Phía sau nhà để xe có một lối đi nhỏ, chắc con còn nhớ, con và các bạn con thỉnh thoảng vẫn đến đó chơi. Bây giờ chỗ đó hoang vắng, không dùng làm gì, chỉ có gió thổi lá rụng thành đống mục nát.
Hôm qua đi đến cuối đường, mẹ chợt trông thấy một túp nhà bằng hộp giấy, bên ngoài che tấm vải nhựa, bên trong có người đang nằm co, một người mẹ nhận ra đã từng gặp anh ta trên đường phố. Anh ta cao lớn, gầy guộc, da sần sùi, răng khấp khểnh, mặc bộ đồ màu xám rộng lùng thùng với chiếc mũ đã tuột vành. Anh ta nằm nhưng vẫn đội mũ, vành gấp lại để gối đầu. Một kẻ vô gia cư. Cũng như nhiều kẻ vô gia cư khác, anh ta lang thang ở những nơi đỗ xe trên phố Mill, xin tiền những khách mua hàng, uống nước ở chân cầu, ăn những thứ người ta vứt lại trong đồ hộp. Cứ đến tháng Tám thì những người vô gia cư như anh ta rất khổ, vì đó là tháng mưa. Nằm trong hộp giấy, anh ta duỗi thẳng người ra như con rối, miệng há hốc. Quanh người anh ta xông lên một mùi hôi kinh tởm, mùi nước đái, rượu ngọt, áo quần ẩm mốc, và mùi gì nữa chả biết. Tóm lại là không sạch.
Mẹ đứng nhìn anh ta một lúc, vừa nhìn vừa ngửi. Chính anh ta đích thân tìm đến chỗ mẹ vào những ngày này đây.
Hôm ấy mẹ được tin của bác sĩ Syfret. Tin không tốt, nhưng là tin gửi cho mẹ và của riêng mẹ mà thôi, không thể từ chối được. Mẹ phải nhận và đem về, không dám lắc đầu hay khóc lóc. Mẹ nói "Cám ơn bác sĩ đã thành thật". Bác sĩ bảo "Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể. Rồi chúng ta sẽ cùng nhau giải quyết chuyện này". Nói thế nhưng sau vẻ bề ngoài thân thiện ấy mẹ biết ông ta đã thoái thác. Việc ai nấy lo. Ông ta chỉ hết lòng với người còn sống thôi, với người sắp chết thì không.
Bước ra khỏi xe, mẹ đã bắt đầu thấy sợ. Đóng cửa nhà xe lại, mẹ run khắp người, phải cắn chặt răng nắm chặt túi xách để giữ bình tĩnh. Cũng chỉ đến lúc ấy mẹ mới nhìn ra đám hộp giấy và anh ta.
- Anh làm gì ở đây thế? – mẹ nói giọng hơi gắt – không ở đây được đâu. Anh phải đi đi.
Anh ta không động đậy, vẫn nằm nguyên trong hộp, giương mắt nhìn không hiểu sao ở đây lại có đôi tất mới, áo choàng xanh, váy loà xoà, mớ tóc bạc xén thành vệt đỏ hỏn ở da đầu một bà già, trông như trẻ con vậy.
Anh ta rụt chân lại, từ từ ngồi dậy. Không nói một lời, anh ta quay lưng về phía mẹ, rũ miếng vải nhựa đen, rồi gập đôi, gập bốn, gập tám. Anh ta lấy ra chiếc túi (in chữ HÀNG KHÔNG CANADA) và kéo khóa đóng lại. Mẹ đứng sang bên. Anh ta đứng dậy, đi qua mặt mẹ, bỏ lại đống hộp giấy, cái chai không và mùi nước đái. Quần trễ xuống, anh ta xắn lên. Mẹ chờ cho anh ta đi hẳn, còn nghe thấy tiếng anh ta bỏ miếng vải nhựa bên kia hàng rào.
Vậy là chỉ trong một giờ đã có hai chuyện, cái tin mẹ đã sợ từ lâu, và anh ta đến như để do thám, chả biết sẽ báo trước điều gì. Tin đám cú vọ ăn xác thối đến rất nhanh. Mẹ không biết có thể tránh mặt chúng được bao lâu nữa. Bọn chuyên sục sạo ở Cap Town không hề bớt một tên nào. Chúng đi chân đất mà không lạnh, ngủ ngoài trời mà không đau ốm, đói khát mà không hao mòn. Chúng được rượu hâm nóng từ bên trong. Lửa rượu thiêu cháy những gì là truyền nhiễm lây lan trong máu chúng. Sau bữa tiệc chúng vét sạch. Bọn ruồi nhặng bay tứ tung, mắt thao láo, không biết thế nào là thương xót. Những kẻ thừa kế đấy.
Mẹ đi rất chậm vào ngôi nhà trống. Mọi âm hưởng trong nhà đã tan biến hết. Bước chân của mẹ trên sàn nghe nhạt nhẽo buồn tẻ. Mẹ thèm khát được thấy con ở đây biết chừng nào. Để con ôm mẹ, an ủi mẹ! Mẹ đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa thật sự của ôm ấp. Ôm ấp để được ôm ấp. Ôm ấp để cho con cháu được nằm trong vòng tay của tương lai, để được sống sau khi chết, để có được niềm vui. Mỗi khi ôm con, mẹ đều nghĩ thế. Con trẻ sinh ra để có mẹ. Sự thật là từ nay cho đến khi kết thúc cuộc đời, mẹ chỉ biết nói với con thế thôi. Mẹ mong con biết chừng nào! Mẹ ước gì có thể đi lên gác, đến chỗ con, ngồi ở giường con, vuốt tóc con, thầm nói vào tai con như mẹ vẫn nói mỗi sáng trước khi con đi học "Đến giờ rồi, dậy đi con!" Con sẽ quay lại, người con nóng hổi, hơi thở thơm mùi sữa, mẹ bế con và bảo "Hãy ôm chặt mẹ đi nào!" Đó là câu nói thầm kín mẹ chẳng bao giờ nói ra. Nó chỉ có nghĩa là mẹ mong được con đáp lại bằng câu "Mẹ không được buồn, mẹ sẽ không chết, mẹ vẫn sống mãi trong lòng con".
Sống! Con là cuộc sống của mẹ, mẹ yêu con như yê bản thân của cuộc sống. Mỗi sáng bước ra khỏi nhà, mẹ nhấp nước lên đầu ngón tay giơ cao trước gió. Nghe gió lạnh từ tây bắc thổi đến, từ chỗ con đang ở, mẹ đứng lâu hít thở, tập trung suy nghĩ, hy vọng qua hàng vạn dặm núi sông có hơi thở của con đến với mẹ, đem theo cả mùi sữa còn đọng trên đầu, trên cổ.
Từ nay trở đi, bổn phận của mẹ là phải cưỡng lại ý nghĩ về cái chết. Yêu con, yêu cuộc sống, tha thứ cho cuộc sống, mẹ sẽ ra đi không chút nào ân hận. Mẹ sẽ ôm lấy cái chết của riêng mẹ thôi.
Mẹ viết những dòng này để làm gì nhỉ? Trả lời: mẹ viết cho con nhưng không phải cho con, mà viết cho mẹ, viết cho con trong lòng mẹ. Cả buổi chiều mẹ bận rộn dọn dẹp các ngăn kéo, vứt bỏ những giấy tờ không cần thiết. Chập tối mẹ ra ngoài. Túp lều giấy sau nhà để xe đã được dựng lại như trước, bên ngoài trùm miếng vải nhựa đen. Người đó vẫn nằm cong queo bên trong. Bên cạnh anh ta là một con chó đang vểnh tai, vẫy đuôi. Con chó lông đen, đốm trắng, chỉ to hơn con chuột một tí.
Mẹ nói "Này, không được đốt lửa ở đây, nghe chưa? Tôi không muốn ai đốt lửa ở đây, cũng không muốn có chuyện rắc rối".
Anh ta ngồi dậy, xoa chân, mắt nhìn lơ láo như không biết mình đang ở đâu. Mặt anh ta dài như mặt ngựa, da dẻ sần sùi, mắt quẫng thâm, rõ ràng là đôi mắt của người nghiện rượu. Mắt anh ta xanh kỳ lạ, có vẻ như đang đau ốm thật.
Mẹ hỏi "Anh có muốn ăn uống gì không?"
Anh ta theo mẹ vào bếp. Con chó theo sau. Mẹ cắt cho anh ta miếng bánh kẹp thịt. Anh ta cắn miếng bánh nhưng hình như đã quên nhai, đứng dựa lưng vào bậu cửa. Ánh đèn chiếu vào cặp mắt xanh ngơ ngác. Con chó rên ư ử. Lát sau mẹ sốt ruột nhắc "Tôi phải dọn dẹp đây", rồi bước ra, đóng cửa bếp. Anh ta không nói gì, lẳng lặng bỏ đi. Ra đến góc đường, mẹ thấy anh ta quăng miếng bánh. Con chó nhảy lên đớp.
Vào thời của con làm gì có lắm người vô gia cư như thế này. Bây giờ họ là một phần của đời sống ở đây rồi. Họ có làm gì cho mẹ phải sợ không? Không. Họ chỉ thỉnh thoảng ăn xin, trộm cắp, vứt bẩn, làm ỗn, và say rượu, chẳng có gì ghê gớm. Có sợ là mẹ sợ bọn trẻ miệng còn hôi sữa mà tham lam như cá mập. Có lẽ cánh cửa nhà tù cũng đang đợi chúng. Còn trẻ măng mà sao chúng coi rẻ tuổi niên thiếu, coi rẻ thời buổi kỳ diệu, coi rẻ thời tâm hồn chúng đang độ lớn. Tâm hồn và các bộ phận trong cơ thể chúng như đã tàn tạ, không phát triển. Còn những anh em da trắng của chúng bên kia ranh giới chia cắt cũng thế, mỗi ngày càng chui rúc và ngủ kỹ trong kén. Đâu còn những buổi học bơi, cưỡi ngựa, tập múa ba lê, đánh cầu trên sân cỏ. Cuộc sống của chúng lặng lẽ trôi sau những bức tường rào có chó dữ canh gác bên ngoài. Đâu còn những đứa trẻ đáng yêu tóc vàng, ngây thơ, mặt mày rạng rỡ dịu dàng như các thiên thần. Những gì chưa ra đời cũng bị lãng quên ở ngay nơi chúng sống. Chúng ngây thơ như những ấu trùng, béo trắng, ngâm trong mật để hút ngọt qua làn da mỏng manh. Tâm hồn chúng chết lịm trong thứ hạnh phúc trừu tượng.
Tại sao mẹ lại cho người đó ăn? Nếu con chó đó (có lẽ anh ta ăn cắp con chó ở đâu đó) mẹ cũng cho thế. Như mẹ thường cho con bú vậy. Có để mà cho và cho tất cả những gì mình có, chẳng phải là điều vẫn thôi thúc ta hay sao? Từ thân hình tàn héo như của một người già cũng muốn vắt cạn cho đến giọt sữa cuối cùng. Muốn cho đi. Muốn bồi bổ. Giá thử lúc này anh ta muốn bầu vú của mẹ để đổi lấy cái chết, mẹ cũng sẵn sàng cho được.
Sáng nay lúc đem cà phê đến, mẹ thấy anh ta đái xuống cống. Nhưng anh ta không tỏ ra ngượng ngập.
Mẹ hỏi "Anh muốn làm việc không? Ở đây có nhiều việc cho anh làm đấy".
Anh ta không nói gì, vẫn uống cà phê, hai tay ôm lấy cái cốc.
Mẹ nói "Thế là anh phí phạm cuộc đời mình. Anh đâu còn là trẻ con nữa? Anh sống như vậy sao được? Sao anh có thể lang thang suốt ngày mà không làm gì hết? Tôi không thể nào hiểu được".
Đúng là mẹ không thể nào hiểu được. Mẹ rất ghét cái thói ươn hèn, gặp sao hay vậy, để mình dần dần tan rã.
Anh ta làm cho mẹ rất khó chịu. Lần đầu tiên anh ta nhìn thẳng vào mẹ rồi nhổ xuống đất, ngay cạnh chân mẹ, một bãi đặc quánh vàng khè lẫn màu nâu của cà phê. Rồi anh ta vứt chiếc cốc vào chỗ mẹ và bỏ đi.
Thế đấy. Anh ta không nhổ vào người mẹ, mà nhổ trước mặt để mẹ trông thấy mà suy nghĩ. Cách nói của anh ta thế đấy. Một thứ ngôn ngữ đi trước ngôn ngữ. Nhìn mẹ rồi nhổ. Cái nhìn gì lạ thế nhỉ? Cái nhìn đối với người đàn bà ở vào tuổi có thể làm mẹ anh ta. Đây, cà phê của bà đây!
Đêm qua không thấy anh ta ngủ chỗ cũ. Đống hộp giấy cũng không còn. Mẹ đi quanh chỗ đó bỗng nhìn thấy cái túi Hàng không Cananda ở lán củi, và một chỗ anh ta đã dọn để ngủ. Mẹ biết chắc thế nào anh ta cũng quay lại.
Viết được sáu trang rồi. Toàn viết về một người mẹ chưa gặp bao giờ và sẽ chẳng bao giờ gặp. Tại sao mẹ viết về anh ta? Vì anh ta cũng là mẹ mà không phải là mẹ. Vì mẹ thấy được mẹ trong cái nhìn của anh ta mà không thể nào viết ra được. Nếu không như vậy, những dòng mẹ viết đây chẳng là thế nào, chỉ là tiếng kêu rên trầm bổng. Viết về con chó của anh ta cũng là viết về mẹ. Viết về ngôi nhà cũng là viết về mẹ. Anh ta, ngôi nhà, con chó, dù viết thế nào mẹ cũng chỉ muốn những lời này giúp mẹ bước được tay đến chỗ con. Nếu là ở thế giới khác, mẹ chả cần đến những lời đó. Mẹ chỉ việc xuất hiện ở cửa nhà con và bảo "Mẹ đến thăm con đây", thế là đủ. Mẹ sẽ ôm con và được con ôm mẹ. Nhưng ở thế giới này, lúc này, mẹ phải đến với con bằng những lời như vậy. Ngày ngày mẹ biến thành lời và gói nó vào trang giấy như gói kẹo, những chiếc kẹo vẫn dành cho con gái mẹ, cho ngày sinh của con, ngày con ra đời. Đó là những lời ngoài thân thể mẹ, là những giọt sữa của mẹ, để khi mở ra con sẽ nhận lấy, bú lấy, hấp thụ. Người ta bảo đó là những giọt sữa đã quá cũ, của người già, được gói lại bằng tình yêu, thứ tình yêu chỉ cảm thấy đối với người ta hiến dâng, để được ngấu nghiến hoặc vứt bỏ.
Mưa tầm tã suốt buổi chiều. Tối đến mới nghe tiếng lạch cạch ngoài cổng, và một phút sau có tiếng chân con chó chạy trên hiên.
Mẹ đang coi ti vi. Một vị mục sư hay phó mục sư nào đó đang thông báo cho cả nước. Mẹ đứng nghe. Mỗi khi họ nói mẹ đều đứng nghe để tỏ ra tự trọng (trước một tiểu đội hành quyết, ai mà dám ngồi?). Ons buig nie voor dreigmente nie, ý ông ta nói "Chúng ta không khuất phục sự đe doạ". Trước sau các bài diễn văn của họ chỉ có thế.
Cánh màn sau lưng mở ra. Mẹ biết đó là anh ta, một người mẹ không biết tên. Anh ta nhìn thấy mẹ qua tấm gương. Mẹ vặn nhỏ tiếng đủ nghe, dù không nghe rõ lời cũng nghe được những tiết tấu Phi châu nện huỳnh huỵch xuống đất như tiếng búa. Anh ta với mẹ cùng nghe. Nỗi nhục của cuộc sống ở đây, dưới quyền họ, là mỗi khi mở tờ báo hay mở ti vi chẳng khác nào như quỳ xuống để họ đái lên mình. Sống dưới quyền họ là sống dưới những bụng phệ, những bọng đái của họ. Đã có lúc mẹ nhủ thầm ""Các người sắp đến ngày tận số rồi!". Vậy mà đến tận bây giờ họ vẫn còn sống nhăn, sống lâu hơn mẹ.
Mẹ chuẩn bị đi mua hàng. Vừa mở cửa nhà xe thì mẹ lên cơn đau. Cơn đau giống như một con chó nhảy đến cắn vào lưng. Mẹ kêu lên, không cử động được nữa. Anh ta ở đâu xuất hiện và đưa mẹ vào nhà.
Mẹ nằm nghiêng trên ghế dài. Phải nằm nghiêng như thế mới đỡ đau. Anh ta đứng chờ. Mẹ bảo "Anh ngồi xuống đi…" Anh ta ngồi xuống. Cơn đau bắt đầu giảm. Mẹ nói "Tôi bị ung thư. Bệnh đã ăn vào xương tuỷ nên mới đau thế".
Không chắc anh ta hiểu mẹ nói gì.
Im lặng một lúc. Rồi anh ta lên tiếng "Nhà này rộng lắm. Bà có thể cho ở trọ được đấy".
Mẹ làm ra vẻ mệt mỏi.
Anh ta nói tiếp "Bà có thể cho sinh viên thuê phòng".
Mẹ ngáp, tưởng như răng sắp rụng hết, phải đưa tay che miệng. Nếu là trước kia thì mẹ đã thấy ngượng. Bây giờ mẹ không ngượng nữa.
Mẹ nói "Tôi có một cô giúp việc. Cô ta đi thăm bà con đến cuối tháng mới về. Anh có bà con gì không?"
Nói lạ! Có bà con là thế nào? Tôi có bà con không? Anh có phải là bà con của tôi không? Không đâu. Có lẽ chỉ Florence mới đủ tư cách để nói cô ta có bà con.
Anh ta không đáp. Có vẻ như anh ta không có con, không có con ở đời này, mà cũng không có cả tuổi trẻ trong quá khứ nữa. Mặt anh ta xương xẩu, da sần sùi. Nếu nhìn vào đầu con rắn không thể hình dung nó già hay trẻ, thì cũng không thể thấy được bóng dáng một đứa trẻ đàng sau khuôn mặt anh ta. Mắt anh ta xanh lè như mắt động vật, đâu có thể nhìn vào đôi mắt ấy mà thấy được đứa trẻ?
Mẹ nói "Chồng tôi với tôi đã chia tay từ lâu. Ông ấy đã mất. Tôi có đứa con gái ở Mỹ. Nó ra đi năm 1976, đến nay vẫn chưa về. Nó lấy một anh chồng Mỹ. Sanh được hai cháu".
Con gái mẹ. Con là da thịt của da thịt mẹ. Chính con đấy.
Anh ta rút bao thuốc lá. Mẹ nói "Xin đừng hút thuốc trong nhà".
Mẹ lại nói "Anh tàn tật thế nào? Anh bảo là có phụ cấp tàn tật hả?"
Anh ta giơ bàn tay phải. Ngón cái và ngón trỏ duỗi ra, ba ngón kia cụp trong lòng bàn tay. Anh ta nói "Mấy ngón này không cử động được".
Mẹ nhìn ba ngón cụp, móng tay đầy những ghét bẩn, bàn tay sần sùi, rõ ràng không phải do lao động.
- Có phải do tai nạn không?
Anh ta gật. Cái gật chẳng nói lên điều gì.
Mẹ nói "Tôi sẽ thuê anh cắt cỏ".
Suốt một giờ, anh ta thờ thẫn đem kéo ra cắt lá ở hàng rào và mấy đám cỏ đã mọc ngang đầu gối. Rồi anh ta bỏ đó. Anh ta nói "Loại việc này không phải của tôi". Mẹ trả tiền một giờ làm cho anh ta. Lúc bỏ đi anh ta vấp chân vào khay thức ăn của mèo, làm vung vãi khắp nơi.
Nói chung anh ta chẳng được việc gì, chỉ làm phiền. Nhưng mẹ có chọn anh ta đâu. Anh ta tự đến đó thôi. Hoặc giả anh ta chọn nhà nào không có chó. Nhà này chỉ có mèo.
Có người lạ nên đám mèo nhốn nháo. Chúng vừa thò ra thì đã bị chó nhảy đến vồ, phải trốn đàng sau cửa. Hôm nay mèo không chịu ăn. Mẹ đoán chúng không ưa thức ăn để trong tủ lạnh. Mẹ pha ít nước nóng vào thịt. (Chả biết thịt gì, hải cẩu hay cá voi?) Chúng vẫn chăm chỉ lượn quanh, quệt đuôi vào đĩa. Mẹ bảo "Ăn đi!" và đẩy đĩa thức ăn đến. Con to giơ chân và không thèm đụng vào đĩa. Mẹ bực mình quát "Không ăn thì cút đi! Mệt với chúng mày lắm!" rồi mẹ ném cái dĩa vào chúng. Có điều lạ là tiếng quát vừa rồi khiến mẹ thấy thú vị. Tốt với người như thế đủ rồi! Tốt với mèo như thế cũng đủ rồi! Mẹ lại hét "Chúng mày chết hết cả đi!" Đám mèo bỏ chạy. Móng chân của chúng cào rách cả thảm nhựa.
Ai cần gì chứ? Khi có tâm trạng ấy mẹ chỉ muốn đặt tay lên bàn và lấy dao chặt đứt, không cần suy nghĩ. Mẹ cần gì cái thân thể đã phản bội mình? Nhìn bàn tay, nhìn quanh tìm dụng cụ, nhưng mẹ chỉ thấy cái móc dùng khều đồ vật. Cả đôi chân này, cả đôi nạng xa xa này, việc gì phải mang chúng đi khắp nơi? Việc gì phải mang chúng vào giường, để dưới chăn, ôm lấy nhau mà không ngủ được giữa bao nhiêu thứ bề bộn chung quanh? Rồi cái bụng này nữa, sao cứ sôi ùng ục? Rồi con tim này nữa, sao cứ đập hoài? Chúng còn liên quan gì đến mẹ nữa?
Trước khi chết, ốm đau là để cho cơ thể thích ứng dần với sự héo hắt. Dòng sữa nuôi nấng ta cạn dần, chua loét, xa rời bộ ngực và ta bắt đầu lắng chìm trong cuộc sống khác. Nhưng cuộc sống ban đầu này, cuộc sống trên cơ thể trái đất này, liệu có thể tốt hơn được không? Mặc dù bao nhiêu tăm tối, thất vọng, điên khùng, mẹ vẫn không thể nào từ bỏ tình yêu đối với cuộc sống.
Lúc đau mẹ uống hai viên thuốc của bác sĩ Syfret rồi nằm trên ghế dài. Vài giờ sau mẹ tỉnh dậy, ngơ ngác, người lạnh toát, mẹ lần mò lên gác rồi để nguyên quần áo chui vào giường.
Nửa đêm mẹ chợt thấy hình như có ai trong phòng. Nhưng đoán chỉ có thể là anh ta. Anh ta hoặc mùi của anh ta, xuất hiện rồi biến mất.
Có tiếng cạch ở đầu cầu thang. Mẹ đoán anh ta vào phòng đọc sách, bật đèn. Mẹ cố nghĩ xem trên bàn có giấy tờ gì cần phải giấu đi không nhưng đầu óc lơ mơ không nghĩ gì được. Anh ta xem các kệ sách. Mẹ đóan anh ta sắp xếp lại cho gọn với đống báo cũ. Rồi anh ta ngắm những bức tranh trên tường. Tranh Sophie Schliemann ở kho tàng Agamemnon, tranh Demeter lấy cắp ở bảo tàng Anh. Rồi anh ta khẽ rút ngăn kéo bàn. Ngăn trên toàn những thư từ, biên lai, tem cũ và ảnh. Anh ta không quan tâm. Ngăn dưới có hộp xì gà đựng tiền lẻ các loại. Anh ta thò ngón tay cong queo lấy ra hai đồng năm peseta, đủ để đổi sang tiền rand, nhét vào túi.
Anh ta không phải là thiên thần. Chỉ như loại côn trùng nấp trong khe tường, chờ lúc tối đèn bò ra sục sạo.
Nghe anh ta ra đầu cầu thang, khẽ mở hai lần khoá. Mẹ muốn nói thầm cho anh ta nghe: anh chỉ là đồ rác rưởi, chỉ là thứ ký ức đã chết yểu, nhưng lúc ấy đầu của mẹ mụ đi, chẳng còn biết gì nữa.
Mẹ nằm cả ngày trên giường. Chẳng muốn làm gì, chẳng muốn ăn gì. mẹ đọc Tolstoy, không phải đọc chuyện nổi tiếng vê ung thư đâu, vì mẹ đã quá biết rồi, nhưng đọc chuyện về một thiên thần đến ở chung với anh thợ giày. Giả thử có cơ hội, mẹ sẽ đi bộ xuống phố Mill ti1m thiên thần riêng đem về nhà giúp mẹ được đấy. Nhưng không có đâu. May ra vùng ngoại ô có thiên thần nào đó ngồi hong nắng ngủ gật trên cột cây số, chờ cơ hội. Có lẽ ở trại những người thất nghiệp chứ ở phố Mill hay ngoại ô đều không có. Các thiên thần đã bỏ vùng ngoại ô mà đi cả rồi. Mỗi khi có người lạ ăn mặc rách rưới đến gỗ cửa thì đó chỉ là kẻ vô gia cư, một anh nghiện rượu , hay một tâm hồn lảng vảng nào thôi. Thế mà sao lòng ta vẫn thèm muốn được thấy ngôi nhà yên tĩnh rung lên cùng tiếng hát thiên thần như trong truyện cổ tích vậy.
Ngôi nhà đã mệt vì chờ đợi, đã chán không muốn gắn vào nhau nữa. Ván sàn đã không còn rung nữa. Dây điện cách ly đã khô cứng, dễ gẫy, các ống nước han rỉ. Ốc vít ở ống máng đã rời ra, tuột khỏi gỗ mục. Mái ngói đầy rêu. Ngôi nhà xây tử tế nhưng không có tình yêu, bây giờ lạnh lẽo, chây ì, sắp chết. Những bức tường tuy đã được mặt trời châu Phi chiếu rọi nhưng không bao giờ ấm lên được, dù những viên gạch được bàn tay của các phạm nhân xây nên đã luôn luôn toả sáng.
Hè năm ngoái, khi đám thợ đến lắp cống, mẹ thấy họ moi ra những ống cũ. Họ chui xuống hai thước, nhặt những gạch vỡ và sắt rỉ, cả móng ngựa nữa, nhưng không thấy có xương người. Công trường này chưa hề có bóng người, chỉ là chỗ của hồn ma và các thiên thần, chẳng có gì thú vị.
Mẹ viết thư này không phải để bộc lộ những gì trong lòng mẹ. Nó bộc lộ điều gì đó, nhưng không phải là trái tim của mẹ.
Sáng nay xe không nổ máy, mẹ phải yêu cầu anh ta, người đến ở nhờ, ra đẩy giúp. Mẹ ngồi trong, anh ta đẩy xe ra lối đi. Rồi anh ta đập tay vào mui xe hét to "Đi được rồi!" Máy nổ. Mẹ quay xe ra đường cái. Được một quãng, mẹ dừng lại nói với anh ta qua làn khói "Tôi phải đi Fish Hoek. Anh muốn đi không?"
Thế là hai người cùng đi, con chó ngồi ghế sau, ngồi chiếc xe Hillman màu xanh từ thời con còn nhỏ. Đã một lúc lâu mà hai người không nói câu nào. Xe chạy qua bệnh viện, trường Đại học, toà Giám mục. Con chó gác đầu lên vai mẹ hứng gió thổi vào mặt. Xe leo lên đồi Wynberg. Bên kia đồi là một con dốc dài, mẹ tắt máy cho xe tự lăn dọc bờ biển. Càng lăn nhanh, tay lái càng rung bần bật. Con chó khoái chí rên ư ử. Hình như lúc đó mẹ cũng mỉm cười, có lẽ nhắm mắt nữa.
Xuống đến chân đồi, xe chậm dần. Mẹ liếc nhìn anh ta. Anh ta vẫn ngồi im, thản nhiên. Khá đấy! Mẹ nghĩ bụng.
Mẹ nói "Hồi còn nhỏ, tôi thường nhảy xe đạp không phanh xuống cái dốc này. Xe đạp của ông nội tôi. Ông ấy hay đố tôi làm thế. Tôi chả biết sợ là gì. Trẻ con không quan niệm chết là thế nào. Chẳng bao giờ chùng nghĩ rằng có lẽ mình không chết.
"Tôi thường nhảy xe đạp của ông anh đi xuống những dốc cao hơn thế này. Càng nhanh càng thấy khoái, cảm thấy như sự sống bung ra ngoài da thịt. Con bướm khi mới ra đời chắc cũng cảm thấy như vậy".
với chiếc xe cũ kỹ này, ta vẫn có thể thoải mái và tự lăn dọc bờ biển. Nếu là xe mới, hễ tắt máy thì tay lái bị khóa lại. Hẳn anh cũng biết thế. Nhưng đôi khi người ta sai lầm hoặc quên đi, không để xe bám đường, thế là xe quay ngang và lao xuống biển.
Lao xuống biển. Vật lộn sau tay lái bị khóa chặt, trong khi ta cố ngoi lên nhìn bong bóng lấp lánh ánh mặt trời. Điều đó xảy ra không? Có nhiều người làm thế không? Nếu ta đứng trên đỉnh Chapman vào buổi chiều thứ bảy có thể thấy cảnh người ta lao xe xuống biển như thế được không?
Mẹ nói tiếp "Có một chuyện tôi muốn kể anh nghe. Hồi còn nhỏ, vào những năm đầu thế kỷ, gia đình tôi thường ra biển vào những ngày lễ Giáng sinh. Đó là thời của xe bò. Người ta đi xe bò suốt từ Uniondale ở miền Đông đến vịnh Plettenberg ở cửa sông Piesangs, đi hàng trăm dặm mà không biết phải mất bao nhiêu ngày. Người ta cắm lều nghỉ lại bên đường.
Một trong những chỗ dừng chân là đỉnh đèo. Ông bà tôi ngủ trong xe, mẹ tôi và các con nằm gầm xe. Chuyện là như thế này: trong đêm vắng trên đỉnh đèo, mẹ tôi chui vào chăn cùng các anh chị tôi, ngắm nhìn các ngôi sao trên trời qua khe bánh xe bò. Lúc ngắm nhìn, mẹ tôi tưởng các ngôi sao di chuyển. Không biết là các ngôi sao di chuyển hay bánh xe di chuyển, từ từ, rất chậm. Mẹ tôi nghĩ: làm thế nào bây giờ? Nếu xe di chuyển thì sao đây? Có nên báo cho mọi người biết không? Nếu cứ nằm yên để xe lăn xuống chân núi mà ông bà lại nằm trong đó thì sao? Nhưng nếu chỉ là tưởng tượng thế thôi, thì sao?
"Mẹ tôi sợ hãi, tim đập thình thình, nhìn sao di chuyển, nghĩ bụng không biết có nên gọi ai không. Nghe tiếng xe cọt kẹt, mẹ tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết, trong giấc ngủ toàn mơ thấy chết. Đến sáng mẹ tôi tỉnh dậy thấy mọi thứ vẫn bình thường. Xe vẫn còn đó, ông bà vẫn còn đó, ai nấy khoẻ mạnh, chẳng có chuyện gì hết".
Đã đến lúc anh ta phải nói gì đi chứ, hoặc nói về đồi núi, về xe hơi, xe đạp, về bản thân hoặc tuổi nhỏ. Nhưng anh ta vẫn lầm lì, im lặng.
Mẹ lại nói tiếp "Mẹ tôi không nói lại cho ai biết về những gì bà nghĩ đêm trước. Có lẽ mẹ tôi chờ đến khi đẻ tôi mới nói chăng. Tôi nghe bà kể lại nhiều lần bằng nhiều cách. Gia đình vẫn đi tiếp đến sông Piesangs. Ôi cái tên sao mà rực rỡ và đáng yêu thế! Tôi chắc đó phải là nơi đẹp nhất trần gian. Mấy năm sau khi mẹ tôi qua đời, tôi đến thăm vịnh Plettenberg và lần đầu trông thấy sông Piesangs. Không phải sông, chỉ là một lạch nước đầy rong rêu, tối đến đầy muỗi, một nơi để các đoàn người dừng chân, để trẻ con hò hét, để những người lớn đi chân đất mặc quần cụt mang bếp ga nướng xúc xích. Chẳng phải Thiên đường một tí nào. Cũng chẳng phải chỗ để hàng năm người ta đến chơi sau bao nhiêu ngày trèo đèo lội suối".
Lúc này xe đã leo lên đường Boyes. Thật y như nhân vật Rocimante trong truyện, muốn cũng không làm được gì vì đã già yếu. Mẹ nắm chặt tay lái, cố thúc cho xe đi tới.
Lên đến Muizenberg, nhìn xuống vịnh Giả Tạo, mẹ dừng xe tắt máy. Con chó lại rên ư ử. Mẹ cho nó ra ngoài. Nó ngửi đống đá, bụi cây, rồi co chân đái. Mẹ và anh ta đứng nhìn, không nói gì.
Anh ta đã lên tiếng. Anh ta nói "Bà đi nhầm đường đấy. Lẽ ra phải xuống chân đồi".
Mẹ cố tỏ ra không buồn nản. Xưa nay mẹ chỉ mong mọi người cho mẹ là tài giỏi. Bây giờ mới thấy mình bất tài hơn bao giờ.
Mẹ hỏi "Anh từ vùng Mũi đến đây à?"
"Phải".
"Anh sống cả đời ở đó ư?"
Anh ta có vẻ khó chịu. Mẹ hỏi hai câu thế là quá nhiều.
Một con sóng to, dài hơn trăm thước, đang cuộn vào bờ. Một người lom khom lướt ván trên ngọn sóng. Bên kia vịnh, dãy núi Hottentots Hà Lan đứng sừng sững trên nền trời xanh trong. Có lẽ mắt mẹ thèm khát cảnh vật nên thấy thế. Biển. Núi. Mẹ muốn những hình ảnh biển và núi chôn sâu trong lòng để đi đâu cũng thấy. Sao mẹ có thể thèm khát tình yêu đối với cuộc sống này đến thế.
Đàn chim sẻ đến đậu trên bụi cây gần chỗ mẹ đứng. Chúng rỉa lông rồi bay đi. Người lướt ván khi nãy đã vào bờ, đi trên bãi cát. Bỗng mẹ rướm lệ. Mẹ tự hỏi hay do mình chớp mắt. Sự thật là mẹ khóc. Mẹ gục đầu vào tay lái, chỉ hơi nức nở, rồi oà lên khóc như muốn trút hết mọi thứ trong tim trong phổi. "Xin lỗi", rồi mẹ bình tĩnh nói tiếp "Xin lỗi, tôi chả hiểu tại sao mình lại thế".
Lẽ ra mẹ không cần xin lỗi. Anh ta đâu có để ý chuyện đó.
Mẹ lau mắt, khịt mũi rồi bảo "Ta đi chứ?"
Anh ta mở cửa xe huýt một tiếng sáo. Con chó nhảy vào xe. Con chó biết nghe lời. Chắc anh ta lấy cắp con chó ở một gia đình tử tế.
Đúng là xe đi nhầm đường.
Anh ta bảo "Quay ngược lại".
Mẹ thả phanh tay, lùi một quãng rồi rú ga. Xe rung lên rồi đứng lại. Mẹ bảo "Xe này chưa bao giờ đi lùi".
Anh ta chỉ tay, lên giọng như anh chồng dạy vợ lái xe "Quay sang bên kia đường".
Mẹ cho xe chạy một quãng xuống chân đồi, rồi sang bên kia đường. Bỗng một tiếng còi réo lên, chiếc xe Mercedes màu trắng vụt qua bên cạnh. Mẹ há hốc miệng "Tôi không trông thấy".
- Đi đi! – anh ta quát.
Mẹ ngạc nhiên nhìn anh chàng người lạ quát tháo. Anh ta vẫn nhìn mẹ quát nữa "Đi đi!"
Máy nổ. Mẹ im lặng quay xe lại. Đến góc phố Mill, anh ta đòi xuống.
Giày và chân anh ta bốc lên một mùi hôi thối. Phải có bít tất mới, có giày mới cho anh ta. Phải cho anh ta tắm rửa nữa. Mỗi ngày anh ta phải tắm, phải thay đồ lót, phải có giường nằm, phải có một mái nhà, phải ăn ba bữa và phải có tiền ở ngân hàng nữa. Phải cho anh ta quá nhiều. Như thế là quá nhiều đối với người đang thèm chui vào lòng mẹ để tìm an ủi.
Cuối buổi chiều anh ta mới quay lại. Mẹ cố quên đi những gì xẩy ra, đưa anh ta vào vườn và chỉ cho anh ta thấy những việc cần làm. Mẹ nói "Thí dụ anh có thể tỉa lá. Anh có biết tỉa lá không?"
Anh ta lắc đầu. Không, anh ta không biết. Hoặc không muốn.
Ở góc vườn, chỗ cây rậm rạp, dây leo phủ kín chiếc ghế cũ bằng gỗ sồi và cái chuồng thỏ. Mẹ nói "Phải dọn sạch chỗ này đi".
Anh ta nhấc đám dây leo. Chuồng thỏ nằm trên nền đất, bên trong có một đống xương khô, kể cả bộ xương của thỏ con, cổ bị bẻ gẫy.
Mẹ nói "Đám thỏ này của con trai người giúp việc cho tôi. Tôi cho nó nuôi chơi. Rồi nó chuyển đi nơi khác. Còn đám thỏ này chết đói. Lúc ấy tôi nằm viện, chả biết gì hết. Về đến nhà tôi thất vọng thấy chẳng ai đoái hoài gì đến tình trạng ở góc vườn. Đám sinh vật này không biết nói, cũng chả biết kêu khóc".
Những quả ổi rụng khắp mặt đất, đầy sâu bọ, chất thành một đống bầy nhầy ở gốc cây. Mẹ bảo "Tôi chỉ ước chi cây đừng có quả, thể mà nó vẫn có quả".
Con chó chạy đến chõ mũi vào chuồng ngửi. Thỏ chết lâu rồi, không còn mùi gì nữa.
Mẹ bảo "Anh có thể làm được gì cứ làm, miễn là chỗ này không hoang vắng nữa".
Anh ta hỏi "Tại sao thế?"
Mẹ đáp "Thì tôi thích thế. Tôi không muốn chỗ này bẩn thỉu".
Anh ta nhún vai, mỉm cười.
Mẹ nói "Nếu anh muốn có tiền thì phải làm. Chẳng lẽ anh muốn tôi cho không hay sao?"
Phần thời gian còn lại của buổi chiều, anh ta dọn đống dây leo và đám cỏ, thỉnh thoảng ngước mắt nhìn ra xa làm như không biết mẹ đứng trên gác nhìn xuống. Đến năm giờ, mẹ trả tiền cho anh ta. Mẹ nói "Tôi biết anh không phải dân làm vườn. Tôi cũng chả muốn biến anh thành người khác. Nhưng chúng ta không thể làm việc theo kiểu từ thiện được".
Anh ta cầm tiền, gấp lại, bỏ vào túi, quay mặt về phía khác để khỏi nhìn mẹ. Rồi anh ta khẽ hỏi "Tại sao thế?"
"Vì không đáng phải đối xử với anh như vậy".
Anh ta vẫn mỉm cười. Cười một mình. "Đáng gì? Ai đáng gì đâu?"
Ai đáng gì đâu? Mẹ tức giận, ném túi tiền vào anh ta. "Vậy thì anh tin vào điều gì? Chỉ cần những gì anh muốn ư? Thôi, cầm lấy đi!"
Anh ta lẳng lặng cầm lấy túi tiền, dốc ra ba chục rand và một ít xu lẻ, rồi trả lại túi. Rồi anh ta bỏ đi, con chó chạy theo sau. Khoảng nửa giờ sau anh ta quay lại. Lúc đó mẹ đã nghe thấy tiếng lanh canh chai lọ.
Anh ta tìm được chiếc đệm, loại đệm gấp thường đem ra bãi biển. Trong cái tổ bụi bặm giữa đống củi, anh ta thắp nến để đầu giường, nằm hút thuốc, con chó ngồi dưới chân.
Mẹ nói "Trả lại tiền cho tôi".
Anh ta thọc tay vào túi, rút ra mấy tờ giấy bạc. Mẹ cầm lấy. Không đủ, nhưng không sao.
Mẹ nói: "Khi nào cần tiền, anh cứ hỏi. Tôi không keo kiệt đâu. Anh cũng nên cẩn thận với cây nến. Tôi không muốn xảy ra hoả hoạn".
Mẹ bước ra ngoài, một phút sau quay lại.
Mẹ nói "Anh bảo tôi nên biến ngôi nhà này thành chỗ trọ cho sinh viên? Thực ra tôi có thể làm hơn thế. Tôi có thể biến nơi này thành chỗ ở của những người ăn xin. Tôi có thể mở hàng cháo, mở quán trọ. Nhưng tôi không làm thế. Tại sao vậy? Vì đất nước này chẳng còn gì là tinh thần từ thiện nữa. Vì những người nhặt từ thiện cũng khinh rẻ nó, còn những người cho thì cho với trái tim miễn cưỡng. Từ thiện mà không đi từ trái tim đến trái tim thì có nghĩa gì? Anh tưởng từ thiện là thế nào? Cháo ư? Tiền ư? Từ thiện là từ la tinh chỉ trái tim. Nhận hay cho đều khó như nhau. Phải cố gắng lắm mới được. Mong anh học được điều ấy. Mong anh học được điều gì đó chứ không nằm khàn thế này".
Mẹ nói dối đấy thôi. Từ thiện, caritas, chẳng liên quan gì đến trái tim hết. Nhưng nếu những điều mẹ cầu nguyên đều dựa trên từ nguyên giả dối thì có sao? Hình như anh ta không nghe mẹ nói gì. Có lẽ với đôi mắt lanh lẹn ấy, anh ta băn khoăn về rượu hơn mẹ tưởng. Hoặc anh ta chẳng quan tâm đến gì hết. quan tâm là cái gốc đích thực của từ thiện. Mẹ chờ cho anh ta quan tâm, nhưng anh ta không hề quan tâm. Anh ta đã ở ngoài phạm vi của sự quan tâm, không cần quan tâm đến cái gì hết.
Cuộc sống ở đất nước này chẳng khác gì cuộc sống trên con tàu sắp chìm, một con tàu cũ kỹ mà thuyền trưởng thì say bét nhè, thuyền viên thì cáu gắt, phao cứu hộ thì thủng, vì thế mẹ phải luôn để chiếc đài sóng ngắn ở cạnh giường. Phần lớn thời gian dài chỉ nói để mà nghe, nhưng đến đêm, nếu chịu khó tìm sẽ thấy những đài phát âm nhạc. Đêm qua mẹ nghe đi nghe lại một đài không biết ở đâu phát. Helsinki? Đảo Cook? Họ phát quốc thiều các nước, nhạc hay tuyệt trần, thứ nhạc đã bỏ ta mà đi từ nhiều năm nay, nay trở lại như đến từ các ngôi sao đã đổi dạng, nghe dịu dàng, chứng tỏ những gì ta cho đi sẽ có ngày trở lại, bao bọc quanh ta trong một vũ trụ khép kín, tròn như quả trứng.
Mẹ nằm trong đêm tối, nghe nhạc từ các vì sao dội đến, nghe tiếng lào xạo, ù ù, như bụi sao băng, mẹ mỉm cười, lòng rộn ràng cảm tạ những tin tốt lành từ xa xăm gởi đến. Mẹ nghĩ chỉ có một ranh giới không thể khép lại được, đó là ranh giới trên kia, giữa nước Cộng hoà Nam Phi và lãnh địa của bầu trời, nơi mẹ phải tìm đến, mà không cần có hộ chiếu.
Bị tiếng nhạc quyến rũ (mẹ nghĩ có lẽ đó là của Backhausen), chiều nay mẹ ngồi vào đàn piano chơi vài bản cũ, những khúc dạo clavier của Bach, của Chopin, của Brahms, những bản của Novello và Angener bị mối xông rách tả tơi, gần thành bụi. Mẹ chơi tồi hơn bao giờ, đọc nhầm những hợp âm như cách đây nửa thế kỷ, ngón tay lập cập vì bệnh đã vào xương tuỷ, không chữa được nữa. (Mẹ nhớ đến những khúc xương được các nhà khảo cổ ca tụng, xương có bệnh hoặc bị đầu tên bắn vỡ, những khúc xương được lịch sử ghi lại từ thời chưa có lịch sử).
Rồi sau khi đã mệt với sự ngọt ngào của nhạc Brahms, mẹ nhắm mắt đánh hợp âm, ngón tay rờ rẫm tìm hợp âm quen thuộc, những chỗ ngày xưa gọi là hợp âm chết, hợp âm của lòng mình. (Đây là mẹ nói về mẹ thời trước thời của con, đi qua phố vào chiều thứ Bảy nóng nực, nghe trong ngôi nhà trước mặt vọng ra tiếng đàn cô gái đồng trinh mò mẫm tìm những nốt nhạc thèm khát đã bỏ đi tự bao giờ. Đó là những ngày tươi đẹp nhưng buồn thảm, và bí ẩn nữa, những ngày còn thơ ngây.)
"Jerusalem!" Mẹ khẽ hát lên, đánh vào hợp âm ngày xưa mẹ từng nghe khi ngồi dưới chân bà ngoại. "Người đã xây dựng Jerusalem ở nơi đây chăng?"
Cuối cùng mẹ lại quay về với Bach, vụng về đánh lại bài fuga ở Quyển Một. Âm thanh rồi rắm, dòng nhạc mờ ảo, nhưng qua vài nhịp thì âm nhạc đích thực lại xuất hiện, thứ nhạc không bao giờ chết, rất tin tưởng và trong sáng.
Mẹ chỉ chơi để mẹ nghe thôi. Chợt phím đàn cạch một tiếng, có bóng người qua cửa sổ, mẹ biết anh ta đang đứng nghe bên ngoài.
Mẹ lại cố chơi nhạc Bach để cho anh ta nghe. Xong nhịp cuối, mẹ đậy đàn lại, để tay lên đùi ngắm bức chân dung ngoài bìa, người có chiếc cằm bạnh mỉm cười mắt long lanh nhìn mẹ. Mẹ nghĩ đó mới thực là chân dung có tinh thần, không giống như chân dung trong miếu thờ! Nay tinh thần ấy đang ở đâu? Đã bay lên tầng cao khí quyển cùng âm hưởng từ bàn tay mẹ mò mẫm chăng? Âm nhạc còn nhảy nhót trong lòng mẹ ư? Hay đã tìm đường đến với con người mặc quần áo xộc xệch đang đứng nghe ngoài cửa kia? Hay trái tim hai người, nơi xuất phát của tình yêu, đã buộc chặt vào nhau qua những hợp âm mẹ vừa dạo trên đàn?
Chuông điện thoại reo. Một bà ở ngôi nhà bên kia đường gọi báo cho biết có một kẻ lang thang đang rình mò bên ngoài. Mẹ đáp "Không phải kẻ lang thang đâu, anh ta giúp việc cho tôi đấy".
Mẹ đã thôi không trả lời điện thoại. Mẹ không muốn nói chuyện với ai khác ngoài con và người trong bức chân dung, người hạnh phúc trên thiên đường. Vậy mà con và người đó chẳng thấy gọi cho mẹ.
Thiên đường. Mẹ hình dung thiên đường là một sảnh đường khách sạn có trần cao trong đó nghệ thuật âm nhạc phức hợp nhẹ nhàng vang lên qua hệ thống loa công cộng, một nơi ta có thể ngồi gọn trong ghế bành bọc da mà không đau, một sảnh đường chứa đầy những người thiêm thiếp nghe âm nhạc, trong khi mọi linh hồn khác đi qua đi lại như những làn hơi. Một nơi đông đảo linh hồn. Không biết họ có mặc quần áo không nhỉ? Hình như có, nhưng trên tay không có gì. Một nơi ta không đem theo bất cứ gì ngoài quần áo trừu tượng và ký ức trong đầu, ký ức tạo ra bản thân. Một nơi không có sự cố. Như nhà ga xe lửa sau khi đã bỏ hết toa tàu. Ngồi nghe âm nhạc thiên thần và vô tận ấy, ta không chờ đợi gì hết, chỉ nghe ký ức nhắn nhủ bên tai.
Có thể ngồi yên trong ghế bành nghe nhạc mà không lo ngôi nhà mình đã đóng hết cửa, bên trong tăm tối, còn đám mèo không được ăn vẫn lảng vảng ngoài vườn được không? Có thể, nếu không thiên đường để làm gì? Chết mà không người thừa kế - xin lỗi phải nói điều này – thật không tự nhiên chút nào. Để được bình an, tâm hồn thanh thản, ta cần biết sau ta thì đến tiếp người đó phải có mặt trong căn phòng ta từng sống.
Mẹ nghĩ đến những trang trại bỏ hoang khi đi qua vùng Karoo ở bờ biển phía Tây. Chủ những trang trại này đã bỏ chạy lên thành phố từ nhiều năm, cửa ngõ đóng ván, cổng khóa chặt. Bây giờ chỉ có một dãy nhà giặt, khói phun đầy trời, trẻ chơi đùa ở sân sau, thấy xe đi qua là giơ tay vẫy. Một vùng đất trong quá trình dân chủ. Những kẻ thừa kế lặng lẽ xuất hiện. Vùng đất bị chiếm bằng vũ lực, bị sử dụng, phá đi phá lại, mấy năm nay bỏ hoang. Có lẽ những kẻ chiếm đất cũng yêu quý vùng này nhưng chỉ yêu quý khi họ còn trẻ. Bây giờ thì lịch sử tuyên án, họ không còn yêu quý nữa.
Sau mỗi lần có chuyện gì, họ bắt người ta chìa ra xem có lấy gì của họ không. Một hòn sỏi, một chiếc lông chim cũng không được. Thậm chí họ còn xem có giấu hạt cải nào trong kẽ móng tay không.
Tất cả đều chỉ là những con số, cộng vào nhau như thế, trừ đi trừ lại, chia đi chia lại, đến lúc đầu óc rối bù. Ngày nào mẹ cũng tính, trong lòng nhen nhóm một hy vọng rằng trường hợp của mẹ không phải là sai phạm. Nhưng ngày nào mẹ cũng đứng trước tình trạng như cũ, tức là phải chết và quên lãng. Từ trong phòng khám, bác sĩ Syfret nói "Chúng ta phải đối mặt với sự thật". Nghĩa là phải đối mặt với bế tắc. Nhưng ông ta có đối mặt với nó đâu, chỉ có mẹ thôi.
Mẹ nghĩ đến những tù nhân đứng trên miệng hố, chờ đến khi bị bắn xác họ sẽ rơi xuống đó. Họ van nài đội hành quyết, họ khóc, nói đùa, xin hối lộ, hứa cho tất cả những gì họ có, cả nhẫn ở ngón tay, cả quần áo đang mặc. Bọn lính chỉ cười. Dù sao thì chúng cũng lấy hết, lấy cả răng vàng trong miệng họ nữa.
Chỉ có nỗi đau chạy qua người mẹ. Không có sự thật. Một ảo ảnh sẽ bất ngờ đem mẹ đi khỏi ngôi nhà trống này, để mặt trời chiếu qua cửa sổ vào chiếc phòng không, hoặc đem mẹ tới vịnh Giả Tạo có nền trời xanh trong veo, phẳng lặng, đến một thế giới mẹ đã sống cả đời nhưng trong đó không có mẹ. Ngày lại ngày, đời mẹ trốn tránh và sợ hãi chính cái nhìn của mình. Sự thật duy nhất còn lại chỉ có cái chết. Mẹ không thể nào chịu nổi khi nghĩ đến cái chết. Mẹ luôn luôn nghĩ đến chuyện khác, không dám nghĩ đến cái chết, không dám nghĩ đến sự thật.
Mẹ cố ngủ. Đầu óc trống rỗng. Mẹ bắt đầu cảm thấy yên tĩnh. Sắp ngủ được rồi đây, mẹ nghĩ bụng. Tốt nhất là ngủ cho ngon. Đúng vào lúc sắp quên hết bỗng một cái gì bật ra, kéo mẹ lại, và cái đó chỉ có thể gọi là thật. Mẹ vùng dậy. Nằm thức trên giường, mọi thứ lại yên. Một con ruồi đậu trên má mẹ, xoa tay xoa chân, bắt đầu thăm dò. Nó chạy qua mắt mẹ còn đa mở, mẹ muốn chớp mắt để đuổi nó đi nhưng không chớp được. Bằng con mắt vừa là của mẹ vừa không phải của mẹ, mẹ nhìn con ruồi. Phải nói là nó đang liếm môi. Mẹ không thể nhận ra bộ mặt của những cơ quan trên mình nó động đậy. Nhưng nó đang ở trên người và đang chạy qua người mẹ. Nó là sinh vật của thế giới khác.
Đã hai giờ chiều. Mẹ nằm trên ghế dài, hoặc trên giường, cố nhấc đít vì chỗ ấy đau hơn cả. Mẹ tưởng tượng đến Esther Williams, đến những cô gái mũm mĩm mặc áo tắm loè loẹt, thoải mái bơi ngửa nhìn trời xanh, vỗ nước hát, nghĩ đến những cây đàn ghita vô hình bật dây phần phật, nghĩ đến miệng các cô gái, hình vòng cung tròn trặn, đỏ chót. Họ đang hát gì thế nhỉ. Hoàng hôn…từ biệt…Tahiti. Bỗng mẹ thấy thèm muốn được coi lại Savoy xưa, mua vé bằng tiền xu nay được đem nấu chảy chỉ còn vài đồng trong ngăn kéo, một mặt khắc hình George VI, ông vua tốt bụng hay nói lắp, còn mặt kia có đôi chim họa mi. Chim hoạ mi. Mẹ chưa từng nghe họa mi bao giờ, và sẽ không bao giờ được nghe nữa. Mẹ ôm ấp sự ham muốn, nỗi tiếc thương, nhà vua, các cô gái bơi, ôm ấp bất cứ gì đến với mẹ.
Mẹ ngồi dậy mở ti vi. Một kênh có bóng đá. Kênh khác có một người da đen đặt tay lên quyển Kinh Thánh, cầu nguyện cho mẹ bằng thứ ngôn ngữ gì chẳng rõ. Một cánh cửa mẹ mở cho thế giới tràn vào, thế giới ấy sẽ đến với mẹ. Nhìn qua cánh cửa như nhìn vào đường ống vậy.
Ba năm trước có một vụ trộm (mẹ đã viết trong thư, chắc con còn nhớ). Bọn trộm chỉ lấy những gì chúng có thể mang đi được. Trước khi bỏ đi chúng lục lọi các ngăn kéo, lật đệm giưỡng, đập vỡ cốc chén chai lọ, vứt các bát đĩa đựng thức ăn ra đầy nhà.
Mẹ ngạc nhiên hỏi viên thám tử "Tại sao chúng phải làm thế? Làm thế thì chúng được cái gì?"
Anh ta đáp "Chúng nó là thế. Bọn thú vật!"
Sau vụ đó mẹ cho lắp song sắt lên cửa sổ. Một người Ấn độ béo phục phịch đến lắp. Sau khi bắt vít và đặt song sắt lên khung cửa, anh ta đổ keo lên đầu đinh và giải thích "Làm thế chúng không tháo ra được" Lúc ra về anh ta còn đập vào tay mẹ nói "Bây giờ bà đã an toàn rồi".
"Bây giờ bà an toàn rồi". Y như lời của người coi vườn thú mỗi tối khóa cửa để bảo vệ chim đô đô không cất cánh và vô tích sự. Con đô đô cuối cùng già yếu, quá thời đẻ trứng. "Bây giờ bà an toàn rồi". Con đô đô bị nhốt chặt trong khi bọn tìm mồi vẫn rình rập bên ngoài. Con đô đô quang quác trong tổ, chỉ ngủ một mắt mệt mỏi chờ đến sáng. Nhưng nó được an toàn trong lồng, không ai đụng đến song sắt, dây điện. Còn có điện thọai để gọi cấp cứu khi cần, còn dây cáp truyền hình để tiếp nhận ánh sáng của thế giới bên ngoài, còn ăng ten để nghe tiếng nhạc từ các vì sao dội đến.
Truyền hình. Tại sao mẹ lại xem truyền hình? Khi nào cũng vậy, chỉ thấy cuộc diễu hành của các vị chính trị. Nhìn những khuôn mặt bệ vệ, trơ tráo, đã quen từ thưở bé, mẹ cảm thấy tối sầm, muốn nôn mửa. Đó là bọn con trai xưa kia toàn ngồi cuối lớp, mặt mày vênh váo, ngu ngốc, nay lớn lên đề bạt thành những người cai trị đất nước. Chúng và cha mẹ, cô cậu, anh chị chúng, đều là một lũ châu chấu ma, mắc dịch, trải khắp nước, chỉ biết ngấu nghiến nuốt chửng cuộc sống mọi người. Nhưng sao mẹ lại xem chúng trên ti vi dù biết là khủng khiếp, đáng căm ghét? Sao mẹ lại cho chúng vào nhà? Vì chế độ cai trị của họ hàng châu chấu ma ấy là sự thật ở Nam Phi, một sự thật khiến mẹ muốn nôn mửa. Chúng không bận tâm đến bất chấp hợp pháp. Chúng vứt bỏ hết lý trí, cho là không quan trọng. Điều hấp dẫn đôi với chúng là quyền lực, và vô ý thức của quyền lực. Chúng phè phỡn, nói như nuốt tươi cuộc sống, rồi ợ chua. Chúng là những bọn thú biết nói. Chúng ngồi với nhau một chỗ, tranh luận sự việc và ra nghị định như những nhát búa: chết này, chết này, chết này. Chúng không sợ mùi hôi thối. Mắt chúng híp như mắt lợn, chúng mang trong người cái ranh ma của những thế hệ nông dân. Chúng còn tìm cách hại nhau nữa. Chúng lấy dần những mảnh đất mà nông dân phải mấy chục năm mới làm ra được. Đó là bọn Phi châu mới, bụng ỏng, cằm bạnh, ngồi ghế cơ quan, những Cetshwayo, những Dingane da trắng. Chúng mang sức nặng của quyền lực ấn xuống. Những hòn dái to tướng của chúng ấn xuống vợ con, ấn cho tóe lửa. Trái tim của chúng không còn một tia lửa nào. Trái tim c húng nặng nề, chậm chạp, như những chiếc bánh đúc làm bằng máu.
Thông điệp của chúng không thay đổi. Rất ngu ngốc, mãi mãi vẫn ngu ngốc. Sau nhiều năm ngẫm nghĩ về từ nguyên, chúng đạt được chiến công, đó là những sự ngu ngốc lên trình độ của đức tính. Chúng gây sợ hãi, tước bỏ cảm giác, bắt câm miệng, bắt chết, chúng gây kinh ngạc làm cho bất tỉnh. Từ sợ hãi đi đến mất cảm giác, thờ ơ, lãnh đạm. Ngu ngốc làm năng lực trở thành đờ đẫn, bàng quan, không suy nghĩ, không cảm thấy gì. Từ sợ hãi đến choáng váng, sững sờ. Từ ngu ngốc đến choáng váng, ngạc nhiên, biến thành đá. Thông điệp của chúng là không bao giờ thay đổi. Thông điệp của chúng biến con người thành đá.
Mẹ cùng anh ta ngồi xem tuổi vi nhưng chẳng khác gì con chim giương mắt nhìn con rắn, bị con rắn mê hoặc sắp nuốt chửng. Mê hoặc là tỏ lòng tôn kính cái chết. Vào quãng tám chín giờ, mọi người tề tựu xem chuyến phô diễn, y như cuộc diễu hành của các giám mục trong chiến tranh Franco vậy. Chúng nghiên cứu các hiện tượng để chứng minh cho mọi người thấy cái chết như thế nào. Cái chết muôn năm! Chúng kêu gào đe doạ. Phải giết chết bọn trẻ. Phải giết chết cuộc sống. Chúng là giống lợn rừng chưa bị thiến, ăn sống nuốt tươi cả con cháu của chúng, biến thành cuộc chiến của thú rừng.
Mẹ tự nhủ đây không phải mẹ xem chúng nói đâu mà xem sự thật là thế nào đàng sau sự dối trá đó. Nhưng làm gì có sự thật?
Mẹ thiếp đi (đây là mẹ vẫn viết về chuyện hôm qua), rồi đọc sách, rồi lại thiếp đi. Mẹ pha ấm trà, đặt đĩa hát lên máy. Từng nhịp một, biến tấu của Goldberg dựng đứng trong không gian. Mẹ bước ra cửa sổ. Trời đã gần tối. Anh ta ngồi hút thuốc, dựa lưng vào nhà đốm lửa lập loè ở đầu điếu thuốc. Có lẽ anh ta trông thấy mẹ, có lẽ không. Cả hai nghe ngóng.
Lúc này mẹ chắc anh ta cũng nghĩ anh ta đang chờ mẹ làm tình.
Tuy ý nghĩ đó chợt đến và mẹ cảm thấy ghê tởm nhưng mẹ vẫn nghĩ, không e ngại. Anh ta và mẹ đã dính vào nhau, mắt nhắm nghiền, cùng đi xuống con đường xưa. Không phải như hai bạn đồng hành! Như người đi xe buýt ở vùng Sicily, mặt kề mặt, thân kề thân với người xa lạ. Có lẽ đó là cuộc sống ở kiếp sau, không phải trong hành lang với chiếc ghế bành và âm nhạc, nhưng là trên xe buýt đầy chật người không biết nơi định đến và đi đâu. Xe chỉ đủ chỗ để đứng, đứng mãi mỏi chân, ép mình với những người xa lạ. Không khí đặc quánh, nặng nề, toàn nghe tiếng thở dài, lầm bầm, chửi rủa, xin lỗi. Da thịt tiếp xúc ồ ạt. Luôn nhìn vào mắt nhau. Cuộc sống riêng tư thế là chấm dứt.
Anh ta ngồi xổm trên sân, hút thuốc, nghe ngóng. Hai linh hồn, của anh ta, của mẹ, quấn vào nhau, đê mê. Như côn trùng chụm đuôi vào nhau, hai đầu quay hai phía, nằm im, nghe lồng ngực giật giật tưởng là đang thở. Hoàn toàn yên lặng, đê mê.
Anh ta quẳng điếu thuốc. Tia lửa bắn toé khi điếu thuốc rơi xuống đất. Rồi lại tối đen.
Mẹ nghĩ đến ngôi nhà này. Thế giới này, ngôi này này, âm nhạc này, nghĩ đến tất cả.
Mẹ nói "Đây là con gái tôi. Đứa con gái tôi đã nói với anh rồi. Nó đang sống ở Mỹ". Nhìn trong ảnh, anh ta thấy khuôn mặt con dễ thương, một thiếu phụ ngoài ba mươi, nền sau lưng là cánh đồng xanh, con giơ tay giữ mớ tóc bay trong gió. Con có vẻ tự tin. Đúng là bây giờ con đang như thế, con là một phụ nữ đã tìm thấy chính mình.
- Đây là những đứa con của vợ chồng nó.
Hai cậu bé đội mũ, mặc áo, đi ủng, đeo găng và đứng bên người tuyết, chờ bấm máy ảnh.
Tạm nghỉ. Mẹ cùng anh ta ngồi trong bếp. Mẹ dọnó trà và bánh quy Marie để trước mặt anh ta. Bánh quy Marie là thức ăn cho người già, những người không còn răng.
- Có một chuyện tôi muốn anh làm giúp trước khi tôi chết. Tôi muốn gởi một số giấy tờ cho con gái tôi. Nhưng chỉ gởi sau thôi. Việc này quan trọng, nhưng tôi không tự đi gởi được. Tôi chuẩn bị mọi thứ, gói ghém, dán tem. Anh chỉ việc đem gói đó giao cho quầy bưu điện. Anh giúp tôi được không?
Anh ta quay người có vẻ không bằng lòng.
- Nếu tôi làm được thì đã không nhờ anh giúp. Nhưng chả có cách nào khác, vì tôi sẽ không còn sống nữa.
Anh ta nói "Bà không nhờ ai khác được ư?"
- Được chứ. Nhưng tôi chỉ yêu cầu anh thôi. Đây là những giấy tờ và thư riêng, cho con gái tôi thừa kế, đó là tất cả những gì tôi có thể cho nó, tất cả những gì tôi nhận từ đất nước này. Tôi không muốn bất cứ ai khác mở nó ra đọc.
Giấy tờ riêng. Giấy tờ này, những lời này, hoặc con phải đọc ngay bây giờ nếu không sẽ chẳng bao giờ đọc nữa. Liệu có đến tay con được không? Đã đến chưa? Hỏi để hỏi mà thôi, vì mẹ biết sẽ chẳng bao giờ biết được câu trả lời. Với mẹ thì thư này mãi mãi sẽ chỉ là những lời trong làn sóng, một thứ thông điệp trong chai có dán tem Cộng hoà Nam Phi và đề tên con.
Anh ta, người đưa tin, loay hoay chiếc thìa nói "Tôi cũng chả biết".
Anh ta không hứa. Mà dù có hứa thì cuối cùng anh ta cũng làm theo ý mình. Có dặn gì đi nữa cũng không hiểu anh ta được, vì người chết không còn là người nữa. Quy luật là như vậy. Mọi hợp đồng mất giá trị. Người chết không thể bị lừa, không thể bị phản bội, trừ khi ta mang theo trong lòng và phạm tội ở đó.
Mẹ nói "Không sao đâu. Tôi đã định yêu cầu anh đến đây ở và chăm sóc giùm đám mèo. Để tôi thu xếp cách khác vậy".
Thu xếp cách nào khác? Ở Ai cập, họ chôn mèo theo chủ. Mẹ cũng muốn như thế sao? Muốn thấy những đôi mắt vàng khè chạy đi chạy lại, tìm đường chui ra khỏi hầm tối hay sao?
Mẹ nói "Tôi sẽ bỏ chúng thôi. Chúng đã quá già, không cho đi đâu được".
Trước cảnh anh ta im lặng, những lời của mẹ chỉ như nước vỗ vào đá.
Mẹ lại nói "Tôi phải làm gì cho chúng chứ, nhưng chẳng làm được gì hết. Ở vào địa vị tôi, chắc anh cũng nghĩ thế".
Anh ta lắc đầu. Không phải thế. Đúng là không phải thế. Trước sau thì một đêm dông nào đó, khi ngọn lửa nhân tạo trong mạch máu không còn đủ nóng để duy trì anh ta nữa, anh ta sẽ chết. Anh ta sẽ chết ngoài cửa hay trên một lối đi, hai tay khoanh trên ngực. Người ta sẽ tìm thấy anh ta cùng con chó này hay con chó khác nằm bên cạnh kêu ư ử và liếm mặt. Người ta sẽ cho anh ta lên xe chở đi, bỏ lại con chó trên phố, và thế là hết. Chẳng thu xếp gì, chẳng để lại gì, cũng chẳng có lăng miếu gì hết.
Anh ta nói "Để tôi đem cái gói của bà ra bưu điện".