuyệt luân.
Người ta tuy khen nhưng không dám nói to vì sợ phạm thượng, ở trong cung bọn thái giám hết lòng phục vụ, chiều theo ý bà từng tý.
Duy chỉ có Cung thân vương vẫn thấy e ngại, ông tuyên bố:
"Bọn người Tây phương như loài cọp báo, khi chúng bị thương chúng lẫn trốn, nhưng coi thường chúng vồ mình lúc nào không biết"
Có lẽ ông vương này quá lo xa, vì suốt cả một năm trong nước yên tĩnh, thái bình. Bà Từ Hy tiếp tục trau dồi học vấn, thái tử lớn như thổi, mạnh khỏe, tuấn tú. Người ta có đem dâng thái tử một con ngựa đen rất đẹp, loại tuấn mã, để thái tử học cưỡi ngựa. Tính cậu nhỏ hay hát, mồm cười toe toét suốt ngày. Địa vị được củng cố vững vàng, bà Từ Hy bây giờ không phải e ngại gì hết. Sang hạ trời nắng ráo, bà có ý định đi thừa lương ở Viên Minh với thái tử và các thể nữ đi tháp tùng. Sau một năm thái bình, tứ phương vô sự, bà muốn đi thừa lương tĩnh dưỡng.
Nhưng chao ôi! Ai có thể tiên tri biết được ngày mai ra sao? Triều đình, vua quan, lưỡng hậu, thái tử vừa tới địa hạt Nguyên Minh Nguyên, hạt sở tại cung Viên Minh thì có tin cấp báo quân hồng mao nóng lòng phục thù, bất thần tấn công duyên hải miền Bắc với sự tán trợ của quân đội Phú Lang Sa. Tháng 7 năm đó, hai trăm chiến thuyền với một quân số hai mươi ngàn người, chiếm hải khẩu Yên Bài; trong tỉnh Sơn Đông. Quân ngoại xâm không cần điều đình, ký kết gì hết, sửa soạn tiến quân thẳng về hoàng thành.
Ngày đêm công văn tới tấp bay đến, đem toàn những hung tin. Tình thế quá cấp bách, nguy kịch, không phải lúc còn che đậy, dấu giếm hay bàn cãi. Lão trượng Quế Liên lại được đề cử cùng mấy người đi điều đình với địch quân.
Vua sợ quá run lập cập, dặn dò ông trưởng phái đoàn:
- Họ đòi gì, yêu sách gì, nhận hết, nhận hết, nhượng bộ, nhượng bộ, không cần bàn cãi, thảo luận. Tình thế nguy quá rồi, trẫm chết mất.
Bà Từ Hy đứng cạnh vua lúc đó, bà nói:
- Không thể thế được, không thể thế được. Như thế nhục nhã quá, còn ra thể thống gì nữa. Hoàng thượng đã quên trận chiến thắng mới rồi sao? Bây giờ là lúc mình cho quân đội nghênh chiến, lúc này là lúc mình phải phô trương binh lực của mình. Mình phải đánh, phải đánh, đâu có thể nhượng bộ dễ dàng như thế được.
Ông vua không nghe bà nói, lấy cánh tay phải đẩy bà ra xa (Cánh tay phải bây giờ đã khỏe, cử động được), ông quay mặt về ông già Quế Liên, ông nói:
- Khanh đã hiểu ý trẫm nói chưa?
- Tâu hoàng thượng hạ thần đã nghe rõ và xin phụng chỉ.
Viên sứ giả của hoàng thượng và quân lính hộ tống ngồi trên mấy chiếc xe cọc cạch, có mấy con la kéo, thẳng đường Thiên Tân. Quân ngoại xâm đã chiếm hết đồn lũy ở Hà Khẩu. Phái đoàn đi rồi, bà Từ Hy lo quá, bà lại dùng sắc đẹp, mánh khóe lung lạc ông vua để từ bỏ quyết nghị của ông.
Đêm hôm đó, trong phòng hoàng thượng bà tỉ tê nói:
- Thế ngộ quân bạch chủng không chịu tin mình thì sao? Mình phải khôn ngoan, tiên liệu những sự bất thành có thể xảy đến.
Bà đã thành công khuyến dụ ông vua tin tưởng, phái thân vương Sinh, một vị tướng Mông Cổ đem một đạo quân mai phục quân ngoại xâm. Ông tướng này rất gan dạ, đã cầm quân ngăn chặn quân giặc ở miền Nam khỏi tràn lên miền Bắc. Ông đã đánh bại quân giặc trong hai trận chiến thắng vẻ vang.
Bây giờ bà Từ Hy nghĩ đến con người bách chiến bách thắng đó. Ông vua đã chịu nghe bà một lần nữa, ông dấu cả Cung thân vương không dám nói. Thân vương Sinh nhận được mật chỉ, đem quân mai phục gần chiến lũy Hà Khẩu. Ông có nhiệm vụ trục xuất quân bạch chủng ra ngoài biển như ông đã làm một lần với quân giặc người Hán.
Tin tưởng vào lá cờ trắng đình chiến, phái đoàn Anh Pháp ung dung tiến, không đề phòng để gặp phái đoàn của hoàng triều do ông già Quế Liên hướng dẫn. Ông tướng Sinh cho trương lá cờ trắng đầu hàng, ông phất cờ, quân đội của ông xông lại phái đoàn tây phương, bắt cầm tù hai trưởng phái đoàn, trói hết bọn người tùy tùng dẫn đi. Lá cờ trắng bị xé nát, lấy chân đi xuống đất, những người bị cầm tù bị ngược đãi vì ngang nhiên xâm phạm đến bờ cõi.
Hỷ tín đó được cấp báo về kinh thành, một lần nữa quân bạch chủng rút lui. Hoàng thượng hết lời ca tụng Từ Hy, tặng thưởng một hộp bằng vàng đầy đồ nữ trang quý giá. Vua xuống chỉ cho toàn quốc ăn mừng thắng trận trong bảy hôm và truyền diễn tuồng cho đình thần thưởng ngoạn. Ông tướng Sinh được một phần thưởng rất đích đáng, vàng bạc và phẩm tước.
Nhưng ăn mừng vội quá, khánh hỷ bảy hôm vừa mới bắt đầu đã phải hủy bỏ.
Khi quân tây phương nhận được tin phản bội đó, người đồng chủng bị sát hại và cầm tù, họ tập trung tất cả lực lượng, tấn công viên tướng Mông Cổ, đánh một trận như vũ bão, xác xếp thành núi, máu chảy thành sông. Quân của ông tướng Mông Cổ chỉ có những vũ khí cỗ lỗ thô sơ, không có khí giới tối tân nên đã thảm bại. Bọn quân ngoại xâm toàn thắng, tiến thẳng về kinh thành, như vũ bão, không có sức gì ngăn cản nổi, đến cầu Bá Lý Kiều cách Bắc Kinh 15 cây số, qua sông Bành Hổ.
Được tin thất trận của thân vương Sinh, người ta cuống cuồng phái mấy đại đội cấp tốc ra phòng thủ chiếc cầu địa đầu. Cuộc giao phong của quân đội phòng thủ cầu để ngăn chặn quân ngoại quốc, vừa mới chạm súng đã tán loạn bỏ chạy về kinh thành. Quân lính hoàng gia chạy chen vào bọn dân quê, đàn ông, đàn bà, con nít, gồng gánh lếch thếch theo sau, mong tìm được nơi an toàn khỏi lọt vào tay giặc hung hãn.
Toàn kinh thành nhốn nháo, hỗn loạn, dân chúng mạnh ai nấy chạy mong tìm nơi trú ẩn; Đàn bà con nít kêu khóc như ri, đàn ông hò hét, chưởi thề ầm ỉ, người thì ngửa mặt cầu Trời cho tai qua nạn khỏi, thanh bình trở lại. Các hiệu buôn ở phố, đóng cửa, gài then, sợ bị tàn phá, cướp bóc. Những người giàu có đem vợ cả, vợ lẻ, con gái, con hầu, bồng bế, dắt díu nhau chạy đến các làng mạc để tìm nơi ẩn nấp. Trong cung điện Viên Minh cũng náo loạn không kém. Các thân vương, quốc thích, tập họp để bảo vệ ngai vàng, thái tử, công chúa, lưỡng hậu, cung tần, mỹ nữ. Trong lúc cấp bách thập phần nguy kịch, chưa có một đường lối nào nhất định.
Trong khi mọi người cả nhau như mổ bò, người nói cách này, người bàn lối khác, ông vua sợ quá run như cầy sấy, khóc thút thít, dọa uống thuốc phiện với dấm thanh để về chầu Tiên đế.
Duy chỉ có Cung thân vương vẫn bình tĩnh, ông tự chủ được. Ông vào trong nội tẩm, bà Từ Hy, Đông cung thái tử, và bọn thái giám đang xúm xích quanh vua, năn nỉ ông đừng vội về chầu phụ hoàng, tất cả mọi người nguyện xin phò giá, cứu nguy.
Nom thấy thân vương bà Từ Hy reo lên:
- May quá, có thân vương đây rồi. Thấy một người bình tĩnh, can trường như ông cũng được vững lòng.
Sau khi khấu đầu chào hoàng thượng, thân vương nói với ông vua, không phải lấy tư cách một người em nói với anh cả mà là một quốc trưởng theo lẽ quân thần.
- Tâu Thiên Tử, kẻ hạ thần xin được phép luận bàn.
Ông vua rên gừ gừ:
- Nói lên... Nói lên...
- Hạ thần xin được phép thả một giác thư cho quân xâm lược để xin đình chiến. Giác thư đó, hạ thần xin được phép đóng ngọc tỷ.
Từ Hy lắng tai nghe, không biết nói làm sao, nên hay không. Những gì thân vương tiên đoán nay đã thành sự thật, con cọp trở lại phục thù. Bà ôm con sát vào người, gục má xuống đầu con. Thân vương nói tiếp:
- Còn hoàng thượng, thái tử, lưỡng cung và triều thần tạm lánh về Nhiệt Hà.
- Phảị.. Phảị.. Phảị..
Ông vua gật đầu lia lịa, có tiếng xầm xì trong bọn thái giám, thể nữ tán thưởng cho là kế vẹn toàn.
Từ Hy đang ngồi, đứng phắt dậy, tay vẫn bồng con, bà nói:
- Hoàng thượng không nên rời bỏ kinh thành, thần dân sẽ ra sao nếu hoàng thượng bỏ ra đi? Rắn mất đầu, làm sao đương đầu được với quân thù? Sự nghiệp đã tan tành, chỉ có thái tử ở một nơi nào an toàn, còn thiên tử phải ở lại. Lúc nào tôi cũng ở cạnh thiên tử.
Bao nhiêu con mắt đổ dồn lại nhìn bà, ai cũng công nhận bà có một nhan sắc phi thường. Với một giọng bình tĩnh, Cung thân vương ôn tồn nói, giọng nói đượm một vẻ bùi ngùi, thương hại:
Tâu lệnh bà, hạ thần rất thán phục lòng quả cảm của lệnh bà, song theo kế hoạch của hạ thần phải làm cho dân chúng tưởng hoàng thượng đi sạ liệp (đi săn) ở Nhiệt Hà. Theo như thường lệ, hoàng thượng sẽ xuất cung ngự giá đi sạ liệt, hạ thần sẽ đề nghị một cuộc hưu chiến làm trì hoãn cuộc tiến quân của chúng, và để lấy lòng chúng, trong giác thư nói sẽ trừng phạt tên tướng Mông Cổ.
Từ Hy thấy lần này bà thất bại, tất cả mọi người, từ ông vua đến tên hạng quan đều không đồng ý với bà. Bà không thể làm gì được, thiểu số phải phục tùng đa số. Bà lặng lẽ giao con cho người vú nuôi, rồi khấu đầu trước hoàng thượng, bà trở về tư cung với bọn thể nữ.
Năm hôm sau, vua quan rời khỏi Viên Minh lên đường về đất Mông Cổ. Bốn cửa thành đóng kín. Đoàn xa giá có khoảng 1000 người, võng kiệu, song loan, phu khênh vác, những xe bò lộc cộc, có ngựa, la, lừa kéo, đi tập hậu.
Cuộc khởi hành bắt đầu, đi một lộ trình dài 150 cây số. Đi đầu có mấy lá cờ tiết mao, phủ việt, cờ ngũ hành ngũ phương rồi đến đội ngự lâm quân, dưới quyền chỉ huy của viên quản Nhung Lữ. Ông vua nằm trong chiếc võng rồng sơn vàng, đường chỉ thiết vàng, hai cánh rèm buông kín. Tiếp theo là một đoàn xe, chiếc xe đầu có Tây cung thái hậu, rồi xe thái tử có người vú nuôi. Bà Từ Hy ngồi một mình một xe để được khóc thỏa thích không ai biết. Bà bị thất bại chua cay. Trên bước đường lưu vong, bà mất hết nghị lực, can đảm. Bà sẽ ra sao? Bao giờ lại trở về? Bao nhiêu mộng tưởng, hy vọng đã ra mây khói rồi ư?
Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh.
Cũng liều nhắm mắt đưa chân.
Thử xem con Tạo xoay vần làm sao.
Không ai có thể tiên đoán thời cơ, vận mệnh sẽ ra sao đến cả cấm thành, một cột trụ của quốc gia cũng không thể hiểu nổi. Thanh triều rồi sẽ ra sao? Quốc gia này đi về đâu? Một mình Cung thân vương ở lại để một tay chống đỡ sơn hà trước cơn phong ba, bão táp, bảo vệ kinh thành. Ông cầu mong quân thù dừng chân lại Nguyên Minh Nguyên, một xã phụ cận ở cung Viên Minh.
Lúc chia tay, ông vua bệnh hoạn, ốm yếu, viên chưởng quản thái giám bồng ông lên như một đứa trẻ nít, đặt ông nằm trên võng. Ông lẩm bẩm nói như người hết hơi, ông bảo Cung thân vương:
- Cố vớt được chút nào hay chút đó.
- Xin hoàng thượng an tâm hạ thần xin hết lòng.
Từ Hy khóc mãi cũng hết nước mắt, hai mắt bà bây giờ ráo hoảnh. Bà trở nên yếm thế, không thiết gì, số phận long đong phải chịu cảnh gian nan, khổ cực. Thời giờ như kéo dài chậm chạp trôi qua, con đường đá khúc khuỷu, gồ ghề, chiếc xe lộc cộc, lắc lư, xe không có díp.
Thời giờ như kéo dài chậm chạp trôi qua, con đường đá khúc khủyu, gồ ghề, chiếc xe lộc cộc, lắc lư, xe không có díp nhiều lúc xe bị lắc mạnh, tuy đã kê mấy chiếc đệm bông nhưng xe chồm lên, chồm xuống như con bách giữa dòng, bềnh bồng trước cơn gió mạnh. Đến ngọ, đoàn xa giá ngừng lại dùng bữa cơm trưa.
Bà Từ Hy còn rất trẻ, mặc dù bà khóc lóc, buồn bã, khi bước chân xuống xe, nhìn thấy chung quanh đồng lúa bát ngát, xanh rì, lúa đã cao, những cây ăn quả trĩu trịt quả, bà quên hết mọi việc, lại thấy yêu đời. Bà nghe tiếng con gọi, bà giơ tay ra bế. Bà chưa biết Nhiệt Hà và những cung điện ở đó. Vốn bẩm tính thích phiêu lưu mạo hiểm, bà thấy vui vui, quên hết nỗi ưu sầu.
Lúc đó, bà chợt nhìn thấy người thiếu nữ Mai; hai người nhìn nhau mỉm cười. Người thiếu nữ muốn gợi chuyện nên nói:
- Tâu lệnh bà, nữ tỳ nghe nói, cung điện ở phương Bắc tráng lệ hơn các cung điện ở hoàng thành.
- Ta cũng nghe nói. Chúng ta bị bắt buộc phải lên lánh tạm trên đó, nhân dịp được thưởng ngoạn.
Lúc nàng sắp bước lên xe, bà nhìn lại quãng đường vừa đi qua, ngoái nhìn kinh thành mến yêu vừa bước ra đi, xa xa tận chân trời bà thấy bốc lên một cột khói đen ngòm. Thất kinh, bà kêu lên:
- Kinh thành bị chìm trong biển lửa!
Tất cả mọi người quay lại nhìn, thấy một cột khói cao ngất dưới nền trời xanh ngắt của một này mùa hạ.
ông vua nằm trong võng kêu lên:
- Lên đường gấp...gấp.
Mọi người lên xe, tiếp tục, lần này rảo bước, quân giặc đuổi sau lưng.
Đoàn người ngủ đêm ngoài trời, một lộ dinh đã được xếp đặt từ trước. Nằm trong lều, Từ Hy không sao ngủ được. Mấy lần bà sai Lý Liên Anh đi dò la tin tức, xem kinh thành ra sao? Đến nửa đêm có công văn đến, người phu trạm đem công văn thở hổn hển, Lý Liên Anh kéo người đó đến trình trước Thái Hậu.
Bọn a hoàn, thể nữ, trãi nệm nằm ngủ dưới đất, duy có một mình bà thức? Khi bà thấy Lý Liên Anh đưa người phu trạm đến trình, bà để ngón tay lên môi bảo đừng làm náo động. Viên Thái Giám thì thào nói.
- Tâu lệnh bà, Thiên Tử đang ngủ nên hạ thần đưa người này đến trình lệnh bà. Viên trưởng quản Thái Giám nói đã tiêm một số thuốc phiện gấp bội cho Hoàng Thượng.
Bà dương to đôi mắt nhìn người phu trạm đứng đó. Người này không hiểu thế nào, sợ tái xanh. Người Thái Giám ấn hai vai người phu trạm bắt quỳ xuống. Người phu trạm tâu.
- Tâu lệnh bà, lúc gần sáng quân thù đã tổng tấn công. Giác Thơ xin đình chiến nay mới gởi đi. Suốt ngày hôm qua quân giặc đã tàn phá để trừng phạt thân vương Sinh vì đã ngược đãi tù binh, người của họ và xé mảnh vải trắng chúng gọi là cờ.
Từ Hy nghe nói sợ qúa, toát mồ hôi. Trống ngực bà đập mạnh. Bà truyền cho tên Thái Giám:
- Thả người này ra.
Được thoát ở vòng hai cánh tay người Thái giám, người bưu tá rớt xuống như một chiếc bao bị xẹp hơi, đầu cắm xuống đất, bà Từ Hy đương nhìn người đó. Mồm bà khô bỏng, lưỡi bà hơi cử động, bà hỏi:
- Các cổng thành bị phá sập rồi hả?
- Tâu lệnh bà, họ không tấn công ỡ cổng thành.
- Thế cái cột khói đen ta đã trông thấy cháy ở đâu?
- Tâu lệnh bà Nguyên Minh Nguuyên thành bình địa.
- Cung điện ở viên minh?
- Tâu lệnh bà, còn lại một đống tro.
- Ta tưởng chúng phóng hỏa đốt tỉnh?
- Tâu lệnh bà, chúng phóng hỏa đốt cung điện ở viên minh. Quân giặc vơ vét hết của cải, phóng hỏa đốt. Cung thân Vương không sao ngăn cản được chúng. Ông đã phải trốn để bảo toàn tính mạng qua cửa nhỏ của Thái Giám.
- Bà Từ Hy thấy ù hai tai, nghe như tiếng ầm ì trong đầu. Bà choáng váng mặt mày, bà như nhìn thấy ngọn lữa đang cháy len lén, khói bốc mù mịt, những chiếc tháp bằng sứ, những mái nhà cong, ngói sứ, mạ vàng đổ vỡ tan tành. Bà đứng đờ người, nhìn người nằm gục trước mặt. Bà lẩm bẩm nói một mình:
- Thôi thế là hết, hết...
Người bưu trạm vẫn gục mặt xuống đất, không ngẩng đầu lên nói khẽ:
- Chỉ còn tro, một đống tro.
Ở Nhiệt Hà, Bà rất khó chịu bởi ngọn gió hành ở Tây Bắc thổi. Ngọn gió thổi chỗ nào, những cây hoa tàn héo hết, cành xơ xác. Cả những lá thông cũng vàng úa. Từ ngày đến Nhiệt Hà, ông vua chưa khi nào cho vời bà đến. Con nữ tì đóng kín các cửa ở phòng bà để tránh ngọn gió hanh.
Bà bảo thái giám:
- Quạt.
Lý Liên Anh tiến gần lại bà, quạt với một chiếc quạt lớn phất lụa. Bà ngồi tựa lưng vào chiếc ghế bành chạm, nhắm mắt lại. Bà có cảm tưởng bà bị đi đày. Tại sao mấy hôm nay ông vua không cho gọi bà đến? Người nào đã thay thế bà? Tháng trước nhân lễ sinh nhật thái tử, triều thần đã dâng lên vua phẩm vật cống hiến, kèm theo những lời chúc tụng, không có ai nhắc nhở gì đến bà. Bà đã trang điểm, chờ sẵn để vua cho người vời đến, nhưng chờ mãi chẳng có ai đến triệu thỉnh, bà tức quá, xé áo, suốt đêm bà không ngủ.
Sau bà mới biết vua đau nhiều, người mỗi ngày một nhưng sao ông không cho gọi bà đến. Tình trạng, sức khoẻ của ông có phần đáng ngại, bệnh tình biến chứng, một lúc một gia tăng. Tuy vậy hội đồng thiên văn tuyên bố có nhiều điều tốt, bản mệnh ông vững vàng, có một ngôi sao chổi xuất hiện ở tây bắc. Ông đã đến thời kỳ nguy kịch, gần đất xa trời, nên không gọi bà đến. Bà thở dài, bảo thái giám:
- Thôi.
Lý Liên Anh buông thõng tay xuống, đứng yên.
Bàmở to mắt nhìn vào quãng hư vô. Bà nghĩ cần phải biết có chuyện gì ở trong nội tẩm, nhưng không được triệu thỉnh, làm sao vào được? Có nên hỏi ý kiến Chung Thân Vương không? Ông ấy hiện nay ở xa, ở trong kinh thành, trong tay quân thù, ông đang vận động để xin đình chiến. Bà không rõ tình thế, chỉ nghe đồn phong phanh. Bà ở một giang bên trái cánh cung. Hai gày trước bà cảm thấy cô đơn, buồn quá, bà muốn đến chơi người chị họ(bà Đông cung thái hậu), nhưng bà này lánh mặt, thoái thác nói nhức đầu. Bà bảo Lý Liên Anh:
- Đến gần đây, trước mặt ta.
Lý Liên Anh đến gần, cúi đầu, chờ lệnh.
- Ra gọi cho ta viên chưởng quản thái giám.
- Tâu lệnh bà, hắn không để rời khỏi nội tẩm.
- Ai cấm nó không được ra ngoài?
- Tâu lệnh bà, là bộ ba ạ.
Bộ ba là: Tải Thản, Đoan Hoa và Túc Thuận, những cừa địch của bà. Bây giờ họ nắm quyền vì bà sống cô liêu, quân giặc chiếm đoạt kinh thành. Bà nói:
- Quạt.
Bà hất đầu ra sau, nhắm mắt, người thái giám phe phẩy quạt. Những ý nghỉ quay cuồng trong đầu bà, mông lung hỗn độn, tình cảm hiện tại của bà còn tệ hơn sự cô đơn. Bà đã mất đi nơi yên ấm. Nguyên Minh Nguyên nay không còn nữa, còn lại một đống tro tàn. Quân giặc, quân man di, quân mọi rợ đã cướp đi những kho tàn của bà, phóng hỏa đốt cung điện, làm gẫy nát những tấm bình phông quý giá. Bao nhiêu tin tức hãi hùng, khủng khiếp do những bưu trạm đem đến. Bà cho gọi một yên phu trạm đến để hỏi rõ sự thật.
Người phu trạm kể lại:
- Hoàng gia vừa rời khỏi viên minh thì quân giặc đến. Người hồng mao Lord Elgin thấy cung điện nguy nga tráng lệ quá, muốn dữ lại không nỡ tàn phá, nhưng không sao ngăn cản được quân mọi rợ, sài lang. Cung thân vương trốn trong một ngôi chùa gần đó, ông có gởi thư cho Lord Elgin phản kháng kịch liệt. Lord Elgin trả lời quân lýnh của họ báo thù cho đồng đội bị sát hại bởi thân vương Sinh.
Từ Hy ngồi lẳng lặng nghe. Chao ôi!. Thân vương sinh đã phục kích, sát hại quân giặc là do ở bà. Vì có giết người ta mới xảy ra tai biến ngày nay, chuyện này hoàn toàn lỗi tại bà, bà phải chịu trách nhiệm, người bưu trạm nói tiếp:
- Muôn tâu Thái Hậu, con xin gập đầu xuống đất tâu lên Thái Hậu. Con cần phải tâu hết để Thái Hậu rõ về sự cướp bóc, tàn phá. Quân dã man đập phá những bức tường nạm vàng, và lấy hết những pho tượng vàng ở các bàn thờ, họ phá những ngai, ỷ, hoàng triều để lấy châu báu, họ đem đi hết những tấm bình phong cẩm ngọc, họ phá nát những đồ bằng sứ. Có mấy người biết những món đồ bằng sứ có giá trị, họ lấy đem đi. Những đồ trang trí bằng ngọc cái thì bị đập nát, cái thì bị lấy. Bao nhiêu kho tàng tích trữ từ thời tiền vương, công trình huyết hãn, một phút thành tro bụi. Cái gì không cháy được, không khênh đi được họ lấy báng súng đập cho nát. Để cho mất hết tàn tích, họ châm lửa thiêu hết cung điện, lửa cháy đỏ rực một góc trời suốt 2 ngày 2 đêm khói bốc lên mịt mù. Như thế vẫn chưa đủ, quân dã man còn đốt hết đình chùa, miếu mạo xung quanh, cả những ngôi chùa nấp trong sườn núi, sườn đồi cũng cùng chung một số phận. Khi bọn giặc đi rồi quân cướp người Hán đến xem còn gì xót lại.
Ngồi nghe người bưu tá thuật lại, bà từ Hy nhắm nghiền hai mắt, nước mắt chảy ròng ròng hai bên má; người a hoàn đứng đó lấy chiếc khăn tay thấm nước mắt cho bà.
Người a hoàn nói:
- Xin thái hậu đừng khóc nữa.
Lý Liên Anh nói, để khích lệ:
- Tâu lệnh bà, cung diện ở Nhiệt Hà cũng tráng lệ, nguy nga.
Bà không trả lời. Bà không thích Nhiệt Hà. Cung điện Nhiệt Hà do vua Càn Long cho xây cất lên. Vua Càn Long thích cảnh trí thiên nhiên, man dã, đầy cát bụi, núi non, đất đai cằn cỗi, phần nhiều những núi trọc. Nhiệt Hà cách xa Bắc Kinh 150 cây số, trên đất Mông Cổ. Phong cảnh đìu hiu càng làm nổi sự nguy nga tráng lệ của cung điện. Những tấm thảm thêu lót ở tường, ở trên trần đóng những tấm bích bản, vàng son, vẽ những con rồng mạ vàng, giương những chiếc cánh nạm ngọc. Đồ đạc ở miền Nam đem lên, bàn, ghế, giường, tủ, làm bằng thứ gỗ quý, chạm trổ công phu, cẩn ngọc.
Những hồ nước, vườn hoa, suối nước, ở đây không có, Nhiệt Hà, nước quý hơn ngọc. Người ta vác nước ở vai đem về, nước lấy ở các giếng đào trong sa mạc hay những ốc đảo xa xôi. Bà càng nghĩ, càng thấy giận đời, người nóng ran lên như cơn sốt, tâm can như lửa đốt. Bà nghĩ thấy cay đắng, Nguyên Minh Nguyên nay chỉ còn lại đống tro tàn; Cung thân vương phải cầu cạnh xin xỏ bọn côn đồ, dã man. Ở trong cái ngục thất khốn nạn này, Nhiệt Hà này, bọn người đối nghịch với bà có ý cô lập bà, không để cho tiếp xúc với hoàng thượng.
Trong lòng bực tức, lo sợ, nhiều lúc bà như điên. Bà cố nhịn nhục, cố bình tĩnh, tinh thần cũng như thể chất mệt mỏi, hao mòn. Không có bè bạn, người tâm phúc không hậu thuẫn, làm sao trừ khử được bọn người đó. Nhớ lại cái hôm kinh hoàng, vua tôi phải rời bỏ Viên Minh đi lánh nạn, bộ ba đó đã trắng trợn tuyên bố đối nghịch với bà. Tuy bà đã cố sức trấn an, bộ ba kia lại càng làm cho ông vua luống cuống lo sợ. Họa kề sau lưng, nên trong lúc vội vàng ra đi, ông đã bỏ quên trên mặt bà ở trong nội tẩm, chiếc ống điếu, chiếc mũ và giấy tờ. Bà cho là một sỉ nhục, quân thù khi đến, nom thấy mấy thứ này, chúng cười chết, cho là ông vua sợ quá, cuống cuồng chạy trốn. Sao bà lại bận tâm một việc nhỏ như thế, trong khi bà đã mất hết không còn lại một tý gì.
Đột nhiên bà đứng dậy, hất chiếc quạt Lý Liên Anh cầm ở tay, bà đi đi, lại lại trong phòng, ở ngoài gió như gào, thét, thổi.
Bà đã nom thấy rõ âm mưu phản phúc của bọn này, Tải Thản và đồng bọn đi theo vua trong lúc bôn tẩu, có ý để lại đi sau các quan trong triều những người thân tín của Từ Hy. Việc đã rồi, bà không làm gì được.
Tuy vậy, vẫn còn một người tâm phúc, chỉ có một người, Tải Thản không thể cầm đội ngự lâm quân bảo vệ thiên tử.
Nghĩ thế bà quay lại bảo Lý Liên Anh:
- Đi thỉnh người anh họ ta, viên chưởng quản ngự lâm quân. Ta cần muốn hỏi một việc.
Bà không khỏi ngạc nhiên thấy thái độ Lý Liên Anh, sai bảo gì hắn nhanh nhẩu lắm, sao hôm nay hắn có vẻ ngập ngừng, không muốn đi, tay vẫn cầm chiếc quạt. Bà giục:
- Đi.
Lý Liên Anh quỳ xuống tâu.
- Tâu lệnh bà, xin lệnh bà miễn cho, hạ thần rất tiếc không thể tuân chỉ.
Bà nghĩ: "Có lẽ nào Nhung Lữ cũng quay lại chống bà"
- Sao vậy?
Viên thái giám ấp úng nói:
- Tâu lệnh bà, con không dám nói. Nếu con nói lệnh bà cho cắt lưỡi con.
- Nói đi, ta hứa không làm tội ai.
Tên thuộc hạ run lẩy bẩy, tuy đã được cho phép nói, hắn cũng không dám nói một câu gì. Bà tức quá, dọa nếu không nói bà cho đem chặt đầu tức khắc...
Sợ quá hắn lẩm bẩm khẽ nói tại sao hoàng thượng để bà ở riêng một chỗ không cho vời đến vì các người thù nghịch với bà quả quyết rằng... Bà và Nhung Lữ...
- Chúng nói là ta tư thông với hắn?
Lý Liên Anh sẽ gật đầu, lấy hai tay che mặt.
Bà hét ầm lên:
- Quân nói láo! Quân nói láọ..
Trong lúc đang bực tức, bà lấy chân đá mạnh tên thái giám quỳ mọp trước mặt, người này lăn dưới đất, không cử động, nét mặt bà hầm hầm, bà đi lại trong gian phòng rộng lớn, bước chân đi, dáng điệu tỏ vẻ căm tức lên đến cực độ.
Đang đi, bà đứng sững lại trước tên thái giám vẫn lặng lẽ quỳ.
- Đứng dậy. Chắc chắn mày chưa nói hết. Mày còn biết gì nữa không?
Người thái giám lổm ngổm đứng dậy, lấy ống tay áo lau mồ hôi.
- Tâu lệnh bà, từ hôm hạ thần được nghe nói âm mưu của họ, hạ thần nghĩ tức quá, suốt mấy đêm không ngủ được.
Mắt bà giương to, long lên, nom kinh khủng.
- Chúng âm mưu gì?
- Tâu lệnh bà, hạ thần sợ không dám nói lên những câu phản phúc, ghê gớm đó. Dạ, chúng định... Mưu định cướp quyền nhiếp chính rồị.. Rồi thì...
- Rồi, làm sao? Chúng định giết con ta hả?
- Tâu lệnh bà, con thú thật, con không biết nhiều về việc đó. Con xin lệnh bà bình tĩnh để đối phó.
- Mày biết chuyện đó từ bao giờ?
Bà ngồi xuống ghế, hai tay ấp vào hai má nóng bỏng.
- Tâu lệnh bà, hạ thần được nghe họ xì xào, cách đây mấy tháng. Tâu lệnh bà, lúc đầu mới nghe xì xầm chưa có gì đích thực.
Bà hét lên:
- Nghe thấy chuyện như thế, sao mày không trình ngay với tao?
- Tâu lệnh bà, nếu nghe được gì cũng trình lệnh bà, con sợ lệnh bà cho hạ ngục con. Tâu lệnh bà, những người lớn, bao giờ cũng có người nói vụng, nói trộm. Tâu lệnh bà, lệnh bà hiện nay uy quyền bao trùm lên tất cả. Con chắc thiên tử không để tai nghe những lời sám tấu.
- Mày ngu lắm, mày cũng phải mở cái khối óc con bò của mày ra chứ. Mày không nhớ Tải Thản, trước kia được đức vua tin dùng sao? Lúc thiếu thời, hắn ở chung với thiên tử. Đức vua hiền lành, chất phát, yếu ớt, còn thằng kia khỏe như vâm, ăn ăn, uống uống như một thằng mọi. Đó, đó mày thấy không, mày ngu độn quá, mày câm họng nên mới tai hại, mày đã thấy chưa?
Bà ngồi xuống ghế, thở dài, nét mặt buồn, bực tức, thái giám vẫn quỳ trước mặt. Tên này chưa thấy bà thái hậu lần nào lại nóng giận như lần này.
Một lúc sau, bà đã nguôi cơn giận, hồi tâm, suy nghĩ. Với một vẻ cương quyết, bà ra ngồi ở bàn viết, mài mực, nhúng ngọn bút lông vào nghiên mực, lấy một mảnh lụa trắng viết một lá thơ cho Cung thân vương. Trong thơ bà trình bày những nỗi khó khăn hiện tại và xin thân vương trợ giúp để giải quyết nhiều vấn đề nguy hiểm và nan giải.
Bà cho thơ vào phong bì, đóng ấn, ngoắc tay gọi Lý Liên Anh đến.
Mày đi tức khắc về kinh thành, giao lá thơ này cho Cung thân vương. Trong thơ bà trình bày những nổi khó khăn hiện tại và xin thân vương trợ giúp để giải quyết nhiều vấn đề nguy hiểm và nan giải.
Bà cho thơ vào phong bì, đóng ấn, ngoắc tay gọi Lý Liên Anh đến.
Mày đi tức khắc về kinh thành, giao lá thơ này cho Cung thân vương, đưa tận tay cho ông, rồi đem thơ phúc đáp về cho tao. Chậm lắm, vừa đi vừa về là bốn hôm.
- Tâu lệnh bà, làm sao con có thể...
Bà ngắt lời, nói:
- Làm sao, làm sao mày phải cố ráng, việc này cần lắm.
Tên thái giám sợ quá, đập ngực, rên lên, bà ngỏanh mặt đi. Tên thái giám, dù muốn, dù không phải tuân lệnh, đi ngay.
Bốn hôm sau, Cung thân vương đích thân đến nơi, vào trình diện ngay bà Từ Hy; Đi đường quần áo lấm láp, bụi bặm.
Mấy hôm liền, bà ngồi trong phòng, không bước chân ra ngoài, kém ăn, ít ngủ, bao nhiêu hy vọng đặt vào lá thơ gửi cho Cung thân vương. Khi gặp Cung thân vương, bà mừng quá. Bà không để ý đến tên thái giám trung thành, Lý Liên Anh, mặt mày ngơ ngác, bẩn thỉu, đi suốt ngày, đêm không dám ngừng dọc đường để ăn uống.
Nom thấy Cung thân vương, bà vội vàng đứng dậy thi lễ hai mắt bà rớm lệ. Nhìn khuôn mặt thân vương hốc hác, song tính nết rất trung thực, người có can đảm, nghị lực, bà như được phấn khởi, vững dạ.
Cung thân vương nói:
- Tôi phải lén đến đây, đúng lý tôi phải vào trình diện hoàng thượng trước, Người thái giám nói và cả trong thơ của lệnh bà, hiện nay có âm mưu định hãm hại tôi và lệnh bà, do a tên phản loạn khởi xướng. Bọn chúng phao du, nói với hoàng thượng là bọn người ngoại quốc đút lót tôi tiền bạc, tôi kết liên với họ, mưu đồ cướp ngôi báu. Nhận được thơ lệnh bà, tôi lật đật đến đây để xem xét tình thế, liệu kịp thời đối phó.
Thân vương đang nói giở, người a hoàn hớt hải chạy vào, khóc lóc:
- Lệnh bà ơi, lệnh bà... Hoàng nam... Thái tử...
- Chuyện gì? Làm sao? Người ta làm gì thái tử?
Từ Hy lắc vai người a hoàn để cho nó nói.
Thân vương nói:
- Làm sao, nói lên, mụ, nói lên, sao lại đứng nhìn?
Người a hoàn vừa khóc vừa nói:
- Người ta ôm đi mất rồi. Người ta ẵm thái tử về cho vợ thân vương Túc Thuận. Bà Túc Thuận, sáng hôm nay được gọi đến cung Sạ Liệp, đuổi tất cả a hoàn, thể nữ ra ngoài. Bà Túc Thuận gởi đứa trẻ cho một người lạ mặt.
Bà Từ Hy nghe xong xỉu, ngã xuống ghế, Cung thân vương trấn an, không để bà sợ hãi quá.
- Tâu lệnh bà, lúc này không phải là lúc sợ hãi. Lệnh bà phải bình tĩnh, can đảm để đối phó.
Ông thân vương không cần phải nói thêm, Từ Hy cắn hai môi, hai bàn tay xoắn vào nhau. Bà nói lớn:
- Thân vương phải ra tay. Chiếc ngọc tỷ. Phải có bằng được chiếc ngọc tỷ. Có ngọc tỷ là có quyền trong tay.
Cung thân vương thán phục sự nhanh trí của bà:
- Chưa thấy một khối óc nào minh mẫn như thế, tôi xin bái phục sự lanh trí của lệnh bà.
Từ Hy không để tai nghe, bà vội vàng đứng dậy. Thân vương giơ tay ngăn bà.
- Lệnh bà không nên ra ngoài lúc này. Để tôi nghe tình hình thế nào đã, Đông cung thái tử có gì nguy hiểm không? Tôi không ngờ âm mưu đã phát lộ, bành trướng đến một giai đoạn ngoài sự ước tính của mình. Lệnh ba hãy chờ tôi về xem sao đã.
Ông nói xong, nghiêng đầu chào, vội vàng đi ra.
Nhưng làm sao bà có thể ngồi chờ thân vương về? Dù có nóng lòng thế mấy, cũng phải chờ, vì ra ngoài lúc này rất nguy hiểm, có thể bị ám sát ở một chỗ nào vắng vẻ, tối tăm. Nhưng con bà ra làm sao? Nghĩ tội nghiệp cho thằng nhỏ. Ôi thế tử, tính mạng hiện nay ra sao?
Bà ngồi một mình trong phòng. Gió thổi vi vu trên mái cung. Bà quay đầu nhìn ra khuôn cửa sổ. Những ngọn gió thổi, bốc cát lên cao, rớt xuống những lổ hỏng để bắn xuống trên tường thành, cát lại rơi xuống hào. Lạch hào khô cạn, trên nền trời không có một đám mây mưa nào, gió thổi, mây bay đi hết. Cũng vì ngọn gió hanh này. Khi ông vua nằm trên võng qua những cánh đồng hiu quạnh, đã kết thúc mau chống cuộc đời ông. Bây giờ làm thế nào để cứu được thế tử?
Bà như đang ở trong giấc hôn mê, đột nhiên bừng tĩnh mở mắt vẫn thấy người thái giám và a hoàn đứng đó. Bà ra ngồi ở bàn viết, với những cử chỉ nhanh nhẹn, bà đổ nước vào nghiên, mài mực, dầm ngọn bút lông, thảo một sắc chỉ về việc kế vị.
- Sắc chỉ:
Trẫm, hoàng đế Hàm Phong, trị vì Trung Quốc và các lân quốc phụ thuộc: Cao Ly, Tây Tạng, bán đảo Ấn Trung các hải đảo phương Nam.
Ngày hôm nay, trẫm thấy sắp phải theo về với các liệt thánh bán triều.
Trẫm, hoàng đế Hàm Phong, trí óc sáng suốt, minh mẫn, trẫm tuyên bố, bởi sắc chỉ này:
Người thừa kế trẫm, là con trai của Từ Hy, Tây cung thái hậu sẽ được phong lên hoàng thượng để nối dõi ngai rồng.
Chờ cho đến khi Thiếu đế đủ 16 tuổi, trẫm chỉ định: Phụ chánh vương là lưỡng cung hoàng hậu, Đông cung thái hậu và Tây cung thái hậu.
Đến ngày hôm trẫm về chầu liệt thánh (Từ Hy để trắng) trẫm ký tên và đóng ngọc tỷ của hoàng triều vào tờ di chúc và sắc chỉ này.
Khâm thử.
Viết xong, Từ Hy cuốn mảnh lụa bản sắc chỉ, luồn vào ống tay áo che khuất. Bà đã ghép Sakota vào chức vị phụ chánh, như thế bắt buộc nàng phải đứng về phía bà, loại được Sakota ở về phía bên thù nghịch. Mánh khóe rất hay, bà phải tự mỉm cười, cho là đắc sách.
Người a hoàn và Lý Liên Anh đứng nhìn bà không chớp mắt. Tuy rất mệt mỏi, người thái giám không dám xin về nghỉ. Người nữ tỳ ngỏanh cổ ra phía cửa, để ý nghe ngóng như có tiếng người đi. Người nữ tỳ rất thính tai, sau bao nhiêu năm phục vụ trong hoàng cung.
Người thái giám hỏi:
- Mụ nghe thấy gì?
Hắn rón rén ra cửa, nhấc chiếc then ngang, lẻn ra ngoài. Khi người nữ tỳ nghe thấy tiếng bàn tay đập cửa, mụ hé mắt nhìn ra cửa. Mụ vào nói khẽ với bà thái hậu:
- Tâu lệnh bà, ông anh họ của lệnh bà.
Từ Hy vẫn ngồi ở bàn viết, quay đầu lại bảo:
- Đưa hắn vào đây.
Bà vừa đứng dậy, Nhung Lữ bước vào. Người nữ tỳ đứng lại cửa, cài then ngang, người thái giám đứng gác ở ngoài. Với giọng niềm nở, Từ Hy nói:
- Chào anh.
Nhung Lữ sau khi gật đầu, chào hỏi qua loa, tiến lại gần. Bà nói:
- Xin anh đừng quỳ, anh ngồi tự nhiên xuống ghế, chúng ta nói chuyện tự nhiên như khi xưa.
Nhung Lữ vẫn không chịu ngồi, hai mắt nhìn xuống.
- Tâu lệnh bà, lúc này không phải là lúc chào hỏi xã giao. Hoàng thuợng sắp băng hà, viên chưởng quản thái giám bảo tôi đến trình lệnh bà rõ. Tải Thản cũng ở bên cạnh hoàng thượng, gần được một giờ có cả thân vương Đoan Huy và Túc Thuận. Ba người này đang cưỡng ép hoàng thượng ký vào tờ chúc thư, phong cho chúng chức nhiếp chính. Hoàng thượng đã khước từ khi bọn chúng nài ép. Bọn này vẫn chưa chịu thôi.
Nghe xong, bà Từ Hy quyết nghị tức thời. Bà chạy liền ra cửa. Tên thái giám Lý Liên Anh chạy theo sau. Bà vừa chạy vừa ra lệnh cho tên thái giám:
- Đến cấp báo cho thiên tử biết, ta ẵm Đông cung thái tử đến bây giờ.
Bà chạy nhanh như gió đến cung Sạ Liệp, đẩy cửa xông vào, không ai có thể ngăn cản nỗi. Ở xa, bà đã nghe thấy tiếng con nít kêu khóc, ngừng một chút, lắng tai nghe, nhận ra tiếng của con. Thật là một sự trùng hợp ngẩu nhiên rất may, bà đang đi tìm chưa biết con đâu, tiếng kêu khóc của con, khác nào như người chỉ dẫn. Bà đẩy bọn nữ tỳ hỏang sợ đứng dẹp sang một bên, bà đi ngang qua các phòng, theo tiếng trẻ khóc mà tiến tới. Khuôn cửa cuối cùng đã qua, bà thấy con bà, trong tay một người đàn bà lạ ẵm, người đó cố dỗ cho nó nín không được. Bà không nói gì, giằng lấy con, ẵm chạy, đứa trẻ thấy lạ nhưng không sợ. Bà chạy ngang qua các gian phòng, các hành lang, trèo lên bậc, xuống bậc, không nghĩ một chỗ nào. Bà vào thẳng trong nội tẩm, viên chưởng quản thái giám nom thấy bà đã mở cửa sẵn để mời bà vào.
Bà kêu lên hỏi:
- Thiên tử chưa "Xuôi" chứ?
Viên chưởng quản thái giám trả lời, tiếng nghẹn ngào nước mắt giọt ngắn giọt dài:
- Tâu lệnh bà, thiên tử còn thoi thóp.
Bọn thái giám quỳ quanh long sàng, sụt sịt khóc. Bà bước bừa lên bọn này, coi như những khúc cây bị trận gió nằm rạp xuống. Bà đến thẳng đầu long sàng, tay vẫn ôm con.
- Hoàng thượng.
Bà nói hai tiếng đó rất mạnh bạo, to tát, tiếng lanh lảnh. Bà đứng chờ, không thấy trả lời, bà đã nhắc:
- Hoàng thượng...
Bà tưởng như mọi lần, khi ông vua say á phiện.
Ông đã nghe thấy, từ từ mở mắt. Ông quay đầu về bà, hai mắt đã dại.
- Hoàng thượng, đây Đông cung của chúng ta.
Đứa trẻ giương to hai mắt, nhìn.
- Hoàng thượng phải tuyên bố nó là Đông cung của hoàng thượng. Nếu hoàng thượng nghe thấy, hoàng thượng giơ cánh tay phải làm hiệu cho biết.
Tất cả mọi người đứng đó nhìn vào ông vua sắp chết. Bàn tay vàng nghệch yếu đuối, không thấy cử động. Một lúc sau, người ta thấy bàn tay hơi nhúc nhích, ông đã cố gắng hết sức. Bà nói:
- Hoàng thượng tuyên bố, Từ Hy Tây cung thái hậu làm nhiếp chính vương. Ngoài thiếp ra không ai có thể bảo toàn được thế tử, có nhiều người tranh giành định hãm hại. Hoàng thượng cử động bàn tay phải để chuẩn y.
Một lần nữa, bàn tay ông vua lại thấy nhúc nhích cử động. Bà Từ Hy tiến sát lại gần, nhắc khẽ mấy ngón tay đã gần cứng.
- Hoàng thượng... Hoàng thượng hãy cố gắng lên một chút nữa.
Ông vua đã cố gắng hết sức nghe theo, hai con mắt đã dại nhìn bà. Bà trút ở ống tay áo, tấm sắc chỉ viết trên lụa, nhanh như chớp Nhung Lữ đã bưng lại ngọn bút lông và nghiên son. Bà giao thằng nhỏ cho Nhung Lữ ẵm. Bà ghé mồm sát vào tai vua nói:
- Hoàng thượng ký vào bản chúc thư. Thần thiếp cầm tay, hoàng thượng co mấy ngón tay vào cán bút.
Bà cầm tay vua, mấy ngón tay ông như cử động đã ký vào bản văn.
Từ Hy cuốn tờ chúc thư luồng vào ống tay áo.
- Xin cảm ơn hoàng thượng... Bây giờ hoàng thượng nằm yên nghĩ.
Bà giơ tay ra hiệu cho mọi người rút lui ra ngoài. Nhung Lữ ẵm thế tử ra ngoài, bọn thái giám đứng cả một góc phòng, lấy ống tay che mặt. Bà ngồi xuống giường, hai tay nhấc đầu ông vua lên. Ông còn sống không? Hình như vẫn thấy ngực ông phập phồng, ông còn thở. Ông mở to hai mắt, khẽ lẩm bẩm trong mồm:
- Ái phị..
Ông ngừng mộ lúc không thở, cuốn họng thấy run run, ông thở hắt ra rồi "Xuôi" luôn.
Bà sẽ sàng đặt đầu ông xuống gối, cúi xuống xục xùi một lúc. Bà cũng nhỏ vài giọt lệ thương hại cho con người hãy còn trẻ, lúc sinh thời chẳng được một ai ưa chuộng. Riêng mình bà, bà có thể thực tình yêu được người đó không.
Bà đứng dậy ra ngoài, chân đi chậm chạp, dáng điệu một bà hoàng hậu quả phụ.
Nhanh như một luồng gió thổi, tin đức vua băng hà loan truyền khắp trong thành nội. Thi hài của ngài được tẩm liệm, đặt trên linh sàng, ở giữa điện Nhiệt Hà, các cửa ra vào đóng kín, cấm chỉ không cho ai vào. Hai đại đội ngự lâm quân vào khỏang 100 người dưới quyền chỉ huy Nhung Lữ, ngày đêm canh phòng. Ở trong điện chỉ có giống chim tự do ra vào, bay lượn đậu trong các khe chạm rồng ở trên mái chồng hai tầng. Trong điện lặng lẽ âm thầm, một sự lặng lẽ đầy ghê rợn.
Trong bốn bức tường thành, nghe như ầm ì có một cuộc đại chiến, ai có thể tiên đoán cuộc chiến sẽ kết thúc ra sao?
Bà Từ Hy tuổi tuy còn rất trẻ, chưa đầy ba mươi, bây giờ nghiễm nhiên trở thành hoàng thái hậu, thân mẫu Đông cung thái tử. Các thân vương cùng huyết thống, các tộc đảng đứng về phía bà. Những yếu điểm đó có đủ vững chắc để bà cầm quyền không? Mọi người, ai cũng biết, viên cơ mật đại thần Tản Thải và hai ông hoàng, bào đệ của cố hoàng thượng, ba người này thù nghịch với bà. Cung thân vương còn kết liên với bà nữa không? Bọn triều thần chưa biết ngả về phía nào, lúc này còn chờ đợi, chưa dám ra mặt đứng hẳn về phía nào.
Trong lúc đó, bọn thám tử Tải Thản báo tin vua đã băng hà. Tải Thản cho gọi viên chưởng quản thái giám, sai đem bản tin cáo thị cho bà Từ Hy. Với một giọng hách dịch, Tải Thản bảo tên thái giám:
- Đến nói cho bà ấy biết thân vương Đoan Huy và ta được thiên tử đề cử làm nhiếp chính vương, lệnh này có trước khi thiên tử đi chầu tiên đế. Nói với bà ấy, ta chỉ thị cho bà ấy rõ.
Viên chưởng quản thái giám nghiêng đầu chào, không nói một lời, đi ra. Hắn đi được nữa đường nghĩ đến nói cho Nhung Lữ biết. Nhung Lữ được tin lập tức tìm cách đối phó.
Nhung Lữ bảo tên thái giám:
- Đi thật nhanh đem bức cáo thị cho hoàng thái hậu và dắt cả người đó đến. Ta nấp ở ngoài cửa, chờ khi nào họ đi ra ta sẽ vào.
Từ khi vua chính thức băng hà, bà Từ Hy ngồi trong phòng ăn mặc đại tang, trắng toát từ đầu đến chân. Bà không ăn uống, suốt ngày ngồi trên ghế, hai tay bó gối, mắt lơ đãng nhìn ra quãng trống. Bọn thể nữ đứng quanh bà khóc lóc, lấy ống tay áo chùi nước mắt. Chỉ có bà Từ Hy ngồi yên, không khóc.
Bà nghe tiếng chân viên thái giám đến, mắt bà vẫn lơ đãng nhìn ra ngoài xa, nói giọng ể ỏai, như phải làm một việc gì bực mình khó chịu:
- Cho mời viên cơ mật Tải Thản, hai thân vương Đoan Huy và Túc Thuận vào đây: Hoàng thượng này ở dưới suối vàng, có việc gì ngài giao phó, ta phải phụng chỉ.
Bà nói vừa dứt lời thì bọn Tải Thản, Đoan Huy, Túc Thuận vào. Bà quay đầu về thiếu nữ Mai, con gái Tải Thản bảo lui ra ngoài.
Khi người thiếu nữ đã đi khỏi, bà đáp lễ bọn ba người để tỏ ra bà không kiêu hãnh tuy hiện nay bà ở một ngôi vị cao vì vua đã băng hà. Bà đứng dậy thi lễ, mời ba người kia ngồi. Thái độ Tải Thản có vẻ hách không được nhã nhặn, hắn ngửng cao đầu, vuốt chòm râu, nhìn bà có vẻ như thách thức.
Viên cơ mật nói:
- Thưa bà, tôi đến nói cho bà rõ về sắc chỉ phong nhiếp chính vương. Lúc lâm chung, thiên tử đã...
Bà ngắt lời:
- Thưa quý ngài, nếu quý ngài có tờ sắc chỉ, có châu phê và đóng ngọc tỷ, tôi có bổn phận phải tuân hành, phụng chỉ.
- Tôi không có sắc chỉ, nhưng có nhân chứng. Thân vương Đoan Huỵ..
Đang nói bà chặn lại:
- Sắc chỉ tôi giữ đây, châu phê trước mặt tôi và toàn thể thái giám.
Bà đưa mắt nhìn quanh tìm An Đắc Hải, nhưng người thái giám này khôn ngoan đứng ở ngoài, muốn tránh những cuộc va chạm có khi nảy lửa. Từ Hy muốn có bằng chứng trong lời tuyên bố, bà rút ở ống tay áo tờ sắc chỉ, có châu phê khi vua hấp hối sắp mất. Bà bình tĩnh, đọc rất rõ ràng mạch lạc từng chữ, từng câu, từ đầu đến cuối.
Tải Thản vuốt râu, nghiến răng, nói:
- Bà đưa tôi coi chữ ký.
Bà đưa tờ sắc chỉ cho coi, Tải Thản vội kêu lên:
- Không có dấu ngọc tỷ. Một tờ sắc chỉ không đóng ngọc tỷ không có giá trị.
Hắn không ngồi lại nghe bà giải thích, vội vàng đứng dậy, cả đồng bọn theo sau. Bà hiểu ngay tại sao hắn lật đật vội vàng, ngọc tỷ hiện cất trong một chiếc tráp, chiếc tráp đó hiện nay ở trong gian điện, nơi đặt linh sàng. Người nào chiếm được ngọc tỷ là người đó đắc thắng. Bà nghiến răng, tức quá, mình sơ hở để bọn chúng bắt bẻ.
Bà lột chiếc mũ đang đội quẳng xuống đất, bứt đầu, bứt tai, như hóa điên.
"Ngu thật, nghĩ mình ngu thật, Cung thân vương cũng ngu quá, không nhắc mình điều đó. Nhung Lữ cũng ngu, bọn thái giám phản phúc, nếu họ bảo mình sớm hơn một chút. Ngọc tỷ hiện ở đâu? "
Bà chạy ra cửa, mở cửa ầm ầm, không thấy có ai ở ngoài cả An Đắc Hải lẫn Lý Liên Anh. Không có ai đi theo dõi ba người đó. Bà vật mình nằm xuống đất, khóc nức nở. Phản phúc đến thế là cùng; mất bao nhiêu công trình, huyết hản.
Thiếu nữ Mai tình cờ ghé mắt nhìn qua khe cửa thấy bà chủ nằm thẳng đờ dưới đất như đã chết, nàng vội vàng bước vào quỳ bên cạnh.
- Ô! Làm sao thế này? Lệnh bà bị đau đớn thế nào? Thương tích làm sao? Có ai xúc phạm đến lệnh bà?
Nàng cố nhấc bà chủ đứng dậy mà không được. Nàng vội vàng chạy ra cửa, vừa lúc đó Nhung Lữ đến, đi sau có Lý Liên Anh.
Nhung Lữ bước vào, không để ý nhìn thấy bà Từ Hy. Hắn cầm một ngói bọc lụa vàng.
Hắn đặt chiếc gói xuống, lúc đó mới thấy bà Từ Hy nằm dưới đất, hắn cúi xuống ôm bà lên. Hắn nhìn bà nói:
- Tôi đem ngọc tỷ về rồi.
Trịnh trọng, Nhung Lữ hai tay cầm chiếc ngọc tỷ bằng ngọc thạch có khắc phù hiệu thiên tử. Chiếc ngọc tỷ chuyển tiếp trong triều đại nhà Mãn Thanh từ 800 năm nay.
Nhung Lữ nói:
- Tâu lệnh bà, hạ thần có được nghe những lời của tên loạn thần Tải Thản, trong khi hạ thần đứng ở ngoài cửa sổ bảo vệ lệnh bà. Hạ thần nghe nói sắc chỉ không có dấu ngọc tỷ. Một cuộc chạy đua giữa chúng ta và bọn chúng. Một mặt hạ thần phái viên thái giám giữ hắn lại nếu hắn đến chỗ đặt linh sàng có cất ngọc tỷ.
Lúc này rất nguy hiểm, bọn hoạn thần thua, rất có thể chúng tìm cách sát hại mình.
Bà Từ Hy nói:
- Lúc nào nhà ngươi cũng phải ở bên cạnh ta.
Cùng lúc đó đột nhiên, Cung thân vương xuất hiện, trong lúc vội vàng, hấp tấp, ông quấn vạt áo quanh người. Ông hốt hỏang nói lớn:
- Ngọc tỷ đã biến mất đâu rồi. Tôi thân chinh đến tận điện đặt long sàng, tôi ra lệnh cho bọn lýnh canh gác mở cửa nhưng Tải Thản đã đến trước tôi, chỉ còn chiếc tráp không, có người đã lấy ngọc tỷ rồi.
Ông nói đến đó, mắt chợt nhìn thấy chiếc ngọc tỷ gói trong chiếc khăn lụa màu vàng. Ông lạ quá, mồm há hốc, hai mắt giương to, môi mỉm cười.
- À, bây giờ tôi mới hiểu tại sao Tải Thản nói một người đàn bà như lệnh bà, hắn phải giết không thì sau này sinh hậu họa.
Bà thái hậu, thân vương và viên chưởng quản thái giám nhìn nhau rồi phá lên cười.
Bà Từ Hy giấu chiếc ngọc tỷ xuống gầm giường, chỉ có người thị tỳ và tên thái giám biết chỗ bà giấu. Thân vương bảo bà:
- Lệnh bà đừng nói với tôi lệnh bà giấu ngọc tỷ ở đâu để tôi có thể nói thực là tôi không biết.
Đã có ngọc tỷ trong tay, bà Từ Hy được rộng quyền hành động. Bà yên chí, rất thản nhiên, bình tĩnh khi câu chuyện ngọc tỷ bị mất, gây hoang mang trong cung. Tất cả mọi người đều đoán biết rõ ai đã chiếm đoạt được ngọc tỷ. Có những người mấy hôm về trước lộn xộn đã có vẻ lên mặt, bây giờ len lét không dám ho he. Ba người chủ động cuộc âm mưu, cố tránh mặt bà, bà biết họ có thể phát điên phần thì tức, phần lo số phận. Trong công việc trả ơn, báo oán, việc trước nhất, bà sai thái giám đến cảm ơn vợ Đoan Huy đã trông nom con bà, bà đoán chắc từ nay bà không phải nhờ ai trông nom con bà, vì vua đã băng hà, bà rất rảnh rang tự trông nom lấy con được.
Bà đến chơi bà Đông cung, vẻ mặt buồn rầu, ủ rũ, báo cho bà biết, trong tờ di chúc cố hoàng thượng đã chỉ định cả hai người làm nhiếp chính vương. Bà nói:
- Bây giờ hơn bao giờ hết, chúng ta vẫn là chị em, đức vua đã muốn như vậy để chị em ta chung sức trông nom con. Em xin thề với chị, suốt đời em, em xin hết lòng hết dạ.
Bà nắm bàn tay bà Từ An, mỉm cười rất mặn mà. Làm sao bà Đông cung có thể nói gì lại được. Bà cũng cười, tỏ vẻ đoàn kết.
Bà Từ An nói:
- Chị nói thật với em, chị rất sung sướng khi chị em ta kết làm một đôi bạn tâm giao.
Bà Từ Hy trả lời:
- Chị nói "Bạn" không đúng, đây hai chị em mình cùng một huyết thống.
Bà Từ An:
- Ừ, chị em cùng chung huyết thống... Lúc nào chị cũng ngại Tản Thái quá... Con mắt hắn gian hùng lắm... Tuy hắn hứa không bao giờ chị tin được hắn.
Bà Từ Hy ngọt ngào hỏi:
- Hắn hứa gì, hở chị?
Bà Từ An đỏ bừng mặt:
- Hắn hứa, trong khi hắn ở chức vụ nhiếp chính vương chị sẽ là hoàng thái hậu.
- Thế còn em, có lẽ có định giết em chắc?
- Không khi nào chị để cho nó làm như thế.
Từ Hy vẫn giữ lễ độ:
- Em cũng nghĩ thế, chứ đời nào chị lại để hắn làm thế... Thôi, bỏ qua chuyện đó, không nhắc làm gì.
Bà Từ An ngập ngừng nói:
- Trừ rạ..
Bà Từ Hy hỏi gặng:
- Trừ ra cái gì hở chị?
- Vì em đã biết, chị cũng chẳng cần giấu giếm, chúng nó âm mưu giết hết người ngoại quốc trong nước và đồng thời giết hết các anh em ruột cố hoàng thượng, những người có vẻ chống đối chúng.
Bà Từ Hy vẫn giữ nét mặt bình tĩnh, không lộ vẻ gì sửng sốt. Bà nói:
- Thế cơ à?
Bà Từ Hy mồm mỉm cười nhưng trong lòng sợ quá. Có bao nhiêu song mạng bà có thể cứu được trong số đó có cả tính mạng của bà.
Lúc chia tay, bà nắm chặt bàn tay Từ An, nói:
- Giữa hai chị em mình, từ rầy có chuyện gì hay, dở nói cho nhau biết. Chị cứ yên tâm không lo sợ gì hết, bọn tặc thần không có ngọc tỷ,những sắc chỉ chúng ban ra theo pháp lý không có giá trị gì hết. Chỉ người nào có ngọc tỷ trong tay, trên ngọc tỷ có khắc mấy chữ "Uy quyền theo đúng pháp lệnh" người đó mới bước được lên ngai rồng.
Bà Từ Hy dáng điệu rất bình tĩnh, nét mặt uy nghi. Bà Từ An không dám hỏi ngọc tỷ hiện nay ở đâu? Bà cúi đầu, khẽ nói:
- Đúng thế, em ạ.
Chao ôi! Để tỏ lòng bi ai về một cái tang chung hoàng thượng băng hà, bà Từ Hy đã thắt chặt mối cảm tình giữa hai người trên nền tảng thân hữu. Bà Từ Hy xin cáo lui. Thời giờ trôi qua để xếp đặt việc hồi loan, Cung thân vương đã điều đình với quân ngoại quốc xin đình chiến để làm lễ đăng quang và lo liệu ma chay cho cố hoàng thượng.
Lúc Cung thân vương ra đi, ông có dặn lại bà Từ Hy:
- Tâu lệnh bà, xin lệnh bà đừng tiếp người anh họ trong lệnh tộc. Không ai biết rõ hơn tôi, lòng can đảm, trung thành, của viên quản đó. Nhưng bây giờ bọn người phản phúc tìm tòi, xoi mói theo dõi nhất cử, nhất động. Xưa kia đã có những lời xầm xì, bàn tán bất lợi. Xin lệnh bà dùng tên An Đắc Hải, hắn rất tận tâm phục vụ.
Từ Hy nguýt thân vương như ngầm trách: "Ông cho tôi ngu lắm sao? ".
Thân vương hiểu ý:
- Xin lỗi bà.
Thân vương nói xong, đi ra.
Lời khuyên can đó có phải là thừa con? Chắc hẳn là không, vì hiện nay có bọn người đang dòm ngó, sơ ý một kẽ hở là có hại. Từ Hy dù sao cũng là một goá phụ trẻ, còn ham mê vì tình dục.Từ ngày vua băng hà, nhiều đêm bà nằm mơ nàng tưởng tượng đi qua những hành lang tối om om, những gian phòng rộng lớn, không có một người nào để đến một gian nhà dành riêng cho đội ngự lâm quân. Những ý nghĩ, tơ tưởng đó bay chập chờn trên đầu óc bà. Bà nhớ lại những ngày xa xưa, người đó trai tráng, khoẻ mạnh, cao lớn hơn bà, hùng dũng, mạnh bạo không như ông vua chồng bà ốm yếu, ẻo lả, bất lực... Để tranh đấu với những kỷ niệm xưa, với lòng dục vọng, mấy lời khuyên nhủ của Cung thân vương như một tấm mộc cho đỡ. Bà cố làm ra bề ngoài rất bình tĩnh để che giấu ngọn lửa đang bốc cháy. Vả lại, dù lòng có muốn, lúc này chưa thể được, công việc còn ngổn ngang, nổi khó khăn còn nhiều. Bà phải làm sao diệt trừ được bọn phản phúc, tránh hậu hoạ sau này để con bà vững vàng lên ngôi báu kế vị phụ vương.
Nhờ có một sắc đẹp quyến rủ, dáng điệu đường hoàng, uy nghi, sự khéo léo, nên trừ ra mấy người đối nghịch, còn tất cả quay về bà nhất là đội ngự lâm quân được bà đặc biệt ưu đãi.
Bà tin cậy nhất An Đắc Hải, một tên thái giám tuyệt đối trung thành. Nhờ có tên này bà biết rõ nội tình của bọn người mưu phản. Bà làm vẻ thản nhiên hỏi An Đắc Hải:
- Họ vẫn chủ trương ám sát ta.
- Họ chưa hành động, chờ khi nào về cung thành, có địa vị rõ ràng mới ra tay.
Ngày mùng 2 tháng 9 âm lịch, cuộc đình chiến được ký kết với quân ngoại xâm, hội đồng nhiếp chính ấn định ngày hồi loan. Theo tục lệ cổ truyền, khi các vua chúa băng hà ở nơi xa, không ở trong hoàng thành, các hoàng hậu phải đi trước để tiếp đón linh xa khi trở về. Bà Từ Hy sửa soạn trở về trước với thế tử trong bộ đồ tang chế. Tục lệ này rất có lợi cho bà trong lúc này vì bọn bộ ba thù nghịch với bà, bắt buộc phải đi kèm theo linh xa. Cổ linh xa do 120 phu khênh, đi rất chậm phải mất mười hôm mới tới kinh thành. Bà Từ Hy đi hết có năm hôm trong chiếc xe gỗ có la kéo. Bà được tự do hoạt động, củng cố địa vị trước khi bọn kia tới. Chiều hôm trước ngày lên đường, viên chưởng quản thái giám đến nói với bà:
- Tâu lệnh bà, con xem bọn kia có vẻ tuyệt vọng. Như thế lệnh bà cần phải để ý đề phòng.
- Tôi tin lời anh nói.
- Tâu lệnh bà, con hiểu mưu định của chúng. Tải Thản ra lệnh cho bọn lýnh của hắn đi theo lệnh bà. Họ lấy cớ đội ngự lâm quân phải đi kèm theo linh xa. Hắn ra lệnh cho hạ thần và cả Lý Liên Anh đi theo sau linh xa.
- Chao ôi!
Viên thái giám giơ chiếc bàn tay hộ pháp:
- Còn tệ hại nữa. Nhung Lữ được lệnh ở lại để giữ cung điện ở Nhiệt Hà.
Bà Từ Hy, xoắn hai tay vào nhau hỏi:
- Hắn ở luôn đó à?
Viên thái giám gật đầu:
- Hắn bảo với con thế.
Bà thái hậu trong lúc lo sợ, kêu lên:
- Số phận ta sẽ ra làm sao? Họ xếp đặt như thế, cố ý định giết ta à? ở trong rừng, trên núi, lúc ở dọc đường vắng vẻ, nếu gặp nguy biến ai nghe thấy tiếng ta kêu cầu cứu?
- Tâu lệnh bà, xin lệnh bà cứ vững tâm, ông anh họ với lệnh bà đã tiên liệu, đề phòng mọi sự bất trắc hiểm nguy có thể xảy ra. Xin lệnh bà tin tưởng không phải e ngại.
Vững lòng tin tưởng vào sự bảo toàn của Nhung Lữ, tang tảng sáng hôm sau, bà Từ Hy lên đường. Chiếc xe chở hoàng tử đi trước và tiếp theo hai xe bà Từ Hy và bà Từ An. Một toán lýnh lạ mặt đi theo hộ giá. Mọi người nhận thấy bà Từ Hy rất bình tĩnh, thản nhiên, dặn dò công việc lúc lên đường. Đột nhiên như bà quên mới nhớ ra, bà sai đem vào xe bà ngồi những vật thiết dụng đi đường. Trong một cái tráp nhỏ có chiếc ngọc tỷ, nhưng không ai biết ngoại trừ có con a hoàn hầu cận.
Chiếc xe chuyển bánh, cuộc hành trình buồn bã, chán nãn bắt đầu. Bà không thích cung điện ở Nhiệt Hà vẫn muốn đi nơi khác, nay trước viễn ảnh một cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm, trong lòng bà rất lo ngại. Sau một mùa hè khô ráo, bây giờ bắt đầu mùa mưa, các khe lạch chan hoà nước, tràn ngập những con đường ở núi.
Đến chiều tối, người ta đóng cọc, căng lều để ngủ đêm, giữa đường rừng, núi. Bà thấy ngại ngùng, lo sợ, không những thế, người đội cai quản đạo quân lýnh lạ đến bảo bà: Vì lẽ tôn ti, vì bà ở một ngôi vị cao, bà và Đông cung thái tử phải ở một lều riêng biệt, cách xa các lều khác.
Người này làm ra vẻ lễ phép, trong lúc nói hắn đặt tay trên chiếc chuôi kiếm đeo lủng lẳng bên hông.
- Tâu lệnh bà, hạ thần xin thân chinh bảo toàn an ninh, hết lòng phò giá.
Bà Từ Hy, tình cờ nhìn thấy ở bàn tay mặt người đó, ngón tay cái đeo một chiếc nhẫn ngọc thạch, dưới ánh sáng đèn lóng lánh, viên ngọc sáng lắm bà phải để ý.
- Cám ơn, về đến nơi yên ổn, ta sẽ có thưởng.
- Hạ thần cốt mong làm tròn nhiệm vụ.
Đêm tối dày đặc, gió thổi rít lên từng hồi trong các khe đá, nước ở các suối róc rách chảy, những tảng đá bị nước cuốn ầm ầm, xung quanh lều, bà Từ Hy thức ngồi trông con. Người vú nuôi và a hoàn đã ngủ say. Thằng nhỏ được bú no, nắm tay bà, ngủ. Ngồi yên trong lều, nhìn ngọn nến chảy xuống giá đèn, bà vẫn để ý nhìn chiếc tráp có để ngọc tỷ ở trong. Bà phải hy sinh cả cuộc đời để có được vật báu này. Bà biết đêm hôm vắng vẻ, rất thuận tiện cho bọn thù nghịch ra tay hành động. Ở đây có một mình với hai người đàn bà yếu đuối và một đứa trẻ thơ, nếu có chuyện gì, dù bà có kêu lên cũng không ai nghe thấy để đến cứu bà. Suốt cả ngày hôm qua bà không có tin tức gì về Nhung Lữ. Không biết hắn có nấp vào khe đá hay trà trộn vào đám binh lýnh không? Nếu bà kêu, liệu hắn có nghe thấy tiếng bà không? Bà rất lo sợ, thời giờ trôi qua. Có một hồi trống đánh cầm canh vẳng lên, đã vào giờ tý, 12 giờ đêm. Bà Từ Hy tự trách mình sao phải lo sợ hão huyền. Tại sao bọn quân thù lại chọn nơi này, đêm này để hạ sát bà? Muốn giết bà, thì có khó khăn gì, cho tiền một người đầu bếp bỏ thuốc độc vào thức ăn của bà hay thuê tiền ám sát bà ở một con đường hành lang nào nhỏ hẹp, vắng vẻ. Bà suy nghĩ, cố tự giải thích để cho khỏi sợ, nhưng nghĩ nếu giết bà như thế rất dễ mà cũng rất khó. Thi hài bà thái hậu không thể dễ dàng giấu giếm được còn biết bao nhiêu người khác vây cánh của bà, bọn quân thù không muốn gây công phẫn trong dân chúng.
Thời gian từ từ trôi qua, lại một mối lo ngại nữa đến với bà, ngọn nến sắp hết. Bà không dám đứng lên, sợ con thức dậy. Làm thế nào gọi được con ở mà không phải gọi lớn tiếng, để thay nến. Bà ngước mắt, nhìn thấy chiếc rèm bằng da ở cửa lung lay. Chiếc rèm bập bùng, phải chăng vì gió hay mưa? Bà sợ quá, không dám nhúc nhích, không dám kêu. Dưới mắt bà, một con dao găm găm lười trong tay một người ở ngón tay cái có đeo một chiếc nhẫn bằng ngọc thạch đỏ đang giơ lên.
Bà vội vàng ôm ngay lấy con, chạy đến một góc lều, trốn. Cùng lúc đó bà nom thấy một bàn tay khác nắm bàn tay cầm con dao găm, rồi cả hai bàn tay biến mất. Bà biết rõ bàn tay của người nào đến giải cứu cho bà. Bà nghe có tiếng vật lộn, những tấm vải lều bị rung chuyển. Rồi có một tiếng rên, sự yên tĩnh trở lại.
Nghe có tiếng Nhung Lữ khẽ nói:
- Đáng đời cho mày, quân khốn nạn.
Bà thấy nhẹ nhõm, mừng quá, run bắn người. Bà đặt đứa trẻ đang ngủ xuống thảm, vén tấm rèm, nhìn ra ngoài. Nhung Lữ đi ba bước tới bà, cả hai người đứng nhìn nhau. Bà nói:
- Tôi đã biết thế nào anh cũng đến.
- Tôi không một chút nào rời lệnh bà.
- Người đó chết chưa?
- Chết. Tôi quăng thây nó xuống vực.
- Liệu có ai biết không?
Ai dám nói tên nó lên khi họ thấy tôi đây.
Hai người đứng đối diện, nhìn mặt nhau, mắt không chớp. Nhung Lữ vẫn đứng yên tại chỗ, không tiến thêm một bước nào. Bà nói:
- Để tôi xem có cái phần thưởng nào thật đích đáng tôi sẽ dành riêng cho anh.
Bầu không khí yên tĩnh, phẳng lặng bao trùm, Nhung Lữ thấy gượng, hắn nói:
- Thưa lệnh bà phải đi mau khỏi chốn này. Ở đây toàn quân thù, tụi nó luôn luôn rình rập.
- Có một mình anh à?
- Không, tôi có một chi đội 20 người. Tôi đến trước, ngựa tôi đi nhanh lắm. Lệnh bà vẫn giữ ngọc tỷ chứ?
- Cất ở trong kia.
Nhung Lữ lùi vài bước rối biến mất trong bóng tối. Từ Hy kéo rèm xuống, vào nằm trong lều. Bây giờ bà đã ngủ được, yên chí không còn lo sợ. Có người canh gác, bảo vệ bà ở ngoài. Lần đầu tiên, cách đây bao nhiêu tuần, vì đi đường nhọc mệt, bà đã ngủ một cách ngon lành.
Trời vừa hửng sáng, mưa đã tạnh, mây đã tàn, bầu trời xanh ngắt, cây cỏ xanh tươi, phong cảnh hiện rõ, chơm chởm những ngọn núi đá trọc. Bà làm như không có chuyện gì xảy ra trong đêm, niềm nở nói chuyện với người vú nuôi a hoàn, nắm tay con, bới trong đống cát tìm thấy hòn sỏi nhỏ cho con chơi.
- Mẹ buộc mấy hòn sỏi vào chiếc khăn tay, con giữ lấy để chơi lúc đi đường.
Chưa bao giờ bà lại bình tĩnh như lúc này. Sự bình tĩnh trong tâm hiện ở hai con mắt, trên khuôn mặt. Bà giữ thái độ rất nghiêm nghị, không cười nói, thái độ đó rất hợp trong lúc này, nhưng nhìn kỹ trên nét mặt bà sự quả cảm. Thấy Nhung Lữ với một chi đội 20 người, thay vì tên đội trưởng trước, không ai dám hỏi, dám nói gì vì trong lúc tình thế đang nhiễu nhương, ăn nói, hỏi han điều gì phải thận trọng. Ai cũng biết, nhưng không dám nói ra, Từ Hy đã đắc thắng. Cơm nước xong, những chiếc lều được cuốn lại chất lên xe, cuộc hành trình được tiếp tục. Nhung Lữ cưỡi một con ngựa trắng, mỗi bên có mười người lýnh đi kèm, bảo vệ thái tử và mẫu hậu. Bà làm như không để ý về sự thay đổi của đoàn quân hộ vệ. Bà ngồi yên trong xe, tựa lưng vào mấy chiếc đệm, rèm xe vén lên, bà nhìn ra ngoài ngắm phong cảnh. Nếu có người nào để ý, sẽ không thấy bà quay đầu nhìn viên quản ngự lâm dù chỉ một lần; còn những ý nghĩ thầm kín, ai có thể biết được?
Thực ra, trong lúc này bà không nghĩ gì hết, lúc trước bà bồn chồn, lo lắng, bây giờ, an ninh được bảo đảm, bà hưởng cái thú đi đường. Mục đích tối hậu cuộc tranh đấu này, sự quyết liệt lên ngôi rồng; nhưng trở ngại nếu có sẽ vượt được, phải chờ linh xa của hoàng thượng đến hoàng thành. Bà đến sớm năm hôm, bà sẽ cho tập họp những người trong tộc đảng bà, những người anh em trung tính của cố hoàng thượng, vạch ra một kế hoạch, làm so vô hiệu hoá những quân phản loạn. Bà không dùng võ lực vì làm như thế dân chúng sẽ nhốn nháo, bà sẽ cho thi hành trong luật pháp với tất cả những chứng cớ sẵn có. Bà sẽ long trọng tuyên bố quyền nhiếp chính.
Về mặt chính trị, quốc gia hiện nay đang trải qua một thời kỳ đen tối, nhưng có ổn định được nội bộ mới có đủ uy quyền để đối phó với thời sự.
Bà rất thích khi đi qua những cánh đồng ruộng về mùa thu, những dãy núi hiểm trở nguy hiểm. Lặng lẽ và tự hào, Nhung Lữ đi kèm một bên. Hai người không nhìn nhau, nhưng bà cảm thấy hắn ở bên cạnh để bảo vệ bà.
Ngày 29 tháng 9 âm lịch, Từ Hy nhìn thấy ở xa, trong cánh đồng những bức tường thành. Phố xá vắng vẻ, không có người, tuy vậy bà cũng kéo rèm xe xuống, sợ lỡ gặp người ngoại quốc. Nhưng không gặp một ngoại nhân nào cả. Đường phố hoàn toàn phẳng lặng, vì những tin tức đi nhanh như chớp, người dân biết lúc này: "Lưỡng hổ tranh hùng", họ phải lánh xa không có khi bị vạ lây.
Bà tự vạch ra một đường lối. Quần áo đại tang, xô gai trắng, bỏ hết đồ trang sức, bà đi thẳng vào cung, giữa hai hàng thái giám quỳ dưới đất. Bà rất lịch sự, tự tay đỡ bà Từ An ở trên xe bước xuống, đưa bà về tư cung trước khi về cung bà.
Một giờ sau bà nhận được lá thư của Cung thân vương.
"Thân vương Cung trân trọng cáo lỗi cùng thái hậu. Hạ thần biết thái hậu đi đường xa, vất vả, lo lắng, chắc mệt mỏi lắm. Nhưng vì hiện nay có việc tối khẩn tuy cần giải quyết tức thời, thân vương xin được bái kiến ở quốc gia thư viện. Thân vương sẽ đến với các vị thân vương và các tộc đảng."
Bà Từ Hy, không một chút do dự, không chờ đợi, không cần ăn uống, lau rửa, thay quần áo, bà đến thẳng cung bà Từ An, không cần lễ nghi. Lúc đó, bà Từ An nằm trên giường, các thể nữ ngồi xung quanh. Bà sai pha trà và chải đầu cho bà.
Bà Từ Hy đẩy bọn người kia ra, bảo bà Từ An:
- Chị ơi, chị dậy đi. Ta không có quyền nghĩ ngơi trong lúc này, phải thiết triều ngay lập tức.
Bà Từ An bĩu môi, nhưng thấy vẻ cương quyết của bà Từ Hy, bà không phản đối. Bà thở dài, ngồi dậy, sai a hoàn mặc xiêm y rồi đi cùng với bà Từ Hy. Hai chiếc song loan đưa hai bà đến quốc gia thư viện, hai bà nắm tay nhau cùng vào. Tất cả mọi người đứng dậy chào, Cung thân vương mặc áo xô trắng dẫn hai bà lên ngồi trên ngai. Cung thân vương ngồi bên tay mặt bà Từ Hy.
Cuộc hội thương diễn ra trong nhiều tiếng đồng hồ, hoàn toàn bí mật, các cửa đóng kín, bọn thái giám dồn về cuối phòng không nghe rõ bàn luận gì.
Cung thân vương trình bày:
- Vấn đề này gay go lắm, song chúng ta đã nắm được then chốt. Hoàng thái hậu đã nắm được ngọc tỷ,nội thứ đó còn hơn cả một đội hùng binh. Nhờ có ngọc tỷ việc kế lập rất hợp pháp cho thái tử và hoàng thái hậu nắm quyền nhiếp chính. Tuy nhiên việc hành xử phải rất thận trọng, phải theo đúng nghi lễ đường hoàng, làm sao bắt giữ bọn phản nghịch. Dùng sức mạnh, bắt họ trước linh xa ư? Làm như thế không được, chưa ai làm như thế bao giờ. Dân không phục, bước đầu của tân vương không được tốt.
Tất cả mọi người tán thành ý kiến của thân vương, bàn cãi hồi lâu, quyết định tiến hành công việc theo như thể thức vương triều. Từ Hy với tư cách hoàng thái hậu chấp nhận, bà Từ An cúi đầu không nói gì.
Ba ngày trôi qua, trong lúc chờ đợi linh xa đến, bà Từ Hy lợi dụng thời gian để xếp đặt kế hoạch cho thật chu đáo, xem xét tỷ mỷ từng chi tiết nhỏ khi linh sa đến nơi. Bà phải có thái độ rất đường hoàng, mạnh bạo, cứng rắn và trung trực.
Như tin báo từng giờ, linh xa đã đi đến đâu. Bà Từ Hy đã sẵn sàng để nghênh đón linh xa. Theo lệnh của bà Cung thân vương cho mai phục một đạo quân trung thành ở phía cửa Tây. Chỗ nào linh xa đi qua đều có trãi qua. Trong nội điện phẳng lặng, âm thầm, buồn tẻ. Khi có tin linh xa đến, hai bà thái hậu và thế tử ra đón. Hai chiếc song loan phủ vải trắng, đội ngự lâm quân, quân phục trắng, âm thầm đi ngang qua những đường phố phẳng lặng không một bóng người. Tiếp theo hai song loan có các hoàng thân, quốc thích, quần áo tang, cưỡi ngựa đi sau, đám tang đi rất chậm, trong bầu không khí trang nghiêm, nặng nề. Các vị sư, chuông, mõ, tụng niệm.
Đám tang ngừng lại trước cổng chính vào tỉnh, mọi người xuống ngựa, xuống xe, đến quỳ ở trước cổng, chiếc quan tài lớn 120 người khênh đi ngang qua. Người ngoài phố đứng nấp sau cửa, ghé mắt dòm ở khe, nghe tiếng khóc thảm thiết, bi ai.
Bộ ba phản loạn: Thân vương Đoan Huy, Túc Thuận và viên cơ mật đại thần Tải Thản đã làm tròn nhiệm vụ đưa linh cữu về kinh thành. Theo đúng nghi lễ, bộ ba phải làm tờ trình lên Đông cung thái tử về việc chuyển cữu. Một nhà trạm được thiết lập ở cổng tỉnh để đặt quan tài và hành lễ.
Với một giọng rất bình tĩnh bà Từ Hy tuyên bố như bà có quyền đó:
- Xin long trọng tuyên bố cảm tạ thân vương Đoan Huy, Túc Thuận và cơ mật đại thần Tải Thản đã có công trông nom, đôn đốc, chuyển cữu về kinh thành. Thay mặt tân vương, thiên tử trị vì hiện tại, lưỡng hậu cũng là nhiếp chính vương do cố hoàng thượng sắc phong bằng sắc chỉ có châu phê và đóng ngọc tỷ. Công việc nặng nề này nay đã hoàn tất, do công lao của các vị.
Từ Hy nói rất lễ độ nhưng bên trong ngầm một ý chí sắt đá.
Thân vương Đoan Huy tỏ vẻ thất vọng. Ngửng đầu lên đã thấy thằng nhỏ ngồi chễm chệ trên ngai, bên trái có thái hậu Từ An, bên tay mặt có quốc trưởng thực sự, một người đàn bà can trường, rất đẹp, không hề sợ ai, đã khuất phục được tất cả mọi người bằng sức lực và sắc đẹp. Phía sau ngai các thân vương và tộc trưởng. Đứng hàng sau bọn này là đội ngự lâm quân. Thân vương Đoan Huy thấy Nhung Lữ bệ vệ, uy nghi, lòng như thắt lại. Hắn nghĩ còn hi vọng gì nữa không?
Tải Thản ghé tai vào Đoan Huy nói:
- Nếu thân vương nghe lời tôi bàn trước, mình trừ khử được con qủy cái đó thì bây giờ mình đã yên chí. Nhưng các ông không chịu nghe tôi cứ rụt rè, đắn đo, làm cái gì cũng nữa vời không chịu dứt khoát, không biết bây giờ mình còn giữ được đầu không? Ông đứng đầu trong bọn, nếu ông không can đảm, thì bọn mình chết cả đám.
Thân vương Đoan Huy tập trung hết tàn lực, tiến lên một bước về phía ngai, làm ra vẻ ung dung, tuy hai môi run, hắn nói với thiếu chúa:
- Thưa chúa thượng, chúng tôi mới chính là nhiếp chính vương. Vua cha đã chỉ định thân vương Túc Thuận, cơ mật viện đại thần Tải Thản và tôi để chăm lo việc nước. Chúng tôi là những tôi trung. Chúng tôi xin thề lòng trung kiên của chúng tôi. Đứng trên cương vị nhiếp chính vương, chúng tôi chỉ thị cho hoàng hậu không có quyền hành gì về vụ nhiếp chính.
Trong khi Đoan Huy oang oang giữa triều mấy lời đó, ấu chúa mắt ngơ ngác nhìn, ngáp, nghịch chiếc đai áo tang bằng vải xô, nắm tay mẹ. Bà mẹ hất tay ra, bắt ngồi yên, nắm tay đặt trên đầu gối. Thằng nhỏ sợ, ngồi im chờ cho người kia nói hết.
Khi thân vương Đoan Huy lui ra sau một bước, bà Từ Hy hành động. Bà giơ bàn tay mặt, ngón tay cái chỉ xuống đất, dõng dạc truyền lệnh:
- Vệ sĩ đâu! Bắt ba tên phản loạn này.
Nhung Lữ vội vàng tiến ra, có bọn lýnh đi sau. Họ túm lấy ba người, trói gô lại. Bọn phản loạn không thể chống cự được. Ai có can đảm dám đến giải cứu họ?
Xử xong vụ này, đám tang lại tập họp chỉnh đốn hàng ngũ để đi quãng đường chót vào thành nội, hai bà thái hậu đi hai bên linh sàng, các thân vương, ấu chúa, các đình thần đi sau. Ba tên phản loạn đi sau cùng, chúng bị trói, kéo lê trong bụi trước mắt mọi người.
Như thế, vua Hàm Phong đã trở về cung, ngồi cạnh các Tiên đế. Linh cữu được đặt trong một gian phòng riêng ngày đêm có lýnh canh gác, nến đốt sáng trưng, các vị sư luân phiên tụng niệm cho tam hồn vua thiên, thách phách nhập địa.
Để làm sáng tỏ những biện pháp mạnh đối với những người mưu phản, bà Từ Hy xuống một sắc lệnh tuyên cáo cùng quốc dân, giải thích sơ lược tình thế hiện thời trong nước. Thân vương Đoan Huy và đồng bọn, trách nhiệm cuộc chiến và sự thất trận nhục nhã, lợi dụng cơ hội đức vua còn ấu trí, mưu chiếm đoạt quyền nhiếp chính, dám mạo xưng là do di chúc của Tiên đế, gạt ra ngoài bà hoàng thái hậu, như thế là nghịch lại ý của Tiên vương.
Sau khi ban hành sắc lệnh đó, có đóng ngọc tỷ, một sắc lệnh khác được soạn thảo, sắc lệnh này có mang chữ ký của hai bà Từ An và Từ Hy, minh định tội trạng và trừng phạt bọn loạn thần. Ba người bị ghép vào tội phản nghịch, phải tịch biên gia sản, tước đoạt hết quyền tước. Tải Thản bị sử giảo, tịch thu tài sản. Bà Từ Hy tịch thu thư viện riêng của Tải Thản, ở đó tàng trữ rất nhiều của cải. Trong đống sách vở, tài liệu, bà thích nhất bắt được một tài liệu nói về thiếu nữ Mai. Theo tài liệu này, Mai không phải con ruột của y mà là con một người thù với y, Tải Thản đã ám sát người đó và cướp hết tài sản.
Bà cho gọi thiếu nữ Mai và cho coi tài liệu đó. Người thiếu nữ khóc và nói: "Con vẫn thường tự hỏi sao con không có lòng mến yêu Tải Thản như một người cha ruột. Bây giờ con mới vỡ lẽ"
Nàng quỳ gối trước mặt bà Từ Hy cảm ơn bà đã khám phá ra sự thật và nguyện từ nay lòng ngưỡng mộ bà càng lên bội phần.
- Tâu lệnh bà, con là một đứa con gái không cha, không mẹ, con lấy lệnh bà làm cha, mẹ con.
Bà Từ Hy không những trừng phạt nặng nề Tải Thản và đồng bọn, bà còn ra nhiều sắc chỉ khác trừng phạt một số thân vương và các quan, dính lýu ít nhiều trong vụ này. Không ai dám hé răng phản đối, riêng có Cung thân vương nói:
- Tâu mẫu hậu. Xin mẫu hậu ban ân, tỏ lòng thương hại đối với Tải Thản. Xin cho cải xử trảm thay vì xử giảo.
- Thể theo lời của thân vương, ta cũng chấp thuận, nhưng việc hành quyết phải được công khai để làm gương cho người khác.
Một buổi sáng nắng ấm, Tải Thản bị hành quyết, chặt đầu giữa chợ, thiên hạ kéo đến coi đông lắm. Hắn rất can đảm ra pháp trường, đầu ngửng cao, vẻ mặt thản nhiên, cho đến khi đầu đứt trên thớt. Tên đao phủ, bằng một nhát đao, chém phập đầu lăn xuống đất, trước sự reo hò của bọn người đứng xem.
Hai thân vương Đoan Huy và Túc Thuận thuộc về hoàng tộc nên không bị sử trảm. Hai người bị nhốt trong ngục ở hoàng thành và được lệnh tự thắt cổ. Nhung Lữ ném cho mỗi người một dải lụa cho thi hành bản án. Đoan Huy can đảm thắt cổ chết, còn Túc Thuận nhút nhát khóc lóc không chịu chết ngay.
Bộ ba phản loạn đã chết còn bọn a tòng bị đem đi phát vãn. Từ ngày hôm đó, Từ Hy nghiễm nhiên là hoàng thái hậu, theo di chúc của Tiên đế ở Nhiệt Hà.
Tân trào ấu chúa bắt đầu, nhưng ai cũng biết quyền tối thượng ở trong tay bà Từ Hy.

<< 1. | 3. >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 761

Return to top